Người dân Việt Nam bỏ chạy lánh nạn Cộng sản
|
NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT
(LM. NGUYỄN TẦM THƯỜNG -THUẬT LẠI)
NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT.
Đây là câu chuyện có thật được Cha Nguyễn Tầm Thường, Dòng Tên, thuật lại nhân kỷ niệm 5 năm ngày Mẹ Têrêsa Calcutta qua đời 1997 – 2002...
Năm 2000 tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland, miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu.
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục pesos. Ngày ấy, 1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh… Khoảng ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn Hongkong cho vợ.
Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót. Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé chính là con của người đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong. Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu? Vợ chồng mỗi người một ngả… Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha. Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.
Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện…
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông... Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư? Rồi định cư xong, biết bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế biết đâu tìm? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.
– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ Hongkong?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.
Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Ðợi chờ mãi mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi bên đường tráng bánh… Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến... Hội Hồng Thập Tự Hongkong báo tin về Manila. Manila điện thoại xuống báo cho cha Crawford biết người ta đã tìm được cháu bé.
Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh cá ở đảo Hải Nam.
>
Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ, họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện kia, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng không tin chuyện có thể xảy ra như thế.
Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất cả ai cũng khóc… Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thái Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Ðối với thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế.
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể chuyện này cho Sơ Bề Trên Dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu. Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài nói:
– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo. Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: Người Mẹ của biên giới sống và chết.
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng Sáu, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua. Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền quê độc nhất. Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.
Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của những bà mẹ.
Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết, còn những chuyện không ngờ nào sẽ xảy đến nhỉ?
Lm. NGUYỄN TẦM THƯỜNG, Dòng Tên,
Trích trong sách “Những Trang Nhật Ký Của
Một Linh Mục”
.................................
Tàu Việt Nam Thương Tín và việt gian Nhữ Văn Úy
Việt Gian Nhữ Văn Úy và chiếc tàu Thương Tín
Chúng tôi không phải là Lý viên Mãn, nhưng chúng tôi cư ngụ gần Colmar / France nên biết Nhữ Văn Úy rất rõ…
Ai mà tiếp xúc với Nhữ Văn Úy mà tỏ thái độ Chống Cộng Sản thì 24 giờ sau sẽ có tên trong Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris lập tức.
Xin coi chừng lão già lùn mập nầy…
……..
Nhắc lại chuyện cũ:
30-4-1975 Dinh Độc Lập bị xe tăng Bắc Việt mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cán bung ra.
Tổng Thống ba ngày Dương Văn Minh tuyên bố trao quyền Tổng Thống VNCH cho CSBV.
.....
Chúng tôi đến đảo Guam vào đầu tháng 5 năm 1975…. Trong trại tị nạn tại ven rìa đảo Guam (Orote Point)… chen chúc với đủ thành phần người Việt.
Nghe tin Chiếc tàu Việt Nam Thương Tín có nhiều người đòi về lại Việt Nam thì lấy làm tiếc lắm! Thế nhưng trong khi đó, trại lại có chuyện trái ngước, một đám người họ dùng dao hăm dọa nhiều người trong láng trại đó, cưỡng ép bắt buộc tất cả những người trong láng trại đó phải về Việt Nam cho bằng được.
Sau đó họ đốt thùng rác, cô lập lối ra vào, đám người đó khí thế hung hản khó lường… trong số đó có Nghị Viên Nhữ Văn Úy cũng làm việc hăm dọa đó.
. Việc xin về lại Việt Nam được loan đi. Ngay cả đài phát thanh Sài Gòn loan báo là Tàu Việt Nam Thương Tín bị Mỹ bắt đi qua Mỹ…
Thế là người Mỹ họ dựng hàng rào bảo vệ tất cả những người trong láng trại đó…
Mỗi người lần lượt đi vào hàng lang. Nếu gật đầu muốn ở lại Mỹ thì người Mỹ kéo người nầy sang một bên, và cho đi ra ngỏ khác.
Còn nếu người nào muốn về Việt nam thì họ cho đi thẳng ra nơi tàu Việt Nam Thương Tín.
Một số trên dưới 500 người chịu đi về lại Việt Nam, cầm đầu là Nghị Viên Nhữ văn Úy.
Chỉ trừ đám Như Văn Úy thì bảy ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…
Tất cả đều bị chở đi vào tù hết… Những người đòi về lại Việt nam, tất cả đều chở ra ngoài Bắc. Cô lập riêng, không cho thân nhân đến thăm hỏi, trong đó có 12 người khác (trong đó có bốn người lính hải quân VNCH)Tin tức không lộ ra ngoài. Ngay cả đài BBC theo dõi rất kỹ, vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Hoa Kỳ cung cấp lương thực và xăng nhớt đầy đủ cho Tàu Việt nam Thương Tín, cùng 500 đô la cho mỗi người và giấy tờ ghi là tình nguyện trở về lại Việt Nam.
Trên tàu Việt Nam Thương Tín thì Nhữ văn Úy ra sáng kiến: Bắt tất cả những người đòi về Việt Nam, phải nộp hết tất cả tiền bạc hay giấy tờ trong túi ra cho họ giữ.
Thì tại Sài Gòn, lúc đó Sài Gòn chưa đổi tên…
CSBV (Cộng Sản Bắc Việt) tổ chức lễ đón nhận những đứa con nước Việt bị Ngụy quyền và đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản.(?)
Sau đó đoàn tàu Việt Nam Thương Tín đến bến tàu tại Sài Gòn, được tiếp đón trọng thể. Nào kèn trống, hoa pháo và mấy cô gái đến trao tay…. Biểu ngữ giăng đầy hân hoan đón những người trở về lại đất mẹ bị đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản. (Như đài phát thanh đã loan tin.)
Nghị Viên Nhữ Văn Úy ra đọc diễn văn, chửi là Mỹ cưỡng ép họ ra khơi, đi sang Mỹ, chớ thật sự họ không muốn… vì hoảng loạn nên khi tới đảo Guam… họ phải làm dữ thì Mỹ nó mới chịu trả họ về lại Việt Nam…. Đả đảo đế quốc Mỹ, Việt Nam thống nhất trường tồn…
Có nhiều xe bus đang đợi sẵn.
Đám chỉ huy đoàn tàu Việt Nam Thương Tín trở về tổ quốc… thì Nhữ Văn Úy cùng 12 tên hung hãn lên xe bus đầu tiên… các người khác lên lần lượt xe sau.
Đoàn xe bus đi mất biệt, thân nhân đón tại bến tàu chỉ thấy con cái họ vẫy tay tại bến tàu Sài Gòn…. thế thôi!
Tất cả đều bị chở đi vào tù hết….
Chỉ trừ đám Như Văn Úy thì bảy ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…
Những người đòi về lại Việt Nam, tất cả đều chở ra ngoài Bắc.
Cô lập riêng, không cho thân nhân đến thăm hỏi.
Tin tức không lộ ra ngoài.
Ngay cả đài BBC theo dõi rất kỹ, vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Chỉ biết là họ chưa về sum họp lại gia đình.
Sài Gòn đổi tên mất từ lâu thành Thành phố Hồ chí Minh… thì Nhữ Văn Úy 10 năm sau (1985) do sự ưng thuận giữa Hà Nội và Hoa Kỳ ký với nhau (Ngoại Trưởng Hoa Kỳ George P. Shutlz)… Gọi là ODP (Orderly Departure Program) (Trong chương trình H.O. Humanitarian Operation) thì những quân nhân nào ở tù được Việt cộng gọi trá hình là đi học tập, đúng ba năm thì xin đi Mỹ thì được chấp thuận.
Không hiểu lý do gì mà Nhữ Văn Úy được giấy ở tù cải tạo 5 năm (ghi là từ 1975 đến 1980)…
Hồ sơ nộp tại Sài Gòn, chuyển ra Hà Nội…. xong hết 99 %....
Nhưng không dè Hoa Kỳ biết được là Nhữ Văn Úy cầm đầu nhóm đòi về lại Việt Nam và chửi Mỹ sát ván trên đài phát thanh Sài Gòn.
Hoa Kỳ từ chối nhận hồ sơ Nhữ văn Úy.
Nhữ Văn Úy được Hà Nội cho nộp đơn xin đi Canada…. Canada từ chối… Nhữ Văn Úy được Hà Nội cho đút đơn đi Pháp…. Pháp từ chối.
Sau cùng có một cựu đảng viên lão thành Đảng Cộng sản Pháp, tên Jacques Dupois đứng ra nhận lãnh trách nhiệm hành vi của Nhữ Văn Úy .
Sau cùng Nhữ Văn Úy được sang Pháp, sống tại tỉnh Colmar/France, gần Alsace (nơi nổi tiếng về rượu vang, sát biên giới Đức….
Nhữ Văn Úy im hơi lặng tiếng thời gian…
Nhữ văn Úy xin cải đạo thành đạo Catholic, mang tên thánh là Mathieu Nhữ Văn Úy…
Thế là Nhữ Văn Úy gột sạch tung tích là điệp viên Hà Nội. Vì với nhãn hiệu nghị viên Nhữ văn Úy nên nhiều đồng bào người Việt hải ngoại tại Paris không biết sự việc Nhữ Văn Úy và tàu Việt nam Thương Tín cùng số tiền 500 độ la Hoa Kỳ x500 người = 250 000 (hai trăm năm chục nghìn đô la USD) cùng tiền bạc quý kim của nhiều người đòi về Việt Nam qua tàu Việt Nam Thương Tín…
Trong nhà Nhữ Văn Úy treo cờ VNCH rất trang trọng…. Nhiều người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ Văn Úy thì 24 giờ sau Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris có tên những người nầy...
Nhữ Văn Úy chửi Cộng sản tới tấp, chửi nhiều và mạnh hơn những người Chống Cộng tại Hoa Kỳ và tại Pháp.
Chửi Cộng sản thậm tệ… ngay cả những điều Cộng sản không làm thì được Nhữ Văn Úy dựng lên chửi tuốt.
Nhữ Văn Úy cho là Nguyễn Văn Thiệu nói bốn không, Nhữ Văn Úy nói 5 không…
Ai mà nói đến Hà Nội ngày xưa… thì Nhữ Văn Úy mạt sát là thân cộng, là gián điệp cho Cộng sản Việt Nam.
Trong nhà Nhữ Văn Úy treo cờ VNCH rất trang trọng….
Nhiều người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ Văn Úy thì 24 giờ sau Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris có tên những người nầy..
Sau đây mời bạn đọc một người là nạn nhân cũa Nhữ Văn Úy (họ được thả sau 10 năm tại trại tù ngoài Bắc…. họ vượt biên…. và đòi Nhữ Văn Úy trả lại tiền của họ mà Nhữ Văn Úy tịch thu trên tàu Việt Nam Thương Tín ngày xưa…
Đó là nick Lý Viên Mãn ghi trên Yahoogroups vừa qua… (Bạn có thể email cho Lý Viên Mãn hỏi tự sự ra sao...)
Việt Gian Cựu Dân Biểu VNCH
Tàu Việt Nam Thương Tín và Việt gian Nhữ Văn Úy
http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=19777&page=5
____________________
Ghi ra đây để cảnh giác người Việt hải ngoại về tên Việt gian Nhữ Văn Úy
|
=============================
10 toi ac cua dang cong san Viet Nam - Ten Crimes Commentaries on Communist Party
Tội Ác Của Hồ Chí Minh & Đảng Cộng Sản Việt Nam
Đổi tiền là cướp nhà, cướp đất
Ít ai nhận ra rằng Việt cộng đã dùng chính sách đổi tiền để gián tiếp cướp nhà, cướp đất. Đổi tiền $500 an $1, để rồi với một số tiền cũng chỉ đủ ăn trong một tháng, (bột mì, bobo v. v…) và sau đó thì ngoài đường phố bắt đầu xuất hiện những nhóm mua bán (chợ trời) tại Lăng Ông Bà Chiểu, và tất cả mọi người ai cũng đem đồ nhà đi bán, cái gì cũng bán được, miễn sao có tiền để sống qua ngày. Nhiều gia đình đã bán từ từ cho đến lúc trong nhà không còn gì để bán, chỉ còn lại cái NÓC NHÀ, và cuối cùng thì nhiều gia đình cũng phải đành bán luôn căn nhà cho một cán bộ Việt cộng. Lúc đó ít ai nhận ra rằng Việt cộng đã dùng chính sách đổi tiền để gián tiếp ăn cướp nhà, cướp đất của người dân, vì lúc đó ai cũng nghèo như ai, làm gì có nhiều tiền mà mua nhà, mua đất ngoài cán bộ Việt cộng, và đó cũng là thành quả của chính sách đổi tiền. Trong khi đó ngoài chợ trời, lúc đó chúng ta thấy mỗi ngày vài chục chiếc xe chất đầy hàng chợ trời chạy từ Nam ra Bắc. Dân miền Nam thành nghèo mạt trong khi đó những thằng Việt Cộng bắc kỳ từ Bắc vào Nam là giàu sụ. |
Đổi Tiền
Thân chào tất cả anh chị em và 85 triệu người dân Việt Nam. |
Kinh Nghiệm Đổi Tiền
Tôi xin kể thêm về chuyện hậu quả của việc sau khi đổi tiền (ít ra thì tôi đã chứng kiến qua hai lần) để cho ai chưa hiểu, hoặc đã quên thì sẽ thấy được phần nào sự khủng hoảng của xã hội sau khi đổi tiền xong.
Lần thứ nhất là sau 1975 (tôi sinh ra tại quận Bình Hòa, tỉnh Gia Định, Sài Gòn) gia đình tôi có bốn người, chúng tôi có một căn nhà không lớn lắm ngoài mặt tiền, đổi tiền xong, thì ba tôi bị đi học tập cải tạo chỉ còn lại má tôi và hai anh em tôi (tôi là lớn) và một số tiền chỉ đủ ăn trong một tháng, (bột mì, bobo… v. v...) và sau đó thì ngoài đường phố bắt đầu xuất hiện những nhóm mua bán (chợ trời) tại Lăng Ông Bà Chiểu, và tất cả mọi người ai cũng đem đồ nhà đi bán, cái gì cũng bán được, miễn sao có tiền để sống qua ngày, và gia đình tôi đã bán từ từ cho đến lúc trong nhà không còn gì để bán chỉ còn lại cái NÓC NHÀ, và cuối cùng thì má tôi cũng phải đành bán luôn căn nhà cho môt cán bộ Việt cộng, và đi kinh tế mới tại xuyên mộc tỉnh Bà Rịa. (Hồi đó tôi còn nhỏ nên không thể nghĩ ra, là Việt cộng đã dùng chính sách đổi tiền để gián tiếp ăn cướp nhà, cướp đất của người dân, vì lúc đó ai cũng nghèo như ai, làm gì có nhiều tiền mà mua nhà, mua đất ngoài cán bộ Việt cộng, và đó cũng là thành quả của sự đổi tiền và chợ trời, mà lúc đó chúng ta thấy mỗi ngày vài chục chiếc xe chất đầy hàng chợ trời chạy từ Nam ra Bắc). Và lần thứ hai là tại Đông Âu, tôi là thợ bảo trì máy và sửa chữa điện tử cho một doanh nghiệp tư nhân, ở nước ngoài thì người ta có suy nghĩ xa hơn là ở Việt Nam, vì cuộc sống cũng thoải mái hơn, chỉ cần đi làm công nhân bình thường củng đủ sống và có dư chút đỉnh, cho nên mọi người có một thói quen tập quán chung là tạo cho những đứa con, cháu mình một sổ tiết kiệm trong ngân hàng, để khi con, cháu trưởng thành đúng 18 tuổi thì được phép xử dụng số tiền đó, hòng giúp đỡ được phần nào về tài chánh khi con, cháu của họ chập chửng bước vào đời, và người già thì có sổ tiết kiệm để làm mai táng khi họ chết, và nhiều loại sổ tiết kiệm khác v. v… (tất cả đều bị tan biến theo mây khói,sau khi đổi tiền.) Và cộng sản ở đây đã đổi tiền, mỗi người chỉ đổi được một khoản tiền nhất định, còn ai có nhiều tiền hơn qui định thì cộng sản sẻ cấp cho một cái giấy gọi là (phần hùn vốn chứng nhận, chứ cộng sản không ăn quỵt của ai bao giờ) và gia đình tôi cũng có vài cái giấy chứng nhận mà (đòi không ai trả, bán không ai mua, và cho không ai lấy) còn bản thân tôi thì sao? Xin thưa là bị thất nghiệp sau hai tháng đổi tiền xong, vì xưởng làm việc của tôi đã phải đóng cửa vì không có tiền trả lương cho công nhân, và cái phần khốn khổ của gia đình tôi về sau còn nhiều chuyện thê thảm lắm nhưng tôi xin không nói ra, làm mất thời gian của các bạn. Mọi người đã hình dung ra hậu quả của việc ĐỔI TIỀN chưa? Ai là người có lợi, và ai sẽ là những con thiêu thân sau nầy? Và sau khi đổi tiền thì mọi chuyện sẽ lặp lại giống như năm 1975 vậy thôi, chợ trời sẽ mọc lên như nấm, và tiếp đó là hàng loạt chuyến xe hàng vừa quý, vừa rẻ, sẽ khởi hành nhưng lần này thì trạm cuối cùng không phải là Hà Nội nữa, mà là Bắc Kinh Trung Quốc. Người dân oan nông dân Việt Nam, bây giờ còn biểu tình không bán đất giá rẻ cho Việt cộng, vì họ còn vài đồng trong túi để sống cho nên họ còn cố gắng chống cự biểu tình, chứ một khi mà đổi tiền xong thì nhiều người sẽ tự nguyện dâng đất đai cho Việt cộng và lúc đó Việt cộng trả giá bao nhiêu thì họ cũng phải bán vì không còn tiền mua gạo để sống qua ngày nữa (mặc dù họ cầm trong tay một đống giấy chứng nhận, cho không lấy, bán không ai mua). Đây chỉ là một vài khía cạnh nhỏ về chuyện trong gia đình của mỗi người chúng ta, về người dân oan, còn về phía người công nhân và những người chủ doanh nghiệp thì sao? Chủ doanh nghiệp thì nhiều người sẽ phải đóng cửa và sẽ sa thải công nhân vì không có tiền trả lương, về phía chủ doanh nghiệp thì sao? Bao nhiêu tiền đầu tư vào phương tiện máy móc với giá cả cao khi họ mua, và bây giờ khi họ bị đóng cửa thì họ dành phải bán tháo, bán chạy với giá rẻ mạt, thậm chí bán với giá sắt vụn, chứ để làm gì? Và lúc đó là thời cơ cho bọn cộng sản đỏ ăn cướp công khai và làm giàu trên mồ hôi và nước mắt của mọi người dân, cộng sản đỏ mafia sẽ bỏ ít tiền ra để mua lại những cái máy móc đó của nhửng tư nhân bị phá sản vì đổi tiền, với giá rẻ mạt, và sau đó có thể những cái máy đó sau khi sơn phết lại thì sẽ được chở sang bán tại một tỉnh hoặc một nước nào đó mà nền kinh tế còn lạc hậu cũng như Việt Nam, chẳng hạn như Lào, Campuchia, Châu phi v. v… Đó là quy luật của mafia cộng sản đỏ là (Cá lớn ăn cá bé) mà đã là cá thì người ta chỉ nói cá lớn ăn cá nhỏ thôi, chứ không có ai nói cá già ăn cá trẻ cả cho nên sẽ không có sự phân biệt là cá nhỏ cộng sản hay không cộng sản, tất cả đều là cá nhỏ như nhau; cho nên sau khi đổi tiền xong thì 100% sẽ có những con cá nhỏ là đảng viên, đoàn viên Việt cộng (những người mà suốt đời đóng tiền đảng phí, đoàn phí, đội phí... mà không biết mình đóng để làm gì) sẽ bị những con cá lớn mafia đỏ Việt cộng nuốt, chung với số phận của những người dân oan, công nhân lao động, và các tầng lớp bần cố nông Việt Nam. benzi60 http://wwww.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=7672&page=1154 |
No comments:
Post a Comment