Việt
Nam
Văn
Hiến
Năm
Thứ
4889
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
PHỤC HỒI SỰ THẬT
LỊCH SỬ
VIỆT TỘC
LÀ MỘT ĐẠI CHỦNG
PHẠM TRẦN ANH
Lịch sử Việt là lịch sử của sự thăng trầm
từ khi lập quốc đến ngày nay. Kể từ thời lập quốc, Hán
tộc kè thù truyền kiếp
của Việt tộc đã không ngừng xâm lược đánh
đuổi dân tộc Việt phải rời bỏ nơi chôn
rau cắt rốn từ vùng châu thổ lưu vực 2 con sông
Hoàng Hà Dương Tử xuống trụ lại
ở phần lãnh thổ Việt Nam ngày nay. Chiến thắng Bạch Đằng Giang lịch sử của
Ngô Quyền năm 938 đã mở ra một thời kỳ Độc lập tự chủ của
dân tộc sau gần một
ngàn năm dân tộc Việt bị Tàu Hán thống trị.
Đất nước độc lập tự chủđược hơn một
ngàn năm với các triều đại Ngô, Đinh, Lê,
Lý, Trần, Lê, Nguyễn thì thực dân
Pháp lại vào xâm chiếm nước ta. Trong khi
toàn dân đang đấu tranh giành độc lập
thì đảng Cộng Sản Việt Nam đã núp dưới danh nghĩa
kháng chiến để bành trướng
chủ nghĩa Cộng sản đưa dân tộc vào thế khốn cùng
nhất trong lịch sử.
Trong suốt trường kỳ lịch sử, Hán tộc bành
trướng với ưu thế của kẻ thắng trận và thủ đoạn thâm độc
quỉ quyệt đã không
những dùng mọi phương cách để đồng hóa Việt tộc
bằng cách xóa đi mọi dấu vết
cội nguồn, bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ
biết tìm về lịch sử
trong một mớ “chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại
Hán tộc đều chủ tâm
thay đổi địa danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh
hưởng nặng nề của
một ngàn năm đô hộ của sự nô dịch văn hóa
khiến ta chấp nhận tất cả như một sự
thật mà không một chút bận tâm. Thế nhưng…
Lịch sử vẫn là lịch sử của sự thật
dù bị sửa đổi vùi lấp hàng nghìn năm dưới
ánh sáng của chân lý khách quan trước
thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại: “Lịch sử
Việt là lịch sử bi hùng của
một đại chủng với những thăng trầm của vận mệnh dân tộc”.
Với những kết qủa khoa học về phân tích
cấu trúc di truyền mới nhất, sự thật lịch sử đã được phục
hồi: Việt tộc là một
trong 3 đại chủng lớn của nhân loại. Sự
thật
lịch
sử
này
làm
đảo
lộn
mọi
nhận thức từ cổ chí kim, từ
Đông sang Tây. đến nỗi mà một
sử gia thời danh J Needham người có công phục hồi sự thật
lịch sử bị che giấu
hàng ngàn năm, làm đảo lộn mọi sử sách xưa
nay đã phải thốt lên: “ Sự thật bị che phủ hàng
ngàn năm cùng với
ảnh hưởng của ngàn năm thống trị nô dịch văn hóa
khiến ngay cả người Việt cũng
ngỡ ngàng, không tin đó là sự thật .!!!”.
Theo học giả J.Needham thì
Protoviets đã mang theo 25 đặc
trưng văn hoá lên địa bàn cư trú mới. J.
Needham khẳng định rằng: “ những nếp sống văn hoá này đem
vào Trung Hoa thời Tiền
sử mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có thể mô tả
bằng một chữ, đó là chữ “VIỆT” mà
trước kia thường gọi sai lầm là Thái cổ (ProtoThai)”. Học giả lừng
danh này còn chú thích rõ chữ Việt nay là quốc hiệu
của một nước vùng Đông Nam châu
Á: Nước Việt Nam ngày nay.
Vấn đề đặt ra cho
chúng ta là phải nhìn lại toàn
bộ lịch sử Việt để phục hồi sự thật của lịch sử để xóa tan
đám mây mờ che lấp
suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ thù truyền kiếp của
dân tộc.. Trong lịch sử
nhân loại, có lẽ không một dân tộc nào
chịu nhiều mất mát trầm luân như dân tộc
Việt với những thăng trầm lịch sử, những khốn khó thương đau.
Ngay từ thời lập
quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với sức mạnh của tộc người
du mục đã đánh đuổi
Việt tộc phải rời bỏ địa bàn Trung nguyên Trung quốc xuống
phương Nam để rồi
trụ lại địa bàn Việt Nam bây giờ.
Trải qua gần một ngàn
năm đô hộ, với chiến thắng
Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới chính thức mở ra
thời kỳ độc lập của
Việt tộc. Hán tộc với sức mạnh của tộc người du mục cả đời sống
trên lưng ngựa
thạo việc chiến tranh nên Việt tộc đã bị đẩy lùi
xuống phương Nam nhưng nền văn
hóa của Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước
và con người Hán tộc để hình thành
cái gọi là văn minh Trung Quốc. Chính sử gia chính thống của
Hán tộc là Tư Mã Thiên đã phải
thừa nhận một sự thực là “ Việt tuy gọi
là man di nhưng tiên khởi đã có đại
công đức với muôn dân vậy ..!”.
Ngày nay, sự thật lịch sử đã được phục hồi
khi các nhà Trung Hoa học trong hội nghị quốc tế về
“Nguồn gốc nền văn minh
Trung Hoa” tại Đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 đã xác
nhận rằng Di-Việt là chủ
nhân của Trung nguyên tức toàn thể lãnh thổ
Trung Quốc bây giờ. Một sự thực
lịch sử nữa cũng được xác nhận là hầu hết các
phát minh gọi là văn minh Trung
Quốc từ nền văn minh nông nghiệp đến văn minh kim loại, kỹ thuật
đúc đồng, cách
làm giấy, cách nấu thủy tinh, cách làm
thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và
đầu
dao cong vút … tất cả đều là của nền văn minh Bách
Việt.
Vạn thế sư biểu của Hán tộc là
Khổng Tử đã ca tụng nền văn minh rực rỡ, xác nhận
tính ưu việt của nền văn minh
Bách Việt ở phương Nam. Trong sách Trung Dung Khổng Tử
đã viết như sau:
“Độ luợng bao dung,
khoan hòa giáo hóa, không báo
thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương
Nam,
người quân tử ở đấy ..! Mặc
giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không
chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ
cường đạo ở đó ..”. Sự thật lịch sử này
được chính Hán Hiến Đế một vị vua của Hán tộc,
cũng đã phải thừa nhận nước ta
là một nước văn hiến:
“Giao Chỉ là đất
văn hiến, núi sông un đúc, trân bảo rất
nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt
xuất ..!”.
Trước
đây, giới nghiên cứu đưa ra nhiều giả thuyết về cội nguồn
phát tích của dân tộc
Việt. Các nhà nghiên cứu lịch sử thường căn cứ
vào những sách sử duy nhất còn
lại của Hán tộc nên nhất loạt cho rằng Việt tộc
phát tích từ miền Bắc rồi di cư
xuống phương Nam. Chính vì vậy, môt số người
còn cho rằng dân tộc Việt là một
nhánh của Hán tộc (Tàu) hoặc cho rằng chúng
ta phát tích từ người Việt ở Triết
Giang và Phúc Kiến trong cộng đồng Bách Việt di cư
xuống Việt Nam thời Xuân Thu
Chiến quốc như hai học giả Pháp là L’Aurousseau và
Madrolle. Các nhà nghiên cứu
thuộc trường Viễn Đông Bác cổ của Pháp ở Hà
Nội thì cho rằng người Việt phát
tích từ Tây Tạng, thuộc chủng Indonesian ngành
Mongoloid phương Nam và nhà
nghiên cứu Bình Nguyên Lộc cho rằng Mã Lai
là cội nguồn dân tộc. Tất cả những
luận điểm trên đều không có tính thuyết phục
nên chúng ta phải tìm về nguồn cội
phát tích của tộc Việt từ truyền thuyết đến hiện thực
lịch sử được kiểm chứng
bởi văn hoá khảo cổ, dân tộc và ngôn ngữ học,
kết quả khảo tiền sử và cấu trúc
di truyền DNA mới nhất, thuyết phục nhất.
I. TRUYỀN THUYẾT KHỞI NGUYÊN DÂN TỘC
Mỗi
dân tộc
đều có những truyền kỳ lịch sử được thần thoại hoá thể
hiện lòng tự hào dân tộc
mang tính sử thi của dân tộc đó. Nữ sĩ Blaga
Dimitrova cũng như nhiều học giả
ngoại quốc khác đã hết sức ngạc nhiên xen lẫn
thán phục khi nghiên cứu về lịch
sử Việt Nam, một dân tộc mà huyền thoại và hiện
thực đan quyện hoà lẫn với nhau
đến độ khó có thể phân biệt đâu là
huyền thoại đâu là hiện thực nữa. Thật vậy, huyền
thoại Rồng Tiên về cội nguồn huyết thống Việt tuy đượm vẻ huyền
hoặc nhưng lại
tràn đầy tính hiện thực, thấm đậm nét nhân
văn của truyền thống nhân đạo Việt
Nam.
Mỗi
dân
tộc
đều
có
những
truyền
thuyết
độc
đáo mang sắc thái đặc thù
biểu trưng riêng của dân tộc
đó. Vì thế ngay cả những dân tộc mà
ngày nay được xem là văn minh cũng đều có
một con vật biểu trưng cho dòng giống như Ấn Độ là voi,
Tàu là con cọp, Pháp là
con gà trống Gaulois, Anh là con sư tử, Mỹ là con
chim Ưng (đại bàng) nên Hiệp
chủng quốc Hoa Kỳ lấy chim đại bàng và Pháp lấy
con gà làm quốc huy cho cả
nước.
Truyền thuyết Rồng
Tiên của Việt Nam thoạt nghe có vẻ hoang đường huyền hoặc
thế nhưng vấn đề là
chúng ta phải đặt mình vào thuở ban sơ cách
đây mấy ngàn năm mới thấy rõ Tổ
tiên ta đã sống ra sao và suy nghĩ thế nào ở
thời cổ đại? Từ đó mới có thể hiểu
được những gì mà Tổ tiên ta đã gửi gấm cho
chúng ta qua bức thông điệp lịch sử
đó. Với những suy nghĩ của thời đại duy lý thì
làm sao có chuyện trứng nở ra
người? Chi Âu Việt của người Việt cổ chọn vật linh biểu trưng
là chim nên mẹ Âu
đẻ ra trăm trứng là chuyện bình thường. Nếu mẹ Âu
(Chim) đẻ ra người mới là
chuyện lạ, nên chúng ta phải hiểu đây chỉ là
biểu trưng để diễn tả mẹ Âu Bố Lạc
đã khai sinh ra trăm giống Việt mà thôi. Mặt
khác, chim Phượng Hoàng huyền
thoại trên thực tế là con Công của người Việt tung
cánh bay theo hướng mặt
trời, vừa diễn tả ý niệm người Việt thiên cư dần về hướng
Đông xuống miền bể và
chim bay lên trời dẫn tới hình tượng “Tiên” của mẹ
Âu.
Theo triết gia Kim Định thì cơ cấu luận
thì Sử ký là “sử hàng ngang” ghi
chép các biến cố, các sự kiện cụ thể với những
con người cụ thể theo năm tháng, còn Huyền sử được gọi
là “Sử hàng dọc” mang
tính tâm linh biểu thị bằng những hình tượng
nguyên sơ. Thật vậy, cái biểu
tượng uyên nguyên đó có thật như một
lý tưởng nhưng chưa hiện thực được. Đó là
những nguyên lý được kết tinh và tiềm ẩn trong đời
sống tâm linh của một dân
tộc như trong huyền sử Rồng Tiên thì Âu Cơ chỉ
là hình tượng nguyên sơ. Mẹ Âu
Cơ là chi tộc thờ chim của Việt tộc nên việc mẹ đẻ ra một
cái bọc trăm trứng là chuyện
bình thường cũng như cái bọc
không chỉ nói về cái bọc mà nó biểu
tượng cho ý niệm công thể, ý nghĩa của 2
chữ “đồng bào” cùng chung một bào thai của mẹ
Âu Cơ. Tầm nguyên ngữ nghĩa của
chữ Tiên gồm chữ sơn và chữ nhân, hàm nghĩa
người ở trên núi mà thôi. Cũng thế
trăm con không nhất thiết phải là một trăm mà
hàm ý số nhiều từ đó chúng ta mới
có ý niệm “Trăm họ” (Bách tính) và
rộng hơn nữa là “Bá tánh”.
Ngày nay không ai phủ nhận được giá
trị
của huyền thoại và truyền thuyết
được
coi như lịch sử dân gian mà đôi khi nó
có giá trị trung thực hơn cái gọi là
chính sử của các chế độ độc tài xưa và nay.
Beaudelaire một thi sĩ nổi
tiếng đã nhìn nhận
sức mạnh của truyền thuyết huyền thoại vì đó là “Sử cô đọng của các dân tộc”. Đại văn
hào
Pháp Victor Hugo khi viết “Truyện kỳ các thời đại”
ông đã tìm về nguồn cội,
khai thác các truyền thuyết thần thoại xa xưa vì
theo ông, đó là “Lịch sử được lắng nghe
ở ngưỡng cửa của
truyền thuyết. Truyền kỳ có phần nào hư cấu nhưng tuyệt
đối không có ngụy tạo”.
Thật vậy, truyền thuyết tự thân nó không phải
là lịch sử biên niên nhưng truyền
thuyết là có thật, nó phản ảnh những ý
nghĩa có thật của một thời lịch sử ban
sơ mà người xưa ký thác vào đó dưới
lớp vỏ hư cấu huyền hoặc để truyền lưu gửi
gấm cho những thế hệ sau. Một triết gia nói: “Tất cả
nền minh triết cũng như trí
khôn loài
người đều ẩn tàng trong các
huyền thoại,
truyền kỳ lịch sử dân gian”. Vấn đề là phải
làm sao hiểu được
những lý tưởng uyên nguyên, những tâm linh
sâu thẳm hàm tàng ẩn chứa qua những
hình tượng nguyên sơ trong đó. Nói theo
Jung, một triết gia thời đại thì: “Truyền thuyết huyền thoại
hàm chứa những ý
nghĩa lịch sử trung thực nhất, vì nhân vật thần thoại
là sản phẩm đúc kết biết
bao suy tư của một thời đại tạo dựng độc sáng nhưng nó
phải chờ thế hệ sau diễn
đạt bằng ngôn từ minh nhiên lý giải. Huyền thoại
là đạo sống của một dân tộc” mà
theo
Wallace Cliff thì “
Nếu
dân tộc nào để mất đi huyền thoại là đánh
mất mạch nối vào nguồn
cội quá khứ của tổ tiên và cũng sẽ mất luôn
căn bản cho việc xây dựng tiền đồ
của dân tộc đó”. Thật vậy Laurens va de
Post đã xem huyền thoại
là di sản thiêng liêng nhất vì nó diễn
tả tinh thần dân tộc ở mức độ cao nhất.
Micia Eliado cũng cho rằng “Huyền thoại là gia
sản quí báu nhất vì tính chất thiêng
liêng điển hình và mang lại ý nghĩa sống
cho cả một dân tộc”. Lịch sử đã chứng minh lời của Karl Jung
là “Dân tộc nào quên đi huyền
thoại thì dân tộc
đó dù là những dân tộc văn minh nhất sớm
muộn cũng sẽ tiêu vong”.
Trong lịch sử loài người, nhiều cộng đồng người đã
không tồn tại được với thời
gian vì không có truyền thuyết khởi nguyên
của dân tộc. Huyền thoại là di sản
thiêng liêng nhất, quí báu nhất mà
tiền nhân đã để lại cho hậu thế. Huyền thoại
là mạch sống nối cội nguồn quá khứ với thế hệ hiện tại
và mai sau, là gia sản
cao quí vô giá ghi nhận những cảm nghiệm nội
tâm của người xưa đã thực chứng
suốt dòng vận động của lịch sử. Thật vậy, huyền thoại Rồng
Tiên đã thấm sâu
trong lòng mỗi người chúng ta để trở thành đạo
sống của dân tộc Việt.
Với phương pháp
nghiên cứu huyền thoại, chúng ta nghiên cứu huyền
sử, tìm về nguồn cội dòng
giống qua những gửi gấm của người xưa là một việc làm hết
sức đúng đắn và cần
thiết. Vấn đề đặt ra là với một thái độ nghiêm
túc, một phương pháp khoa học,
nhưng không có quyền áp đặt những suy nghĩ của
nhân loại thế kỷ 21 lên những tư
tưởng của người xưa mà chúng ta phải đặt mình
hoàn cảnh lịch sử thời đó để có
thể hiểu được cái gọi là “lịch sử sống động
của dân gian”.
Một mặt, phải gạt
bỏ những yếu tố thần thoại, loại ra những chi tiết hư cấu. Mặt
khác, đặt mình
vào hoàn cảnh xã hội đời sống tâm linh của
người xưa, mới thấy được cái tinh
tuý cốt lõi tiềm tàng trong truyền thuyết để giải
mã bức “Thông Điệp” hàng ngàn
năm lịch sử của tiền nhân.
II. NGUỒN GỐC VIỆT TỘC TRONG THƯ TỊCH CỔ TRUNG QUỐC
Chúng ta tự hào
là con Rồng cháu Tiên của Bố Lạc Mẹ Âu với
thiên tình sử đẹp như một áng sử thi
mở đầu thời kỳ dựng nước của dòng giống Việt. Truyện họ Hồng
Bàng về khởi
nguyên dân tộc, lần đầu tiên được Hồ Tông Thốc
chép trong tác phẩm “Việt Nam
thế chí” vào thế kỷ XIV đời Trần nhưng sách
đã bị quân Minh tịch thu tiêu huỷ
nên không còn nữa. Đầu thế kỷ XIV, Trần Thế
Pháp và Lý Tế Xuyên đời Trần đã
chép lại những truyền thuyết dân gian vào bộ
sách “LĨNH NAM TRÍCH QUÁI” và
“VIỆT ĐIỆN U LINH” để truyền lưu nguồn gốc giống ḍựng Việt cho đời
sau.
Đại Việt Sử
Lược của một tác giả “Khuyết danh” được xem là bổ sử đầu
tiên của nước ta nhưng
đã bị quân Minh tiêu hủy cùng với các
bộ sách sử cổ của Việt Nam. Bản duy nhất
còn lưu giữ trong Tứ Khố Toàn thư Trung Quốc sau khi sử
quan triều Thanh là
Tiền Hy Tộ đã sửa đổi bóp méo nhiều sự kiện lịch
sử. Tên của sách đã bị Tiền Hy
Tộ sửa lại là Việt Sử Lược. Việt Sử Lược chép:
“Xưa Hoàng đế dựng muôn nước thấy
Giao chỉ ở
xa ngoài cõi Bách việt, không thể thống
thuộc được bèn chia giới hạn ở góc Tây
Nam. Đời Thành vương nhà Chu (1024-1005 tr. C.N) Việt
Thường thị mới đem dâng
bạch trĩ, sách Xuân Thu, gọi là khuyết địa.
Đái ký (Lễ ký Đại Đái, Tiểu Đái
chú) gọi là Điêu đề.
“Đến đời Trang vương nhà Chu (696-682 tr. CN.) ở bộ
Gia ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng là Hùng
Vương, đóng đô ở Văn lang, hiệu là nước Văn lang,
phong tục thuần hậu, chất
phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền
được 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Việt
Câu Tiễn (505-465 tr. CN.) đã sai sứ tới dụ, Hùng
vương chống cự lại.
“Cuối đời Chu, Hùng vương bị con vua Thục là
Phán
đánh đưổi mà lên thay. Phán đắp thành
ở Việt thường, xưng hiệu là An Dương
Vương, không thông hiếu với nhà Chu… Cuối đời Tần,
Triệu Đà chiếm cứ Uất lâm
Nam hải, Tượng quận, xưng vương đóng đô ở Phiên
ngung, quốc hiệu là Việt, tự
xưng là Vũ Vương”.(1)
Mãi đến đời Lê, sử gia Ngô Sĩ
Liên mới
chính thức đưa thời đại Hùng Vương vào bộ ĐẠI VIỆT
SỬ KÝ TOÀN THƯ. Sử gia Ngô
Sĩ Liên viết “Nước
ĐẠI
VIỆT
ta
ở
về
phía
Nam
Ngũ Lĩnh, thế
là Trời đã chia bờ cõi Nam Bắc hẳn hòi.
Thủy tổ của ta là con cháu Thần Nông.
Trời đã sinh ra vị chân chúa vì thế mới
cùng Bắc triều đều làm chúa Tể một
phương…”. Học giả Lê
Quí
Đôn trong “Kiến văn Tiểu lục” viết năm 1777 đã nhận định: “Hồi đầu niên hiệu Khai Hựu (1329-1341) nhà Trần,
Lý Tế Xuyên phụng mệnh
chép Việt Điện U Linh tập, ghi đền miếu thờ các vị thần,
có trình bày hạo khí
linh tích 8 vị Đế vương Lịch đại và 12 vị nhân
thần. Sách này lời văn trang
nghiêm, sự việc xác thực, cũng tỏ ra tài nhà
sử học lành nghề. Trong sách có
dẫn Giao Châu ký của Tăng Cổn, Sử ký của Đỗ Thiện
và truyện Báo cực. Những sách
này đều không còn thấy lưu truyền ..!”.
Trong khi đó, một số sách sử cổ Trung Hoa
còn ghi chép về cộng đồng Bách Việt một thời cư
trú ở lãnh thổ TQ bây giờ. Sử
triều Thương là triều đại lập quốc của Hán tộc đã
ghi rõ “Đời Cao Tông triều Ân, vượt
Hoàng Hà đánh nước Quỉ Phương 3 năm mới
thắng”. Kinh Thư, Sử Ký Tư Mã Thiên và
bộTrúc Thư Kỷ Niên chép Đời Vũ Định
là vị vua thứ 22, lấy hiệu là Cao Tông năm thứ 32,
đem quân đánh nước Qủi
Phương và đóng quân tại Kinh (đất
Kinh
Việt thuộc châu Kinh sau này. Thời Xuân Thu Chiến
Quốc là nước Sở).
Lãnh thổ tiều Thương lúc đó chỉ vỏn
vẹn có
hơn 2 tỉnh ở hạ lưu sông Hoàng Hà. Chung quanh
là cộng đồng Bách Việt trải rộng
khắp Trung nguyên tức lãnh thổ Trung Quốc bây giờ. Thực tế lịch sử
này được Hội nghị Quốc tế
các nhà Trung Hoa học (Sinology) trên khắp thế giới
kể cả Trung Quốc và Đài
Loan hội thảo tại đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 thừa nhận là
Di Việt làm
chủ Trung nguyên trước Hán tộc và các triều
đại Thương, Chu tiếp thu văn hóa
của Di Việt ở phương Nam. Sự thật lịch sử này được
bản đồ National Geographic Company ấn hành
năm 1991 ghi rõ từ hạ lưu lưu vực sông Hoàng
Hà trở xuống là Di Việt với nền
văn minh lúa nước đầu tiên trên thế giới.
Sách “Hậu Hán Thư” và sách
“Địa
lý Chí” chép rõ ràng hơn về cộng
đồng Bách Việt như sau:
“Từ Giao Chỉ đến Cối Kê trên bảy tám
nghìn dặm, người Bách Việt ở xen nhau, đều có
chủng tính”. Tên của
các nhóm trong Bách Việt được sách “Lộ Sử”
tức sử của người Lạc Việt của La Tất
đời Tống liệt kê như sau: “Việt Thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu Khải, Âu
Nhân, Thả Âu, Cung Nhân,
Hải Dương, Mục Thâm, Phù Xác, Cầm Nhân,
Thương Ngô, Man Dương, Dương Việt, Quế
Quốc, Tây Âu, Quyên Tử, Sản Lý, Hải Quỳ,
Tây Khuẩn, Kê Từ, Bộc Cầu, Bắc Đái,
Khu Ngô.. gọi là Bách Việt. Trong những nhóm
Bách Việt ấy thì Dương Việt ở miền
hạ lưu sông Dương Tử, nhóm Thương Ngô ở miền Nam
tỉnh Quảng Tây. Nhóm Sản Lý
tức Xa Lý ở miền Tây Nam tỉnh Vân Nam. Như vậy, theo
sử sách Trung Quốc xưa gọi
là Bách Việt là những nhóm người Việt ở rải
rác khắp miền Hoa Nam phía Tây gồm
cả đất Vân Nam, phía Nam gồm cả miền Bắc và Bắc
Trung Việt. Sử sách thường gọi
chung là miền Giang Nam và miền Lĩnh Nam”.
Trong bộ Sử ký, Tư Mã
Thiên sử gia chính thống của Trung Quốc viết rõ: “ Đông
Việt
hay
Đông
Âu
trong
thời
Tần
Hán
đóng đô
ở Vĩnh Ninh tức Vĩnh Gia là miền
Triết Giang, Mân Việt thì ở đất Mân Trung tức miền
Phúc Kiến, Nam Việt đô ở
Quảng Châu miền Quảng Tây, Tây Âu (Âu
Việt ở phiá Tây) ở phía Nam sông Ly miền
Quảng Tây…”. Sách Hoài Nam Tử,
Thái Tộc Huấn chép về cương vực
triều Thương như sau: “ Tả Đông Hải,
hữu Lưu Sa, tiền Giao Chỉ, hậu Hàm Đô” nghĩa là mặt trước
(phiá Nam) giáp đất Giao
Chỉ.(2)
Thư tịch cổ Trung Quốc đã thừa
nhận một thực tế lịch sử đó là sự thành lập của
các quốc gia thời Chiến quốc mà
họ gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông
Việt tức U-Việt (còn gọi là Vu Việt)
của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang mà
lên tới miền Giang Tô tức
Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi tiếng của chi
Dương Việt mà kinh đô
là Cối Kê. Trong bộ
sách
Sử Ký Tư Mã Thiên đã viết rõ “ Tổ Câu Tiễn là
dòng vua Vũ của nhà Hạ. Câu Tiễn Văn thân
đoạn phát…” nghĩa
là
cắt
tóc
xâm
mình
. Lý
Tế
Xuyên
đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt
cổ xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang
Tây, Điền Việt ở Vân Nam, Quì
Việt ở Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt
(Tây Âu) ở Quảng Tây, Lạc Việt
ở Quảng Tây và Bắc VN.
Việt tộc không chỉ cư trú ở vùng lưu
vực
giữa Hoàng Hà Dương Tử mà còn định cư ở mạn
Bắc sông Hoàng Hà mà cổ sử Trung
Quốc gọi là Bách Bộc. Bách Bộc không phải
tên chủng tộc mà chỉ là tên gọi người
Việt cổ dòng Thần Nông phương Bắc ở vùng sông
Bộc. Sông Bộc bắt nguồn từ cao
nguyên chảy qua Hà Bắc vùng giữa Hà Nam
và Sơn Đông rồi chảy vào Hoàng Hà.
Theo
“Lệ sử dân” thì Bộc tức Bách Bộc chi tộc ở
vùng sông Bộc. Mặt khác, sách “Nhĩ
Nhã” của môn đệ Khổng Tử ghi: “Rợ Đông Di (Lạc bộ
Trĩ) định cư từ lưu vực sông Bộc ra tới biển Đông và
lên tới cực Bắc Trung Hoa
cũng có tục nhuộm răng xâm mình”.
Sách Nhĩ Nhã viết chữ Lạc của
Lạc bộ Trĩ giống hệt chữ Lạc trong họ của Lạc Long Quân. Sử
Ký Tư Mã Thiên và
Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là vị vua có hiệu
là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ
14 tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược Ngao cai trị
vào năm 789 trước Tây Lịch.
Điều này chứng tỏ thời đại Hùng Vương là có
thật trong lịch sử. Sử gia Trung
quốc Chu Cốc Thành trong tác phẩm “Trung Quốc Thông
sử” thì Viêm tộc đã có mặt
khắp nước Trung Hoa cổ đại trước khi Hán tộc tràn
vào. Viêm tộc là tộc người do
Viêm đế Thần Nông còn gọi là Đế Thần
làm chủ toàn cõi Trung nguyên đầu
tiên.
Lúc đó, Hán tộc du mục còn săn bắt, chăn
nuôi ở vùng Tân Cương, Thanh Hải. Sau
này, họ tiến xuống dọc theo sông Hoàng Hà
đánh chiếm đất đai của Viêm tộc.
Sử gia Trung Quốc Mộng văn Thông trong tác
phẩm “Cổ sử Nhân Vi” cho rằng “Viêm Tộc theo
triền sông Dương Tử tràn xuống 7 tỉnh lưu vực Dương Tử
Giang là Tứ Xuyên, Hồ
Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy, Triết Giang. Sau
đó, họ tiến sang
bình nguyên Hoa Bắc, cư trú ở ở lưu vực sông
Hoàng Hà gồm 6 tỉnh Hà Nam, Hà
Bắc,Sơn Tây,Sơn Đông, Thiểm Tây, Cam Túc..
Theo thời gian, họ vượt qua 5 dãy
núi của rặng Ngũ Lĩnh tiến về 5 tỉnh vùng lưu vực
sông Việt Giang là Vân Nam,
Quí Châu, Quảng Tây, Quảng Đông và
Phúc Kiến”. Sách “Hán quan
nghi” của Ưng Thiệu đời Hán cũng phải thừa nhận một thực tế
là: “Khi cổ nhân mới mở nước ở phương Bắc
đã giao
tiếp ngay với phương Nam để xây dựng nền tảng cho con cháu”.
Nếu
giao
tiếp
với
phương
Nam
chỉ
thuần
túy là ngoại giao thì
làm sao giải nghĩa được câu “để
xây dựng nền tảng cho con cháu”? Vì vậy,
chúng ta phải hiểu là Ưng Thiệu muốn
nói tới việc tiếp nhận văn hóa phương Nam để làm
nền tảng cho văn hóa Hán sau
này…Đặc biệt, gần đây nhóm Tân học gọi
là “Nghi cổ phái” do Quách Mạt Nhược
thành lập năm 1920 chủ xướng đã bác bỏ thời Tam
Hoàng, Ngũ đế. Sự thật lịch sử
này đã được hội nghị Quốc Tế về nền văn minh Trung Hoa
gồm các nhà Trung Hoa
học tổ chức ở Đại học Berkerley Hoa Kỳ năm 1978 xác định rằng Di
Việt làm chủ
Trung Nguyên trước tiên, sau đó bị Thương Chu
đánh đuổi chạy xuống phương Nam.
Sử Ký của Tư Mã Thiên chép rằng Hoàng
Đế là người khai mở lịch sử Trung Quốc
nhưng sự thật đã xác nhận rằng lịch sử Trung Quốc chỉ mới
bắt đầu từ triều
Thương (1766-1154 TDL) và các triều Thương Chu của
Hán tộc lại chịu ảnh hưởng
sâu đậm của văn hoá Di Việt.
Sử gia hàng đầu của Trung Quốc hiện nay là
Trương Quang Trực (Chang Kwang Chih), đã phải thừa nhận một sự
thực lịch sử là
tuy Trung Quốc là một quốc gia lớn với một nền văn hoá lớn nhưng nó
đã phải thâu nhập tinh hoa của
nhiều nền văn hoá hoá hợp lại: “Những nền
văn hoá địa phương thời tiền sử, sau khi thống nhất đã
trở thành một bộ phận
của văn hoá Trung Quốc. Nguồn gốc thực sự của Hoa Hán chỉ
là phần nhỏ nhưng sau
khi triều Tần thống nhất thì dân tộc cả nước thống nhất ấy
là dân tộc Trung
Hoa”. Sử gia Trung Quốc
Hoàng văn Nội đã thừa nhận là quá nửa
dân số Trung Quốc ngày nay là người gốc
Viêm tộc (Viêm Việt) bị Hán tộc thống trị đồng
hoá thành người Hán. Mới đây thực
tế này được chính nhà khảo cổ Yong Qang Yao
và các đồng nghiệp tại Hàn Lâm viện
Trung Quốc Kunming ở Vân Nam (Yunnan) qua các công
trình nghiên cứu khảo cổ
Phylogeographic Differentiation of Mitochondrial DNA in Han Chinese: “Sự
thành lập dân Hán là một tiến trình
liên
tục bành trướng bằng cách sát nhập nhiều bộ lạc
và chủng tộc vào dân Hán”.(3)
III. VĂN HOÁ KHẢO CỔ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Mỗi dân tộc có
một lịch sử tiến hóa mang đậm bản sắc đặc thù của
dân tộc đó, gắn liền với hoàn
cảnh địa lý thiên nhiên, điều kiện khí hậu
thổ nhưỡng cùng với sự phân bổ các
loại động vật và thực vật mà cộng đồng sinh sống trong
khu vực đó. Ngày
nay, các nhà
nghiên cứu đều công nhận một thực thể “Văn hóa
Đông Nam Á”, bao gồm nhiều dân
tộc cư trú trên địa bàn này mà từ xa
xưa có cùng một cội nguồn lịch sử. Các nhà
khảo cổ, Nhân chủng, Địa lý, Lịch sử, Dân tộc
và ngôn ngữ học với các công
trình nghiên cứu liên ngành, bằng các
phương pháp đối chiếu so sánh đã thống
nhất một nhận định chung về Đông Nam Á. Đó
là một khu vực địa lý nhân văn trải
dài từ vùng chân núi Hi Mã Lạp Sơn
(Himalaya) xuống Nam Trung Quốc, Thái Lan,
Việt Nam, Cao Miên (Cambodia), Lào, Mã Lai (Malaya)
và Nam Dương (Indonesia).
Xét trên
phương diện địa lý thiên nhiên, địa
lý văn hóa, địa lý chính trị, địa lý
kinh tế thì tất cả tạo thành một cảnh quan
sinh thái nhân văn gọi là đại đồng văn của một khu
vực bao gồm các quốc gia
Đông Nam Á kể cả vùng Nam Trung Quốc. Hệ thống sinh
thái thiên nhiên của khu
vực nóng ẩm gió mùa, mưa nhiều, nhiệt độ cao,
ánh sáng nhiều nên đất đai thích
hợp cho rất nhiều loại thực vật sinh trưởng và phát
triển. Đặc biệt, đó là khu
vực trồng lúa nước với đặc trưng “Văn hóa Trống đồng”.(4)
Ngày nay, với những di chỉ Khảo cổ, kết qủa
đo chỉ số sọ của khoa Khảo tiền sử cùng với các
công trình nghiên cứu về Dân
tộc và Ngôn ngữ học đối chiếu với nguồn thư tịch cổ cho
phép chúng ta kết luận
là trên vùng đất trải dài từ lưu vực
sông Hoàng Hà và Dương Tử trở xuống phương
Nam tới tận vùng Đông Nam Á hải đảo gồm Malaysia,
Indonesia, Philippine, quần
đảo Polynesie và cả Mỹ châu nữa là địa bàn
sinh sống của một chủng tộc phát
tích từ Hoabinhian tức ProtoViets.
Ngược dòng lịch sử về nguồn cội gốc tích
Việt tộc chính là ngược dòng sông Cửu Long
để tìm về lộ trình thiên cư của
người xưa còn để lại ấn tích mà các
nhà Khảo cổ học gọi là văn hoá khảo cổ. Kết
hợp với kết quả của khoa Khảo Tiền sử, Dân tộc học, Ngôn
ngữ học và nhất là Di
Truyền học để xác minh tính hiện thực của truyền thuyết
và của các nguồn thư
tịch cổ. Mỗi một thời đại có một nền văn hoá khảo cổ
riêng biệt gồm những di
chỉ và tổng số hiện vật rải rác trong một khu vực nhất
định với những nét đặc
trưng giống nhau và có cùng một trình độ
phát triển kỹ thuật vì cùng một thời đại
dù những yếu tố thẩm mỹ đa dạng có phần nào
khác biệt nhưng về đại thể, vẫn
mang tính thống nhất chung của một thực tế lịch sử.
Các công trình nghiên cứu khoa
học từ Khảo
cổ học, Tiền sử học đến Dân tộc học, chủng tộc học, ngôn
ngữ học và văn hóa học
đều thừa nhận nền văn hóa của các cư dân từ Nam
Hoàng Hà xuống tới Đông Nam Á
châu là cái nôi sinh tụ của cư dân Nam
Á chính là cộng đồng Bách Việt
(MalayViets). Học giả Andréas Lommel trong tác phẩm “Tiền
sử” (3) đã
ghi nhận như sau: “Tất
cả
miền
đất
mênh
mông
từ
Thái
Bình
Dương trở lên đến Hoa Nam
Trung Quốc đều có cùng một nền văn
hóa. Đảo Bornéo ở Nam Dương (Indonesia) cũng có
cùng nghệ thuật như miền sông
Hoài thuộc Giang Tô miền Nam nước Ngô thời
Xuân Thu Chiến Quốc. Đặc tính văn
hóa gắn liền với môi trường sinh sống của thực vật
và động vật từ trầu cau, cây
dâu đến heo, gà, công. Các phong tục tập
quán từ nhuộm răng ăn trầu, xâm mình,
cà răng đến lễ hội mừng nước, đua thuyền, vai trò quan
trọng của trống đồng và
cồng chiêng trong các lễ hội dân gian. Đó
là khu vực văn hóa Trống đồng của
cộng đồng Bách Việt từ Nam Trung Quốc, Đài Loan, Hải Nam
tới Đông Dương gồm
Việt Miên Lào, Thái Lan xuống tới bán đảo
Mallacca, Mã Lai (Malaysia),Nam Dương
(Indonesia), Phi Luât Tân (Philippine), Guinée, quần
đảo Micronesia và Pâques”.
Theo
G.
Coedès,
Giám
đốc
trường
Viễn
Đông
Bác
cổ thì đặc điểm của chủng Indonesian mà chúng
tôi gọi là Malaysian như sau(5):
1. Về phương
diện tinh thần: có tính cộng đồng về văn
hóa đặc trưng bởi những yếu tố về mặt tinh thần là
tính nhị nguyên luận về vũ
trụ.
2. Về phương
diện vật chất: Làm ruộng cấy lúa, nuôi
trâu bò, dung đồ kim khí thô sơ, giỏi bơi
thuyền …
3. Về phương
diện xã hội: Phụ nữ giữ địa vị quan
trọng, huyết thống mẫu hệ, tổ chức xã hội theo nhu cầu tưới nước
ruộng.
4. Về phương
diện tôn giáo: Theo thuyết vạn vật hữu
linh, Thờ phụng tổ tiên, thờ thần đất, đặt đền thờ trên
những chỗ cao, chôn
người chết trong các chum vại.
5. Về phương
diện thần thoại: Đối lập vũ trụ luận giữa
núi và biển, giữa loại phi cầm và thủy tộc, giữa
người thượng du và người đồng
bằng.
6. Về phương
diện ngôn ngữ: Dùng ngôn ngữ đơn
âm với
năng lực dồi dào về phát triển từ vựng.
Ngày nay, giới
khoa học chính thức công nhận nền văn hoá
Hoà Bình là một nền văn hoá cổ đại
nhất của nhân loại. Chính điều kiện thiên
nhiên thổ nhưỡng của vùng ảnh hưởng
văn hoá Hoà Bình này đã hội đủ những
điều kiện để vùng Đông Nam Á trải dài từ
chân núi Hi Mã Lạp Sơn và Côn
Luân xuống tới Nam Á, đã là một
trong những cái nôi sinh trưởng đầu
tiên của
nhân loại.
Nhà bác học W.
G. Wilheim đã kết luận là: “Đông Nam Á
đã bắt
đầu trồng cây, làm đồ gốm và đúc đồ đồng,
sớm hơn các dân tộc Cận Đông, Ấn Độ,
Trung Hoa tới cả hàng mấy ngàn năm trong đó Việt
Nam là quê hương của nền văn
hoá Hoà Bình” (6). Khoa
Cổ nhân học nghiên cứu gần
100 sọ cổ của những người cổ của cư dân Hòa
Bình-Bắc Sơn ở Thiệu Dương và La
Đôi có những nét ở sọ và mặt rất giống người
Việt hiện nay. Chiều cao xấp xỉ
1m58, đầu tròn, mặt tương đối, hai gò má
khá cao, mũi dẹt vừa phải, mặt hơi vẩu
và đặc biệt có người biết nhuộm răng đen. Điều này
chứng tỏ rằng cư dân Hòa
Bình Hoabinhian chính là protoviets, người tiền
Việt.
IV. KẾT QUẢ KHẢO
TIỀN SỬ VỀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Theo khoa Khảo Tiền sử thì cách đây
hơn 6
ngàn năm, khi mực nước biển rút dần thì từ cao
nguyên Côn Luân và Tây Tạng,
người Malaynesian tiến dần xuống Trung nguyên theo lưu vực 3 con
sông Hoàng Hà,
Dương Tử và Cửu Long. Nhánh Malaynesian từ thượng nguồn
sông Cửu Long và Dương
Tử tiến xuống định cư ở vùng lòng chảo đất đỏ ở Tứ
Xuyên và lòng chảo Dạ Lang.
Sách cổ “Kinh Thư” gọi vùng đất đỏ Basalte từ châu
Kinh sang tới Dạ lang, Tứ
Xuyên là XÍCH
QUI
PHƯƠNG. Theo truyền thuyết thì đây là
nhánh Thần Nông phương Nam
đi qua ngã Tứ Xuyên, đất bồi đến đâu, Malay-Viets
tức Bách Việt định cư tới đó.
Địa bàn cư trú của Bách Việt khắp Trung
Nguyên lên tới hạ lưu sông Hoàng Hà
mà
cổ sử TQ gọi là Rợ Đông Di tức Lạc bộ Trĩ của Việt tộc.
Nhánh Malaysian thứ hai mà truyền thuyết
gọi là dòng Thần Nông phương Bắc tiến xuống định cư
ở vùng Tam giang Bắc gồm 3
con sông: Hoàng Hà, sông Vị, sông Lạc.
Tên con sông Lạc này viết với bộ Chuy
(điểu) ở Thiểm Tây lập nên các triều đại Đế Nghi, Đế
Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng
mà sử Tàu viết là Hoàng Đế, Thiếu Hạo,
Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí. Đế Nghiêu,
Đế Thuấn và Hạ Vũ lập ra nhà Hạ của Việt tộc. “Kinh Thư”
viết rằng tên núi và
sông ở vùng Tam giang Bắc là QUI. Khi vua
Nghiêu gả con gái về làm dâu ở nhà họ
Ngu ở bến sông Vị, thì Kinh
thư chép là
về là khuỷu sông Qui (Vu qui nhuế). Sách cổ “Kinh Thư” gọi vùng đất Tam
giang Bắc gồm sông Vị,
sông Hoàng và sông Lạc trải dài xuống
Tam giang Nam gồm 3 con sông: sông
Nguyên, sông Tương và sông Dương Tử là
Xích Qui Phương. Cổ thư cũng chép vùng
này là Cửa Việt, Giao Chỉ. Theo “Khang Hy Từ Điển”
thì chữ phương là đòng đòng
lúa nên Xích Qui phương là nước Xích
Qui trồng lúa nước. Chính vì vậy, tổ tiên
ta, người Việt cổ xưa đã lấy tên vùng đất (địa
danh) để đặt tên nước thời cổ
đại là XÍCH QUI để truyền lưu lại cho đời sau cái
di sản thiêng liêng cao quí
của Đế Tổ Thần Nông. Chữ Xích gồm 2 chữ hoả (lửa) chồng
lên nhau có nghĩa là đỏ
nên Thần Nông còn gọi là Xích đế. Chữ
Xích chỉ lửa (màu đỏ) hay quẻ Ly (phương
Nam) chỉ nền văn minh tinh thần nên được gọi là
Xích huyện Thần Châu. Do đó,
nước Xích Qui là nước nông nghiệp ở vùng đất
đỏ phương Nam (Xích Qui Phương)
của con cháu Thần Nông mà cổ thư gọi là Cửa
Việt, Giao Chỉ.
Kết qủa các công
trình nghiên cứu của hàng trăm nhà Khảo cổ
và Khảo Tiền sử trên khắp Á
châu đã xác nhận
là cách đây ít nhất là
6 ngàn năm, chủ nhân của nền văn hoá “Rìu
có vai” thời đồ đá đã từ cao nguyên
Tây Tạng vùng chân núi Malaya tiến xuống
Trung nguyên, từ thượng lưu sông Dương
Tử qua ngã Tứ Xuyên, một số định cư tại đây
và số khác tiến dần tới giáp biển
Đông. Khoa Cổ nhân học nghiên cứu gần 100 sọ cổ của
những người cổ cư trú trên
đất nước Việt Nam cho biết rằng họ đã sinh sống từ rất
lâu. Cách nay khoảng 8
ngàn năm, ngay từ đầu thời đá mới trong những sọ của cư
dân Hòa Bình-Bắc Sơn ở
Thiệu Dương và La Đôi có những nét ở sọ
và mặt rất giống người Việt hiện nay.
Chiều cao xấp xỉ 1m58, đầu tròn, mặt tương đối, hai gò
má khá cao, mũi dẹt vừa
phải, mặt hơi vẩu và đặc biệt có người biết nhuộm răng
đen. Những người Việt cổ
ở Thiệu Dương La Đôi (Thanh Hóa) này so với người
Mường gốc ở Hòa Bình không có
gì khác biệt. Điều này chứng tỏ rằng cư dân
Hòa Bình Hoabinhian chính là
protoviets, người tiền Việt.
Năm 1962, G. Coedès,
nguyên Giám Đốc trường Viễn
Đông Bác cổ đã công bố kết quả
công trình khảo tiền sử trên toàn cõi
Á Đông của hàng trăm nhà bác học Khảo
cổ,
Nhân chủng và Địa chất học. Những nhà bác
học này đã đào bới khắp nơi từ Nhật
Bản, Hàn quốc (Triều Tiên) tới Tây vực và từ
Tây Bá Lợi Á xuống tới quần đảo
Nam Á trong hàng chục năm trời đã tìm kiếm
các di chỉ khảo cổ, khai quật những
lớp sọ nằm dưới của cư dân đến trước, cư dân đến sau nằm ở
trên. Sau khi đo chỉ
số sọ và dung lượng sọ để xác định ngọn nguồn gốc
tích chủng tộc đó kết luận: “Tất cả các cư
dân Nam Á từ Nam Ấn, Môn,
Tạng, Miến, Thái, Lào, Miên, Mã Lai, Nam
Dương, Célèbres, Việt Nam kể cả đồng
bào thiểu số thượng du Bắc Việt đều có cùng một
gốc cổ Malaya gọi là Indonesian
(Malaysian hay còn gọi là Malay-Viets) là những cư
dân Nam Á có chung một chỉ
số sọ trung bình là 81,42 và dung lượng sọ
có tính cách sọ tròn khác hẳn với
các chủng tộc trong vùng”.(7) Các
nhà khoa học Khảo Tiền sử
thuộc trường Viễn Đông Bác cổ đã đo chỉ số sọ trung
bình của người Việt là
82,13. Dung lượng sọ Việt là 1341,48 và tính
cách sọ Việt Brachycephal nhĩa
là Sọ tròn trong khi chỉ số
sọ của Hán tộc ở Hoa Bắc là 76,51 và thuộc loại sọ
dài có dung lượng sọ là
1440. Chỉ số sọ trung bình của dân Hoa Nam và Hoa
Đông là 81,22 và thuộc loại
sọ tròn. Theo khoa Nhân chủng học thì cư dân
Hoa Bắc và Hoa Nam là hai chủng
tộc khác nhau vì sọ của 2 nhóm cư dân
này cách biệt trên 2 chỉ số có nghĩa
là
thuộc 2 chủng khác nhau. Người Hoa Bắc có chỉ số sọ 76,56
gần gũi với sọ cổ
người Cam Túc tức người Hán cổ (76,70). Thực tế
này chứng tỏ người Hoa Bắc là
hậu duệ của người Cam Túc tức người Mông Cổ phối chủng với
người Nhục Chi ở Tây
vực. Sọ Hán tộc và sọ Việt
cách nhau hơn 5 chỉ số
(5,57) và giữa người Hoa Nam và Hoa Bắc tuy cũng gọi
là người Trung Quốc nhưng
rất khác biệt nhau vì chỉ số sọ cách nhau hơn 4
chỉ số (81-76,56=4,44). Như vậy
Hán tộc và Việt tộc thuộc 2 nhân chủng khác
nhau và sọ người Hoa Nam và Người
Việt cách biệt không quá 2 đơn vị nghĩa là
cùng một chủng tộc. Điều này chứng
tỏ Việt tộc hoàn toàn khác Hán tộc. Thực tế
mang tính khoa học đầy thuyết phục
này phản bác mọi quan niệm sai lầm từ trước đến nay. Chúng
ta
cũng
ghi
nhận
thêm
là
chỉ
số
sọ của người Hoa Đông tức địa
bàn xưa của Lạc bộ Trĩ mà cổ
sử Tàu gọi là Rợ Đông Di chính là
người Việt cổ 81,70 rất gần với chỉ số sọ của
người Việt Nam bây giờ 82,13. Mặt khác, chỉ số sọ trung
bình của người Hoa Nam
gốc Việt là 81 do đã lai giống với Hoa Bắc nhưng chỉ sai
biệt với chỉ số sọ
Việt Nam khoảng 1,13 chỉ số. Thực ra, người Hoa Nam chính
là người Việt cổ bị
thống trị đồng hóa suốt mấy nghìn năm nhưng vẫn bảo lưu
gene Việt cổ của mình.
Theo khoa Khảo Tiền sử thì cách đây
hơn 6
ngàn năm, khi mực nước biển rút dần thì từ cao
nguyên Côn Luân và Tây Tạng,
người Malaynesian tiến dần xuống Trung nguyên theo lưu vực 3 con
sông Hoàng Hà,
Dương Tử và Cửu Long. Nhánh Malaynesian từ thượng nguồn
sông Cửu Long và Dương
Tử tiến xuống định cư ở vùng lòng chảo đất đỏ ở Tứ
Xuyên và lòng chảo Dạ Lang.
Sách cổ “Kinh Thư” gọi vùng đất đỏ Basalte từ châu
Kinh sang tới Dạ lang, Tứ
Xuyên là XÍCH
QUI
PHƯƠNG. Theo truyền thuyết thì đây là
nhánh Thần Nông phương Nam
đi qua ngã Tứ Xuyên, đất bồi đến đâu, MalayViets tức
Bách Việt định cư tới đó.
Địa bàn cư trú của Bách Việt khắp Trung
Nguyên lên tới hạ lưu sông Hoàng Hà
mà
cổ sử TQ gọi là Rợ Đông Di tức Lạc bộ Trĩ của Việt tộc.
V. KẾT QỦA CẤU TRÚC DI TRUYỀN DNA VỀ NGUỒN GỐC VIỆT
Ngày nay, giới khoa học không chỉ nhìn
mọi
sự vật, giải thích mọi hiện tượng một cách khoa học
mà còn kiểm chứng lại tính
thuyết phục của những giả thuyết. Nhân loại đã bước
vào thiên niên kỷ thứ III
với những tiến bộ vượt bực trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt khoa Di
truyền học
với ”Phân tích chủng loại” di truyền DNA. Thế kỷ XIX, giới
khoa học đồng tình
với thuyết tiến hóa của Charles Darwin, chấp nhận giả thuyết
loài người đầu
tiên xuất hiện ở Đông Phi. Người ta cho rằng loài
người đầu tiên xuất hiện ở
Đông Phi rồi từ Phi Châu di
chuyển sang
các châu lục khác. Thế rồi hiện tượng đột biến di
truyền đã xảy ra do điều kiện
thích nghi với khí hậu, thổ nhưỡng nên đã
biến đổi thành những chủng tộc Âu Á
Phi có màu da, vóc dáng khác nhau.
Giới khoa học duy vật giải thích con người
là do người vượn tiến hóa dần theo thời gian để trở
thành con người hiện đại.
Từ định luật tiến hóa, lý thuyết duy vật cho rằng con
người chỉ là một động vật
cao cấp, không có linh hồn nên sinh ra, sống
và chết đi như một động vật vô
hồn, một con vật không hơn không kém.
Thực
tế đã chứng minh rằng hiện tượng đột biến di truyền đã
không lý giải được sự
khác biệt quá nhiều giữa các chủng tộc. Từ
đó, nhân loại phải được sinh ra từ
khởi thủy như muôn loài muôn vật khác hiện
hữu trên cõi đời này mà không phải
trải qua nhiều giai đoạn tiến hóa để rồi từ vượn mới
thành người. Mặt khác, lý
do đột biến di truyền không có giá trị thuyết phục
vì ngày nay, khoa
học đã xác
nhận trong cơ thể các loài vượn nhỏ hay đười ươi ở Trung
Phi và ở Đông Nam Á có
24 cặp nhiễm sắc thể trong khi loài người chỉ có 23 cặp
nhiễm sắc thể mà thôi.
Đặc biệt, trong những cặp nhiễm sắc thể ấy, chỉ có 5 cặp
là giống nhau còn hoàn
toàn khác nhau nên cho rằng do đột biến di truyền
là không thể chấp nhận.(8)
Thêm vào đó, khoa học gần đây đã chứng
minh rằng người thượng cổ và thái cổ
hoàn toàn khác với người hiện đại về vóc
dáng cơ thể cũng như trọng lượng của
bộ óc nên không có liên hệ gì
với “người vượn thái cổ và viễn cổ” cả. Vả chăng,
người vượn thượng cổ và viễn cổ đã hoàn
toàn tuyệt chủng và khoa Di truyền học
chứng minh “Người vượn thượng cổ và viễn cổ” tuyệt chủng
vì một lý do nào đó
nên khẳng định, họ không phải là tổ tiên của
nhân loại. Chính vì vậy, giả
thuyết tiến hóa có tính cách bao biện
nên không thể đứng vững về mặt lý luận
lẫn khoa học nữa.
Chính vì vậy, khi nghiên cứu lịch sử
nguồn
gốc dân tộc nói riêng và nhân loại
nói chung, chúng ta chỉ nghiên cứu từ thời
con người hiện đại Homo Sapiens sapiens mà thôi. Căn cứ
vào những kết quả khảo
cổ đã tìm thấy xương cốt của những người hiện đại ở nhiều
nơi khác nhau trên
thế giới như ở Comb Capelle nước Pháp xương cốt có
niên đại C14 là 34 ngàn năm.
Xương cốt tìm thấy ở Liban có niên đại C14
là 28.840 ± 380 năm, ở hang Tabon
Phi Luật Tân có niên đại 30.500 ± 1.100 năm,
ở hồ Menin Úc châu có niên đại 26.300
± 1.500 năm và hồ Ayre, hồ Mengo ở Úc có
niên đại 35.000 năm. Duy chỉ có một sọ
thiếu niên 15 tuổi được xem là cổ nhất được tìm
thấy ở hang Niah phía Bắc đảo
Kalimantan thuộc Indonesia có độ tuổi C14 là 39.600
± 1 ngàn năm. Từ thực tế
này, học giả W. Howells đã cho rằng trong khi ở Tây
Âu, có những dạng người cổ
còn đang chuyển biến để trở thành người hiện đại
thì ở Đông Nam Á, người hiện
đại Homo Sapiens sapiens đã thành hình. Vì vậy, nếu chấp nhận
thuyết một trung tâm thì trung tâm đầu
tiên, cái nôi của nhân loại chính
là ở Đông Nam Á(9). Vả chăng, giới
khảo cổ cũng đã
tìm thấy ở làng Mả Bá tỉnh Quảng Đông
giáp Bắc Việt Nam bây giờ một xương cốt
người gần với người hiện đại nhất của người Hoà Bình tức
người Tiền Việt
Hoabinhian-Protoviets.(10) Người Việt cổ thời Hùng
Vương có mặt trên
khắp Trung Nguyên, địa bàn của quốc gia Văn Lang cổ đại
xưa từ thời đá mới.
Những người Việt cổ này đa số có dạng đầu ngắn sọ
tròn. Đó chính
là sọ Malay-Viets tức cộng đồng Bách
Việt mà J. Needham gọi là liên đoàn
các dân tộc Việt hay cộng đồng huynh đệ
Bách Việt. Loại hình Malay-Viets hiện đại mà
các nhà nhân chủng gọi là loại
hình Nam Á là sự hợp chủng và tiến
hoá lâu dài. Đó chính là người
Việt hiện đại
và các dân tộc Đông Nam Á lục địa
và hải đảo.(11)
Năm
1998, giáo sư Chu và các đồng nghiệp ở Đại học
Texas đã phân tích 15-30 mẫu “Vi
vệ tinh” DNA (microsatelltes) để thử nghiệm sự khác biệt di
truyền trong 24
nhóm dân từ nhiều tỉnh khác nhau ở Trung Quốc, 4
nhóm dân vùng Đông Nam Á gồm 2
nhóm thổ dân châu Mỹ, một nhóm thổ dân
châu Úc và một thuộc thổ dân Tân
Guinea,
4 nhóm dân da trắng Caucasian và 3 nhóm
dân Phi Châu. Kết qủa của công trình
nghiên cứu bằng phương pháp phân tích thống
kê có tên là “Phân tích chủng
loại”
(Phylogetic Analysis). Nhà bác học Chu và 13 đồng
nghiệp khác tại các trường
đại học và viện nghiên cứu lớn nhất ở Trung Quốc đã
công bố một công trình
thành công về di truyền học mang tên “Genetic
Relationship of Population in
China” được đăng trong Tạp chí Hàn lâm viện Khoa
học Quốc gia của Hoa Kỳ như
sau:(12)
1.
Hai nhóm dân có sự
khác biệt rõ ràng nhất là Phi Châu
và các dân khác không thuộc Phi
Châu”.
2. Tổ tiên của các nhóm
dân Đông Á ngày nay có
nguồn gốc từ Đông Nam Á và Người Trung Quốc ở
phía Bắc TQ có cấu trúc di truyền
khác với người Trung Quốc ở phía Nam TQ”.
Năm 2001, giáo sư Lâm Mã Lý một
nhà di truyền học công bố kết quả nghiên cứu
trên tạp chí khoa học “Hệ thống
miễn nhiễm Human Leucocytes Antigen HLA ở nhiễm sắc thể 6 (chromosoms
qua máu
dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu
máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ
hoạt động quốc tế về HLA năm 1998”, giáo sư Lý kết luận: “Người
Mân Nam Hoklo và Hakka rất gần vói người Việt,
Thái và các tộc người Mongoloid
Nam Á. Người Đài Loan thuộc dân tộc Mân Việt
trong đại chủng Bách Việt hoàn
toàn khác với Hán tộc”. Công
trình
nghiên
cứu
khác
về
nguồn
gốc
chủng tộc dựa
vào gen di truyền
(DNA) của M. Liu thuộc Mackay Memorial hospital và được Viện
Nghiên Cứu Sức
Khoẻ quốc gia của Đài Loan tài trợ đã chứng minh
là: “ các
giống dân
miền Hoa Nam, Việt Nam, Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương
có liên hệ gen di truyền
khác biệt với chủng tộc Hán ở miền Bắc”.
Các nhà khoa học của Viện Pháp
Á gồm bác
sĩ Trần Đại Sỹ, giáo sư Tarentino người Ý và
giáo sư sinh vật học người Pháp
Varcilla Pascale đã ứng dụng hệ thống DNA là hệ thống
sinh học mới nhất cho
chúng ta kết quả có tính thuyết phục nhất.
Các nhà khoa học đã khảo sát y phục,
mồ mả, răng xương trong các ngôi mộ cổ qua các thời
đại cho đến hết thế kỷ thứ
nhất. Sau đó dùng hệ thống DNA kiểm những bộ xương, đồng
thời kiểm máu của 35
dòng họ tại Hoa Nam và Việt Nam rồi so sánh với
những dòng họ khác tại Hoa Bắc
đã kết luận:
1. Cư dân Hoa Nam, từ miền Nam Trường Giang xuống tới
miền Trung Việt Nam, Lào, Thái đều có cùng
một huyết thống, một chủng tộc.
2. Cư dân này hoàn toàn
khác biệt với cư dân Hán ở Hoa
Bắc. Kết quả của những công
trình khoa
học có ý nghĩa lịch sử đã xác định
vùng Đông Nam Á trải dài từ lưu vực
sông
Dương Tử xuống tới lưu vực sông Hồng, sông Cửu Long
mà đồng bằng châu thổ sông
Hồng là trung tâm nơi phát tích của nền văn
minh Hòa Bình của cư dân Malaysian.(13)
Từ cơ sở khoa học này đối chiếu với nguồn
sử liệu của thư tịch cổ Trung Quốc, chúng ta có quyền
khẳng định rằng Malaysian
chính là người Việt cổ. Sách sử cổ Trung Quốc
chép về các quốc gia Bách Việt ở
khắp Trung nguyên từ cao nguyên Malaya tiến xuống đồng bằng lưu vực các con sông Hoàng
Hà, Dương Tử, Cửu
Long và Hồng Hà mà J Needham gọi là cộng
đồng Bách Việt (Malay-Viets). Công
trình nghiên cứu Đại Dương với nạn biển tiến đã
khiến cư dân Hòa Bình phải di
chuyển lên vùng cao nguyên Malaya nên người
Hoà Bình Hoabinhian chính là người
Tiền Việt Protoviets, tổ tiên xa xưa của đại chủng Bách
Việt. Như vậy, người
Việt Nam hiện đại phát tích từ Bắc Việt Nam, thuộc đại
chủng Hoabinhian
(Proto-viets)=> Malaysian=> Malay-Viets tức Bách Việt
có chỉ số sọ trung
bình là 82,25 thuộc loại sọ tròn, có dung
lượng sọ 1341,48 hoàn toàn khác biệt
với Hán tộc có chỉ số sọ là 77,82 và dung
lượng sọ là1440 và thuộc loại sọ dài.
Đặc biệt, các công trình nghiên
cứu mới
nhất của các nhà nhân chủng về cội nguồn
phát tích của cư dân vùng Đông Nam
Á
đã làm sáng tỏ một sự thật lịch sử là tất
cả cư dân Đông Nam Á đều có chung một
cội nguồn chủng tộc. Giáo sư Douglas C. Wallace ở đại học Emory,
Atlanta và
Georgia đã phát hiện một đột biến di truyền đặc biệt cho
lục địa châu Á. Đó là sự
thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII và
tRNALYS(9bp
deletion beetween the COII/tRNALYS genes(14). Nhà nhân chủng học Tréjaut
đã nghiên cứu về
thổ dân Đài Loan, dân Đông Nam Á
và dân Đa Đảo.(15) đã công bố một
sự thật làm đảo lộn mọi nhân định từ trước đến nay về vấn
để này:
1. Thổ dân
Đài
Loan đã định cư trên 15 ngàn năm.
2. Thổ dân
Đài
Loan cũng trải qua 3 lần đột biến đặc biệt như dân Mã Lai,
dân Đa Đảo mà dân
Tầu ở Trung Hoa lục địa không có 3 lần đột biến này.
3. Yếu tố mtDNA
B có ở vùng Đông và Đông Nam Eurasia,
thổ dân châu Mỹ và dân Đa Đảo.
4.
Nhà
nhân
chủng
Melton
và
Redd
tìm
thấy cư
dân Đa Đảo có một tỷ lệ cao về sự thất thoát của
cặp căn bản số 9 ở hai thể di
truyền COII/ tRNA.
Tạp chí Science Progress đã công bố
kết
qủa xác định thổ dân Đông Nam Á, thổ
dân Đa Đảo và thổ dân châu Mỹ có
cùng một
ngọn nguồn phát tích, cùng chung một nền văn
hoá Lapita (1500-800TC) với đồ gốm
thẩm mỹ độc đáo.(16) Hiện
ở
Trung
tâm
văn
hoá
Đa
Đảo
ở
Hawai còn trưng
bày một mẫu thuyền độc mộc đục khoét
bọng cây làm thuyền di chuyển, khi ra biển thì
ghép 2 thuyền độc mộc lại tạo
thế thăng bằng trên mặt biển…
Hàn Lâm viện Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ
công
bố công trình của các nhà nhân chủng
thuộc đại học Durham và Oxford Anh Quốc
nghiên cứu mtDNA của heo và dạng răng heo trên
toàn vùng Đông Nam Á lục địa và
hải đảo đã đi tới kết luận:
“Nghiên cứu mới về
DNA của heo đã viết lại lịch sử di dân khắp vùng
Thái Bình Dương và người Việt
cổ (Bách Việt) là cư dân đầu tiên định cư
trên các hải đảo Đông Nam Á rồi tới
New Guinea, Hawai và Polynesia thuộc Pháp. Họ mang theo
kỹ thuật làm thuyền độc
mộc. Nhà nhân chủng Ballinger và đồng nghiệp
đã nghiên cứu mtDNA của 7 dân tộc
Đông Nam Á đã kết luận thuộc chủng Mongoloid phương
Nam mà Việt Nam là trung
tâm của mtDNA từ đó lan toả ra khắp vùng
Thái Bình Dương”.(17)
Công trình
nghiên cứu mã Di truyền mitochondrial của các
nhà nhân chủng học Hoa Kỳ, Anh
Quốc, Âu Châu, Trung Quốc, Thái Lan, Nam Dương
và nhiều nước khác trên thế giới
đã cho chúng ta kết quả như sau:
1. Việt
Nam:
-
Haplogroups
chính gồm A, B, C, D.
- Không có cặp căn bản số 9
giữa 2 thể di truyền COII/ tRNA.LYS
gọi là “Đột biến đặc biệt Á Châu= “9bp
deletation bettwe en CO I I tRNA LYS
genes”, bp= base pair).
2. Tàu
Hoa Bắc (Northern Han Chinese)
-
Haplogroups: A, C, D,
G, M 8aY và Z.(Tàu Hoa Bắc
có tỷ lệ 55% và Tàu Hoa Nam chỉ có 36%).
- Không có đột biến đặc biệt
Á châu.
3. Thổ
dân Miền Nam (Hoa Nam Southern Natives):
-
Haplogroups:
B,
F,
R
9a, N 9a
(Tàu Hoa Nam có tỷ lệ 55%).
4.
Thái
Lan:
- Haplogroups:
B
- Thất
thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS.
5. Thổ
dân Miền Nam (Southern East Asia) gồm dân Miến Điện,
Hmong-Miên:
- Haplogroups:
B,
F,
M7 và R.
- Thất
thoát cặp căn
bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS.
6. Thổ dân Đa Đảo (Polynesian):
-
Haplogroups:
B (90%).
-
Thất
thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS.
7. Cư
dân Đông Nam Á (Southern East Asia):
-
Halogroups: B
- Thất
thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS.
8. Thổ dân Maya ở Trung
Mỹ và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ:
- Haplogroups: A, B, C
và D.
- Không
có cặp căn bản
số 9 giữa 2 thể di truyền COII /tRNALYS.(18)
Nhà nhân
chủng Anne C. Stone và Mark Stoneking nghiên cứu mt DNA
của dân tiền sử Oneta
rồi so sánh với mt DNA của thổ dân châu Mỹ trước khi
Columbus khám phá ra tân
lục
địa
và
thổ
dân
châu
Mỹ
hiện tại cho thấy
có 4 Haplogroups chính
là A, B, C và D.(19) Đặc biệt,
thổ dân châu Mỹ cũng không có cặp căn bản số 9
giữa 2 thể di truyền COII/tRNALYS.
Nhà nhân chủng S.W. Ballinger và các đồng
nghiệp đã phân tích mt DNA của cư dân
Đông Nam Á và thổ dân châu Mỹ đã
xác định lộ trình di dân của Bách Việt xuống
Đông Nam Á rồi sang châu Mỹ.(20) Như vậy, cư dân
Hoà Binh Hoabinhian
đã phải thiên cư mỗi khi có nạn biển tiến mà
3 lần biển tiến cách đây khoảng 14
ngàn năm, 11.500 năm và 8.500 năm theo 2 hướng sau.
- Một nhánh theo
hướng Đông Bắc qua
cầu đất Béring vào Mỹ châu do
nạn
biển
tiến
cách
đây
khoảng
13.500
năm
rồi trở thành thổ
dân Bắc Mỹ.
-
Nhánh
khác
theo
hướng
Nam
xuống
bán
đảo
Mallacca Mã Lai Malaysia) rồi vượt biển tới các hoang đảo
sau này có tên là Nam
Dương Indonesia, Phi Luật Tân (Philippine), Hawai, Đa Đảo, New
Zealand rồi sang
tới California, Trung Mỹ và Nam Mỹ.(21)
V. ĐẠI DƯƠNG HỌC VÀ NGUỒN GỐC DÂN TỘC
Công trình nghiên cứu mới đây về
Đại dương học của
Stephen Oppenheimer “Thiên đàng ở phương Đông, lục
địa bị chìm đắm ở Đông Nam
Á” đã làm sáng tỏ bao khúc mắc từ
ngàn xưa về nguồn gốc của tộc Việt. Theo Học
giả Stephen Oppenheimer thì khoa học nghiên cứu Đại dương
ghi nhận 3 lần biển
tiến cách nay khoảng 14 ngàn năm, 11.500 năm và
8.500 năm. Mỗi lần biển tiến,
cư dân Hòa Bình Hoabinhian phải di chuyển lên
vùng đất cao theo 2 hướng Tây Bắc
và Đông Bắc. Nạn biển tiến gần đây nhất là
8.500 nãm đã nhận chìm nền văn minh
Đông Nam Á cổ đại.(22)
Lục địa Đông Nam Á thời cổ đại bao gồm cả
2 đại lục: Đại lục SUNDALAND gồm lưu vực sông Cửu Long trải
dài xuống Nam Dương
và đại lục NANHAILAND bao gồm lưu vực sông Hồng kéo
dài đến đảo Hải Nam ngày
nay. Lúc đó, vịnh Bắc Việt và vịnh Thái Lan
bây giờ là 2 vùng đồng bằng trũng.
Khi mực nước biển dâng cao đột ngột đợt cao nhất lên tới
150 mét gây kinh hoàng
cho cả nhân loại. Hiện
tượng nước biển dâng cao này còn để lại ấn
tích trong
“Kinh Thánh” về nạn đại hồng thuỷ năm xưa và truyền
thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh
trong kho tàng cổ tích Việt. Khoa Đại Dương
học và khảo cổ học đã
chứng minh rằng người cổ Hoà Bình Hoabinhian do nạn biển
tiến cách nay khoảng
8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao
Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng
Tây Bắc
và Đông Bắc vùng Ngũ Lĩnh. Khi mực nước biển
dâng lên cao, cư dân khắp các nơi
dồn về vùng cao nên đã tập trung nhiều nền văn
hóa với những phát kiến để hình
thành nền văn hóa Hòa Bình, một nền văn
hóa cổ đại tinh hoa của nhân loại. Mực
nước dâng cao dần khiến cư dân Protoviets (Hoabinhian) ở
lưu vực 2 con sông lớn
là sông Hồng và sông Cửu Long phài
thiên cư theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn
nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp sơn
và Côn Luân, nhánh khác tiến theo
hướng
Đông Bắc lên định cư ở Phúc Kiến, Triết Giang, Sơn
Đông TQ bây giờ. Họ mang theo
đặc trưng của văn hoá Hoà Bình
lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng
núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn
Malaya và cổ nhất là Côn Luân (Kunlun) ở
Tây Bắc và vùng núi cao Thái Sơn ở
Sơn
Đông.
Ngay từ năm 1937, nhà nghiên cứu Heine
Geldern đã tìm thấy nhiều liên hệ trực tiếp giữa
các cư dân quần đảo Marquesas
và vùng Đông Nam Á khoảng 660TDL. Geldern
cho rằng người Việt vùng Nam Trung
Quốc có thể đã đi bằng đường biển tới Tân Tây
Lan vào khoảng thế kỷ thứ III TDL
vì người Maori có những nghệ thuật giống hệt người Hoa
Nam tức là những người
Việt cổ cư trú ở miền Nam Trung Quốc. Nhà nghiên
cứu Robert Heine Geldern xác
nhận rất nhiều mối liên hệ văn hóa giữa Mỹ Châu
và bờ biển Á Đông trong đó chịu
ảnh hưởng rõ rệt của văn hóa Đông Sơn Việt Nam.
William Meacham nhận định rằng người Việt
cổ sống ở vùng sông nước và ven duyên hải
nên giỏi đi thuyền, khoa khảo cổ học
cũng tìm thấy nhiều dụng cụ đánh bắt cá như
dây câu, lưới bắt cá, thuyền độc
mộc. Đặc biệt, khi mực nước biển rút dần nhưng vẫn cao hơn
lúc trước, tạo thành
biển cả khiến nhiều nhóm cư dân phải sống trên
các hải đảo ngăn cách với lục
địa như Đài Loan với duyên hải TQ, Hải Nam với Bắc Việt
Nam, Philippines,
Malaysia với Nam Dương quần đảo, Pâques. Sự cần thiết liên
lạc đã khiến họ tìm
ra những phát minh như cánh buồm, những bánh
lái để đi biển khỏi bị giạt ra
ngoài biển khơi. Để xác định phương hướng, người Việt cổ
đã phát minh ra hải
bàn cũng như kỹ thuật hàng hải sớm nhất thế giới
mà các nhà nghiên cứu gọi là
văn minh biển của người Việt cổ Yueh. Học
giả Carl Sauer sau khi nghiên cứu phân
tich những biến chuyển về địa
lý của biển Đông đã kết luận: “Biển Đông với hai vụ gió mùa hàng
năm đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển các ngàng nông nghiệp, ngư nghiệp
và hàng hải. Chính vì vậy, nghề
đánh bắt cá cùng với kỹ thuật hàng hải
đã đóng góp quan trọng trong tiến trình
văn minh Đông Nam Á thời cổ”.(23))
Theo học giả Wilheim G. Soheim thì cách
đây 6 ngàn năm khi nước biển rút dần chia cắt cư
dân giữa lục địa với các hải
đảo, cư dân Đông Nam Á đã mạo hiểm ra khơi để
liên hệ với cư dân ở ngoài hải
đảo. Gió bão và hải lưu của biển đông
đã cuốn trôi một số người đến Nhật Bản,
nhóm khác thì bị giạt sang quần đảo Phillippine,
Indonesia và Melanesia. Từ đó,
họ lại mang theo đặc trưng của văn hóa Hòa Bình
sang các đảo ngoài khơi Thái
Bình Dương và sang Madagascar thuộc Bắc Phi Châu.
Biển Đông của Đông Nam Á thời
cổ còn là nơi phát sinh các con đường
hàng hải giao tiếp với các nơi ven biển
châu Á, châu Âu, châu Phi và
châu Đại Dương và cả châu Mỹ nữa. Vùng
Đông
Nam
Á
giữ
vai
trò
tỏa
ra
phân tán đi
các nơi như trục của cái bánh xe tỏa
nan hoa đi khắp nơi, đó chính là lý do tại
sao cư dân ở các nơi trên thế giới
lại có nhưng điểm giống nhau trong sinh hoạt văn hóa
xã hội.
Trước đó, nhà
ngôn ngữ học Pháp Paul Rivet đã
dày công nghiên cứu và kết luận rằng “Từ vùng
Đông Nam châu
Á một thứ ngôn ngữ đã được truyền bá đến
Nhật Bản, Tamania, Địa Trung hải, châu
Phi và châu Mỹ”. Nhà nghiên
cứu Charles F Keyes cho rằng Việt
Nam là nơi phát khởi nền văn minh Hòa Bình
trải rộng khắp Đông Nam Á: “Văn hóa thời Tiền sử của
toàn vùng Đông Nam
Á được chia ra làm nhiều giai đoạn được đặt tên từ
những địa danh như Hòa Bình,
Bắc Sơn, Đông Sơn đều nằm trong lãnh thổ Việt Nam. Thời
đại đồ đồng xuất hiện
khoảng từ 3.000 đến 2.500 năm TDL ở Đông Nam Á, nghĩa
là khởi sự sớm hơn Trung
Hoa và Ấn Độ. Biểu tượng chính của nền văn minh
này là những trống đồng tìm
thấy ở nhiều nơi xa xăm như Sulawesi thuộc Nam Dương quần đảo Những
trống đồng
này được đúc tại vùng đất nhỏ hẹp Đông Sơn
của Việt Nam, từ đó trống được phân
phối đi khắp Đông Nam Á theo đường biển”.
Nhà nghiên cứu Chester
Norman nhận định rằng nền văn minh Hòa Bình thành
hình trong thời gian thềm lục
địa Sundaland và Nanhailand bị ngập lụt. Từ nhiều ngàn
năm trước, cư dân Hòa
Bình thời nguyên thủy chỉ biết sống bằng săn bắn
hái lượm rồi dần dần trồng
trọt ruộng khô trong những vùng thung lũng. Khi mực nước
biển dâng cao khiến
dân cư tụ lại vùng cao ngày một đông, sự
thiếu hụt lương thực khiến cư dân Hòa
Bình nảy sinh những phát kiến quan trọng, đó
là sự ra đời các giống cây cho
hạt, những loại ngũ cốc thuần hóa thích hợp để cấy ruộng
nước. Đây là chuyển
biến quan trọng mang tính đột phá của nền văn minh
Hòa Bình cổ nhất của nhân
loại.
Theo học giả J. Needham thì sau nạn biển
tiến, Hoabinhian-Protoviets đã mang theo 25 đặc trưng văn
hoá, những phát minh
quan trọng như nghề trồng lúa nước, thiên văn, kỹ thuật
hàng hải, xây cất các
đô thị lên địa bàn cư trú mới ở Trung
nguyên Trung Quốc và đến các nơi khác để
hình thành những nền văn minh cổ đại trên thế giới
như Trung Đông, Ấn Độ và
Trung Hoa gồm: Cách làm quần áo bằng vỏ cây,
Tục xâm mình, Đốt rừng làm rẫy, Kỹ
thuật làm nương rẫy, Kỹ thuật đào mương dẫn nước
vào ruộng, Kỹ thuật thuần hoá
trâu để cày bừa, Văn minh trồng lúa nước, Đặc điểm
ngôi nhà làng để tụ họp sinh
hoạt, Kỹ thuật trồng tre và sử dụng dụng cụ bằng tre, Đặc
thù về giống chó đã
được thuần hoá, Kỹ thuật làm tranh sơn mài, Văn
hoá biển và sông nước, Kỹ thuật
đóng thuyền tàu dài, Tục đua thuyền trong
các lễ hội, Huyền thoại về con Rồng,
Tôn thờ loài Rồng này, Tục thờ cúng
ông bà Tiên tổ, Tục giết heo để cúng
bái,
Tục cầu cúng để có con nối dõi tông đường,
Hội mùa Xuân, mùa Thu trai gái lập
gia đình, Tục linh thiêng hoá ngọn núi, Văn
minh Trống đồng, Kỹ thuật đúc
sắt, Kỹ thuật dùng nỏ bắn
tên, Kỹ thuật
làm khí giới, mũi tên có tẩm thuốc độc.
VI. KẾT LUẬN
Qua những công trình nghiên cứu khoa
học
thuyết phục nói trên cho phép chúng ta kết
luận như sau:
1. Niên đại của truyền thuyết về Thần Nông
vào thiên niên
kỷ thứ IV TDL hoàn toàn phù hợp với niên đại
khảo cổ và kết quả đo chỉ số sọ
của các nhà Khảo Tiền Sử về chủng Indonesian (Malaysian). Theo
các nhà Tiền Sử học thì Malay-Viets tức
Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên
cách đây ít nhất là 6 ngàn năm.
Công trình nghiên cứu sử học của học giả Shi
Shi người Trung Quốc thì người U Việt (GU-YUE) đã
làm chủ biển cả cách đây hơn
7 ngàn năm. Đặc biệt, Truyền thuyết
kể
lại rằng bố Lạc dẫn 50 con về “Thủy Phủ”, trước đây chúng
ta cho là huyền hoặc
thế nhưng địa danh thủy phủ đã được 2 học gỉa người Pháp
là P Gouron và J
Loubet tìm ra, đó chính là cảng
Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ
xuyên được in
trên bản đồ Atlas 1949. Sự thật lịch
sử
này đã được chính nguồn sách sử cổ Trung
Hoa xác nhận khi chép về cộng đồng Bách
Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử của huyền thoại mà ta
cứ tưởng là huyền
hoặc hoang đường.
2. Mặt khác, chính thư tịch cổ Trung Quốc
đã thừa nhận
một thực tế lịch sử đó là sự thành lập của
các quốc gia thời Chiến quốc mà họ
gọi là Bách Việt ở vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt
(còn gọi là
Vu Việt) của Việt Vương Câu Tiễn không chỉ ở Triết Giang
mà lên tới miền Giang
Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt cổ nổi
tiếng của chi Dương Việt
mà
kinh đô là Cối Kê. Lý Tế Xuyên
đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt cổ xưa. Mân Việt ở
Phúc Kiến, Dương Việt ở
Giang Tây, Điền Việt ở
Vân Nam, Quì Việt
ở
Tứ Xuyên, Nam Việt ở
Quảng Đông, Âu Việt
còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây, Lạc
Việt ở Quảng Tây và Bắc VN.
Chính sách sử cổ Trung Quốc ghi rõ cộng đồng
Bách
Việt cư trú khắp trung nguyên, thế mà sử quan triều
Thanh Tiền Hy Tộ đã bóp méo
ý nghĩa và sửa lại niên hiệu thành lập nước
Văn lang như sau: “Đến đời Chu Trang Vương (696-682TDL) ở
bộ
Gia Ninh có người lạ dung ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương,
đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong
tục thuần hậu, chất phác.
Chính sự dung lối thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi
là Hùng Vương …”. Các
nhà sử học Mác Xít đã viết sử rập
khuôn sử quan triều Thanh theo nghị quyết của
đảng CSVN về sự thành lập nước Văn Lang trong bộ Lịch sử Việt
Nam của Nhà nước
Cộng Hòa XHCN Việt Nam như sau: “Sự ra
đời của nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời
Hùng Vương và Âu Lạc đời An
dương Vương vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên
niên kỷ thứ I trước công nguyên…
Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn lang và nhất là căn cứ
vào quá trình chuyển hoá
lịch sử nước Văn lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời
An Dương Vương, rồi
đến 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc
Hán, có thể xác định
địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc
Trung bộ nước ta ngày
nay và một phần phiá Nam tỉnh Quảng Đông, Quảng
Tây của Trung Quốc”. (24)
3. Kết quả các công trình khảo cổ cho
phép chúng ta kết
luận là nhà nước Văn Lang đã thành
hình từ lâu. Khoa Khảo cổ
cho biết rằng người Việt cổ thời Phùng Nguyên đã
chế tác nhiều vật đồ đá, đồ
xương và một ít đồ đồng như rìu, đục, giáo,
lao, qua, mũi tên, mũi nhọn, mũi
khoan, chì lưới, bàn mài, bàn dập gốm. Căn
cứ trên những đồ gốm, đồ đồng thuộc
nền văn hoá Hoà Bình, Đông Sơn được
thám quật ở Bắc Thái và Hạ Lào đã
xác định
bằng phương pháp vật lý phóng xạ C14 có
niên đại khoảng 3.000 năm TDL nghĩa là
cách đây 5.000 năm.
Như vậy, niên đại thành lập nước Văn Lang vào
thiên niên
kỷ thứ III TDL hoàn toàn phù hợp với mốc truyền
thuyết là năm 2879 TDL vào giai
đoạn đầu thời đại đồ đồng của cộng đồng Bách Việt với nghề
nông trồng lúa nước,
và nghề luyện kim đồng đã tìm thấy khắp nơi, từ
Nam Trung Hoa Thái Lan đến toàn
bộ vùng Đông Nam Á lục địa và
hải đảo.
4. Năm 1962, G Coedès nguyên Giám Đốc
Trường Viễn Đông
Bác Cổ công bố kết quả công trình khảo Tiền
sử đã minh chứng những gì truyền
thuyết kể lại là một sự thật với những kết
qủa của những công trình
khảo tiền sử trên toàn cõi Á Đông của
hàng trăm nhà bác học Khảo cổ, Nhân chủng
và Địa chất học. Những nhà bác học này
đã đào bới khắp nơi từ Nhật Bản, Hàn
quốc (Triều Tiên) tới Tây vực và từ Tây
Bá Lợi Á xuống tới quần đảo Nam Á trong
hàng chục năm trời đã tìm kiếm các di chỉ
khảo cổ, khai quật những lớp sọ nằm
dưới của cư dân đến trước, cư dân đến sau nằm ở trên.
Sau khi đo chỉ số sọ và
dung lượng sọ đã vẽ lại lộ trình di cư từ cao
nguyên Hi Mã Lạp Sơn Himalaya
xuống lưu vực các con sông lớn Hoàng Hà,
Dương Tử và Cửu Long, đồng thời xác
định ngọn nguồn gốc tích chủng tộc đó. Các
nhà Khảo Tiền sử đã kết luận: “Tất cả các cư dân Nam
Á từ Nam Ấn, Môn,
Tạng, Miến, Thái, Lào, Miên, Mã Lai, Nam
Dương, Célèbres, Việt Nam kể cả đồng
bào thiểu số thượng du Bắc Việt đều có cùng một
gốc cổ Malaya gọi là Indonesian
(chúng tôi gọi là Malaysian chính là
cộng đồng Bách Việt MalayViets) là những
cư dân Nam Á có chung một chỉ số sọ trung
bình là 81,42 và dung lượng sọ có
tính cách sọ tròn khác hẳn với các
chủng tộc trong vùng”.(25)
Tất cả chứng cứ khoa học cho phép chúng ta
kết luận là giai đoạn đầu thời đại đồ đồng khoảng thiên
niên kỷ thứ III TDL
hoàn toàn phù hợp với niên đại truyền thuyết
là 2879 TDL. Đây chính là thời
điểm Việt tộc đã nung chảy xã hội nguyên thủy để
thành lập một xã hội định chế
hoá của quốc gia Văn Lang. Thật vậy, kết quả của những
phân tích bằng phóng xạ
carbon C14 than tro ở Đồng Dậu cho biết cộng đồng dân cư với nền
văn hoá Phùng
Nguyên cách đây ít nhất là 3.500 năm.
Điều này có nghĩa là họ đã có một
cuộc
sống ổn định đi vào tổ chức thiết chế xã hội với
hình thức nhà nước Văn Lang.
Sự xác định của niên đại khảo cổ là khoảng
thiên niên kỷ thứ III TDL hoàn toàn
phù hợp với niên đại thư tịch để chứng minh sự ra đời của
nhà nước Văn Lang ít
nhất là 3.000 năm TDL chứ không phải vào thế kỷ thứ
VII TDL như Đại Việt sử
lược đã bị sử quan triều Thanh, Tiền Hi Tộ sửa đổi sự thật lịch
sử.
5. Từ truyền thuyết cũng như căn cứ vào các
Thần tích và
Tộc phả được phối kiểm bởi khoa Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Chủng tộc
học, Cổ
nhân học, Dân tộc và Ngôn ngữ học được kiểm
chứng bởi kết quả phân tích cấu
trúc phân tử di truyền DNA của các tộc người trong
vùng cho phép chúng ta xác
định tính hiện thực của Huyền Thoại Rồng Tiên với cộng
đồng Bách Việt
(MalayViets). Kết quả của
khoa Phân tích Di truyền hoàn toàn
phù hợp
với thư tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo
tiền sử kể cả
truyền thuyết Rồng Tiên về thời kỳ dựng nước của Việt tộc
là một sự thật lịch
sử. Luận chứng khoa học mới nhất có tính thuyết phục
nhất, một lần nữa khẳng
định tộc Việt và Hán tộc là 2 tộc người
khác nhau. Việt tộc có yếu tố đột biến
di truyền đặc biệt của châu Á trong khi Hán tộc
không có yếu tố này. Đồng thời
xác định địa bàn cư trú của tộc người Malaysian
tức MalayViets (Bách Việt) trải
dài từ rặng Tần Lĩnh ở Trung nguyên trải dài xuống
tận vùng Đông Nam Á lục địa
và hải đảo. Địa
bàn
cư
trú
của
Việt
tộc
phía
Bắc
tới lưu vực phía Nam
sông Hoàng Hà, lưu, phía
Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải,
Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là
cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc Việt. Địa bàn cư trú
của Việt tộc phía Bắc tới lưu vực 2 con sông Hoàng
Hà và Dương Tử (Trường
Giang), phía Tây giáp Tây Tạng, Đông
giáp Nam Hải, Nam xuống tận Bắc Trung
Việt, chính là cương giới của nước Văn Lang xưa của tộc
Việt.
Sau cùng là Khoa Đại Dương học và
khảo cổ
học đã chứng minh rằng người cổ Hoà Bình
Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay
khoảng 8.500 năm đã tiến lên vùng núi cao
Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên hướng
Tây Bắc và Đông Bắc vùng Ngũ Lĩnh. Khi mực
nước biển dâng lên cao, cư dân khắp
các nơi dồn về vùng cao nên đã tập trung
nhiều nền văn hóa với những phát kiến
để hình thành nền văn hóa Hòa Bình,
một nền văn hóa cổ đại tinh hoa của nhân
loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân Hoabinhian
mà chúng tôi cho là những
người Tiền-Việt Protoviets ở lưu vực 2
con sông lớn là sông Hồng và sông Cửu
Long phài thiên cư theo hướng Tây Bắc lên
miền cao sơn nguyên giữa 2 dãy núi Hi Mã Lạp
sơn và Côn Luân, nhánh khác tiến
theo hướng Đông Bắc lên định cư ở Phúc Kiến, Triết
Giang, Sơn Đông TQ bây giờ. Họ
mang theo đặc trưng của văn hoá Hoà Bình
lên địa bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng
núi cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và
cổ nhất là Côn Luân ở Tây Bắc và
vùng núi cao Thái Sơn ở Sơn Đông.
Khi mực nước biển hạ xuống, những vùng
biển nước mênh mông nước rút dần để lộ ra những
vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Tiền
nhân chúng ta đã từ vùng cao nguyên Hi
Mã Lạp sơn tiến xuống vùng đồng bằng,
nước rút đến đâu từng đoàn người tiến tới đó
để lập làng định cư khai phá đất
đai. Chính sự kiện tiến về vùng sông nước
này được truyền thuyết diễn tả qua
việc mẹ Âu cùng 50 con ở lại vùng
cao, Bố Lạc dẫn 50 con xuống “Thủy Phủ” miền sông nước. Hai Thạc
sĩ sử địa
người Pháp là J Loubet và P Gouron đã
tìm ra địa danh Thủy Phủ chính là cảng
Thành Đô tỉnh Tứ Xuyên Phủ Trung Khánh TQ
bây giờ.
Truyền
thuyết
khởi nguyên của dân tộc mới đầu tưởng là hoang đường
huyền hoặc ngày nay đã trở
thành hiện thực, một sự thật lịch sử sau khi đã được thư
tịch cổ Trung Hoa,
Khoa Khảo cổ học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử và
phân tích cấu trúc mã di
truyền xác định. Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của
nhân loại, một sự thật
khách quan của lịch sử được phục hồi làm đảo lộn tất cả
nhận thức từ trước tới
nay về chủng tộc, nền văn minh nhân loại. Đó là
luận chứng khoa học mới nhất về
DNA có tính thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc
Việt và Hán tộc là 2
tộc người khác nhau và Việt tộc là một đại chủng
mà địa bàn cư trú trải rộng từ
châu Á sang tới châu Mỹ với nền văn minh Hòa
Bình tỏa rạng khắp thế giới.
CHÚ
THÍCH
1.
Đại Việt Sử Lược tác gỉa khuyết danh, Bản dịch của Trần Quốc
Vương, NXB Thuận
Hoá 2001, tr 17.
2. Nhiêu Tông Hiến: Từ Nha
chương Bàn qua di vật đất Hán truyền vào Việt Nam)
trong Văn hoá Cổ Nam Trung
Quốc và vùng phụ cận, NXB Đại học Trung Hoa, Hồng
Kông 1994, tr 2.
3. Dr Nguyễn Đệ & Dr Trần thị Nhung :
Mitochondrial DNA và Nguồn gốc Việt Nam, trung Hoa và
Maya.(Giai phẩm Xuân Kỷ
Sửu, Hội Y Nha Dược sĩ Florida 2009 tr 98.
4. Trần Quốc Vượng: Những hằng số cùng sự
thăng
trầm của văn hoá lịch sử Đông Nam Á, Kỷ yếu Hội
nghị Khoa học Đông Nam Á lần
thứ nhất.
5.
Andréas
Lommel:
Prehistoric“
In
the
South
there
were
a number of agratian cultures, of
which
the Thai was the most powerful, becoming of most importance to the
later
China…”.
6. Viễn Đông
Bác Cổ ( École Francaise d’Extrême Orient B.E.F.O)
Hà Nội 1868.
7.
W.G.Solheim
II:
New
Light
on
a
forgotten
Past,
National Geographc Vol.139, No 3, 1971.
Reflection on the new data of Southeast
Asia prehistory: Autronesian origins and consequence.A.P.18: 146-160.
1979a:
New data on late Southeast Asia prehistory and their
interpretation,
JHKAS
8:73-87.
Wilhelm
G. Solheim H. Ph. D, đăng ở tạp chí
National Geographic Vol 139
n. 3
tháng 3 – 1971, dưới nhan đề “New light on Forgotten
Past”:“Tôi đồng ý với
Sauer rằng sự thuần thục các thứ cây ở thế giới đã
là công trình của nhân dân
thuộc văn hóa Hòa bình ở nột địa điểm Đông
Nam Á. Tôi không thấy ngạc nhiên nếu
sự kiện bắt đầu sớm nhất từ 15.000 năm trước Dương lịch.
“Tôi nghĩ rằng những đồ
đá sắc
cạnh có sớm nhất tìm thấy ở miền Bắc châu Úc
20.000 năm trước dương lịch nguyên
lai thuộc Hòa bình. Người ta hiện biết rằng đồ gốm sớm
nhất là thấy ở Nhật bản
khoảng 10.000 tr. T.c. Tôi mong rằng khi nào có
nhiều phát hiện về văn minh Hòa
bình với đồ gốm có dâu dây thừng được qui
định thời đại tính, bấy giờ chúng ta
sẽ thấy loại đồ gốm ấy là do dân ở Hòa bình
chế tạo vào trước 10.000 tr. T.c. Thuyết
tập truyền cho rằng tiền sử Đông Nam Á đã di chuyển
từ phương Bắc xuống, mang
theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy rằng văn
hóa Nguyên
tân thạch hệ (Proro-Neolithic) phía Bắc Trung hoa gọi
là văn minh Yang-shao đã
do trình độ thấp văn hóa Hòa bình
phát triển lên từ miền Bắc Nam Á vào khoảng
kỷ nguyên thứ VI hay thứ V tr. T.C. Tôi có ý
kiến rằng văn hóa sau này được gọi
là Lungshan mà người ta xưa nay vẫn cho nó xuất
phát ở Yangshan phía Bắc Trung
hoa, rồimới bành trướng sang phía Đông và
Đông nam, thì thực ra cả hai nền văn
hóa ấy đều phát triển từ căn bản Hòa
bình…Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã
được sử dụng trên các dòng sông nhỏ ở
Đông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V
tr. T.c. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài
vẻ bắt đầu khoảng
4000 tr. T.c. tình cờ đã đi đến Đài loan và
Nhật bản đem theo nghề trồng khoai
sọ và có lẽ các hoa mầu khác…Vào
khoảng kỷ nguyên thứ III tr. T.C. các dân tộc
Đông Nam Á đã lành nghề đi thuyền mới đi
sang các đảo Nam dương và Phi luật
tân. Họ đem theo kiểu nghệ thuật kỷ hà học như các
hình vòng tròn xoáy ốc, hình
tam giác và hình chữ nhật vẽ trên đồ gốm,
trạm vào gỗ, xâm vào mình, quần áo
bằng vỏ cây và sau đến là vải dệt. Đấy là
những hình tượng thấy trên đồ đồng ở
Đông Sơn (Thanh hóa) mà có giả thuyết cho
nó đã từ Đông Âu đưa đến…
Dân tộc Đông Nam Á
cũng đã di
chuyển sang phía Tây, đạt tới Madagascar có lẽ
vào khoảng 2.000 trước. Có lẽ họ
đã cống hiến một số cây thuần thục cho nền kinh tế miền
Đông Phi châu… Vào
khoảng đồng thời ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa
Việt nam và Địa trung hải có
lẽ qya đường biển do kết quả của việc thông thương. Một số đồ
đồng ít thông
dụng xác chứng nguồn gốc từ Địa trung hải cũng
đã được tìm thấy ở địa điểm Đông Sơn”.
8. G Coedès : Les Peuples de la peninsula
Indochinoise, Paris 1962. . Bình Nguyên Lộc “Nguồn gốc
Mã lai của dân tộc ta”, NXB Bách Bộc Sài Gòn,
tr 446-449.
9. Cung Đình Thanh: Tìm về Nguồn Gốc
Văn minh Việt
Nam, NXB Tư Tưởng Australia 2003, tr 292.
10.
W.
Howells:
Origins
of
the
Chinese
People
“Interpretation
of the Recent Evidence”.
The
Origins of Chinese Civilisation,
University of California Press 1983. 1973a-Cranial Variation in Man,
Cambrige,
Harvard University Paper of the Peabody Museum, No 67.1973b- The
Pacific
Islanders, New York: Scribner’s.
11.
Cung Đình Thanh: Tìm về
Nguồn gốc Văn Minh Việt
Nam. (Bản đồ Thế giói thời cổ với những địa danh có người
Hiện đại, phỏng theo
Gs T.R.Tregear, A Geography of China University of London Press) tr27,
NXB Tư
Tưởng Australia năm 2003.
12.
J.
Needham:
Science
and
civilization
in
China,
Introduction.
History of Science
thought,
Cambridge, England 1956.
13.
J.Y.Chu
“
Genetic
Relationship
of
Population
in
China.
The Nation Academy of
Sciences
USA, Vol 95 Issue 20, 1763-1768, 29 Sep 1998. “Nevertheless, genetic
evidence
does not support an independence origin of Homo-Sapiens in China. The
phylogeny
also suggested that it is more likely that ancestor of the populations
currenly
residing in East China entered from Southeast Asia”.
14.
Thuyết
trình
của
BS
Trần
Đại
Sĩ,
Giám
đốc viện Pháp Á trong
dịp
khai
giảng niên khóa 1991-1992 tại
viện Pháp Á (Institute Franco-Asiatique
Paris)
15.
Mitochondrial DNA provides a link betwe
en Polynesians
and Indigeneous Taiwanese. Tréjaut, JA, KivisildT, Lơ JH,
et al PLoS
Biol. 2005 3(8) e281: “Mitochondrial DNA provides a link between
Polynesians and indigeous Taiwanese”. Mitochondrial DNA
(Deoxyribonucleic
Acide) là thể di truyền do 4 chất căn bản sắp theo một thứ tự
nhất định cho mỗi
loài sinh vật bằng những chuỗi tiếp diễn cặp căn bản (sequence
of base pairs).
Có 2 loại DNA: DNA trong nhân và DNA trong tế
bào chất ở các cơ quan sản xuất
năng lượng Mitochondria. Haplotype là một nhóm thể di
truyền trong một vị trí
của chuỗi tiếp diễn DNA. Đột biến là (mutation) là sự
thay đổi các cặp căn bản
trong chuỗi tiếp diễn DNA. Những đột biến nhẹ không gây trở
ngại cho sự sinh
trưởng tế bàoự stái tạo cặp
căn bản. Nó giúp
chúng ta theo dõi sự tiến hóa của con người hay
sinh vật khác. Loại đột biến
này cho phép các nhà nhân chủng học
xác định thủt tổ của một sôốdân tôộ trên
thêếgiới và sự di dân của họ trên 10
ngàn năm tiền sử. Trên lý thuyết, chúng ta
mỗi người có một bản sao Mitochondrial in hệt như thủy tổ nhưng
trên thực tế
không phải như thế vì những sai lầm trong tái tạo
của các chuỗi tiếp diễn các
cặp căn bản DNA. Mỗi châu lục có một số Haplotypes
riêng biệt như châu Âu
(Caucasoid) là H, I, J, K, M,T, U, V, W và X. Châu
Phi là L, L1, L2 và L3, châu
Á và châu Mỹ có chung Haplotypes gồm A, B, C
và D.
16.
American
Journal
of
Physical
Anthropology
Vol.
No
9999
(2007), NA: “Mitochondrial DNA
diversity
and population differentiation in Southern Asia” ( Hui Li, Xiaoyun Cai,
Elizaberth r. Winograd, Bo Wen, Xu Cheng, Zhendong Tan, Li).
17-
Dr
Nguyễn
Đệ
&
Dr
Trần
thị
Nhung
: Mitochondrial DNA và Nguồn gốc Việt
Nam, trung Hoa và
Maya.(Giai phẩm Xuân Kỷ Sửu, Hội Y Nha Dược sĩ Florida 2009 tr93.
18. Dr Nguyễn Đệ & DR Trần thị Nhung: Sđd tr
93.
19.
Founding
Amerindian
Mitochondrial
DNA
Lineages
I
ancient
Maya
From Xcaret,
Quintana Ro
o, Angelica Gonzales-Oliver, Lourdes Marqueze-Morfin, Jose c. Jimenez,
and
Alfonso Torres-Blanco, American Journal of Physical Anthropology,
116-230-235(2001).
-
Amerindian
mitochondrial
DNAs
have
rate
Asian
mutations
at
hight frequences,
suggesting
they derived from four primary maternal lineages, Schurr TG, Ballinger
SW, Gan
Ỳ, Hodge JA, Merriwether DA, Lawrence DN, Knowler WC, Weiss KM, Wallace
DC, Am.
J.Hum, Genet. 1990 Mar; 46(3):613-23).
20.
“The
9
bp
deletation
betwe
en
COII/tRNA
(LYS
upper) genes have be en associated
with at
least two migrations: One moved south along the Asian coastline,
eastward into
Indonesia and out into Pacific Islands (Hertzberg et al 1989). The
other
migration went North into Siberia and eventually crossed the Bering
land bridge
into the New World, yielding the Amerindians (Schurr et al 1990”.
21.
Kết
quả
phân
tích
cấu
trúc
di
truyền
này đã xác
nhận những gì tác giả đã viết trong “Nguồn
Gốc Việt Tộc” ấn hành năm 1999. Khoa Khảo Tiền sử chứng minh
người Indonesian
đã di cư xuống Trung nguyên TQ cách đây 6
ngàn năm. Đối chiếu với thư tịch cổ
Trung Quốc thì cộng đồng Bách Việt chính là
người Indonesian mà chúng tôi gọi
là Malaysian cho chính xác. Sở dỉ chúng
tôi nói ít nhất là 6 ngàn năm
vì khoa
đo chỉ số sọ chỉ đo được những sọ cách đây 6 ngàn
năm mà thôi. Những sọ trên 6
ngàn năm bị mục rữa hủy hoại nên các nhà
bác học không đo được chỉ số sọ.
22.
Stephen
Oppenheimer:
Eden
in
the
East,
The
Drowned
Continents of Southeast
Asia,
Pheonix, London 1998.
23.
C,O.Sauer:
Agricultural
Origin
and
Dispersals,
1952
Newyork
.
American
Geographical
Society.
24. Lịch Sử Việt Nam tập I. NXB Đại học và
Trung học
Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985 tr 164 và Tài
liệu 40 năm nước CHXHCNVN, NXB Sự Thật
Hà Nội). Chính vì viết sử theo nghị quyết
nên sử gia Đào Duy Anh trước khi chết
đã phải cay đắng thốt lên “Người ta biết
tôi vì lịch sử và kết án tôi cũng
vì lịch sử”.
25. G Coedès : Les Peuples de la peninsula
Indochinoise, Paris 1962. . Bình Nguyên Lộc “Nguồn gốc
Mã lai của dân tộc ta”, NXB Bách Bộc Sài Gòn,
tr 446-449.
“ TRẢ LẠI
NHỮNG GÌ
…
CỦA LỊCH
SỬ CHO
LỊCH SỬ”
PHẠM TRẦN ANH
Lịch sử
Việt là lịch sử của sự thăng trầm từ khi lập quốc đến
ngày nay trải qua hàng
ngàn năm đô hộ của giặc Tàu, gần một trăm năm
nô lệ giặc Tây và hơn nửa thế kỷ
nô dịch văn hóa ngoại lai. Trong suốt trường kỳ lịch sử,
Hán tộc bành trướng
với ưu thế của kẻ thắng trận và thủ đoạn thâm độc quỉ
quyệt đã không những dùng
mọi phương cách để đồng hóa Việt tộc bằng cách
xóa đi mọi dấu vết cội nguồn,
bóp méo sửa đổi lịch sử khiến thế hệ sau chỉ biết
tìm về lịch sử trong một mớ
“chính sử” hỗn độn mơ hồ. Mỗi một triều đại Hán tộc đều
chủ tâm thay đổi địa
danh, thủy danh xưa cũ của Việt tộc cùng với ảnh hưởng nặng nề
của một ngàn năm
đô hộ của sự nô dịch văn hóa khiến ta chấp nhận tất
cả như một sự thật mà không
một chút bận tâm. Thế nhưng… Lịch sử vẫn là lịch sử
của sự thật dù bị sửa đổi
vùi lấp hàng nghìn năm dưới ánh sáng
của chân lý khách quan trước thềm thiên
niên kỷ thứ ba của nhân loại. Sự thật lịch sử này
làm đảo lộn mọi nhận thức từ
cổ chí kim, từ Đông sang Tây. đến nỗi mà một
sử gia thời danh J Needham người
có công phục hồi sự thật lịch sử bị che giấu hàng
ngàn năm, làm đảo lộn mọi sử
sách xưa nay đã phải thốt lên: “Sự thật bị che phủ
hàng ngàn năm cùng với ảnh hưởng của ngàn
năm thống trị nô dịch văn hóa khiến
ngay cả người Việt cũng ngỡ ngàng, không tin đó
là sự thật .!!!”.(1)
Vấn đề
đặt ra cho chúng ta là phải nhìn lại toàn
bộ lịch sử để phục hồi sự thật của lịch sử
để xóa tan
đám mây mờ che lấp suốt mấy ngàn năm lịch sử bởi kẻ
thù truyền kiếp của dân
tộc.. Trong lịch sử nhân loại, có lẽ không một
dân tộc nào chịu nhiều mất mát
trầm luân như dân tộc Việt với những thăng trầm lịch sử,
những khốn khó thương
đau. Ngay từ thời lập quốc, Việt tộc đã bị Hán tộc với
sức mạnh của tộc người
du mục đã đánh đuổi Việt tộc phải rời bỏ địa bàn
Trung nguyên Trung quốc xuống
phương Nam để rồi trụ lại địa bàn Việt Nam bây giờ. Trải
qua gần một ngàn năm đô
hộ, với chiến thắng Bạch Đằng Giang năm 938 của Ngô Quyền mới
chính thức mở ra
thời kỳ độc lập của Việt tộc. Tuy thất bại về quân sự nhưng nền
văn hóa của
Việt tộc đã thẩm nhập vào đất nước và con người
Hán tộc để hình thành cái gọi
là văn minh Trung Quốc. Chính sử gia chính
thống của Hán tộc là Tư Mã Thiên đã
phải thừa nhận một sự thực là “ Việt tuy
gọi là man di nhưng tiên khởi đã có đại
công đức với muôn dân vậy ..!”.
Trước
đây, Hán tộc vẫn tự hào cho rằng Tứ Thư Ngũ Kinh
là của Hán tộc. Thế nhưng,
những công trình nghiên cứu đã phục hồi một
sự thật lich sử, Tứ Thư Ngũ Kinh
không phải của Hán tộc mà chính là
của Việt tộc. Sách Trang Tử kể chuyện Khổng
Tử gặp Lão Tử. Khổng Tử nói: “ Khâu này chỉ khảo
cứu sâu 6 kinh là Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu”. Như
vậy thời Khổng Tử Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu đã
có từ lâu và được gọi
là “Kinh”. Chính bộ “Trung Quốc Văn học Sử” do “Bắc Kinh
đại học, Trung văn hệ”
biên soạn viết rõ ràng là “Tên gọi Thi Kinh
là do Hán Nho thêm vào”. Sử
gia chính thống Hán tộc Tư Mã Thiên
viết “ Xưa kia,
Thi vốn có hơn 3 ngàn bài, đến
Khổng Tử chỉ lấy 305 bài hợp với việc thực thi lễ nghĩa, đều phổ
nhạc, cố tìm
âm hợp với nhạc Thiều, Vũ, Nhã, Tụng”.
Cổ văn
Thượng Thư do Lỗ Cung Công con của Lỗ Cảnh Đế tìm thấy khi
phá ngôi nhà cũ của
Khổng Tử để xây cất lại lớn hơn. Trong bức vách nhà
có những sách cổ thời Ngu,
Hạ, Thương, Chu … Luận Ngữ, Hiếu Kinh đều viết bằng chữ cổ gọi
là Khoa Đẩu tự
hình con nòng nọc. Sách
Hán
Thư,
Thiên
văn
Nghệ
chí
chép
“Cổ
văn
Thượng Thư
được tìm thấy trong vách tường nhà Khổng Tử. Khổng
An Quốc, hậu duệ của Khổng
Tử trước đây đã biết bộ sách này có
29 thiên do Phục Sinh truyền, chưa kể Thái
Thệ còn thừa ra 16 thiên, tính ra 45 quyển, 58
thiên không kể bài tựa …, nay
lại được thêm 16 quyển”. Như vậy, rõ
ràng là Ngũ Kinh có trước thời Khổng Tử và
được viết bằng lối chữ “Khoa Đẩu” là
lối chữ viết theo hình dáng của con nòng nọc
của Việt tộc thời xa xưa.
Lối chữ “Nòng Nọc” của người Việt cổ cùng với nền văn
hóa Hòa Bình đã lan
truyền khắp Trung Đông, góp phần tạo nên những nền
văn minh …
Chính“Vạn
thế Sư biểu” Khổng Tử là người thầy muôn đời của
Hán tộc cũng đã phải đem những
nghiên cứu, sưu tập, học hỏi của nền văn minh Bách Việt
phương Nam đặt để thành
những quy luật, trật tự cho xã hội phương Bắc. Tất cả những “Tứ
thư, ngũ kinh”
được xem như tinh hoa của Hán tộc đã được chính
Khổng Tử xác nhận là ông chỉ kể
lại “Thuật nhi bất tác”, sao chép lại của tiền nhân
chứ không phải do ông sáng
tác ra. Vạn thế sư biểu của Hán tộc là Khổng Tử
đã ca tụng nền văn minh rực rỡ,
xác nhận tính ưu việt của nền văn minh Bách Việt ở
phương Nam. Trong sách Trung
Dung Khổng Tử đã viết như sau: “Độ luợng bao dung,
khoan hòa giáo hóa, không báo
thù kẻ vô đạo, đó là sức mạnh của phương
Nam,
người quân tử ở đấy ..! Mặc
giáp cưỡi
ngựa, xông pha giáo mác, đến chết không
chán, đó là sức mạnh của phương Bắc. Kẻ
cường đạo ở đó...”. Trong kinh “Xuân Thu”,
Khổng Tử đã ghi lại bao
nhiêu trường hợp cha giết con, con giết cha, cha cướp vợ của con,
con cướp vợ
của cha, anh chị em dâm loạn với nhau, bề tôi giết
chúa … Điều này chứng tỏ Hán
tộc du mục vẫn còn dã man với lối sống du mục.ngay trong
giới quí tộc chứ đừng
nói đến bình dân. Thế mà chính sử
Trung Quốc cứ vẫn sao chép Việt tộc là man
di, các Thứ sử Thái Thú Hán vẫn lên
mặt giáo hóa dân Việt trong khi Bách Việt ở
phương Nam đã đi vào nền nếp của văn minh nông
nghiệp từ lâu.
THẾ
NHƯNG SỰ THẬT LỊCH SỬ ĐÃ ĐƯỢC PHỤC HỒI khi giới nghiên cứu
đều xác nhận hầu hết
các phát minh gọi là văn minh Trung Quốc từ nền
văn minh nông nghiệp đến văn
minh kim loại, kỹ thuật đúc đồng, cách làm giấy,
cách nấu thủy tinh, cách làm
thuốc súng, kiến trúc nóc oằn mái và
đầu dao cong vút … tất cả đều là của nền
văn minh Bách Việt. Chính một vị vua của
Hán tộc, Hán Hiến Đế đã phải thừa nhận:
“Giao Chỉ là đất văn hiến, núi sông un
đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân
tài kiệt xuất ..!”.
Ngày nay, hầu hết các học giả, các
nhà Trung Hoa học trên toàn thế giới
đều cho rằng văn hoá Trung Quốc phát nguyên từ văn
hóa Việt ở miền Nam Trung
Quốc. Các sử gia Trung Quốc thời trước cố tình
không thừa nhận một sự thực, đó
là sự đóng góp to lớn của cư dân Hoa Nam tức
người Việt cổ trong việc hình
thành tạo dựng nền văn minh Trung Hoa. Học giả Eicks Kedt nhận
định rằng “Tư
Mã Thiên, sử gia chính thống của “Đại Hán”
sinh ở Long
Môn thuộc Sơn Tây nên nhất quyết từ chối không
để lại bất kỳ một tài liệu gì về
dân Mạn Nam. Hầu như tất cả người Tàu mạn Bắc đều như
vậy. Eicks Kedt
tiếc rằng những học giả Âu Tây chỉ biết ngốn nghiến sử liệu
của Tư Mã Thiên hay
những sử gia khác mà không chú ý đến
việc bẻ quặt do sự bỏ sót nhiều sự kiện,
nhất là khi nói đến các dân Man Di
ngoài Hán tộc. Lý do của sự bỏ sót
đó là họ
đã xem Nho giáo xuyên qua lăng kính nhuộm
đẫm màu Hán tộc nên chỉ nhìn nhận để
có những gì thuộc miền Bắc nước Tàu mà
thôi”.
Một nhà nghiên cứu về Trung Quốc khác
là Terrien de la Couperie trong
tác phẩm “Những ngôn ngữ trước Hán” đã nhận
định: “Người
Hán ngại nhìn nhận sự có mặt của
những cư dân không phải là Hán tộc sống độc
lập ngay giữa miền họ cai trị. Tuy
họ không thể giấu được sự kiện là họ đã xâm
lăng, nhưng họ đã quen dùng những
danh từ đao to búa lớn, những tên địa dư rộng để bịt mắt
những độc giả không
chú ý, hầu che đậy buổi sơ khai tương đối bé nhỏ
của họ. Muốn tìm hiểu các cư
dân đó thì chỉ còn cách là đi
dò tìm vết tích còn quá ít
vì cho tới nay, người
ta ít chú ý tới sự quan trọng lịch sử của
các chủng tộc tiền Hán trừ một hai
chuyện gây sự tò mò mà thôi”. Terrien de la
Couperie kết luận: “Niềm tin là Trung Quốc vốn lớn lao
mãi từ xưa và thường
xuyên là như thế chỉ là một huyền thoại.
Trái ngược lại, đó là việc mới xảy ra
về sau này. Văn minh Trung quốc không phải tự nó
sinh ra mà chính là kết quả
của sự thâu hoá. Việc thâu hoá thì
ngày nay được nhiều người công nhận, còn
thâu hoá từ đâu thì trước đây cho
là từ phía Tây nhưng về sau này, nhiều người
cho là từ văn hoá Đông Nam …”
Học
giả Andreas Lommel trong tác phẩm “Tiền sử” (Prehistoric)
đã nhận định cái gọi
là nền văn hoá Trung Hoa do 8 nền văn hoá
khác hợp lại mà thành:(2)
1. Nền văn hoá
Tung-Xích từ Đông Bắc đến, tập
trung ở Hà Bắc (Hopei) và Sơn Đông (Shangtung). Tộc
người này trước chuyên về
săn bắn sau chuyển sang chăn nuôi, đặc biệt là nuôi
heo.
2. Nền văn hoá
Mông Cổ của tộc người chuyên săn bắn
sống đời du mục. Nền văn hoá này tập trung nhiều nhất ở
Sơn Tây và Nội Mông.
3. Nền văn hoá Thổ
(Turkish) của tộc người chuyên
sống đời du mục, săn bắn và trồng lúa Tắc( Millet), họ
đã thuần hoá ngựa khoảng
2.500 năm TDL. Theo ông thì nền văn hoá này
góp phần lớn cho sự hình thành nền
văn hoá Hán và Hán tộc sau này.
4. Nền văn hoá
Tây Tạng (Tibetan) của tộc người
chuyên về chăn nuôi dê cừu, phần lớn tập trung tại
miền núi của các tỉnh Thiểm
Tây, Cam Túc và Tứ Xuyên.
Còn lại
4 nền văn hoá gọi chung là văn hoá phương Nam bao
gồm nhiều chủng tộc như tộc
người Nhao chuyên về săn bắn, tộc người Dao vừa săn bắn vừa
hái lượm và một tộc
người chuyên về nghề trồng lúa nước mà theo Lommel
cho là tổ tiên của người
Thái, người Miến (Shan) và người Lào sau
này thành lập các quốc gia Thái Lan,
Miến Điện và Ai Lao. Lommel cũng cho rằng tổ tiên của
người Việt sau này là do
người Thái và người Dao hợp thành ..! Theo Lommel
thì “Phương
Nam
có
nền
văn
hoá
nông
nghiệp
mạnh
mà Thái là tộc người tiêu biểu.
Chính tộc người này trở nên thành phần
quan trọng nhất tại Trung Quốc”. Theo ông
có 2 tộc người, một từ
Tây Bắc là tộc Thổ (Turc) giỏi về chiến tranh, biết thuần
hoá ngựa và thiên về
săn bắn và một tộc người từ phương Nam giỏi về canh nông.
Đây là 2 tộc người
chính tạo nên nước Trung Quốc ngày nay mà
tộc người Tây Bắc là chính yếu”.
Nhận
định trên của Lommel tuy có phần chính xác
nhưng còn nhiều phiến diện sai lầm.
Thực ra, cư dân gốc Thổ Turc hợp củng với Mongoloid tạo
thành Hán tộc còn cư
dân phương Nam chính là Bách Việt bị
Hán tộc thống trị và nên văn hoá phương
Nam chính là nền văn hoá của Bách Việt ở
phương Nam kể cả nên văn hoá mà Lommel
nói là Tung Xích thực ra của chi Lạc bộ
Trãi mà thư tịch cổ Trung quốc gọi là
“Rợ Đông Di” cũng chính là nền văn hoá của
Bách Việt. Tộc người mà Lommel gọi
là tộc Thái chính là chi Âu Việt
trong Bách Việt, tên Thái chỉ mới có sau
này
mà thôi, sau khi thiên cư xuống phương Nam.
Trong
tác phẩm vĩ đại “Science and Civilization in China”, nhà
sử học lừng danh
Joseph Needham đã nhận định rằng nền văn hoá Trung Hoa
được hình thành nhờ 6
nền văn hoá cổ đại:
Thứ nhất là nền văn
hoá Tung Gu Xích phương Bắc
ảnh hưởng đến lối sống của người Ngưỡng Thiều và Long Sơn.
Thứ hai là nền văn
hoá du mục của người Thổ từ Tây
Bắc đến.
Thứ ba là nền văn
hoá Proto-Tibetan tức cổ Tạng
đến từ phương Tây.
Thứ tư, năm và
sáu là từ phương Nam và Đông Nam
lên.
Theo học giả J.Needham
thì Protoviets đã mang theo
25 đặc trưng văn hoá lên địa bàn cư trú mới.
Điểm quan trọng được nhấn mạnh ở
đây là khác
với Lommel, J. Needham khẳng định rằng: “ 3 nếp
sống văn hoá này đem vào Trung Hoa thời Tiền sử
mang yếu tố “Biển” rõ rệt và có
thể mô tả bằng một chữ, đó là chữ “VIỆT” mà
trước kia thường gọi sai lầm là
Thái cổ (ProtoThai)”. Học giả lừng danh
này còn chú thích
rõ chữ Việt
nay là quốc hiệu của một nước vùng Đông Nam
châu Á: Nước Việt Nam ngày nay.
Tóm
lại, người Trung Quốc mà ta thường gọi là Tàu
(Hán tộc) không phải là một chủng
thuần tuý và cũng không có một văn
hoá riêng biệt nào. Lịch sử Trung Quốc bắt
đầu từ triều đại Thương là một tộc người du mục kết quả của sự
phối hợp chủng
giữa Nhục Chi và Huns (Mông cổ). Kế tiếp là triều
Chu cũng là một tộc du mục có
hai dòng máu Mông Cổ và Hồi (Turc). Sau khi
Mông Cổ chiếm được Trung Quốc đã
thành lập triều Nguyên rồi khi Mãn Châu diệt
triều Minh lại thành lập triều
Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Có thể nói lịch sử Trung
Quốc là lịch sử của sự
xâm lăng và bành trướng đồng thời cũng bị xâm
lăng nhưng tất cả kẻ chiến thắng
bị sức mạnh của văn hoá của dân bị trị khuất phục để rồi
tự đồng hoá với cư dân
bản địa cuối cùng trở thành Hán tộc
mà ta thường gọi là người Tàu. Văn
hóa của cư dân bị trị đây là văn hóa
Bách Việt. Giáo sư Wolfram Eberhard trong
tác phẩm “Lịch sử Trung Quốc” đã nhận định: “Ý kiến cho rằng chủng tộc Hán
đã sản sinh
ra nền văn minh cao đại hoàn tự lực do những tài năng đặc
biệt của họ thì nay
đã không thể đứng vững, mà nó phải chịu
cùng một số phận như những thuyết cho
rằng họ đã thâu nhận của Âu Tây. Hiện nay,
người ta biết rằng xưa kia không có
một chủng tộc Tàu, cũng chẳng có đến cả người Tàu
nữa, y như trước đây 2.000
năm không có người Pháp, người Suisse vậy. Người
Tàu chỉ là sản phẩm của sự pha
trộn dần theo một nền văn hoá cao hơn mà thôi”.
Chính
sử gia Trung quốc, Chu Cốc Thành trong “Trung Quốc Thông
sử” viết: “Viêm
tộc
(Việt
tộc)
đã
có
mặt
khắp
nước
Trung Hoa cổ đại trước khi
các dòng tộc khác
tràn vào nên có thể xem là chủ
nhân đầu tiên. Khi Viêm Việt đã định cư,
Hán tộc
còn sống du mục tại vùng Tân Cương, Thanh Hải. Về
sau họ theo Hoàng Hà tràn vào
Hoa Bắc, chiếm đất của Việt tộc”. Nhà
nghiên cứu La Hướng Lâm
người Trung Quốc trích dẫn “Việt tỉnh Dân tộc Khảo
nguyên” của Chung Độc Phật
cho biết “Cả
miền đất châu Kinh (đất nước Sở), châu Dương (đất nước
Việt) và châu Lương (đất
nước Quì Việt) nghĩa là tất cả lưu vực sông Dương
Tử từ Vạn Huyện ở Tứ Xuyên
trở xuống đều là giống người Việt ở cả. Sách Hoa Dương
Quốc chí chép miền Nam
Trung gồm Quí Châu, Vân Nam là đất Di Việt
xưa. Vùng đất này gồm hơn 1 chục vương
quốc như Điền Bộc, Cú Đinh, Dạ Lang, Diệp Du, Đồng Sư, Việt Tuỷ
…”.
Sự thực
lịch sử này đã được thư tịch cổ và khoa khảo Tiền
sử xác nhận là Việt tộc theo
sông Dương Tử tiến về phía Đông thành lập 7
tỉnh lưu vực sông Dương Tử gồm Tứ
Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Giang Tô, An Huy
và Triết Giang. Dần dần Việt
tộc tiến lên Hoa Bắc thành lập 6 tỉnh lưu vực Hoàng
Hà là Hà Nam, Hà Bắc, Sơn
Tây, Sơn Đông, Thiểm Tây, Cam Túc và
phía Nam thành lập các tỉnh lưu vực Việt
Giang gồm Vân Nam, Quí Châu, Quảng Tây, Quảng
Đông và Phúc Kiến.
Ngày
nay, các nhà nghiên cứu như VK Tinh, Wang Kwo Wu
và cả nhà văn nổi tiếng Quách
Mạt Nhược đều xác định là hầu hết các huyền thoại
về các vị Vua cổ xưa nhất
không thấy ghi trên giáp cốt đời Thương, mà
chỉ ghi vào sách vở về sau này,
khoảng từ thế kỷ thứ IV TDL, tức là thời kỳ xuất hiện các
quốc gia Bách Việt
thời Xuân Thu Chiến quốc. Thực tế lịch sử này cho thấy
những huyền thoại cổ xưa
là của Việt tộc vì nếu là tổ tiên Hán
tộc thì đã phải ghi trên giáp cốt đời Thương
cũng như trong các sử sách, cốt tự văn hoặc chữ tạc
trên đồ dùng. Chính vì vậy
mà nhóm Tân học gọi là Nghi cổ phái
thành lập năm 1920 do Quách Mạt Nhược chủ
xướng đã bác bỏ thời Tam Hoàng, Ngũ Đế là
của Trung Quốc. Thật vậy, huyền thoại
về thủy tổ Bàn Cổ mới được nói đến trong quyển “Tam
Hoàng”, kể cả Phục Hi, Nữ
Oa cũng không hề được nhắc tới trong các sách cổ
xưa như Kinh Thi, Trúc thư kỷ
niên và cũng không hề thấy xuất hiện trong đồ đồng
hoặc bốc từ. Viêm Đế Thần
Nông mới được Mạnh Tử thời Xuân Thu Chiến quốc nhắc tới
còn Hoàng Đế chỉ biết
tới vào thế kỷ thứ III TDL khi Tư Mã Thiên đưa
vào bộ “Sử ký” của Tư Mã Thiên.
Tháng
2-1971, các nhà khảo cổ tìm được ở
Liu-ch'êng-ch'iao Trường Sa thuộc vùng Hồ
Nam một “Cái Qua” còn nguyên vẹn. Trong tác
phẩm "Cultural Frontiers in Ancient East Asia"
của William Watson
viết về những đồ vật đào lên tại tỉnh Hồ Nam trong
đó có một cái qua có khắc
tên một vị vua tên là Nhược Ngao. Sử Ký Tư Mã
Thiên và Xuân Thu Tả Truyện viết rõ là
vị vua
có hiệu là Nhược Ngao là vị vua Hùng thứ 14
tên thật là Hùng Nghi hiệu Nhược
Ngao cai trị vào năm 789 trước Tây Lịch. Điều này
chứng tỏ thời đại Hùng Vương
là có thật trong lịch sử.
Trước
những sự thật của lịch sử, Trung Quốc đã phải xác nhận
là nền văn hoá của họ là
do hàng trăm dân tộc góp phần tạo dựng nhưng văn
hoá Hán ở vùng Tây Bắc là chủ
thể. Thế nhưng chính học giả Trung Quốc Wang Kuo Wei lại cho
rằng nơi phát
nguyên văn hoá Tàu là ở miền Đông Bắc
tức vùng Sơn Đông của Lạc bộ Trãi chứ
không phải ở miền Tây Bắc (Thiểm tây) như quan niệm
sai lầm từ trước đến nay.
Sử Trung quốc vẫn cho rằng 3 triều đại Hạ, Thương, Chu là những
triều đại đầu
tiên của Trung Quốc theo thứ tự, nhưng Kwang Chih Chang
khám phá ra thì không
phải là như vậy mà đó chỉ là 3 trong nhiều
nhóm chính trị đại diện cho các
chủng tộc đối nghịch tranh giành ảnh hưởng mà thôi,
còn văn hoá thì đều theo
như Di Việt nghĩa là cũng thờ thổ thần và cây linh.
Theo
Công trình mới nhất “Nguồn gốc nền văn minh Trung Hoa”,
tổng kết trong Hội nghị
Quốc tế các nhà Trung Hoa học trên toàn thế
giới tổ chức tại Berkeley năm 1978,
thì “
Không thể tìm ra đủ dấu vết chứng cớ để phân
biệt giữa Hán tộc và các tộc người không
phải là Tàu trên phương diện lịch sử.
Giới nghiên cứu phải tìm về dấu tích văn hoá
mà về văn hoá thì Hán tộc chịu ảnh
hưởng của Di Việt”.
Tương truyền
Thần Nông phát xuất ở miền Tây Tạng (Tibet) đi
vào Trung Nguyên qua ngã Tứ
Xuyên tới định cư ở Hồ Bắc bên bờ sông Dương Tử,
còn theo dân gian thì ông Bàn
cổ chính là ông Bành tổ. Theo dân gian
truyền tụng thì mồ mả của ông còn ở đâu
đó miền rừng núi Ngũ Lĩnh. Bàn cổ mới được đưa
vào lịch sử Trung Quốc đời Tam
Quốc trong quyển “Tam Ngũ lược Kỷ” của Từ Chỉnh và theo Kim Định
thì Phục Hi,
Nữ Oa đều xuất thân từ Di Việt ở châu Từ miền Nam
sông Hoài.
Việt tộc là cư
dân nông nghiệp trồng lúa
nước đã cư ngụ rải rác khắp Trung nguyên
(lãnh thổ Trung Cộng bây giờ) từ lâu
trước khi Hán tộc du mục từ Tây Bắc tràn xuống
đánh đuổi nhà Hạ của Việt tộc để
thành lập triều Thương đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc.
Tư Mã Thiên sử gia
“Đại Hán” đã mạo nhận Hoàng Đế nguyên
là vị thần được dân gian tôn kính là
tổ
tiên của Hán tộc (Tàu) nên xem nhà Hạ
là của Tàu. Thế rồi họ thêm chữ Hoa là
một hình dung từ chỉ sự cao sang vinh hiển để trước chữ Hạ để
chỉ nền văn minh
Hoa Hạ cao đẹp của Việt tộc là của họ. Bản chất của đế quốc “Đại
Hán” là xâm
lược và bành trướng suốt dòng lịch sử nên
hết triều Thương rồi đến Chu, Tần,
Hán đã liên tiếp xâm lược đẩy lùi Việt
tộc xuống phương Nam. Năm 939 chiến
thắng Bạch Đằng Giang lịch sử mở đầu thời kỳ độc lập của dân tộc.
Hán tộc đã
bao lần xâm lược nước ta nhưng đều thất bại thảm hại. Ngày
nay, Trung Cộng lại
xâm lấn lãnh thổ Việt Nam với sự tiếp tay của tập
đoàn CS Việt gian bán nước, thế
nhưng sau khi dẹp kẻ nội thù toàn dân Việt sẽ
giáng cho đế quốc mới Trung Cộng
bài học lịch sử để đời như bao lần thảm bại ê chề trong
lịch sử.
Một sự
thật
lịch sữ mới được khoa học xác nhận đã làm đảo lộn
những giả thuyết nhận định từ
xưa tới nay về Nguồn gốc tộc Việt. Kết quả mới nhất thuyết phục nhất về
phân
tích cấu trúc di truyền DNA của Việt tộc đã
xác định một lần nữa là Việt tộc là
một đại chủng và hoàn toàn khác biệt với
Hán tộc. Chúng ta cùng tìm
về cội nguồn phát tích Việt tộc qua truyền thuyết, thư
tịch Trung Quốc, Văn hoá
Khảo cổ, Tiền Sử học và cuối cùng là mã di
truyền DNA sau đây:
1. Niên đại của
truyền thuyết về Thần Nông vào thiên niên kỷ
thứ IV TDL
hoàn toàn phù hợp với niên đại khảo cổ
và kết quả đo chỉ số sọ của các nhà Khảo
Tiền Sử về chủng Indonesian (Malaysian). Theo
các nhà Tiền Sử học thì Malay-Viets tức
Bách Việt đã định cư ở Trung Nguyên
cách đây ít nhất là 6 ngàn năm.
Công trình nghiên cứu sử học của học giả Shi
Shi người Trung Quốc thì người U Việt (GU-YUE) đã
làm chủ biển cả cách đây hơn
7 ngàn năm. Đặc biệt, Truyền thuyết
kể
lại rằng bố Lạc dẫn 50 con về “Thủy Phủ”, trước
đây chúng ta cho là huyền
hoặc thế nhưng địa danh thủy phủ đã được 2 học gỉa người
Pháp là P Gouron và J
Loubet tìm ra, đó chính là cảng
Thành Đô, phủ Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên
được in trên bản đồ Atlas 1949. Sự
thật
lịch sử này đã được chính nguồn sách sử cổ
Trung Hoa xác nhận khi chép về cộng
đồng Bách Việt, đã chứng minh sự thật lịch sử của huyền
thoại mà ta cứ tưởng là
huyền hoặc hoang đường.
2. Mặt khác,
chính thư tịch cổ Trung Quốc đã thừa nhận một thực tế
lịch sử
đó là sự thành lập của các quốc gia thời
Chiến quốc mà họ gọi là Bách Việt ở
vùng Giang Nam. Đông Việt tức U-Việt
(còn gọi là Vu Việt) của Việt Vương Câu Tiễn
không chỉ ở Triết Giang mà lên tới
miền Giang Tô tức Châu Từ, quê hương của gốm sứ Việt
cổ nổi tiếng của chi Dương
Việt mà kinh đô là Cối Kê. Lý Tế
Xuyên đã viết “Việt Điện U Linh” về nước Việt
cổ xưa. Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang
Tây, Điền Việt ở Vân Nam, Quì
Việt ở Tứ Xuyên, Nam Việt ở Quảng Đông, Âu Việt
còn gọi là Tây Âu ở Quảng Tây,
Lạc Việt ở Quảng Tây và Bắc VN. Chính sách
sử cổ Trung Quốc ghi rõ cộng đồng
Bách Việt cư trú khắp trung nguyên, thế mà
sử quan triều Thanh Tiền Hy Tộ đã
bóp méo ý nghĩa và sửa lại niên hiệu
thành lập nước Văn Lang như sau: “Đến đời Chu Trang
Vương (696-682TDL) ở bộ
Gia Ninh có người lạ dung ảo thuật áp phục được
các bộ lạc, tự xưng Hùng Vương,
đóng đô ờ Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang. Phong
tục thuần hậu, chất phác.
Chính sự dung lối thắt nút. Truyền được 18 đời đều gọi
là Hùng Vương …”(3). Các
nhà sử học Mác Xít
đã viết sử rập khuôn sử quan triều Thanh theo nghị
quyết của đảng CSVN về sự thành lập nước Văn Lang trong bộ Lịch
sử Việt Nam của
Nhà nước Cộng Hòa XHCN Việt Nam như sau: “Sự
ra đời của nhà nước Văn Lang đầu tiên của nước ta đời
Hùng Vương và Âu Lạc đời
An dương Vương vào giai đoạn Đông Sơn trong thiên
niên kỷ thứ I trước công
nguyên… Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn lang và nhất
là căn cứ vào quá trình
chuyển hoá lịch sử nước Văn lang đời Hùng Vương đến nước
Âu Lạc đời An Dương
Vương, rồi đến 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu
và thuộc Hán, có thể
xác định địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với
vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước
ta ngày nay và một phần phiá Nam tỉnh Quảng
Đông, Quảng Tây của Trung Quốc”.(4)
3. Kết
quả các công trình khảo cổ cho phép
chúng ta kết luận là nhà nước
Văn Lang đã thành hình từ lâu, ít
nhất là 5 ngàn năm lịch sử. Khoa Khảo cổ cho biết
rằng người Việt cổ thời Phùng Nguyên đã chế
tác nhiều vật đồ đá, đồ xương và
một ít đồ đồng như rìu, đục, giáo, lao, qua, mũi
tên, mũi nhọn, mũi khoan, chì
lưới, bàn mài, bàn dập gốm. Căn cứ trên
những đồ gốm, đồ đồng thuộc nền văn hoá
Hoà Bình, Đông Sơn được thám quật ở Bắc
Thái và Hạ Lào đã xác định bằng
phương
pháp vật lý phóng xạ C14 có niên đại
khoảng 3.000 năm TDL nghĩa là cách đây
5.000 năm. Như vậy, niên đại thành lập nước Văn Lang
vào thiên niên kỷ thứ III
TDL hoàn toàn phù hợp với mốc truyền thuyết
là năm 2879 TDL vào giai đoạn đầu
thời đại đồ đồng của cộng đồng Bách Việt với nghề nông
trồng lúa nước, và nghề
luyện kim đồng đã tìm thấy khắp nơi, từ Nam Trung Hoa
Thái Lan đến toàn bộ vùng
Đông Nam Á lục địa và hải
đảo
4. Năm
1962, G Coedès nguyên Giám Đốc Trường Viễn
Đông Bác Cổ công bố kết
quả công trình khảo Tiền sử đã minh chứng những
gì truyền thuyết kể lại là một
sự thật lịch sử với
những kết qủa của những công trình khảo tiền sử trên
toàn cõi Á Đông
của hàng trăm nhà bác học Khảo cổ, Nhân
chủng và Địa chất học. Những nhà bác
học này đã đào bới khắp nơi từ Nhật Bản,
Hàn quốc (Triều Tiên) tới Tây vực và
từ Tây Bá Lợi Á xuống tới quần đảo Nam Á
trong hàng chục năm trời đã tìm kiếm
các di chỉ khảo cổ, khai quật những lớp sọ nằm dưới của cư
dân đến trước, cư
dân đến sau nằm ở trên. Sau khi đo chỉ số sọ và dung
lượng sọ đã vẽ lại lộ
trình di cư từ cao nguyên Hi Mã Lạp Sơn Himalaya
xuống lưu vực các con sông lớn
Hoàng Hà, Dương Tử và Cửu Long, đồng thời
xác định ngọn nguồn gốc tích chủng
tộc đó. Các nhà Khảo Tiền sử đã kết luận: “Tất cả
các cư dân
Nam Á từ Nam Ấn, Môn, Tạng, Miến, Thái, Lào,
Miên, Mã Lai, Nam Dương, Célèbres,
Việt Nam kể cả đồng bào thiểu số thượng du Bắc Việt đều
có cùng một gốc cổ
Malaya gọi là Indonesian (chúng tôi gọi là
Malaysian chính là cộng đồng Bách
Việt MalayViets) là những cư dân Nam Á có
chung một chỉ số sọ trung bình là
81,42 và dung lượng sọ có tính cách sọ
tròn khác hẳn với các chủng tộc trong
vùng”.(5)
Tất cả chứng cứ khoa học cho
phép chúng ta kết
luận là giai đoạn đầu thời đại đồ đồng khoảng thiên
niên kỷ thứ III TDL hoàn
toàn phù hợp với niên đại truyền thuyết là
2879 TDL. Đây chính là thời điểm
Việt tộc đã nung chảy xã hội nguyên thủy để
thành lập một xã hội định chế hoá
của quốc gia Văn Lang. Thật vậy, kết quả của những phân
tích bằng phóng xạ
carbon C14 than tro ở Đồng Dậu cho biết cộng đồng dân cư với nền
văn hoá Phùng
Nguyên cách đây ít nhất là 3.500 năm.
Điều này có nghĩa là họ đã có một
cuộc
sống ổn định đi vào tổ chức thiết chế xã hội với
hình thức nhà nước Văn Lang. Sự xác định của
niên đại khảo cổ là khoảng thiên niên kỷ thứ
III TDL hoàn toàn phù hợp với niên
đại thư tịch để chứng minh sự ra đời của nhà nước Văn Lang
ít nhất là 3.000 năm
TDL chứ không phải vào thế kỷ thứ VII TDL như
Đại Việt sử lược đã bị
sử quan triều Thanh, Tiền Hi Tộ sửa đổi sự thật lịch sử.
5. Từ truyền thuyết
cũng như căn cứ vào các Thần tích và Tộc
phả được phối
kiểm bởi khoa Khảo cổ học, Khảo Tiền sử, Chủng tộc học, Cổ nhân
học, Dân tộc và
Ngôn ngữ học được kiểm chứng bởi kết quả phân tích
cấu trúc phân tử di truyền
DNA của các tộc người trong vùng cho phép
chúng ta xác định tính hiện thực của
Huyền Thoại Rồng Tiên với cộng đồng Bách Việt (MalayViets). Kết quả của khoa Phân
tích Di truyền hoàn toàn phù hợp với thư
tịch cổ Trung Hoa, Khoa Khảo cổ học,
Nhân chủng học, Khảo tiền sử kể cả truyền thuyết Rồng Tiên
về thời kỳ dựng nước
của Việt tộc là một sự thật lịch sử. Luận chứng khoa học mới nhất
có tính thuyết phục nhất,
một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán tộc là 2
tộc người khác nhau. Việt tộc
có yếu tố đột biến di truyền đặc biệt của châu Á
trong khi Hán tộc không có yếu
tố này. Đồng thời xác định địa bàn cư trú
của tộc người Malaysian tức
MalayViets (Bách Việt) trải dài từ rặng Tần Lĩnh ở Trung
nguyên trải dài xuống
tận vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Địa
bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc
tới lưu vực phía Nam sông Hoàng Hà, lưu,
phía Tây giáp Tây Tạng, Đông
giáp Nam
Hải, Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới
của nước Văn Lang xưa
của tộc Việt. Địa bàn cư trú của Việt tộc phía Bắc tới
lưu vực 2 con sông
Hoàng Hà và Dương Tử (Trường Giang), phía
Tây giáp Tây Tạng, Đông giáp Nam Hải,
Nam xuống tận Bắc Trung Việt, chính là cương giới của
nước Văn Lang xưa của tộc
Việt.
Sau cùng
là Khoa
Đại Dương học(6)và khảo cổ học đã chứng minh
rằng người cổ Hoà Bình
Hoabinhian do nạn biển tiến cách nay khoảng 8.500 năm đã
tiến lên vùng núi cao
Hòa Bình, Bắc Sơn và ngược lên cao
nguyên Malaya hướng Tây Bắc và Đông Bắc
vùng
Ngũ Lĩnh. Khi mực nước
biển dâng lên
cao, cư dân khắp các nơi dồn về vùng cao nên
đã tập trung nhiều nền văn hóa với
những phát kiến để hình thành nền văn hóa
Hòa Bình, một nền văn hóa cổ đại tinh
hoa của nhân loại. Mực nước dâng cao dần khiến cư dân
Hoabinhian mà chúng tôi
cho là những người Tiền-Việt Protoviets ở
lưu
vực
2
con
sông
lớn
là sông Hồng
và sông Cửu Long phài thiên cư
theo hướng Tây Bắc lên miền cao sơn nguyên giữa 2
dãy núi Hi Mã Lạp sơn và Côn
Luân, nhánh khác tiến theo hướng Đông Bắc
lên định cư ở Phúc Kiến, Triết Giang,
Sơn Đông TQ bây giờ. Họ mang
theo đặc
trưng của văn hoá Hoà Bình lên địa
bàn mới vùng cao nguyên giữa hai rặng núi
cao nhất là Hi Mã Lạp Sơn và cổ nhất là
Côn Luân ở Tây Bắc và vùng núi
cao Thái
Sơn ở Sơn Đông.
Khi mực
nước biển hạ xuống, những vùng biển nước mênh mông
nước rút dần để lộ ra những
vùng đất màu mỡ phì nhiêu. Tiền nhân
chúng ta đã từ vùng cao nguyên Hi Mã
Lạp
sơn tiến xuống vùng đồng bằng, nước rút đến đâu
từng đoàn người tiến tới đó để
lập làng định cư khai phá đất đai. Chính sự kiện
tiến về vùng sông nước này
được truyền thuyết diễn tả qua việc mẹ
Âu cùng 50 con ở lại vùng cao, Bố Lạc dẫn 50 con
xuống “Thủy Phủ” miền sông
nước. Hai Thạc sĩ sử địa người Pháp là J Loubet và
P Gouron đã tìm ra địa danh
Thủy Phủ chính là cảng Thành Đô tỉnh Tứ
Xuyên Phủ Trung Khánh TQ bây giờ.
Kết
quả mới nhất, thuyết phục nhất của các nhà Di Truyền học
đã xác định Việt tộc
hoàn toàn khác hẳn với Hán tộc. Người Việt
có 1 tỷ lệ cao nhất về biến đổi di
truyền trong dân tộc (Intrapopulatinal genetic divergence 0.236%
và về Hinc II/
Hpal nên được xem là dân tộc cổ nhất Đông Nam
Á.(7) Chính
vì vậy, Việt Nam là trung tâm của nền văn
hoá Hòa Bình ảnh hưởng bao trùm Đông
Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ, Trung Cận Đông và cả
châu Mỹ nữa (8).
Việt Nam là một
dân tộc có lịch sử lâu đời nhất có
Haplogroups chính gồm A, B, C, D và không có
cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di
truyền COII/ tRNA.LYS mà các nhà di
truyền học gọi là “Đột biến đặc
biệt Á Châu= “9bp deletation bettwe en CO I I tRNA LYS
genes”, bp=
base pair). Cư dân Nam Trung Hoa tức người Hán ở Hoa Nam,
Đài Loan, Cư dân Đông
Nam Á gồm Miến Điện, Việt, Miên, Lào, Thái
Lan, Tân Gia Ba, Mã Lai, Nam Dương,
Phi Luật tân, Brunei và Đông Timor, thổ dân Đa
Đảo Polynesian, thổ dân Maya ở
Trung và Nam Mỹ, Pima ở Bắc châu Mỹ có cùng
Halogroup A, B, C, D (9)
và Thất thoát cặp căn bản số 9 giữa 2 thể di truyền COII
/tRNALYS mà
các nhà Di truyền học gọi là Đột biến châu
Á Mitochondrial DNA Á Châu (Asian
Mitochondrial DNA).(10)
Truyền thuyết khởi
nguyên của
dân tộc mới đầu tưởng là hoang đường huyền hoặc
ngày nay đã trở thành hiện
thực, một sự thật lịch sử sau khi đã được thư tịch cổ Trung Hoa,
Khoa Khảo cổ
học, Nhân chủng học, Khảo tiền sử và phân
tích cấu trúc mã di truyền xác định.
Trước thềm thiên niên kỷ thứ ba của nhân loại, một sự
thật khách quan của lịch
sử được phục hồi làm đảo lộn tất cả nhận thức từ trước tới nay
về chủng tộc,
nền văn minh nhân loại. Đó là luận chứng khoa học
mới nhất về DNA có tính
thuyết phục nhất, một lần nữa khẳng định tộc Việt và Hán
tộc là 2 tộc người
khác nhau và Việt tộc là một đại chủng mà
địa bàn cư trú trải rộng từ châu Á
sang tới châu Mỹ với nền văn minh Hòa Bình tỏa rạng
khắp thế giới.
Bước sang thiên niên
kỷ thứ ba, ánh
sáng của sự thật soi rọi vào quá khứ
bị che phủ hàng ngàn năm bởi kẻ thù Hán tộc
bành trướng. Trong thiên niên kỷ
thứ hai, nhân loại sửng sốt trước cái gọi là
“Nghịch lý La Hy” khi trước đây
nhân loại cứ tưởng tất cả nền văn minh Tây phương là
của đế quốc Hy Lạp La Mã
để rồi phải xác nhận đó chính là nền văn
minh của Trung Quốc. Cuối thiên niên
kỷ thứ hai, nhân loại lại ngỡ ngàng khi thấy sự thật lịch
sử là Việt tộc là một
đại chủng và “ cái gọi là nền văn minh Trung Quốc”
lại chính là nền văn minh
của đại chủng Bách Việt.
CHÚ
THÍCH
1. J.
Needham: Science and civilization in China, Introduction. History of
Science
thought, Cambridge, England 1956.
2.
Andréas Lommel: Prehistoric“ In the South there were a number of
agratian
cultures, of which the Thai was the most powerful, becoming of most
importance
to the later China…”.
3. Đại Việt Sử Lược tác gỉa khuyết
danh, Bản dịch của Trần Quốc Vương, NXB Thuận Hoá
2001, tr 17.
4.
Lịch Sử Việt Nam tập I. NXB Đại học
và Trung học
Chuyên nghiệp, Hà Nội 1985 tr 164 và Tài
liệu 40 năm nước CHXHCNVN, NXB Sự Thật
Hà Nội). Chính vì viết sử theo nghị quyết
nên sử gia Đào Duy Anh trước khi chết
đã phải cay đắng thốt lên “Người ta biết
tôi vì lịch sử và kết án tôi cũng
vì lịch sử”.
5. G Coedès : Les Peuples de la peninsula
Indochinoise, Paris 1962. . Bình Nguyên Lộc “Nguồn gốc
Mã lai của dân tộc ta”, NXB Bách Bộc Sài Gòn,
tr 446-449.
6.
Stephen
Oppenheimer:
Eden
in
the
East,
The
Drowned
Continents of Southeast
Asia,
Pheonix, London 1998.
7.
Mitochondrial DNA provides a link
between
Polynesians and Indigeneous Taiwanese. Tréjaut, JA,
KivisildT, Lơ JH, et
al PLoS Biol. 2005 3(8) e281: “Mitochondrial DNA provides a link
between
Polynesians and indigeous Taiwanese”. Mitochondrial DNA
(Deoxyribonucleic
Acide) là thể di truyền do 4 chất căn bản sắp theo một thứ tự
nhất định cho mỗi
loài sinh vật bằng những chuỗi tiếp diễn cặp căn bản (sequence
of base pairs).
Có 2 loại DNA: DNA trong nhân và DNA trong tế
bào chất ở các cơ quan sản xuất
năng lượng Mitochondria. Haplotype là một nhóm thể di
truyền trong một vị trí
của chuỗi tiếp diễn DNA. Đột biến là (mutation) là sự
thay đổi các cặp căn bản
trong chuỗi tiếp diễn DNA. Những đột biến nhẹ không gây trở
ngại cho sự sinh trưởng
tế bàoự stái tạo cặp căn
bản. Nó giúp
chúng ta theo dõi sự tiến hóa của con người hay
sinh vật khác. Loại đột biến
này cho phép các nhà nhân chủng học
xác định thủy tổ của một số dân tộc trên
thế giới và sự di dân của họ trên 10 ngàn năm
tiền sử. Trên lý thuyết, chúng ta
mỗi người có một bản sao Mitochondrial in hệt như thủy tổ nhưng
trên thực tế
không phải như thế vì những sai lầm trong tái tạo
của các chuỗi tiếp diễn các
cặp căn bản DNA. Mỗi châu lục có một số Haplotypes
riêng biệt như châu Âu (Caucasoid)
là H, I, J, K, M,T, U, V, W và X. Châu Phi
là L, L1, L2 và L3, châu Á và
châu
Mỹ có chung Haplotypes gồm A, B, C và D.
8.
W.G.Solheim
II:
New
Light
on
a
forgotten
Past,
National Geographc Vol.139, No 3, 1971.
Reflection on the new data of Southeast
Asia
prehistory: Autronesian origins and consequence.A.P.18: 146-160. 1979a:
New
data on late Southeast Asia prehistory and their
interpretation,
JHKAS
8:73-87.
Wilhelm
G. Solheim H. Ph. D, đăng ở tạp chí
National Geographic Vol 139
n. 3
tháng 3 – 1971, dưới nhan đề “New light on Forgotten Past”.
9.
American
Journal
of
Physical
Anthropology
Vol.
No
9999
(2007), NA: “Mitochondrial DNA
diversity
and population differentiation in Southern Asia” ( Hui Li, Xiaoyun Cai,
Elizaberth r. Winograd, Bo Wen, Xu Cheng, Zhendong Tan, Li).
.
Founding
Amerindian
Mitochondrial
DNA
Lineages
I
ancient
Maya
From Xcaret,
Quintana Ro
o, Angelica Gonzales-Oliver, Lourdes Marqueze-Morfin, Jose c. Jimenez,
and
Alfonso Torres-Blanco, American Journal of Physical Anthropology,
116-230-235(2001).
10.
Amerindian
mitochondrial
DNAs
have
rate
Asian
mutations
at
hight frequences,
suggesting
they derived from four primary maternal lineages, Schurr TG, Ballinger
SW, Gan
Ỳ, Hodge JA, Merriwether DA, Lawrence DN, Knowler WC, Weiss KM, Wallace
DC, Am.
J.Hum, Genet. 1990 Mar; 46(3):613-23).
.
“The
9
bp
deletation
betwe
en
COII/tRNA
(LYS
upper) genes have be en associated
with at
least two migrations: One moved south along the Asian coastline,
eastward into
Indonesia and out into Pacific Islands (Hertzberg et al 1989). The
other
migration went North into Siberia and eventually crossed the Bering
land bridge
into the New World, yielding the Amerindians (Schurr et al 1990”.
Năm
1991,
tạp
chí
National
Geographic
nổi
tiếng
của Hoa
Kỳ đã cho ấn hành bản đồ Trung Quốc trong đó ghi
rõ sự xâm lấn bành trướng của
họ. Bản đồ “History of China” đã cung cấp một chứng liệu lịch sử
rõ ràng là
lãnh thổ Trung Quốc thời Chu rất nhỏ trên lưu vực
phía Bắc sông Hoàng Hà. Trong
khi chính National Geographic lại ghi rõ tộc Việt định cư
ở lưu vực sông Dương
Tử đã đinh cư định canh từ hơn 5 ngàn năm TDL và
là cư dân trồng lúa nước đầu
tiên trên thế giới “5000 B.C.Farmers along the Chang Jiang
(Dương Tử) are the
first to grow rice”.
Tên vùng
Thủy Phủ (Suifu)
ghi rõ trong Bản đồ
Bán đảo Đông Dương và Nam Trung Quốc của New International ATLAS of the World Geographical
Publishing Company 1949. Theo truyền thuyết
thì Bố Lạc dẫn 50 con về Thủy Phủ chính là Cảng
Thành Đô, Phủ
Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên Trung Quốc bây giờ.
Thời đó, tất cả vùng đất này còn
ngập nước mênh mông như biển ở phương Nam nên
sách sử gọi là vùng Nam Hải.
Nguồn:
nhatnguyen.yolasite.com
Phạm
Trần Anh
http://www.vietnamngaymai.wordpress.com
http://www.phamtrananh.net
Trang
mạng
Việt
Nam
Văn
Hiến
Trang : Việt Tộc
Là Một Đại Chủng
www.vietnamvanhien.net
www.vietnamvanhien.org
www.vietnamvanhien.info
www.vietnamvanhien.com
Email:
thuky@vietnamvanhien.net
Trang
mạng Việt Nam Văn Hiến là nơi bảo tồn di sản văn hóa của
Việt tộc. Thắp sáng niềm tin Diên Hồng và nếp sống
Văn Hiến hầu phục hồi nền "An Lạc
& Tự Chủ" ngàn đời cuả Việt tộc.
|
No comments:
Post a Comment