Saturday, December 15, 2018

Đánh Vần - Tiếng Việt Vỡ Lòng - Trước và sau 1975

 




Tiếng Việt Vỡ Lòng:
Đánh Vần - Trước và Sau 1975

Aug 8, '09


Phàm lệ: Để viết và đọc bài này, chúng ta mặc nhiên tuân thủ qui trình nghe-nói-đọc-viết trong việc học ngôn ngữ. Và bài này chỉ nhằm hình thành quan điểm để dạy đọc chữ Việt cho người đã biết nói tiếng Việt.

Hai tiếng “đánh vần” thường được dịch sang tiếng Anh là “spell” thực ra không đúng. “Spell” chỉ có nghĩa là gọi tên lần lượt từng chữ cái trong một chữ mà thôi. Người Âu Châu không có khái niệm “đánh vần” của Việt Nam vì họ không bao giờ “đánh vần”.

“Đánh vần” là một danh từ bình dân, có chữ “đánh” dùng trong “đánh tráo”, “đánh đu”, “đánh đàn”... Chữ “đánh vần” dùng để chỉ hoạt động nối các vần có sẵn với phụ âm đầu để thành tiếng trong khi học Việt Ngữ, hoạt động này còn được gọi là “ghép vần”. Tuy nhiên, muốn “đánh vần” thì phải thuộc lòng cách phát âm của tất cả các vần; mà việc thuộc lòng này lại đòi hỏi một quá trình học khá vất vả. Việc “đánh vần” chỉ có thể làm được sau khi “học vần” tức là học ghép âm để tạo vần.


Vần là một đơn vị âm độc lập bắt đầu bằng nguyên âm và có thể kết thúc bằng phụ âm, không phân biệt thanh điệu. (Thí dụ “người” và “cưới” có cùng vần “ươi”; “răng”, “trắng”, “bằng” có cùng vần “ăng”; và dĩ nhiên “a”, “ca”, “ba” có vần “a”.) Vần ở đây không giống vần (theo trắc bằng) trong thi ca. Sự “hiệp vần” là việc sắp xếp vần trắc bằng[1] giống nhau ở một số vị trí trong các câu thơ kế tiếp nhau. Khái niệm về “vần” thì ngôn ngữ nào cũng có (có thể tra trong appendix “Rhyme” của các từ điển). 

Đặc điểm của vần Việt Ngữ:


Vần có thể chỉ là một nguyên âm. (Như đã biết, có 11 nguyên âm viết bởi 12 mẫu tự. Tuy nhiên ă và â không thể đứng một mình để tạo thành vần vì hai chữ cái này có âm ngắn.) Có chín vần nguyên âm đơn.

1

2

3

4

5

6

7

8

9

a

e

ê

i

o

ô

ơ

u

ư


Vần có thể là nguyên âm đôi. (Không cần xét đến việc các chữ cái biến thành bán nguyên âm khi ghép). Hai âm nguyên kề nhau tạo thành vần nguyên âm đôi (có một số tổ hợp không có trong tiếng Việt như “ae”, “oê”, “io”... và có một số tổ hợp chỉ hiện hữu nếu có thêm âm sau như iê/yê, oă, uô, uâ, ươ): Có 24 vần nguyên âm đôi (nhị trùng âm, diphthong):

1

ai

hai

2

ao

bao

3

au

đau

4

ay

tay

5

âu

câu

6

ây

cây

7

eo

beo

8

êu

rêu

9

ia

bia

10

iu

thiu

11

oa

hoa

12

oe

khoe

13

oi

coi

14

oo

boong

15

ơi

bơi

16

ôi

đôi

17

ua

cua

18

huê

19

ui

chui

20

quơ tay

21

uy

duy

22

ưa

cưa

23

ưi

gửi

24

ưu

mưu



Vần có thể là nguyên âm ba. (Vần “uya” khi có phụ âm sau thì biến thành “uyê”, vậy nên “uya” không bao giờ có phụ âm sau. Vần “iêu” khi không có phụ âm phía trước mà vẫn thành tiếng thì viết thành “yêu”: “i” đổi thành “y”.) Có mười vần nguyên âm ba (tam trùng âm, triphthong):

1

iêu

liêu xiêu

2

oai

xoài, khoai

3

oay

loay hoay

4

oeo

ngoằn ngoèo

5

uôi

đuôi

6

uya

khuya

7

uây

nguẩy

8

uyu

khúc khuỷu

9

ươi

đười ươi

10

ươu

hươu


Vần có thể có phụ âm cuối. Có tám phụ âm được dùng ở cuối chữ. Chúng không được phát âm trọn vẹn mà chỉ vừa đủ để gây ảnh hưởng vào nguyên âm đứng trước. (Thế nên có người gọi các phụ âm này bằng những thuật ngữ như “tắc”, “bập vào”, “bật ra”... để nhấn mạnh rằng các phụ âm cuối này không ảnh hưởng đến nguyên âm của tiếng kế tiếp nếu có.)


1

c

ác, éc, óc, ắc

2

ch

ách, ếch, ích

3

p

áp, úp, ấp, ắp, híp, xếp

4

t

át, hét, hót, cắt, cất

5

m

am, im, bom

6

n

an, in, con

7

ng

đang, sung, leng-keng

8

nh

đanh, binh, lênh-đênh


Chỉ có một số các tập hợp nguyên âm ghép với một số phụ âm cuối nhất định chứ không ghép tự do (ví dụ không có vần “unh”; không có vần “oă” nhưng tổ hợp “oă” lại gắn với phụ âm thành “oăn” hay “oăt”, “oăc”...), thế nên số vần có phụ âm cuối không phải là

(9 nguyên âm + 24 nhị trùng + 10 tam trùng) x 8 phụ âm = 43 x 8 = 344 vần, mà trong thực tế chỉ có khoảng 163 vần. Nói “khoảng” là vì càng ngày càng có thêm vần mới được xử dụng. (Xem bảng vần ở cuối bài).
Vần tiếng Việt luôn mang thanh (ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng). Nhưng các vần có phụ âm cuối “c”, “ch”, “p”, “t” thì chỉ mang hai thanh là thanh-sắc và thanh-nặng. Nếu đếm tất cả vần mang thanh khác nhau trong thực tế sử dụng thì có khoảng 640 vần. (Không phải 160 x 6 = 960 vần).

Ghép vần:

Dùng một vần có sẵn để ghép vào sau một phụ âm nào đó để tạo thành tiếng thì được gọi là ghép vần:

Ghép vần “ười” với phụ âm “c” sẽ được tiếng “cười”; ghép vần “uống” với phụ âm “l” sẽ được tiếng “luống”, vân vân.

Một vần không ghép sau phụ âm nào cũng có thể tạo thành tiếng (tiếng này bắt đầu bằng nguyên âm): những tiếng “ao”, “ủa”, “ăn”, “uống”... chẳng hạn.

Việc “ghép vần” chỉ có thể làm được sau khi “học vần” tức là học ghép âm để tạo vần.

Có hai cách học vần:

a) Thính thị trực tiếp: Người học nghe phát âm của từng vần và nhớ thuộc lòng, không lý giải, không nhận xét tại sao vần phải được phát âm như thế. Cách này hiện rất phổ biến và hầu như là cách duy nhất để dạy tiếng Việt cho người ngoại quốc.

- Ưu điểm: là dễ dạy vì giáo viên không cần có kiến thức về ngữ âm, và không cần đi sâu vào chi tiết; nhất là khi gặp các ngoại lệ viết một đàng đọc một nẻo thì không cần giải thích.

- Nhược điểm: dẫn tới cách phát âm địa phương, đôi khi bị “nhà quê hóa”: Thầy có giọng Nghệ An thì học trò sẽ phát âm giọng Nghệ An. Rất khó học vì phải thuộc lòng đến 163 vần. Không thể phát âm được các vần tuy hợp lý nhưng không có trong tiếng Việt (như vần “ưm”, “oao” “uyn” “uýp”, “uốp”, “uym” hoặc “uêu”, “uên”). Quan trọng nhất là cách này thường dẫn đến yếu kém về chính tả (vì có nhiều âm đọc na ná như nhau).

b) Ráp từng chữ cái: Người học tự ráp các âm có trong vần từ trái sang phải, hình thành cách phát âm của mình rồi đối chiếu với vần nghe được từ người dạy. Cách này được áp dụng ở miền Nam trước những năm 1970 nhưng không biết tại sao nay chỉ còn được áp dụng bởi các gia sư hay các bậc phụ huynh dạy con tiếng Việt.

Ví dụ để học vần “oa”, người học đọc to âm “o” rồi kéo dài vào âm “a” sau nó. (Không đọc thành hai tiếng “o” và “a” rời rạc.) Gặp vần “uông”, người học đọc “u” kéo dài vào “ô” rồi “ng(ờ)” và thành “uông”.

- Nhược điểm: Người học khó hình dung được phương pháp. Dẫn đến khó dạy (khó dạy cũng vì giáo viên phải nắm vững ngữ âm học). Có nhiều ngoại lệ nên nếu sắp xếp thứ tự bài dạy không chính xác sẽ dẫn người học đến ngộ nhận. Không thể dùng cách này để giúp người ngoại quốc học tiếng Việt vì sẽ đưa họ tới cách phát âm nhừa nhựa, lơ lớ và cũng vì họ dễ đưa đặc điểm phát âm của tiếng mẹ đẻ vào.

- Ưu điểm: Người học chỉ cần nhớ âm của bộ mẫu tự Việt nên dễ học, có thể đọc được bất kỳ âm nào viết được trong tiếng Việt, không bao giờ quên vì không cần vận dụng trí nhớ. Người học có cách phát âm riêng của mình và thường là rất phân biệt nên không mắc lỗi chính tả khi viết. Ưu điểm quan trọng là việc học theo phương pháp này dẫn đến một lối phát âm rõ ràng, gọi là “lối phát âm chính tả” thường thấy trong giới khoa bảng trong bất kỳ ngôn ngữ nào (phải vào các trường đại học phương Tây mới thấy lối phát âm này, chứng tỏ người Tây phương học cách phát âm khoa bảng rất trễ, không như người Việt ta, nếu áp dụng phương pháp này thì ngay học sinh cấp Hai/ trung học đã bắt đầu có cách phát âm khoa bảng rồi.) (Tạm dùng chữ “khoa bảng” để dịch chữ “academic”.)

Ghép Âm

Ưu điểm của chữ Việt, một thứ chữ phiên âm, là nó cho phép người dùng ráp âm xuôi theo chiều đọc (từ trái sang phải) để tạo thành tiếng, đúng với cách đọc phiên âm của hệ thống IPA (International Phonetic Alphabet). Tuy có vài ngoại lệ nhưng các ngoại lệ này cũng dễ nhớ và không nhiều.

Do đó, việc ghép âm để tạo thành vần có thể được thực hiện chung với phụ âm đầu chữ và trở thành cách “đánh vần xuôi”, không đơn thuần chỉ là “ghép âm xuôi”.

Ghép âm xuôi từng âm từ trái qua phải, giống cách đọc phiên âm quốc tế, sau đó ghép thêm dấu giọng và thành tiếng: ví dụ: Rờ – ư – Rư – ơ – Rươ – u – Rươu – nặng – Rượu (đánh vần bằng âm của chữ chứ không phải bằng tên chữ).



bước 1

bước 2

bước
3

bước
4

bước 5

Ngoài

ng

ngo

ngoa

ngoai

ngoài

rượu

r

rươ

rươu

rượu

nghiêng

ngh

nghi

nghiê

nghiêng


Người học trước tiên cần nhớ âm của từng mẫu tự, cộng thêm âm của các phụ âm đơn và các phụ âm ghép như “ch”, “gi”, “gh”, “kh”, “nh”, “ph”, “qu”, “th” và “tr”. Cũng cần nhớ đặc tính của từng phụ âm cuối, phân biệt chúng với nhau bằng cách đặt môi, lưỡi đúng chỗ.

Lại cần phải chú ý đặc điểm của “y” và bốn ngoại lệ phát âm liên quan đến “a”. Cụ thể như sau:

- “y” mang âm nguyên [i:] nhưng nó làm nguyên âm đứng trước (nếu có) ngắn lại. Nên phải đọc nhanh âm nguyên trước “y”:

    “tay” đọc thành [tăi], trong khi “tai” đọc là [tai]

    “tuy” đọc thành [twi/tŭi], trong khi “tui” đọc là [tui]

    “tây” đọc thành [tâi], trong khi “tơi” đọc là [tơi]

- “cau” đọc là [kău]: âm a bị ngắn lại, khác với “cao” đọc là [kao/kau].

- “kia” đọc là [ki:ơ/kiâ] chứ không phải [ki:a]

- “xưa” đọc là [xươ/xưâ] chứ không phải [xư:a]

- “xua” đọc là [xuơ/xuâ], khác với “xoa” đọc là [xoa/xwa]

(Ghi chú: “ă” là “a” ngắn, “â” là “ơ” ngắn, “ŭ” là “u” ngắn.)

Ghép vần ngược

Xác định phần nguyên và phụ âm cuối (gọi là “vần”) trước, xong ghép phần phụ âm phía trước vào rồi bỏ dấu để thành tiếng. Ví dụ: iêng – ng(ờ) – iêng – nghiêng.


bước 1

bước 2

bước 3

Ngoài

oai

ngoai

ngoài

rượu

ươu

rươu

rượu

nghiêng

iêng

nghiêng


Cách này thoạt nghe thấy dễ vì chỉ có ba bước, thậm chí hai bước trong từ “nghiêng” không có dấu thanh, nhưng để làm được, người đọc phải thuộc lòng tất cả các vần (lên đến 163 vần.)[2]

Vài nhận xét về cách ghép vần tiếng Việt để phát âm

Không ai đọc một thứ chữ nào mà lại ngồi tỉ mỉ tẩn mẩn ghép từng chữ thành một chữ, đọc to lên rồi mới hiểu chữ đó. Thực tế quá trình đọc là chụp hình các chữ hay câu văn, nối kết chúng và hiểu nghĩa của câu. Công việc ghép vần chỉ có trong trẻ Việt bắt đầu tập đọc chữ Việt. Khi người ngoại quốc học tiếng Việt, họ có thể không cần tập hoạt động này mà sẽ học thuộc lòng từng chữ một như khi ta học tiếng Anh hay tiếng Pháp. Tuy nhiên, người Việt tập ghép vần và dần thành thói quen, rồi hình thành các quan điểm về hệ thống tiếng Việt. Có thể nói các nhận định về tiếng Việt của các nhà ngữ âm học cũng bị ảnh hưởng do quá trình ghép vần thời niên thiếu.

Sử dụng cách ghép vần ngược để dạy tiếng Việt cho trẻ em từ sau năm 1970 ở miền Nam và không biết từ hồi nào ở miền Bắc dẫn đến sự sợ hãi môn ngữ âm ở sinh viên đại học ngữ văn ngày nay. Nó cũng làm các nhà nghiên cứu ngữ âm tưởng lầm chữ Việt cũng giống như các thứ chữ của ngôn ngữ khác trong hệ thống La Tinh, đặc biệt là tiếng Anh hay tiếng Pháp có cách viết một đàng đọc một nẻo. Rồi họ phải mượn các ký hiệu phiên âm của IPA để phiên âm lại chữ Việt. Điều này giống chuyện tìm cách phiên âm các ký hiệu phiên âm.

Không thể đánh vần xuôi trong tiếng Anh. Khi đọc lên mà cứ phát âm từ từ theo thứ tự chữ cái thì rối tung: ha đọc là [ha], nhưng hat đọc là [hæt], rồi hate lại đọc là [hêt]; hay he đọc là [hi] nhưng her là [hơ:] và here lại là [hiơ:]. Chưa nói đến việc những chữ có cách phát âm đúng luật rất hiếm. Thế nên người học tiếng Anh có cái khổ là phải học thêm bộ ký tự phiên âm quốc tế. (Khốn thay bộ ký tự này lại ngày càng cải thiện, thay đổi liên tục.) Hay tiếng Pháp: “femme” lại đọc là [fa:m], “un” đọc là [œõ] nhưng “une” lại là [yšn]. Thế nên con nít Anh Pháp lệ thuộc vào cách đánh vần ngược khi học mẫu giáo: tất cả những chữ có đuôi giống nhau thì phát âm giống nhau: cat, bat, hat, fat, pat, rat cùng vần [æt]; bate, hate, fate, late, rate cùng vần [êt]; une, lune, prune cùng vần [yšn]; vân vân... Nhưng tiếng Việt không thế: tổ hợp “oa” chẳng hạn, dù sau nó có thế nào đi nữa thì nó vẫn mang âm [oa] như “oan” [oan], “oai” [oai], “oam” [oam], “oạch” [oạch], người đọc có thể yên chí về âm của phần đã ráp được, chỉ lo đi tiếp tới âm phía sau cho đến khi xong chữ.

Có ý kiến cho rằng việc ghép vần xuôi cho ra cách phát âm buồn cười do đọc chậm quá, như “cười” biến thành “cư-ời” hay “cừa-i”. Điều này có thể xảy ra nhưng do người đưa ra ý kiến đó chưa hiểu cách đọc phiên âm hoặc chưa có kinh nghiệm tự thân đọc phiên âm khi học ngoại ngữ. Nếu người này tra phiên âm tiếng Anh rồi đọc to lên thì mọi người sẽ “cưa-ì” vào mặt anh ta. Chẳng hạn “scout” có phiên âm [skaut] lại đọc thành “sờ-ca-út” hay “sờ-cau-tờ” hoặc thậm chí “sậc-cáo-tờ” (nghe như “suck out her”) thì người ta sẽ không biết anh ta bú cái gì ra. Ý kiến nói trên phát xuất chẳng qua là từ thói quen “lấy thúng úp voi” đó thôi. Muốn đọc phiên âm trước hết phải từ từ, sau khi các âm đã lần lượt vang đủ trong đầu rồi mới phát âm nhanh lên, phải chấp nhận việc nhị trùng âm biến thành hai vần, rồi đọc nhanh hai vần đó thì sẽ có nhị trùng âm; trường hợp tam trùng âm cũng thế: từ ba vần thành hai trong đó có một nhị trùng, rồi mới thành một vần tam trùng âm do phát âm nhanh một lèo cả ba âm rời rạc với nhau.

Điều tệ hại của việc dạy ghép vần ngược là nó làm phân hóa đến tận gốc rễ cách phát âm của người dân, ai cũng cho tiếng địa phương mình dùng là chuẩn. Dẫn tới hiện tượng quái đảng “giọng chuẩn Hà Nội”, “giọng chuẩn Sài Gòn”. Thế thì thế nào là giọng chuẩn Huế, chuẩn Mỹ Tho, chuẩn Quảng Nam?... Mới đây ở Việt Nam lại thấy có ý kiến nên lấy giọng Hà Nội làm giọng chuẩn cho xướng ngôn viên đài truyền hình Việt Nam. Hãy nghe giọng Hà Nội bây giờ: “Chủng em giất xung xưởng được chân chọng mời bác vào xơi chẻn giệu.” [3] Nếu đây là giọng chuẩn thì mai kia cứ phải đúng từng chữ và từng dấu giọng này mà viết tiếng Việt, đúng như cái câu trên, “Chủng em... giệu”! Sách “Việt Ngữ Chính Tả Tự Vị” phải được làm lại từ đầu đến cuối. Mà rồi khi cứ cố tình bắt lấy đây là giọng chuẩn thì cả nước có sẽ nói được cái giọng chuẩn này không nếu như con nít cứ tiếp tục học cách đánh vần ngược.

Sự phân hóa này xảy ra do người học bắt chước hoàn toàn đặc điểm phát âm của người dạy. Thầy người Nam dạy phát âm “cau” giống “cao”, “anh” giống “ăn”; trong khi thầy người Bắc lại đọc “rượu” như “diệu”, “cừu” thành “kìu”, “nướu” thành “niếu”... và vô số lỗi phát âm nữa của từng vùng. Cần nhớ là khi ghép vần xuôi, mọi người đọc đều chỉ cần tôn trọng có 12 âm nguyên cơ bản mà thôi. Trong chừng mực nào đó có thể nói dù thầy đọc mẫu sai, trò vẫn có thể phát đúng âm do trò đọc theo con chữ trên giấy chứ không nhái lại theo thầy. (Có em học trò lớp Hai đã bắt lỗi cô giáo khi cô đọc chữ “mênh mông” là “mên môông”.) Nếu tất cả học sinh đều học theo cách này thì trong tương lai sự khác biệt giữa các “giọng chuẩn” sẽ ngày càng thu hẹp lại. Điều này đã xảy ra trong khuôn viên các trường đại học Mỹ: dù sinh viên là người miền nào đi nữa thì khi phát ngôn chính thức họ cũng phát âm đúng theo phiên âm trong tự điển. Có thể so sánh với cách phát âm của các vị giáo sư trẻ Việt Nam, mỗi vị một vẻ, để thấy là dân ta chưa chú trọng đến điều này.

Và những người chủ trương ghép vần ngược (nhắc lại: ghép vần ngược là cách ghép phụ âm đầu với vần biết sẵn) sẽ làm sao để đọc chữ “hừm” khi chữ này lần đầu tiên xuất hiện trong các sách truyện, dịch âm chữ “hm” của tiếng Pháp? Hay khi cặp chữ “màn/mùng tuyn” xuất hiện trên thị trường để chỉ loại màn/mùng chống muỗi bằng sợi tổng hợp nhẹ bền thời đó thì họ đọc từ “tuyn” thế nào? Làm sao họ đọc chữ “goào” gần đây phiên âm từ chữ “wow”, một thán từ của Anh?... Các vần “ưm”, “uyn”, “oao”, vân vân tuy đều có thể đọc được nhưng lại không có trong ngôn ngữ Việt thuần, tức là không có trong bộ vần mẫu, thì làm sao học cách đọc được. Mặc dù vẫn có vần “uynh” (khuynh đảo, khuỳnh khuỳnh hai cánh tay...),[4] và vẫn có từ “quào” (phát xuất từ vần “oào”) ráp bởi “qu” và “ào”, mà tiếng Bắc là “cào”.[5]

Một ví dụ nữa là chữ “tuýp” trong “đèn tuýp” mà người miền Nam hay gọi là “đèn típ”, hay tên nhà văn Mỹ đã được phiên thành “Mác Tuên”; vần “uýp” và “uên” cũng không có mặc dù có chữ “quên”, nhưng “quên” là do ráp “ên” vào với “quờ” chứ không phải “uên” vào với “cờ”.

Nhìn vào đặc điểm này của việc ghép vần ngược để thấy rằng phương pháp này làm hạn chế sự sáng tạo trong cách viết chữ Việt, đóng khung tiếng Việt trong số vần đã có, làm tiếng Việt ngày càng “giàu đẹp” theo hướng ngược lại.[6]

Nói cho cùng, trong thực tế không ai ghép vần ngược, mà, khi tập đọc theo cách ghép vần ngược, như chữ “khoai” chẳng hạn, ai cũng đọc theo thứ tự sau đây mà không để ý đó là mượn từ cách ghép xuôi: “o, a, i, oai, khờ, oai, khoai.” Rõ ràng ba bước đầu tiên là xuôi. Rồi bước cuối cùng cũng là xuôi khi ghép hai yếu tố phụ âm và vần vào với nhau. Đã xuôi lại còn ngược làm gì cho khổ người học khi bắt anh ta mỗi lần nhìn vào một chữ là phải nhìn phía sau trước. Vì: Khi ngưng ở “oai” để nhìn lại phụ âm “khờ”, người học đôi khi quên tuốt là mình vừa ghép được vần gì trước đó để bây giờ ghép với “khờ”. Nếu dạy lớp Một, ai cũng thấy điển hình này.

Cách ghép vần xuôi tuyệt đối không làm người học mắc phải lúng túng này. Nó liên tục từ đầu đến khi xong chữ. Nó cũng cho phép phát âm được tất cả các vần có thể có khi dùng bộ chữ Việt, và một ưu điểm nữa là sau khi đã thành thạo phương pháp ghép vần xuôi, người học có thể đọc phiên âm quốc tế để biết cách phát âm ngoại ngữ, không như ví dụ “sậc-cáo-tờ” ở trên.

Lợi điểm của cách học vần xuôi khi áp dụng vào việc viết

Đọc thông chưa chắc sẽ viết thạo.

Lợi điểm của cách học vần xuôi khi áp dụng vào việc viết

Đọc thông chưa chắc sẽ viết thạo. Thử tượng tượng khi bạn phải viết tiếng Anh mà không có tự điển bên cạnh. Nếu coi chữ Việt như các thứ chữ bình thường khác, ta cũng sẽ rất ngại viết tiếng Việt khi không có một cuốn tự điển tốt trong tầm tay. Bản thân người viết đã từng đến dự một buổi lễ có tựa đề to tướng dán trên sân khấu là “Hội Nghị Tổng Kết Nghành Giáo Dục Huyện Bình Chánh” (sic). May quá, chữ kia không phải “ngị”! Sai sót này cũng giống trong một giai thoại về Tổng Thống Clinton của Hoa Kỳ khi làm giám khảo một kỳ thi chính tả cho một trường tiểu học nào đó, ông đã chấm đúng cho một học sinh viết số nhiều của khoai tây là “potatos”.[7] Vấn đề ở đây là cuộc thi của trường tiểu học đó là trò trẻ con và ông Clinton không phải là một nhà giáo dục. Không thể vin vào giai thoại này để xuê xoa nói là đến tổng thống còn sai nói chi dân thường.[8] Vấn đề chính tả ở bất kỳ ngôn ngữ nào cũng đều khó khăn và đặc biệt trong việc viết chữ Việt bây giờ, mặc dù lẽ ra nó đã không khó đến thế.

Một khi nắm vững cách ghép vần, có thể nói việc viết một chữ tiếng Việt là quá dễ, ít nhất là về mặt ngữ âm, không xét đến các qui luật chính tả của các chữ có gốc Hán. Điều này hẳn nhiên là một điểm ưu việt tuyệt đối so với các thứ chữ khác trên thế giới. Cứ việc theo sát cách đọc mà viết ra, xuôi theo thứ tự phát âm. Thí dụ khi phải viết chữ “hếu” trong “trắng hếu”, chứ không phải “hiếu” trong “trung hiếu”. Trong chữ trước, “trắng hếu”, khi nói lên không có âm hưởng của “i” nên trong chữ hếu không có chữ “i”.

Còn rõ ràng khi phát âm chậm chữ sau, “trung hiếu”, ta nghe rõ ràng có âm “i” trước âm “ê” rồi tận cùng bằng âm “u”. Kể cũng buồn cười, xét vấn đề ngược lại, ngày nay chúng ta sẽ bảo viết “con tim” là sai vì tất cả các ca sĩ đều hát là “con tiêm”, hay “chiều tím” sẽ phải viết lại thành “chiều tiếm” nếu như chúng ta không nghiêm khắc nhận xét và phê bình các hiện tượng quái đảng không biết học hết tiểu học/cấp Một chưa mà đã trở thành thần tượng của bao nhiêu thiếu niên mê ca nhạc.


Phụ Lục: Các vần tiếng Việt:

Theo cách sắp thứ tự của Unicode, các dấu âm (dấu mũ, dấu trăng và râu) được kể là các dấu phụ nên bảng vần được liệt kê theo thứ tự sau:


a, ac, âc, ăc, ach, ai, am, âm, ăm, an, ân, ăn. ang, âng, ăng, anh, ao, ap, âp, ăp, at, ât, ăt, au, âu, ay, ây,

e, ê, ec, êc, êch, em, êm, en, ên, eng, ênh, eo, ep, êp, et, êt, êu,

i, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iêt, iêu, im, in, inh, ip, it, iu,

o, ô, ơ, oa, oac, oăc, oach, oai, oăm, oan, oăn, oang, oăng, oanh, oao, oap, oat, oăt, oay, oc, ôc, ơc, oe, oen, oeo, oet, oi, ôi, ơi, om, ôm, ơm, on, ôn, ơn, ong, ông, oong, op, ôp, ơp, ot, ôt, ơt,

u, ư, ua, ưa, uân, uât, uây, uc, ưc, uê, uêch, uênh, ui, ưi, um, ưm, un, ưn, ung, ưng, uơ, uôc, ươc, uôi, ươi, uôm, ươm, uôn, uơn, ươn, uông, ương, ươp, uôt, uơt, ươt, ươu, up, ưp, ut, ưt, ưu, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uyêt, uyn, uynh, uyp, uyt, uyu,

y, yêm, yên, yêng, yêt,

(Sáu vần này, thực tế là sáu tiếng và không dùng để ghép, chỉ thêm dấu thanh mà thôi, trừ “y”.)


HỒNG ĐỨC

23/11/2007




[1] Thanh bằng gồm ngang và huyền; thanh trắc gồm các thanh khác.

[2] Xem Phụ Lục. Tuy nhiên ở con trẻ, thuộc lòng 163 vần này không khó; những đứa trẻ thông minh, kết hợp việc nghe đọc truyện và xem truyện có thể thuộc lòng tất cả vần tiếng Việt trong khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Thậm chí có bé (ở Sơn La) 5 tuổi chỉ xem hát Karaoke cũng thuộc và tự ghép vần để đọc báo được.

[3] Không đưa thêm lỗi “nờ thấp nờ cao” vào câu diễu này vì không nhiều người Hà Nội mắc lỗi này. (?)

[4] Nên có người viết “màn tuynh”

[5] Nhưng “cào” chỉ đơn thuần tả hành động cố cắm sâu vào và kéo rách mà không diễn tả được đường nét cong quẹo của hành động như “quào”.

[6] Mai kia sẽ không có người dám sáng chế ra chữ mới như Nguyễn Ngọc Tư. Hãy nhớ tới sự sáng tạo khi đọc chữ “ầng ậc” của cô: nó có gì đó giống “ừng ực” của hành động uống, nó làm ta liên tưởng đến nước, nhiều nước, nhưng không phải đang “ùng ục” hay “òng ọc” chảy mà chỉ chực tuôn ra “ồng ộc” vì đã đầy ứ, đầy ắp, nó cũng có gì đó gần với sự tắc nghẹn của “ằng ặc” nhưng câm chứ không thành tiếng, nghẹn là vì muốn tuôn ra mà ra không được. (“... đôi mắt ông đã ầng ậc nước...”)

[7] Đúng ra là “potatoes”.

[8] Điều này làm tôi nhớ là người ta bây giờ hay lấy tổng thống Mỹ ra để so sánh với những kẻ lãnh đạo phát xít mới, quên rằng tổng thống Mỹ chỉ là một người làm công ăn lương cho dân Mỹ mà thôi, mặc dù lương và chức vụ cao. Hết hạn là bị nghỉ việc.




 

***************************************************

 

Đọc thêm

Nỗi Buồn Tiếng Việt Thời Cộng Sản
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/noi-buon-tieng-viet-thoi-cs12082015vi.html

 

Việt cộng và Chữ Việt sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/viet-cong-va-chu-viet-sau-1975-viec-sua.html

 

Chữ Nghĩa Việt Cộng
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

Tiếng Việt và Tiếng Vẹm
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/tieng-viet-va-tieng-vem-tieng-viet-va.html

 

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet.html

 

 

Thursday, December 6, 2018

Giao Chỉ và Tượng Quận

Cái Chết Của Một Ngôn Ngữ: Tiếng Việt Sài Gòn Cũ
4




Trịnh Thanh Thủy

Vấn đề ngôn ngữ là vấn đề của muôn thuở, không riêng gì của người Việt. Trong bài viết này, tôi muốn bàn về một thực trạng của tiếng Việt mà đã đến lúc, chúng ta không thể không suy nghĩ về nó một cách nghiêm túc. Đó là nguy cơ diệt vong của một thứ tiếng Việt mà người miền Nam Việt Nam dùng trước năm 1975 hay còn được gọi là tiếng Việt Sài Gòn cũ. Thứ tiếng Việt đó đang mất dần trong đời sống hàng ngày của người dân trong nước và chẳng chóng thì chầy, nó sẽ biến thành cổ ngữ, hoặc chỉ còn tìm thấy trong tự điển, không còn ai biết và nhắc tới nữa. Điều tôi đang lo lắng là nó đang chết dần ngay chính trong nước chứ không phải ở ngoài nước. Người Việt hải ngoại mang nó theo hành trình di tản của mình và sử dụng nó như một thứ ngôn ngữ lưu vong.

Nếu người Việt hải ngoại không dùng, hay nền văn học hải ngoại không còn tồn tại, nó cũng âm thầm chết theo. Nhìn tiếng Việt Sài Gòn cũ từ từ biến mất, lòng tôi bỗng gợn một nỗi cảm hoài. Điều tôi thấy, có lẽ nhiều người cũng thấy, thấy để mà thấy, không làm gì được. Sự ra đi của nó âm thầm giống như những dấu tích của nền văn hóa đệ nhất, đệ nhị cộng hòa Việt Nam vậy. Người ta không thể tìm ra nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, Cổ Thành Quảng Trị, nghĩa trang Quân Đội, trường Võ Bị Thủ Đức v. v... Tất cả đã thay đổi, bị phá hủy hoặc biến đi như một phá hoại của những con người ngạo mạn giành phần thống trị.

Nhắc đến tiếng Việt Sài Gòn cũ là nhắc tới miền Nam Việt Nam trước 1975. Vì cuộc đấu tranh tự do dân chủ mà Nam, Bắc Việt Nam trước đó bị phân đôi. Sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm năm 1975, miền Nam thực sự bước vào sự thay đổi toàn diện. Thể chế chính trị thay đổi, kéo theo xã hội, đời sống, văn hóa và cùng với đó, ngôn ngữ cũng chịu chung một số phận. Miền Bắc thay đổi không kém gì miền Nam. Tiếng Việt miền Bắc đã chịu sự thâm nhập của một số ít ngữ vựng miền Nam. Ngược lại, miền Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp sự chi phối của ngôn ngữ miền Bắc trong mọi lãnh vực. Nguời dân miền Nam tập làm quen và dùng nhiều từ ngữ mà trước đây họ không bao giờ biết tới. Những chữ:

đề xuất,
bồi dưỡng,
kiểm thảo,
sự cố,
hộ khẩu,
căn hộ,
ùn tắc,
ô to con,
xe con,
to đùng,
mặt bằng,
phản ánh,
bức xúc,
chất lượng,
tiêu dùng,
tận dụng tốt,
đánh cược,
chỉ đạo,
quyết sách,
đạo cụ,
quy phạm,
quy hoạch,
bảo quản,
kênh phát sóng,
cao tốc,
doanh số,
đối tác,
thời bao cấp,
chế độ bao cấp,
chế độ xem,
chế độ ăn uống,
chế độ số,
xuống cấp,
nâng cấp,
lực công,
nền công nghiệp,
công nghệ,
âm nhạc,
chùm ảnh,
chùm thơ,
nhà cao tầng,
đáp án,
phồn thực,
sinh thực khí,
từ vựng,
tính từ,
hội chứng,
phân phối,
mục từ,
kết từ,
đại từ,
từ,
nghệ sĩ ưu tú,
nghệ sĩ nhân dân,
nghệ nhân v.v...


dần dà đã trở thành những từ ngữ được cán bộ lập đi lập lại, đến nỗi lấn át từ ngữ cũ trong đời sống hàng ngày của người dân miền Nam.

Có những từ ngữ miền Nam và miền Bắc trước 1975 đồng nghĩa và cách dùng giống nhau. Có những từ cùng nghĩa nhưng cách dùng khác nhau. Tỷ như chữ:

"quản lý" là trông nom, coi sóc.

Miền Nam chỉ dùng chữ này trong lãnh vực thương mại, trong khi miền Bắc dùng rộng hơn trong cả lãnh vực cá nhân như một người con trai cầu hôn một người con gái bằng câu:

"Anh xin quản lý đời em".

Hoặc chữ "chế độ" cũng vậy, miền Nam chỉ dùng trong môi trường chính trị như "chế độ dân chủ", thì Miền Bắc dùng bao quát hơn trong nhiều lãnh vực như "chế độ xem", "chế độ bao cấp", "chế độ ăn uống". Có những chữ miền Bắc dùng đảo ngược lại như:

đơn giản - giản đơn;
bảo đảm - đảm bảo;
dãi dầu - dầu dãi;
vùi dập - dập vùi. v.v...

Song song với việc thâu tóm miền nam, nhà cầm quyền cũng đặt kế sách, chương trình "cải cách tiếng Việt" và hệ thống hóa tiếng Việt và gọi đó là "tiếng Việt toàn dân".

Cuối năm 1979, đầu năm 1980, Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam đã phối hợp với Viện Khoa học Giáo dục tổ chức một số cuộc hội thảo về vấn đề "cải cách tiếng Việt" để chuẩn hóa tiếng Việt theo kế sách của chế độ mới. Bộ Giáo dục cũng thông qua một số quy định về cách viết chính tả theo cách “mới” trong sách giáo khoa ‘cải cách giáo dục’.
Ngày 01/7/1983, Quyết Nghị của Hội Đồng chuẩn hóa chính tả và Hội Đồng chuẩn hóa thuật ngữ đã được ban hành và áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục.

Khi tiếng Việt được "đồng nhất" và "chuẩn hóa" của "kẻ cai trị", thì toàn quốc sử dụng chung một thứ ngôn ngữ theo một tiêu chuẩn của chế độ mới, mẫu mực nhất định của nhà nước. Tiếng Việt Sài Gòn cũ, gồm những từ ngữ mà tiếng Việt miền Bắc đã có từ ngữ thay thế, sẽ bị quên đi hoặc bị đào thải.

Những từ ngữ thông dụng cho cuộc chiến trước đó sẽ biến mất trước tiên.
Những chữ:
trực thăng,
cộng quân,
tác chiến,
địa phương quân,
thiết vận xa,
xe jeep
xe nhà binh,
lạnh cẳng,
giới chức (hữu) trách,
cơ quan công quyền
dứt điểm,
phi tuần,
chào bãi,
tuyến phòng thủ,
trái bộc pha,
viễn thám,
binh chủng,
phi hành,
gia binh,
ấp chiến lược,
nhân dân tự vệ,
phi trường
Hàng không mẫu hạm
căn cứ
cấp bậc
chiêu hồi,
chiêu mộ,
động viên
nhập ngũ v.v…


hầu như ít, thậm chí không được dùng trong hiện tại.

Những chữ thông dụng khác như:

ghi danh,
đi xem
viếng cảnh
vãng cảnh

đã bị thay thế bằng:

đăng ký,
tham quan.
đi dã ngoại
đi phượt

Nhiều từ ngữ dần dần đã bước vào quên lãng như:

sổ gia đình,
tờ khai gia đình,
phản ảnh,
đường rầy,
cao ốc,
bằng khoán nhà,
tĩnh từ,
đại danh từ,
chủ từ
túc từ,
giới từ,
khảo thí,
khán hộ,
khao thưởng,
hữu sự,
khế ước,
trước bạ,
tư thục,
biến cố,
du ngoạn,
ấn loát,
làm phong phú,
liên hợp,
gá nghĩa,
giáo học,
giáo quy,
hàm hồ,
tráng lệ,
thám thính,
tư thất,
chẩn bệnh,
chi dụng,
giới nghiêm,
thiết quân luật,
tam cá nguyệt
bán nguyệt
v. v......

Ở hải ngoại, khi bắt đầu cầm bút, trong tâm thức một người lưu vong, viết, đối với tôi, là một động tác mở để vỡ ra một con đường: Đường hoài hương.

Nhiều người viết hải ngoại cũng tìm đến con đường về cố hương nhanh nhất này như tôi. Hơn nữa, để đối đầu với cơn chấn động văn hóa thường tạo nhiều áp lực, tôi xem viết như một phương pháp giải tỏa và trám đầy nỗi hụt hẫng, rỗng không của một người vừa ly hôn với quê hương đất tổ sau một hôn phối dài. Tôi không bao giờ để ý đến việc mình viết cho ai, loại độc giả nào, trong hay ngoài nước, và họ có hiểu thứ ngôn ngữ mình đang dùng hay không vì lúc đó, chỉ có một vài tờ báo điện tử liên mạng mới bắt đầu xuất hiện ở hải ngoại.

Sau này, nhờ kỹ thuật điện toán ngày một phát triển, giao cầu lưu giữa trong và ngoài nước được nối lại, độc giả trong và ngoài nước đã có cơ hội tiếp xúc, thảo luận, đọc và viết cho nhau gần như trong gang tấc. Đó là lúc tôi được tiếp xúc với dòng văn học trong nước và làm quen với nhiều từ ngữ mới lạ chưa từng được nghe và dùng. Ngược lại, trong nước cũng vậy, số người lên mạng để đọc những gì được viết bởi người cầm bút ngoài nước cũng không ít.

Thế hệ chúng tôi được người ta âu yếm gọi là thế hệ một rưỡi, thế hệ ba rọi hay nửa nạc nửa mỡ, cái gì cũng một nửa. Nửa trong nửa ngoài, nửa tây nửa ta, nửa nam nửa bắc, nửa nọ nửa kia, cái gì cũng một nửa.

Do đó, nhiều lúc tôi phân vân không biết mình nên dùng nửa nào để viết cho thích hợp nữa. Nửa của những từ ngữ Sài Gòn cũ hay nửa của tiếng Việt thông dụng trong nước? Mình có nên thay đổi lối viết không? Tôi nghĩ nhiều người viết hải ngoại cũng gặp khó khăn như tôi và cuối cùng, mỗi người có một lựa chọn riêng. Không chỉ trong lãnh vực văn chương, thi phú mà ở các lãnh vực phổ thông khác như giáo dục và truyền thông cũng va phải vấn đề gay go này.

Việc sử dụng nhiều từ ngữ thông dụng của quốc nội ở hải ngoại đã gặp nhiều chống đối và tạo ra những cuộc tranh luận liên miên, dai dẳng.

Các cơ quan truyền thông như báo chí, truyền thanh, truyền hình thường xuyên bị chỉ trích và phản đối khi họ sử dụng những từ trong nước bị coi là "chữ của Việt Cộng" và được yêu cầu không nên tiếp tục dùng. Nhất là ở Nam Cali, báo chí và giới truyền thông rất dễ bị chụp mũ "cộng sản" nếu không khéo léo trong việc đăng tải và sử dụng từ ngữ. Chiếc mũ vô hình này, một khi bị chụp, thì nạn nhân xem như bị cộng đồng tẩy chay mà đi vào tuyệt lộ, hết làm ăn vì địa bàn hoạt động chính là cộng đồng địa phương đó.

Trong cuốn DVD chủ đề 30 năm viễn xứ của Thúy Nga Paris, chúng ta được xem nhiều hình ảnh cộng đồng người Việt hải ngoại cố gìn giữ bản sắc văn hoá Việt Nam bằng cách mở các lớp dạy Việt ngữ cho các con em. Khắp nơi trên thế giới, từ nơi ít người Việt định cư nhất cho tới nơi đông nhất như ở Mỹ, đều có trường dạy tiếng Việt. Riêng ở Nam California, Mỹ, hoạt động này đang có sự khởi sắc. Ngoài những trung tâm Việt ngữ đáng kể ở Little Saigon và San José, các nhà thờ và chùa chiền hầu hết đều mở lớp dạy Việt ngữ cho các em, không phân biệt tuổi tác và trình độ. Nhà thờ Việt Nam ở Cali của Mỹ thì rất nhiều, mỗi quận hạt, khu, xứ đều có một nhà thờ và có lớp dạy Việt ngữ. Chùa Việt Nam ở Cali bây giờ cũng không ít. Riêng vùng Westminster, Quận Cam, Cali, đi vài con đường lại có một ngôi chùa, có khi trên cùng một con đường mà người ta thấy có tới 3, 4 ngôi chùa khác nhau. Việc bảo tồn văn hóa Việt Nam được các vị hướng dẫn tôn giáo như linh mục, thượng tọa, ni sư nhắc nhở giáo dân, đại chúng mỗi ngày. Lớp học tiếng Việt càng ngày càng đông và việc học tiếng Việt đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của cộng đồng lưu vong. "Tại Trung tâm Việt ngữ Hồng Bàng, năm nay số học sinh nhập học tiếng Việt lên tới 700 em. Những thầy cô dạy tiếng Việt đều làm việc thiện nguyện hoàn toàn, đã hết lòng chỉ dạy cho các em, nhất là các em vừa vào lớp mẫu giáo tiếng Việt" (trích Việt báo, Chủ nhật, 9/24/2006)

Về vấn đề giáo trình thì mỗi nơi dạy theo một lối riêng, không thống nhất. Sách giáo khoa, có nơi soạn và in riêng để dạy hoặc đặt mua ở các trung tâm Việt ngữ. Còn ở đại học cũng có lớp dạy tiếng Việt cho sinh viên, sách thường được đặt mua ở Úc. Một giảng sư dạy tiếng Việt tâm sự với tôi: "Khi nào gặp những từ ngữ trong nước thì mình tránh đi, không dùng hoặc dùng từ thông dụng của Sài gòn cũ trước 75 vì nếu dùng cha mẹ của sinh viên, học sinh biết được, phản đối hoặc kiện cáo, lúc ấy phải đổi sách thì phiền chết."

Sự dị ứng và khước từ việc sử dụng tiếng Việt trong nước của người Việt hải ngoại có thể đưa tiếng Việt ở hải ngoại đến tình trạng tự mình cô lập. Thêm nữa, với sự phát triển rầm rộ của kỹ thuật điện toán và thế giới liên mạng, báo chí, truyền thông của chính người Việt hải ngoại đến với mọi người quá dễ dàng và tiện lợi. Độc giả cứ lên mạng là đọc được tiếng Việt Sài Gòn cũ nên họ dường như không có nhu cầu tìm hiểu tiếng Việt trong nước. Kết quả là tiếng Việt trong và ngoài nước chê nhau!!!

Việc người Việt hải ngoại chống đối và tẩy chay ngôn ngữ Việt Nam đang dùng ở trong nước có vài nguyên do:

Thứ nhất là do sự khác biệt của ý thức hệ/chính thể. Những người Việt Nam lưu vong phần lớn là người tị nạn chính trị. Họ đã từ bỏ tất cả để ra đi chỉ vì không chấp nhận chế độ cộng sản nên từ chối dùng tiếng Việt trong nước là gián tiếp từ chối chế độ cộng sản.

Thứ hai, sự khác biệt của từ ngữ được dùng trong cả hai lãnh vực ngữ nghĩa và ngữ pháp. Đây là một thí dụ điển hình. Trong cùng một bản tin được dịch từ một hãng thông tấn ngoại quốc, nhà báo ở trong nước và ngoài nước dịch thành hai văn bản khác nhau:

Trong nước:

Tàu ngầm hạt nhân Nga bốc cháy

Interfax dẫn một nguồn tin Hải quân Nga cho hay ngọn lửa bắt nguồn từ phòng điện hóa và dụng cụ bảo vệ lò hạt nhân đã được kích hoạt, do đó không có đe dọa về nhiễm phóng xạ. Phát ngôn viên hạm đội này cho hay:
"Lửa bốc lên do chập điện ở hệ thống cấp năng lượng phần mũi tàu.


(http://vnexpress.net/Vietnam/The-gioi/2006/09/3B9EDF89/)

Ngoài nước:

Hỏa hoạn trên tàu ngầm Nga

Hải quân Nga nói rằng lò phản ứng hạt nhân trên tàu Daniil Moskovsky đã tự động đóng lại và không có nguy cơ phóng xạ xảy ra. Chiếc tàu đã được kéo về căn cứ Vidyayevo. Nguyên nhân hỏa hoạn có thể do chạm dây điện.


(http://www.nguoi-viet.com/absolutenm...p?a=48362&z=75)

Một người Việt hải ngoại khi đọc văn bản thứ nhất sẽ gặp những chữ lạ tai, không hiểu nghĩa rõ ràng vì sự khác biệt như những chữ: phòng điện hóa, được kích hoạt, chập điện, hệ thống cấp năng lượng...

Hơn thế nữa, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa thông thương giao dịch với quốc tế; những từ ngữ mới về điện toán, kỹ thuật, y khoa, chính trị, kinh tế, xã hội, ồ ạt đổ vào. Có nhiều từ ngữ rất khó dịch sát nghĩa và thích hợp nên mạnh ai nấy dịch. Ngoài nước dịch hai ba kiểu, trong nước bốn năm kiểu khác nhau, người đọc cứ tha hồ mà đoán nghĩa. Có chữ thà để ở dạng nguyên bản, người đọc nhiều khi còn nhận ra và hiểu nghĩa nó nhanh hơn là phiên dịch.

Trong việc phiên dịch, theo tôi, địa danh, đường phố, tên người nên giữ nguyên hơn là phiên dịch hay phiên âm. Nếu có thể, xin chú thích từ nguyên bản ngay bên cạnh hay đâu đó bên dưới bài viết sẽ giúp người đọc dễ theo dõi hay nhận biết mặt chữ. Tỷ như việc phiên âm các địa danh trên bản đồ trong sách giáo khoa của Bộ Giáo dục trong nước là việc đáng khen nhưng tôi nghĩ, nếu đặt từ nguyên thủy lên trên từ phiên âm thì các em học sinh chưa học tiếng Anh hoặc đã học tiếng An sẽ dễ nhận ra hơn. Xin lấy tỉ dụ là những địa điểm được ghi trên tấm bản đồ này. (http://i12.photobucket.com/albums/a2...hualuonJPG.jpg)

Tôi thấy một hai địa danh nghe rất lạ tai như Cu dơ Bây, Ben dơ mà không biết tiếng Mỹ nó là cái gì, ngồi ngẫm nghĩ mãi mới tìm ra: đó là hai địa danh Coos Bay và Bend ở tiểu bang Oregon, nước Mỹ!

Ngôn ngữ chuyển động, từ ngữ mới được sinh ra, từ cũ sẽ mất đi như sự đào thải của định luật cung cầu. Tiếng Việt Sài Gòn cũ ở trong nước thì chết dần chết mòn; ở ngoài nước, nếu không được sử dụng hay chuyển động để phát sinh từ mới và cập nhật hóa, nó sẽ bị lỗi thời và không còn thích ứng trong hoạt động giao tiếp nữa. Dần dà, nó sẽ bị thay thế bằng tiếng Việt trong nước. Nhất là trong những năm gần đây, sự chống đối việc sử dụng tiếng Việt trong nước ngày càng giảm vì sự giao lưu văn hóa đã xảy ra khiến người ta quen dần với những gì người ta đã phản đối ngày xưa. Tạp chí, sách, báo đã đăng tải và phổ biến các bản tin cũng như những văn bản trong nước. Người ta tìm được nhiều tài liệu, ấn phẩm, sách nhạc quốc nội được bày bán trong các tiệm sách. Các đài truyền thanh phỏng vấn, đối thoại với những nhà văn, nhà báo, chính trị gia và thường dân trong nước thường xuyên. Đặc biệt, giới ca sĩ, nhiều người nổi tiếng "chuẩn hóa" này khi ra hải ngoại lưu diễn, đi đi về về như cơm bữa. Giới truyền thông bây giờ sử dụng từ ngữ trong nước rất nhiều, có người mặc cho thiên hạ chỉ trích, không còn ngại ngùng gì khi dùng từ nữa. Khán thính giả có khó chịu và chê trách, họ chỉ giải thích là thói quen đã ăn vào trong máu rồi, không chịu thì phải ráng mà chịu.

Sự ra đi của một chế độ kéo theo nhiều thứ: con người, tài sản, nhà cửa, vườn tược, lịch sử… nhưng có cái bị lôi theo mà người ta không ngờ nhất lại là "cái chết của một ngôn ngữ". Đau lòng lắm thay!

Mời các bạn nghe Audio Cái chết của một ngôn ngữ

===============================

Nỗi Buồn Tiếng Việt
Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian, theo sinh hoạt xã hội. Mỗi ngày, từ những đổi mới của đời sống, từ những ảnh hưởng của văn minh ngoại quốc mà ngôn ngữ dần dần chuyển biến. Những chữ mới được tạo ra, những chữ gắn liền với hoàn cảnh sinh hoạ xưa cũ đã quá thời, dần dần biến mất. Cứ đọc lại những áng văn thơ cách đây chừng năm mươi năm trở lại, ta thấy nhiều cách nói, nhiều chữ khá xa lạ, vì không còn được dùng hàng ngày. Những thay đổi này thường làm cho ngôn ngữ trở nên sinh động hơn, giàu có hơn, tuy nhiên, trong tiếng Việt khoảng mấy chục năm gần đây đã có những thay đổi rất kém cỏi. Ban đầu những thay đổi này chi giới hạn trong phạm vi Bắc vĩ tuyến 17, nhưng từ sau ngày cộng sản toàn chiếm Việt Nam, 30 tháng tư năm 1975, nó đã xâm nhập vào ngôn ngữ miền Nam. Rồi, đau đớn thay, lại tiếp tục xâm nhập vào tiếng Việt của người Việt ở hải ngoại. Người ta thuận theo các thay đổi xấu ấy một cách lặng lẽ, không suy nghĩ, rồi từ đó nó trở thành một phần của tiếng Việt hôm nay. Nếu những thay đổi ấy hay và tốt thì là điều đáng mừng ; Nhưng than ôi, hầu hết những thay đổi ấy là những thay đổi xấu, đã không làm giầu cho ngôn ngữ dân tộc mà còn làm tiếng nước ta trở nên tối tăm.

Thế nhưng dựa vào đâu mà nói đó là những thay đổi xấu ?
Nếu sự thay đổi đưa lại một chữ Hán Việt để thay thế một chữ Hán Việt đã quen dùng, thì đây là một thay đổi xấu, nếu dùng một chữ Hán Việt để thay một chữ Việt thì lại càng xấu hơn. Bởi vì nó sẽ làm cho câu nói tối đi. Người Việt vẫn dễ nhận hiểu tiếng Việt hơn là tiếng Hán Việt. Nhất là những tiếng Hán Việt này được mang vào tiếng Việt chỉ vì người Tầu ở Trung Hoa bây giờ đang dùng chữ ấy. Nếu sự thay đổi để đưa vào tiếng Việt một chữ dùng sai nghĩa, thì đây là một sự thay đổi xấu vô cùng. Hãy duyệt qua vài thay đổi xấu đã làm buồn tiếng Việt hôm nay :
1. Chất lượng :
Ðây là chữ đang được dùng để chỉ tính chất của một sản phẩm, một dịch vụ. Người ta dùng chữ này để dịch chữ quality của tiếng Anh. Nhưng than ôi ! Lượng không phải là phẩm tính, không phải là quality. Lượng là số nhiều ít, là quantity. Theo Hán Việt Tự Ðiển của Thiều Chửu, thì lượng là : đồ đong, các cái như cái đấu, cái hộc dùng để đong đều gọi là lượng cả. Vậy tại sao người ta lại cứ nhắm mắt nhắm mũi dùng một chữ sai và dở như thế. Không có gì bực mình hơn khi mở một tờ báo Việt ngữ ở hải ngoại rồi phải đọc thấy chữ dùng sai này trong các bài viết, trong các quảng cáo thương mãi. Muốn nói về tính tốt xấu của món đồ, phải dùng chữ phẩm. Bởi vì phẩm tính mới là quality. Mình đã có sẵn chữ phẩm chất rồi tại sao lại bỏ quên mà dùng chữ ‘chất lượng’. Tại sao lại phải bắt chước mấy anh cán ngố, cho thêm buồn tiếng nước ta.
2. Liên hệ :
Cũng từ miền Bắc, chữ này lan khắp nước và nay cũng tràn ra hải ngoại. Liên hệ là có chung với nhau một nguồn gốc, một đặc tính. Người cộng sản Việt Nam dùng chữ liên hệ để tỏ ý nói chuyện, đàm thoại. Tại sao không dùng chữ Việt là ‘nói chuyện’ cho đúng và giản dị. Chữ liên hệ dịch sang tiếng Anh là ‘to relate to …’, chứ không phải là ‘to communicate to …’
3. Ðăng ký :
Ðây là một chữ mà người Cộng Sản miền Bắc dùng vì tinh thần nô lệ người Tầu của họ. Ðến khi toàn chiếm lãnh thổ, họ đã làm cho chữ này trở nên phổ thông ở khắp nước, Trước đây, ta đã có chữ ghi tên (và ghi danh) để chỉ cùng một nghĩa. Người Tầu dùng chữ đăng ký để dịch chữ ‘register’ từ tiếng Anh. Ta hãy dùng chữ ghi tên hay ghi danh cho câu nói trở nên sáng sủa, rõ nghĩa. Dùng làm chi cái chữ Hán Việt kia để cho có ý nô lệ người Tầu?
4. Xuất khẩu, Cửa khẩu :
Người Tầu dùng chữ khẩu, người Việt dùng chữ cảng. Cho nên ta nói xuất cảng, nhập cảng, chứ không phải như cộng sản nhắm mắt theo Tầu gọ là xuất khẩu, nhập khẩu. Bởi vì ta vẫn thường nói phi trường Tân Sơn Nhất, phi cảng Tân Sơn Nhất, hải cảng Hải Phòng, giang cảng Sài Gòn, thương cảng Sài Gòn. Chứ không ai nói phi khẩu Tân Sơn Nhất, hải khẩu Hải Phòng, thương khẩu Sài Gòn trong tiếng Việt. Khi viết tin liên quan đến Việt Nam, ta đọc bản tin của họ để lấy dữ kiện, rồi khi viết lại bản tin đăng báo hay đọc trên đài phát thanh tại sao không chuyển chữ (xấu) của họ sang chữ (tốt) của mình, mà lại cứ copy y boong ?
5. Khả năng :
Chữ này tương đương với chữ ability trong tiếng Anh, và chỉ được dùng cho người, tức là với chủ từ có thể tự gây ra hành động động theo chủ ý. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam người ta dùng chữ khả năng trong bất kỳ trường hợp nào, tạo nên những câu nói rất kỳ cục. Ví dụ thay vì nói là ‘trời hôm nay có thể mưa’, thì người ta lại nói : ‘trời hôm nay có khả năng mưa’, nghe vừa nạng nề, vừa sai.
6. Tranh thủ :
Thay vì dùng một chữ vừa rõ ràng vừ giản dị là chữ ‘cố gắng’, từ cái tệ sính dúng chữ Hán Việt của người cộng sản, người ta lại dùng một chữ vừa nặng nề vừa tối nghĩa là chữ ‘tranh thủ’. Thay vì nói : ‘anh hãy cố làm cho xong việc này trước khi về’, thì người ta lại nói : ‘anh hãy tranh thủ làm cho xong việc này trước khi về’.
7. Khẩn trương :
Trước năm 1975 chúng ta đã cười những người lính cộng sản, khi họ dùng chữ này thay thế chữ ‘nhanh chóng’. Nhưng than ôi, ngày nay vẫn còn những người ở Việt Nam (và cả một số người sang Mỹ sau này) vẫn vô tình làm thoái hóa tiếng Việt bằng cách bỏ chữ ‘nhanh chóng’ để dùng chữ ‘khẩn trương’. Ðáng lẽ phải nói là : ‘Làm nhanh lên’ thì người ta nói là : ‘làm khẩn trương lên’.
8. Sự cố, sự cố kỹ thuật :
Tại sao không dùng chữ vừa giản dị vừa phổ thông trước đây như ‘trở ngại’ hay ‘trở ngại kỹ thuật’ hay giản dị hơn là chữ ‘hỏng’ ? (Nói ‘xe tôi bị hỏng’ rõ ràng mà giản dị hơn là nói ‘xe tôi có sự cố’)
9. Tham quan :
Đi thăm, đi xem thì nói là đi thăm, đi xem cho rồi tại sao lại phải dùng cái chữ này của người Tầu ? ! Sao không nói là ‘Tôi đi Nha Trang chơi’, ‘tôi đi thăm lăng Minh Mạng’, mà lại phải nói là ‘tôi đi tham quan Nha Trang’, ‘tôi đi tham quan lăng Minh Mạng’.
10. Nghệ nhân :
Ta vốn gọi những người này là ‘nghệ sĩ’. Mặc dù đây cũng là tiếng Hán Việt, nhưng người Tầu không có chữ nghệ sĩ, họ dùng chữ nghệ nhân. Có những người tưởng rằng chữ nghệ nhân cao hơn chữ nghệ sĩ, họ đâu biết rằng nghĩa cũng như vậy, mà sở dĩ người cộng sản Việt Nam dùng chữ nghệ nhân là vì tinh thần nô lệ Trung Hoa.
11. Chuyển ngữ :
Ðây là một chữ mới, xuất hiện trên báo chí Việt Nam ở hải ngoại trong vài năm gần đây. Trước đây chúng ta đã có một chữ giản dị hơn nhiều để tỏ ý này. Ðó là chữ dịch, hay dịch thuật. Dịch tức là chuyển từ một ngôn ngữ này sang một ngôn ngữ khác. Ðoàn Thị Ðiểm dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc của Ðặng Trần Côn Phan Huy Vịnh dịch Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Nguyễn Hiến Lê dịch Chiến Tranh Và Hòa Bình của Leon Tolstoi ... Người viết ở hải ngoại bây giờ hình như có một mặc cảm sai lầm là nếu dùng chữ dịch thì mình kém giá trị đi, nên họ đặt ra chữ 'chuyển ngữ' để thấy mình oai hơn. Chữ dịch không làm cho ai kém giá trị đi cả, chữ ‘chuyển ngữ’ cũng chẳng làm giá trị của ai tăng thêm chút nào. Tài của dịch giả hiện ra ở chỗ dịch hay, dịch đúng mà thôi. Chứ đặt ra chữ mới nghe cho kêu không làm tài năng tăng lên chút nào, hơn nữa nó còn cho thấy sự thiếu tự tin, sự cầu kỳ không cần thiết của người dịch.
12. Tư liệu :
Trước đây ta vốn dùng chữ tài liệu, rồi để làm cho khác miền nam, người miền bắc dùng chữ ‘tư liệu’ trong ý : ‘tài liệu riêng của người viết’. Bây giờ những người viết ở hải ngoại cũng ưa dùng chữ này mà bỏ chữ ‘tài liệu’ mặc dù nhiều khi tà liệu sử dụng lại là tài liệu đọc trong thư viện chứ chẳng phải là tài liệu riêng của ông ta.
13. Những danh từ kỹ thuật mới :
Thời đại của điện tử, của computer tạo ra nhiều danh từ kỹ thuật mới, hay mang ý nghĩa mới. Những danh từ này theo sự phổ biến rộng rãi của kỹ thuật đã trở nên thông dụng trong ngôn ngữ hàng ngày. Hầu hết những chữ này có gốc từ tiếng Anh, bởi vì Hoa Kỳ là nước đi trước các nước khác về kỹ thuật. Các ngôn ngữ có những chữ cùng gốc (tiếng Ðức, tiếng Pháp …) thì việc chuyển dịch trở nên tử nhiên và rõ ràng, những ngôn ngữ không cùng gốc, thì người ta địa phương hóa những chữ ấy mà dùng. Riêng Việt Nam thì làm chuyện kỳ cục là dịch những chữ ấy ra tiếng Việt (hay mượn những chữ dịch của người Tầu), tạo nên một mớ chữ ngây ngô, người Việt đọc cũng không thể hiểu nghĩa những chứ ấy là gì, mà nếu học cho hiểu nghĩa thì khi gặp những chữ ấy trong tiếng Anh thì vẫn không hiểu. Ta hãy nhớ rằng, ngay cả những người Mỹ không chuyên môn về điện toán, họ cũng không hiểu đích xác nghĩa của những danh từ này, nhưng họ vẫn cứ chỉ biết là chữ ấy dùng để chỉ các vật, các kỹ thuật ấy, và họ dùng một cách tự nhiên thôi. Vậy tại sao ta không Việt hóa các chữ ấy mà phải mất công dịch ra cho kỳ cục, cho tối nghĩa. Ông cha ta đã từng Việt hóa biết bao nhiêu chữ tương tự, khi tiếp xúc với kỹ thuật phương tây cơ mà. Ví dụ như ta Việt hóa chữ ‘pomp’ thành ‘bơm’ (bơm xe, bơm nước), chữ ‘soup’ thành ‘xúp’, chữ ‘phare’ thành ‘đèn pha’, chữ ‘cyclo’ thành ‘xe xích lô’, chữ ‘manggis’ (tiếng Mã Lai) thành ‘quả măng cụt’, chữ ‘durian’ thành ‘quả sầu riêng’, chữ ‘bougie’ thành ‘bu-gi, chữ ‘manchon’ thành ‘đèn măng xông’, chữ ‘boulon’ thành ‘bù-lon’, chữ ‘gare’ thành ‘nhà ga’, chữ ‘savon’ thành ‘xà bông’ … Bây giờ đọc báo, thấy những chữ dịch mới, thì dù đó là tiếng Việt, người đọc cũng vẫn không hiểu như thường. Hãy duyệt qua một vài danh từ kỹ thuật bị ép dịch qua tiếng Việt Nam, như :
a. Scanner dịch thành ‘máy quét’. Trời ơi ! ’máy quét’ đây, thế còn máy lau, máy rửa đâu ? ! Mới nghe cứ tưởng là máy quét nhà !
b. Data Communication dịch là ‘truyền dữ liệu’.
c. Digital camera dịch là ‘máy ảnh kỹ thuật số’.
d. Data base dịch là ‘cơ sở dữ liệu’. Những người Việt đã không biết data base là gì thì càng không biết ‘cơ sơ dữ liệu’ là gì luôn.
e. Software dịch là ‘phần mềm’, hardware dịch là ‘phần cứng’ mới nghe cứ tưởng nói về đàn ông, đàn bà. Chữ ‘hard’ trong tiếng Mỹ không luôn luôn có nghĩa là ‘khó’, hay ‘cứng’, mà còn là ‘vững chắc’ ví dụ như trong chữ ‘hard evident’ (bằng chứng xác đáng) … Chữ soft trong chự ‘soft benefit’ (quyền lợi phụ thuộc) chẳng lẽ họ lại dịch là ‘quyền lợi mềm’ sao ?
f. Network dịch là ‘mạng mạch’.
g. Cache memory dịch là ‘truy cập nhanh’.
h. Computer monitor dịch là ‘màn hình’ hay ‘điều phối’.
i. VCR dịch là ‘đầu máy’ (Như vậy thì đuôi máy đâu ? Như vậy những thứ máy khác không có đầu à?). Sao không gọi là VCR như mình thường gọi TV (hay Ti-Vi). Nếu thế thì DVD, DVR thì họ dịch là cái gì?
j. Radio dịch là ‘cái đài’. Trước đây mình đã Việt hóa chữ này thành ra-đi-ô hay ra-dô, hơặc dịch là ‘máy thu thanh’. Nay gọi là ‘cái đài’ vừa sai, vừa kỳ cục. Ðài phải là một cái tháp cao, trên một nền cao (ví dụ đài phát thanh), chứ không phải là cái vật nhỏ ta có thể mang đi khắp nơi được.
k. Chanel gọi là ‘kênh’. Trước đây để dịch chữ TV chanel, ta đã dùng chữ đài, như đài số 5, đài truyền hình Việt Nam … gọi là kênh nghe như đang nói về một con sông đào nào đó ở vùng Hậu Giang !
Ngoài ra, đối với chúng ta, Sài Gòn luôn luôn là Sài Gòn, hơn nữa người dân trong nước vẫn gọi đó là Sài Gòn. Các xe đò vẫn ghi bên hông là ‘Sài Gòn - Nha Trang’, ‘Sài Gòn - Cần Thơ’ … trên cuống vé máy bay Hàng Không Việt Nam người ta vẫn dùng 3 chữ SGN để chỉ thành phố Sài Gòn. Vậy khi làm tin đăng báo, tại sao người Việt ở hải ngoại cứ dùng tên của một tên (.........). để gọi thành phố thân yêu của chúng mình ? ! Ði về Việt Nam tìm đỏ mắt không thấy ai không gọi Sài Gòn là Sài Gòn, vậy mà chỉ cần đọc các bản tin, các truyện ngắn viết ở Hoa Kỳ ta thấy tên Sài Gòn không được dùng nữa. Tại sao?
Ðây chỉ là một vài ví dụ để nói chơi thôi, chứ cứ theo cái đà này thì chẳng mấy chốc mà người Việt nói tiếng Tầu luôn mất ! Tất nhiên, vì đảng cộng sản độc quyền tất cả mọi sinh hoạt ở Việt Nam, nên ta khó có ảnh hưởng vào tiếng Việt đang dùng trong nước, nhưng tại sao các nhà truyền thông hải ngoại lại cứ nhắm mắt dùng theo những chữ kỳ cục như thế ? ! Cái khôi hài nhất là nhiều vị trong giới này vẫn thường nhận mình là giáo sư (thường chỉ là giáo sư trung học đệ nhất cấp (chưa đỗ cử nhân) hay đệ nhị cấp ở Việt Nam ngày trước, chứ chẳng có bằng Ph.D. nào cả), hay là các người giữ chức này chức nọ trong các hội đoàn tự cho là có trách nhiệm về văn hóa Việt Nam ở ngoài nước !
Trước đây Phạm Quỳnh từng nói : ‘Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn’, bây giờ Truyện Kiều vẫn còn mà cả tiếng ta lẫn nước ta lại đang đi dần xuống hố sâu Bắc Thuộc. Than ôi !

Chu Đậu

lyhuong.org




Giao Chỉ và Tượng Quận

Giao Chỉ và Tượng Quận


LTS : Bài viết này là bản tóm lược của bài viết "Giao Chỉ và Tượng quận", những trích dẫn, bản đồ cũng như những trình bày đã được người viết giảm thiểu để bớt sự phức tạp. Độc giả có thể đọc thêm về chi tiết trong bài viết chính.


Đại Việt Sử Ký Toàn (ĐVSKTT) thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT (Đại Việt Sử Ký Toàn Thư) đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.


Bài viết này, người viết xin tóm tắt về vấn đề về tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt (thời An Dương Vương) và Tượng Quận thời Tần để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về việc khúc mắc này trong sử Việt vì ĐVSKTT viết: " Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận (tức là An Nam) ;...".

Theo như trích dẫn trên thì An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần . Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những giả thuyết khác nhau.

1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Đại Việt Sử Cương (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng (tập 1, trang 74), viết là quân Tần xâm chiếm cổ Việt (thời vua An Dương) vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông đã nêu lên vấn đề như sau: "...nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa
vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết".
Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông lại nêu lên sự quan tâm của mình: "... Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ cần cẩn án:
1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra 3 quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận, mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt, thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt, có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt.

2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật". Vậy nếu Tượng quận gồm cổ Việt thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết!
Việt Nam Sử Lược
(VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim: " ..Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và, Tượng Quận (Bắc Việt)". Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt thời vua An Dương) là Tượng quận thời nhà Tần .

Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam (NGMLCDTV) của ông Bình Nguyên Lộc, trang 283 đã nêu lên hai vấn đề chính:"Tây Âu không là cổ Việt và Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ."

Việt Sử Toàn Thư , (VSTT) của sử gia Phạm văn Sơn, trang 50: "... Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói, Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng". Sử gia Phạm Văn Sơn đã không đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên, ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu, để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này, tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau - đã đặt làm một thời kỳ riêng là "Kỷ nhà Thục, An Dương Vương" trong sử Việt.

2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ của nước Việt

Ngược dòng thời gian, những tài liệu trong thư tịch cổ có liên quan đều nói cổ Việt thời An Dương Vương là Tượng quận thời Tần như Phương Đình Địa Dư Chí của Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn, Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn và Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên.

Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt thời An Dương Vương hay ở ngoài cổ Việt?

3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.

Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện, Việt Chí của Trần Chu Phổ, Đại Việt Sử Ký cuả Lê Văn Hưu (những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh, ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v.... Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Lưu An, Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp v.v...

Hán Thư, quyển 28 “Địa lý chí đệ bát hạ" viết về quận Nhật Nam như sau : “Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần... Thuộc Giao Châu".

Hán Thư, quyển 7 “ Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha: “Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha" .

Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần. Vì thế người viết nhận thấy vấn đề về "Giao Chỉ và Tượng quận" bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ tọa lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.
Câu hỏi được đặt ra:

- Tượng Quận thời Tần nằm ở đâu? Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ?
- Giao Chỉ có bị quân Tần tấn công và chiếm đóng không?

Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.

4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào?

Sau khi gồm thâu sáu nước, thống nhất Trung Hoa năm 221BC, Tần Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam. Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “Nam Việt Úy Đà liệt truyện" (Sử Ký) viết: “...Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định,
trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”. Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm: 209 +(13-1) = 221 TCN. Nhà Tần “bình Việt địa" trong 8 năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị sự bành trường đế quốc nhà Tần là : 214 + (8 -1) = 221 TCN. Tuy nhiên khi vừa chiếm xong sáu
nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt lính" từ các nước vừa chiếm như “đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn" (ĐVSKTT) cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này. Vì thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm 220 TCN , thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian
để mang quân đi xâm lăng Bách Việt

5- Địa điểm đóng quân của quân Tần

Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?

Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam.

a. Sách Hoài Nam Tử

Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về việc này như sau:

Tạm dịch: ‘... Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới,một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Ho kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.

Qua sử liệu trên, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay.

b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam

Ngũ Lĩnh là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:

Việt Thành lĩnh (Yuechengling 越城岭)

Đô Bàng lĩnh (都庞岭)

Minh Chử lĩnh (萌渚岭)

Kỵ Điền lĩnh (骑田岭)

Đại Du (Dữu) lĩnh (大庾岭)

Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam - Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng.

Ngũ Lĩnh


Lĩnh Nam.

Địa thế: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh của người Bách Việt gồm Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang, Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay. Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hoá với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.Khí hậu: Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam - thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới.Lịch sử: Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam, Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ, văn hoá của Trung Quốc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.Các sắc tộc: Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc Thái là Tráng (Zhuang ) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê (Li ) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou 雷州) và ven đảo Hải Nam. Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc. Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người H’Mông, người Dư, Di tộc (Lô Lô), người Dao v.v…Dân số Lĩnh Nam: Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143643 nhà và 981,835 người. Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người. Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tâyc. Những địa điểm đóng quân. Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã viết.Đàm Thành : toạ lạc tại Tịnh huyện ( ) (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua 怀化市), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần).

Cửu Nghi : địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou shi 永州市), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam - Quảng Đông). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.

Nam Dã : Huyện Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị ( 州市 Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu (赣州 Phiên Ngung : thuộc quận Nam Hải, là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán. Ngày nay Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông. Một trong 5 đạo quân Tần dưới sự lãnh đạo của Nhâm Ngao đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách Việt.

Dư Can : "Dư Can" thời Tần tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin jiang ).Dư Can thủy: một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt.
Vậy là chúng ta đã biết được 5 địa điểm đóng quân của 500 ngàn quân Tần trong chiến dịch xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:
5 địa điểm đồn trú của quân Tầ
6- Đường hành quân của quân Tần cùng các diễn biến
Nửa triệu quân Tần chia là năm đạo đóng tại 5 địa điểm để xâm lăng Bách Việt, phỏng đoán là mỗi đạo có 100 ngàn quân. Nhận xét qua những địa điểm quân Tần đóng: chỉ có 4 đạo quân tiến vào Lĩnh Nam là các đạo Nam Dã, Phiên Ngung, Cửu Nghi và Đàm Thành. Đạo Dư Can tiến vào Mân Việt là Phúc Kiến ngày nay. Quân Tần đóng sát các thủy lộ chính, điều này cho thấy họ đã dùng thuyền để chuyển quân cũng như lương thảo. Tuy nhiên không thể băng qua núi bằng đường sông, nên phải đào kinh để vận chuyển, họ đã dùng rất nhiều nhân công và thời gian để đào Kinh Linh Cừ, khởi công đào từ năm 219TCN do thiết kế của giám quan Sử Lộc. Đạo quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng đã đào núi làm sông để chuyển lương. Người viết phỏng đoán là việc đào kinh này tốn khoảng 3 năm (hoàn tất năm 216 TCN).Đạo quân ở Dư Can Đạo Dư Can vượt Vũ Di Sơn để tấn công vào Phúc Kiến là đất của người Mân Việt và Đông Việt: Quân Tần từ hồ Bá Dương ngược dòng sông Dư Can lên đóng tại thượng nguồn. Sau đó đã theo một nhánh của sông Dư Can (Tín giang) đi về phía nam là nơi có đường đèo để vượt qua Vũ Di sơn đến sông Mân, rồi theo sông này đến Phúc Châu để chinh phục Mân Việt. Thấy quân Tần tiến sang quá đông đảo, vua Mân Việt bỏ chạy. Vùng này rơi vào tay quân Tần.Quân Tần đã chiếm đóng vùng này tới khi bị Hán diệt. Đạo quân Tần này đã thành công trong việc xâm chiếm Mân Việt và Đông Việt, hai nước này bị đặt là quận Mân Trung, gồm tỉnh Phúc Kiến và phía nam tỉnh Chiết Giang ngày nay.
Phỏng đoán đường quân Tần tiến vào Mân Việt và Phiên Ngung
Đạo quân của Nhâm Ngao ở Phiên Ngung: phỏng đoán là một đạo quân Tần từ vùng hồ Bá Dương, theo sông Cám tiến về phía nam, đến đóng gần Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay, rồi vượt Đại Du lĩnh để tiến vào Lĩnh Nam. Sau khi vượt ải, đạo quân tiến vào Phiên Ngung bằng một chi nhánh chính của Bắc giang. Quân cũng như lương thảo theo thủy lộ
này nhập vào Chu giang đến Phiên Ngung là Quảng Châu ngày nay.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao đạo quân Tần chiếm Phiên Ngung không gặp bất cứ trở ngại nào (theo như cổ sử Trung quốc)? Sử Ký, Nam Việt Uý Đà liệt truyện có một câu đáng chú ý:

Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi”. Nếu căn cứ vào sử liệu này; thì Triệu Đà đã hiện diện ở Lĩnh Nam 49 năm, tức là năm 228 TCN (179 TCN + 49 = 228 TCN), năm nước Triệu bị Tần diệt. Nếu căn cứ vào sử liệu này thì Triệu Đà đã không theo đám quân Tần tiến vào Lĩnh Nam, vì ông đã ở đây từ trước. Triệu Đà đã đến Lĩnh Nam từ năm 228 TCN khi quân Tần xâm lăng nước Triệu. Khi Nhâm Ngao mang quân đến Phiên Ngung, ông được phong làm huyện lệnh ở Long Xuyên là một trong 7 huyện ở quận Nam Hải,. Đạo quân Tần tiến vào Phiên Ngung đã thành công trong việc xâm lăng. Nhà Tần đặt vùng này làm quận Nam Hải, dưới quyền cai trị của quan uý là Nhâm Ngao. Nhâm Ngao chết, Triệu Đà lên thay thế.

Đạo quân của Đồ Thư tại Nam Dã, Cửu Nghi và Đàm Thành

Phỏng đoán đường tiến quân của Đồ Thư
Ghi chú: chữ màu đào là các quận được thành lập thời Tần (ngoại trừ Dạ Lang là một nước chưa bị quân Tần chiếm đóng) Khoảng năm 216 TCN, sau khi đào xong kinh Linh Cừ , đạo quân ( khoảng 300 ngàn người) dưới sự lãnh đạo của Lâu thuyền tướng quân là quan Uý Đồ Thư theo Ly giang tiến vào Tây Âu. Khi tiến đến vùng hợp lưu của 6 con sông lớn:
nước Tây Âu, các đạo quân này chia quân ngược dòng các thủy đạo thiên nhiên để đánh chiếm đất của người Bách Việt tuy nhiên đã gặp sự chống trả mãnh liệt của người Bách Việt.

7- Nước Tây Âu
Nước Tây Âu ở đâu? Đã có nhiều giả thuyết nói đến Tây Âu qua các bài viết tham khảo khác nhau, mỗi tác giả có một nhận định khác biệt. Người viết không tìm thấy sử liệu cổ nào (hay chưa!) nói qua về địa lý của nước này cũng như vị lãnh đạo của nước này, ngoại trừ danh xưng Tây Âu được viết trong sách Hoài Nam Tử của Lưu An: "Giết vua Tây Âu là
Dịch Hu Tống
" và trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện: “Cao Hậu mất, liền bãi binh. Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình" Dân bản địa vùng này là dân tộc Tráng, họ đã định cư tại phía nam Ngũ Lĩnh từ lâu đời, trước thời Xuân Thu bên Trung Quốc. Nơi cư ngụ là những thung lũng của các dòng sông tương đối lớn tại Lĩnh Nam, để có một diện tích canh tác thích hợp. Những hợp lưu chính của Tây giang là những sông Ly giang, Quế giang, Hồng Thủy hà, Liễu giang, Hữu giang, Tả giang và Uất giang. Đây là những nơi cư ngụ của dân tộc Tráng. Do sự định cư tương đối gần nhau, cùng một thể thức canh tác để có thực phẩm chính là lúa và kê, nuôi gia súc và săn bắn, cũng như các thực phẩm phụ thuộc như cá, tôm, nghêu, sò
từ các dòng sông. Các bộ tộc người Tráng đã tạo nên một xã hội chung. Từ đây, một thể chế chính trị được thành lập tại vùng này. Đây là nước Tây Âu - vùng hợp lưu của các sông nối với Tây giang - với vị vua tên là Dịch Hu Tống đã được nhắc tới trong cổ sử, mặc dù cương vực của nước Tây Âu chỉ là phỏng đoán.

Phỏng đoán vị trí nước Tây Âu
Dân số Tây Âu khoảng bao nhiêu? Chúng ta không biết rõ! Tuy nhiên người viết phỏng đoán là dân số Tây Âu khoảng nửa triệu hay hơn, khi ba đạo quân Tần với nhân số khoảng 300 ngàn người kéo đến.

Cách chiến đấu của người Tây Âu như thế nào? Khi vừa kéo đến Tây giang, với số quân đông đảo, quân Tần ở thế chủ động, tấn công vào các vùng trung tâm về chính trị của nước Tây Âu, giết vua của người Tráng là Dịch Hu Tống và bắt dân Tráng làm tù binh. Nhưng họ đã " vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Họ
kén chọn ngưòi tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần,
" (Sách Hoài Nam Tử). Sau khi đồn trú tại các nơi đã chiếm đóng một thời gian tại Tây Âu, quân Tần đã trở nên bị động, vì những trận phục kích bất ngờ của người Tráng, đặc biệt là về ban đêm.Như sách Hoài Nam Tử đã viết: người Tráng tại Tây Âu đã "đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn (Hán Nôm: đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư),
phục thi lưu huyết số thập vạn.
", đấy là không kể những người chết về bệnh tật.

Quân Tần đã bị "sa lầy" một cách trầm trọng tại Tây Âu như Sử Ký viết: " quân đội trấn giữ ở vùng đất vô dụng, tiến không xong, lui chẳng được. Hơn mười năm trời, nam thì phải mang giáp, nữ thì phải lo vận chuyển, khổ sở khó mà sống (khổ bất liêu sanh")...... Phía đông của nước Tây Âu, đạo quân Tần do Nhâm Ngao lãnh đạo đã đạt được thắng lợi và đã chiếm đóng vùng này - Phiên Ngung hay Quảng Châu ngày nay.

Phía đông bắc của Lĩnh Nam đã chiếm xong nước Mân Việt và Đông Việt để lập thành quận Mân Trung - Phúc Kiến và phía nam Chiết Giang ngày nay.

Tuy nhiên, về phía nam và tây nam nước Tây Âu, quân Tần đã bị bức trường thành của người bản xứ là dân tộc Tráng ngăn chặn.

Vậy nếu muốn bành trướng thêm lãnh thổ, quân Tần chỉ còn một hướng để tiến quân và chiếm đóng là phía tây và tây bắc của nước Tây Âu. Quân Tần đã làm được việc này. Dù số quân bị chết "cả chục vạn", các đạo quân Tần vẫn còn "lâu thuyền" để có thể tiến xa thêm về phía tây và tây bắc vì có các thủy đạo thuận lợi và gần như không có sự phản
kháng của người bản xứ.Vùng tây bắc Quảng Tây và nam Quý Châu là vùng rất thưa thớt dân bản địa. Hai sông Nam Bàn giang và Hồng Thủy hà cùng những chi lưu chảy giữa những khe núi khá cao. Hai bên bờ sông không có những bãi đất bồi của phù sa. Tộc Tráng
gần như không định cư ở vùng này vì không có đất đai để canh tác. Vì thế quân Tần chiếm đóng vùng này dễ dàng.
Đây là vùng đất mà nhà Tần đặt làm Tượng quận, vùng này ở phía tây bắc tỉnh Quảng Đông và một phần đất phía tây nam tỉnh Quý Châu ngày nay.

8- Nước Âu Lạc

Sử liệu cổ của Việt Nam, An Nam Chí Lược của Lê Tắc cũng như Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên không nhắc đến tên Âu Lạc. Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh, có nói đến chuyện "An Dương Vương và nhắc đến tên Âu Lạc một lần. Lĩnh Nam Chích Quái nói đến tên Âu Lạc 2 lần trong "Truyện rùa vàng". ĐVSKTT nhắc đến chữ Âu Lạc hai lần.

Cổ sử của Trung Quốc đã nói đến nước Âu Lạc ra sao? Sử ký cuả Tư Mã Thiên - Nam Việt Uý Đà liệt truyện đã nhắc tới tên nước Âu Lạc 3 lần và chữ "Tây Âu Lạc" một lần.

Chữ Âu Lạc để chỉ nước cổ Việt của dân Lạc Việt thời An Dương Vương (đã có nhiều giả thuyết nói sự hiện hữu của An Dương vương chỉ là truyền thuyết!) . Tuy nhiên chữ "Tây Âu Lạc" -được dùng một lần duy nhất trong Sử Ký cũng như Hán Thư (chép lại từ Sử Ký) - đã gây nên nhiều tranh luận. Các học giả Trung Quốc trong bản Hán văn của "Sử Ký Tam
gia chú" đã tách ra là "Tây Âu - Lạc", là hai nước khác nhau: Tây Âu và Lạc Việt. Hán thư, quyển 95 - Tây Nam di lưỡng Việt Triều Tiên truyện đệ lục thập ngũ cũng đã nói đến Tây Âu - Lạc và Âu Lạc, dù sao chép lại gần như nguyên văn từ Sử Ký. Hán thư, quyển 17, "Công Thần biểu" đệ ngũ cũng đã nhắc đến tên Âu Lạc 2 lần. Vậy nước Âu Lạc đã được nói rõ ràng trong Sử Ký cũng như Hán Thư, tên nước này còn hiện hữu đến thời nhà Hán, dù
Âu Lạc đã bị lệ thuộc vào Nam Việt.

Tuy nhiên Sử Ký cũng như Hán Thư nói về nước Âu Lạc, nhưng lại không viết về vua của nước này, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết đây là An Dương Vương và đặt riêng làm một "kỷ" cho triều đại này, cũng như nói đến chiến tranh hai lần giữa An Dương Vương và Triệu Đà và cuối cùng Triệu Đà đã chiếm Âu Lạc.Nhà Tần bị diệt năm 207 TCN (thời Tần Nhị Thế), "Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương" (Sử Ký). Theo như sử liệu này thì Triệu Đà đã chiếm đất của quân Tần đang chiếm đóng là hai quận Quế Lâm và Tượng quận. Tuy nhiên nước Tây Âu chưa bị quân Tần chiếm đóng hoàn toàn (Quân Tần đã không chiếm đóng được vùng hợp lưu của Tây giang trở về phía nam tới biển Nam Hải). Sử liệu không nói đến việc Triệu Đà đánh chiếm phần còn lại của nước Tây Âu. Vậy nếu theo cách tách chữ "Tây Âu - Lạc" của “Sử Ký tam gia chú” thì Tây Âu và Lạc Việt không có chiến tranh với Nam Việt. Tây Âu và Lạc Việt chỉ "lệ thuộc" vào Nam Việt bằng đường lối "ngoại giao" và Âu Lạc vẫn còn tên cho đến thời tiền Hán.

Nhưng Sử Ký cũng viết: " Thái sử công nói: ... Đà càng được thể kiêu căng. Âu Lạc đánh nhau làm rung động nước Nam Việt". Câu "Âu Lạc đánh nhau" thì Âu Lạc đã có chiến tranh, nhưng với nước nào? Chiến tranh Âu Lạc -Tây Âu tại sao lại có thể làm "rung động nước Nam Việt"! Ngoại trừ Âu Lạc và Nam Việt có chiến tranh?

Khó có thể nói là Tư Mã Thiên đã không biết về nước Tây Âu trong khi ông đã viết trong Sử Ký, quyển 112 " Bình Tân hầu Chủ Phụ liệt truyện đệ ngũ thập nhị": “….Mất nhiều ngày chờ đợi, lương thực bị hết, rồi bị người (Bách) Việt phản công, quân Tần thua trận….”. Trong khi đó lại nhắc đến tên Âu Lạc 3 lần.

Mặc dù như vậy, tên Âu Lạc vẫn còn tồn tại, Sử Ký và Hán Thư nhắc đến lúc cuối thời nhà Triệu và đầu đời tây Hán. Vậy sử liệu đã nói rõ về sự tồn tại của nước Âu Lạc sau thời Tần (207 TCN), và quân Tần không chiếm đóng Cổ Việt (nước Âu Lạc).

Vua nước Âu Lạc là An Dương Vương?

Có nước Âu Lạc thì Âu Lạc phải có vua, hay một người lãnh đạo. Tuy nhiên không thấy Sử Ký và Hán Thư là những bộ sách cổ nhất của Trung Quốc nói đến vị vua này, khi viết về nước Âu Lạc. Lĩnh Nam Chích Quái đã nhiều lần nói đến An Dương Vương trong truyện “Lý Ông Trọng”, “Thần Kim Quy” v. v… . ĐVSKTT có nguyên một kỷ là “ Kỷ Nhà Thục 257 TCN - 207 TCN” để nói vị vua này. Tuy nhiên nhiều giả thuyết nói đây chỉ là truyền thuyết và không có thật. Vì những tài liệu này được viết từ thế kỷ 13 hay sau đó!

Dù Sử Ký hay Hán Thư không nói về An Dương Vương, nhưng sách Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (năm 466 hoặc 472-527) đã ghi lại các câu viết (107) của “Giao Châu Ngoại Vực ký” và “Tấn Thái Khang chí” liên quan đến tên An Dương Vương (9 lần)".

Sách "Thủy Kinh Chú sớ", học giả Dương Thủ Kính đưa ra những dẫn chứng: "Thủ Kính chú: theo "Quảng Châu ký" An Dương Vương đóng đô ở huyện Phong Khê, cho nên họ Lịch dẫn "Giao Châu ngoại vực ký" ở chỗ này". Qua những cổ thư được học giả Dương Thủ Kính tham khảo, chúng ta thấy có một điểm chung là An Dương Vương đóng đô ở Giao Chỉ (thuộc nước Âu Lạc). Vậy vua của Âu Lạc có thật trong lịch sử chứ không phải là truyền thuyết.

Ngoài ra, sách “The Birth of Vietnam”, trang 316, Appendix F, “The Legend of the Turtle Claw” của tác giả Keith Taylor cũng đã nêu ra tên 4 tài liệu nói về An Dương Vương: “ Nhật Nam truyện”, “Tấn Thái Khang địa chí”, “Tấn Lưu Hân Kỳ Giao Châu ký” và “Giao Châu Ngoại Vực ký” như học giả Dương Thủ Kính đã nói đến.

An Dương Vương là ai? Từ đâu tới? Người viết xin dời lại vấn đề, vì đây là một đề tài rất phức tạp. Trong phạm vi bài viết, chỉ xin trích dẫn những sử liệu cổ nói đến tên ông để có thể dẫn chứng là: Nước Âu Lạc hay cổ Việt đã không bị quân Tần chiếm đóng. Vua nước Âu Lạc là An Dương Vương. Nước Âu Lạc đã có chiến tranh với Nam Việt, thất trận và bị "lệ
thuộc" vào Nam Việt như một nước chư hầu.
 Các quận thuộc Lĩnh Nam thời Tần / Hán
Ghi chú: màu xanh (lá cây) là các quận thời Tần (214 TCN), màu nâu là các quận thời Tiền Hán. Dạ Lang và Tây Âu trong hình bầu dục (ellipse) chưa bị quân Tần xâm chiếm hoàn toàn, vẫn còn hiện hữu đến thời Tiền Hán.

Nhìn lại về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận

Như đã trình bày trong phần đầu của bài viết, vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận được đặt ra vì câu viết trong Hán Thư của Ban Cố: "Hán Thư, quyển 28 “Địa lý chí đệ bát hạ" viết về quận Nhật Nam như sau : "Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần..... Thuộc Giao Châu". Từ câu viết này, các sử gia đời sau, đặc biệt là các sử gia và học giả của Trung Quốc,
cho là quận Nhật Nam ở phía cực nam của Cổ Việt (nước Âu Lạc thời An Dương Vương) thuộc về Tượng quận, nếu thế thì hai quận phía bắc của quận này là Giao Chỉ và Cửu Chân cũng thuộc Tượng quận!? Đây là một sử liệu mâu thuẫn trong Hán Thư, vì câu viết này ngược lại với các sử liệu khác cùng trong một bộ sách. Hán Thư, quyển 7 “ Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha : “Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha" . Thời Tiền Hán, Uất Lâm nằm phía bắc Quảng Tây (ngày nay) và Tường Kha ở phía nam Quý Châu (ngày nay).


9- Kết luận Qua những điều đã trình bày đặt căn bản trên sử liệu, người viết xin tóm tắt về việc quân Tần xâm chiếm Lĩnh Nam như sau:

Năm 221 TCN, Tần vương Doanh Chính hoàn tất việc gồm thâu 6 nước là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, kết thúc thời Chiến Quốc và dựng nên một đế quốc thống nhất. Để tự vinh danh, Tần vương xưng là (Tần) Thủy Hoàng Đế. Dù đã gồm thâu 6 nước, Thủy Hoàng vẫn không ngừng tham vọng mở rộng thêm lãnh thổ cho đế quốc của mình. Phía bắc thì đánh Hung Nô, phía nam thì xâm lăng Bách Việt. Để đánh chiếm Bách Việt, nhà Tần huy động một đoàn quân khổng lồ là 500 ngàn người, gồm có các lính của nhà Tần, các kẻ bị ép buộc tòng quân và lao dịch (gồm những người trốn tránh, những kẻ đi ở rể, những người đi buôn) vào xâm chiếm đất Bách Việt. Đoàn quân này chia làm năm đạo:

Một đạo quân đến đóng ở Dư Can trên Vũ Di sơn, sau đó vượt rặng núi này để tiến chiếm Mân Việt và Đông Âu. Đạo quân này đã không gặp trở ngại nào đáng kể, nên đã chiếm đóng vùng này, đặt là quận Mân Trung - phía nam tỉnh Chiết Giang và tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

Một đạo quân khác do Nhâm Ngao lãnh đạo đã vượt Ngũ Lĩnh tiến thẳng đến Phiên Ngung chiếm đóng vùng này và đặt là quận Nam Hải - tỉnh Quảng Đông ngày nay.

Ba đạo quân còn lại do quan úy Đồ Thư làm Lâu thuyền tướng quân lãnh đạo, đến đồn trú tại các địa điểm trên Ngũ Lĩnh như Đàm Thành, Cửu Nghi và Nam Dã. Sau đó vượt Ngũ Lĩnh đánh chiếm vùng đất kế bên phía nam Ngũ Lĩnh, đặt vùng này là quận Quế Lâm - phía bắc tỉnh Quảng Tây ngày nay.

Để có thể có đủ lương thực và tiếp liệu cho một cuôc viễn chinh lâu dài, các đạo quân đóng tại quận mới chiếm là Quế Lâm đã đào kinh Linh Cừ nối thượng nguồn của Tương giang với Ly giang, dưới sự điều hành và giám sát của Sử Lộc. Nhờ có thủy đạo này, tiếp vận có thể chuyển từ phía bắc đến phía nam của Ngũ Lĩnh. Khi có lương thực tiếp tế , các đạo quân của Đồ Thư lãnh tiến đánh dân Bách Việt ở phía nam là nước Tây Âu, bắt dân bản địa làm tù binh, sát hại vua nước này là Dịch Hu Tống. Dù tạm được lợi thế ban đầu, nhưng sau đó quân Tần đã gặp sự chống trả mãnh liệt của dân Tây Âu. Không đủ nhân lực để chống cự trong những trận chiến lớn, dân bản địa đã dùng du kích chiến, chiến cuộc trở nên lâu dài, Đồ Thư bị giết, nhân mạng bị tổn thất nặng nề, cả trăm ngàn người bị tử thương cũng như bị chết vì bệnh tật. Quân Tần đã không tiến xa hơn được về phía nam, nên đã theo những thủy đạo thiên nhiên, tiến về phía tây , xâm chiếm vùng này, đặt vùng này là Tượng quận - phiá nam tỉnh Quý Châu và phía tây bắc tỉnh Quảng tây ngày nay.

Từ những dẫn chứng bằng sử liệu cũng như tìm hiểu về chỗ đóng quân và đường hành quân của quân Tần, người viết đi đến kết luận là quân Tần chưa hề đánh vào Giao Chỉ, chứ chưa nói đến phần đất xa hơn về phía nam là Cửu Chân và Nhật

Nam. Nước Âu Lạc hay cổ Việt thời vua An Dương không hề bị quân Tần xâm chiếm, GiaoChỉ, Cửu Chân và Nhật Nam không phải là Tượng quận thời Tần.

Nhà Tần gồm thâu 6 nước, dựng nên một quốc gia thống nhất. Các sử gia và học giả Trung Quốc muốn Cổ Việt (Âu Lạc) cũng là một phần đất của hoàng đế nhà Tần, nhưng quân Tần đã không làm được điều này. Lạc Việt vẫn còn đó. Vùng đất phía nam của dân Lạc Việt là cái gai trong mắt của Trung Quốc, không xâm chiếm được bằng quân lực thì "vơ lấy" bằng văn hoá, lợi dụng mâu thuẫn của sử liệu để ngụy tạo. Bao nhiêu tộc Việt thuộc Bách Việt đã bị Hán hoá ? Còn lại duy nhất l
Lạc Việt! Hán hoá vùng đất này. Đây là một âm mưu truyền kiếp của Hoa tộc!
Trần Việt Bắc
Nam California,
Ngày 23, tháng 6, năm 2007
Tham Khảo
- Đại Việt Sử Lược, soạn giả: Khuyết danh, dịchgiả: Nguyễn Gia Tường, 1972. Ấn bản điện tử: Công Đệ, Lê Bắc.
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nhà xuất bản Khoa

Học Xã Hội, Hà Nội 1998.

- Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch

(1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998.

- An Nam Chí Lược, Lê Tắc, dịch giả: Ủy ban dịch sử liệu Việt Nam, nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế, ấn bản điện tử:

Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.

- Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên, bản dịch của Lê Hữu Mục, cơ sở xuất bản Đại Nam
- Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, nguồn từ Internet:

http://www.dunglac.net/thuvien/linhnam-00-ml.htm
-Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực

- Phương Đình Địa Dư chí của Nguyễn Văn Siêu, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin

- Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa
- Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim- Nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin-1999.

- Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam

- Việt Sử Toàn thư- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam

- Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Ngô Thời Sỹ, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1997.

- Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sỹ, dịch giả: Hội Việt nam ngiên cứu liên lạc văn hóa Á Châu, nhà xuất bản Văn Sử. Ấn bản điện tử : Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.

- Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California

- Đại Việt Sử Cương của Trần Gia Phụng, Nhà xuất bản Non Nước, Toronto 2004
- Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, nguồn từ Internet:

http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?
tid=2qtqv3m3237n2n1n4nqn31n343tq83a3q3m3237nvn
- Lịch Sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dự Chương,dịch giả Trần Ngọc Thuận, nhà xuất bản Trẻ.

- Hoài Nam Tử của Lưu An,nguồn từ Internet:

 http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html
- Sử Ký của Tư Mã Thiên, nguồn từ Internet:

 http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
- Hán Thư của Ban Cố, nguồn từ Internet

 http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
- Hậu Hán Thư của Phạm Việp, nguồn từ Internet

http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
- Tấn Thư, nguồn từ Internet

http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
- Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, nguồn từ Internet:

http://www.workgroup.cn/dir.aspx?45
- Thủy Kinh Chú Sớ của Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh, dịch giả Nguyễn Bá Mão, nhà xuất bản Thuận Hoá, 2005

- Từ Điển Văn Học Cổ Điển Trung Quốc, Nguyễn Tôn Nhan sưu tập tư liệu và biên dịch, nhà xuất bản Văn Nghệ

- The Birth of Vietnam của Keith Weller Taylor, Uiversity of California Press

- Tigers, Rice, Silk & Silt của Robert B. Marks, Cambridge University Press

- Các bài viết của Dr. Rafe de Crespigny, Faculty of Asian Studies, Australian National University trong http://www.anu.

edu.au/asianstudies/decrespigny/south_china.html
- Các bài viết trong http://www.chinaknowledge.de/History/Myth/prehistory-map.html

- The Atlas of China Knowledge, Xi'aqn Cartographic Publising House, SinoMaps press in 2002
- Historical Atlas of South-East Asia của Jan M. Pluvier, nhà xuất bản E.J.Brill, Netherland 1995
- The Zhuang: A Longitudinal Study of Their History and Their Culture by Jeffrey Barlow,
http://mcel.pacificu.edu/as/resources/zhuang/index.html
- Bản đồ từ các bài viết của Dr. Rafe de Crespigny, Faculty of Asian Studies, Australian National

Giao Chỉ và Tượng quận - Phụ chú:

Đọc "Tần Hán Tượng quận biện tích" của học giả Lý Long Chương

Trần Việt Bắc

Tượng quận toạ lạc tại đâu theo ông Lý Long Chương? Học giả họ Lý đã tham khảo rất nhiều để dẫn chứng cũng như phản biện. Bài viết này đã nêu lên đầy đủ những tài liệu cổ, giúp cho sự biện luận của ông, để đưa ra kết luận về nơi toạ lạc của

Tượng quận thời Tần theo địa lý ngày nay.

Trong phần mở đầu, học giả họ Lý đã nêu lên nguồn gốc của sự tranh luận từ câu viết trong Hán thư, Địa lý chí : "“cố Tần

Tượng quận, Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai"

Trong phần hai, ông Lý đưa ra những tài liệu đã gây nên vấn đề mâu thuẫn trong sử liệu, mà ông gọi là "Thuyết Nhật Nam"
Sau khi đã nêu lên những sai lầm trong “thuyết Nhật Nam”, trong phần 3 ông Lý đưa ra

Thuyết Uất Lâm” để phản biện,

cũng như những chứng minh bằng dẫn giải.

Trong những đề mục trên, họ Lý đã đưa ra những dẫn chứng từ sách địa lý thời cổ là “Sơn Hải kinh”, sách này đã viết về

Tượng quận (mục 1 và 2). Sau đó ông đưa ra mâu thuẫn để phản biện. Vị trí của Tượng quận theo kết luận của ông Lý được

vẽ lại theo những địa danh nêu trên trong bản đồ dưới đây :

Vị trí của Tượng quận (theo học giả Lý Long Chương),
Vậy theo như ông Lý Long Chương thì Tượng quận không bao gồm phần đất nào của Giao Chỉ, như Ban Cố đã viết

lầm về quận Nhật Nam: "cố Tần Tượng quận, Vũ đế Nguyện Đỉnh lục niên khai (111BC) khai".
Vì không có nhiều tài liệu cổ cũng như không đọc được Hán văn trực tiếp, mà chỉ có thể đọc được bản chuyển âm Hán Việt

(qua HannoConv 1.0) với tự điển của Thiều Chửu, nên người viết đã phải dùng cách khác, là theo đường tiến quân của

quân Tần, tìm hiểu những nơi đội quân này đã chiếm đóng để truy cập vị trí của Tượng quận.


Mặc dù là cách tìm hiểu khác nhau, nhưng đã đi đến kết luận tương đương về vị trí của quận Tượng, đã được nói tới trong

bài viết "Giao Chỉ và Tượng quận" như sau: “Từ những dẫn chứng bằng sử liệu cũng như tìm hiểu về chỗ đóng quân và

đường hành quân của quân Tần, người viết đi đến kết luận là quân Tần chưa hề đánh vào Giao Chỉ, chứ chưa nói đến

phần đất xa hơn về phía nam là Cửu Chân và Nhật Nam. Nước Âu Lạc hay cổ Việt thời vua An Dương không hề bị quân

Tần xâm chiếm, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam không phải là Tượng quận thời Tần”.
Trần Việt Bắc


Giao Chỉ và Tượng Quận

LTS: Người Việt chúng ta ai đã đọc và tìm hiểu về sử thì đều biết là sử nước Việt chỉ được bắt đầu được viết từ thời nước Việt có tự chủ, nói cho đúng hơn là từ thời Lý. Quyển sử đầu tiên được viết là Sử ký của Đỗ Thiện, rồi sau đó là Việt Chí của Trần Chu Phổ, rồi Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Những quyển sử này đã bị thất lạc. Quyển sử đầu tiên còn lại là Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) của ông Ngô Sĩ Liên, từ khi lưu hành, đã được coi là bộ chính sử và được tham khảo bởi nhiều bộ sử khác. Quyển sử này đã ghi lại được những tài liệu trong sách của ông Lê Văn Hưu để chúng ta - hậu thế - có thể biết được những việc đã xảy ra trong quá khứ của tộc Việt... Bộ sử này đã viết lại những việc từ ngày lập quốc, thời điểm cả ngàn năm trước khi ĐVSKTT được viết. Từ thời dựng nước mơ hồ với những truyền thuyết, rồi sau đó là hàng chục thế kỷ bị đô hộ, nào có ai ghi lại những việc đã xảy ra! (Mà nếu có ghi chép lại cũng sẽ bị thiêu hủy bởi những kẻ chiếm đóng; vì khác với quan niệm của họ!).

Những sự kiện thành văn, ĐVSKTT một phần lớn đã tham khảo từ các sử sách của Trung Quốc. Tuy nhiên đây là những văn bản đầy thành kiến, theo quan niệm của một quốc gia thống trị viết về một quốc gia bị trị, thí dụ như Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau: "Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu... Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng..." (1) (trích từ Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn). Tác giả là Phạm Việp, ông ta không hiểu phong tục người Việt xứ Âu Lạc, cũng như không tìm hiểu thêm; để viết về một dân tộc có văn hóa và truyền thống khác hẳn Trung Quốc, nhận định theo quan điểm riêng, của người có quan niệm thống trị, thiếu sự khách quan của một người viết sử.

Bởi thế, sau khi tham khảo chúng ta chỉ nên lấy những sự kiện - sự kiện mà thôi - của các sử gia Trung quốc cho thời khuyết sử của tộc Việt. Sau đó phải so sánh các sự kiện này với sự kiện khác, kiểm chứng và rút tỉa ra những điều không bị cảm tính chi phối, may ra chúng ta mới biết được đâu là sự thật của quá khứ đã được ngoại bang ghi chép. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng khi tham khảo cổ sử của Trung Quốc để tìm hiểu về sử nước nhà. Từ những tham khảo này, bộ ĐVSKTT đã dựng nên một quá khứ của tộc Việt cho thời khuyết sử mà một phần lớn đã tham khảo từ sử liệu của Trung Quốc. Điều này đã gây nên nhiều nghi vấn cho hậu hậu thế!

Hậu thế chúng ta may mắn có được những phương tiện truyền thông tân tiến. Tham khảo sử liệu qua "internet" là một việc hết sức dễ dàng - nếu chúng ta muốn làm - ai cũng có thể tra cứu những tài liệu, mà ngày xưa, tiền nhân mong muốn nhưng không tìm được. Bằng chứng là rất nhiều người đang bàn thảo về sử Việt trong các diễn đàn ở các "Web site" khác nhau. Người viết cũng chỉ là một trong những người đang làm việc này, trong hoàn toàn làm theo sở thích và vì sự tò mò, với mong muốn được hiểu biết thêm về sử Việt. Biết đâu có thể góp ý cho những bạn đọc cùng sở thích, và đặc biệt là có thể cống hiến cho các bạn trẻ muốn tìm hiểu về sử Việt.

Dù sự hiểu biết về sử rất giới hạn và cũng không biết lượng sức (hiểu biết về Hán học của người viết rất là thô thiển!), nhưng cũng cố gắng tìm câu trả lời để mong biết đâu là sự thật (!) cho những câu hỏi về nguồn gốc của mình, (với sự trợ giúp của các nhu liệu thông dịch (2) cũng như bộ tự điển Hán Nôm của Thiều Chửu và những "chức năng" (function) của "Word").
Mong mỏi được học hỏi thêm từ các học giả thông hiểu về sử học cũng như Hán học.

----------------------------------------------
Đại Việt Sử Ký Toàn thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.

Bài viết này, người viết xin nêu lên về vấn đề tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt và Tượng Quận thời Tần để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về vấn đề nan giải này trong sử Việt.

ĐVSKTT: Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương, đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận (tức là An Nam)...”

Sau đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc (Trắc), 1335, được in bởi Viện Đại Học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt nam, 1961. Được chuyển qua ấn bản điện tử bởi các ông Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc năm 200: "QUYỂN ĐỆ NHẤT, Tống Tự. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận…"

Theo như trích dẫn trên thì An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần. Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những nghi vấn khác cùng với các giả thuyết khác nhau. Điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho sự tìm hiểu về sử Việt cho hậu thế - mà người viết là một.

1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Đại Việt Sử Cương (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng, tập 1, trang 74:

"1. Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt. ... Năm 214 TCN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng Đế (Ch'in Shih Huang-ti, trị vì 221-210 TCN) sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía nam, vượt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra 3 quận là Quế Lâm (Kueilin, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây), Nam Hải (Nanhai, tức Quảng Đông) và Tượng Quận (Hsiang, vùng Bắc Việt ngày nay).

Mặc dù ông Trần Gia Phụng viết là quân Tần xâm chiếm cổ Việt vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông Trần Gia Phụng đã nêu lên vấn đề như sau:

"Toàn Thư cũng như các bộ sử khác, kể cả Cương Mục chép theo các bộ sử Trung Hoa việc tướng nhà Tần đã chiếm đất Lĩnh nam và đặt ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông bắc Quảng Tây), quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) và Tượng Quận (vùng cổ Việt) năm 2q14 TCN. Sau đó toàn thư và các bộ sử cũ của nước ta lại viết thêm (tvb: do tác giả tô đậm) rằng: Lúc đó, tại cổ Việt có triều đại An Dương Vương (trị vì 257-208TCN). Về các sự kiện liên quan đến triều đại An Dương Vương, các câu hỏi được đặt ra là: Thục Phán, người nước Ba Thục ở tận Tứ Xuyên (Sichuan), Trung Hoa, sao có thể qua tới cổ Việt để đánh Hùng Vương? [Phía bắc của Bắc Việt là hai tỉnh Vân nam (Yunnan) ở tây bắc và Quảng Tây (Giangxi) ở đông bắc. Phía bắc hai tỉnh này mới là Tứ Xuyên.] Chuyện nỏ thần có thể là lịch sử hay không? Cuối cùng, nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết".

Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông Trần Gia Phụng lại nêu lên sự quan tâm của mình:

"....Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ cần cẩn án:

1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214 TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra ba quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận, mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt, thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng 'Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt, có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt.

2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật".

Vậy nếu Tượng quận gồm cổ Việt thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết!

Việt Nam Sử Lược (VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim, ấn bản đầu tiên năm 1921, được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, trang 29:

"3. Nhà Tần Ðánh Bách Việt. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã thâu tóm thiên hạ. Ðến năm đinh hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là Ðồ Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và, Tượng Quận (Bắc Việt) (3).

Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Ðồ Thư".

Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng Quận thời nhà Tần.

Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt (NGMLCDTV) 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California. Tác giả là nhà văn và cũng là học giả Bình Nguyên Lộc. Đây là một bộ sách khá dầy, nặng phần khảo cứu về ngữ pháp, gần 900 trang (khổ nhỏ). Tác giả đã viết một đoạn khá dài (từ trang 221 đến trang 287) trong chương 2: "Những sai lầm", tiết mục D: "NƯỚC TÂY ÂU MƠ HỒ VÀ TƯỢNG QUẬN BÍ MẬT", để nói về sự phản tương quan giữa cổ Việt và Tượng Quận. Ông đã đưa ra những nhận xét (với cách hành văn châm biếm và đôi khi hài hước của một văn sĩ, cùng với những kiến thức của một học giả uyên bác về ngữ học, phê bình về những sử liệu mà theo ông là ngụy tạo, đây là một điều rất hào hứng cho người viết!) để nói lên những sai lầm về giả thuyết của các học giả như: L. Aurousseau, H. Maspéro, Trần Kinh Hòa, Nguyễn Phương... Sau đó ông dùng "bốn bằng chứng", đặc biệt là bằng chứng thứ tư, đã được coi là bằng chứng "quyết định" để ông có thể đi đến những kết luận như sau:

Trang 283:
"Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An (4) và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:

1- Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ-chí -Tuyến Bắc, tức, Tây Âu không là cổ Việt.

2- Tâu Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.

3- Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

4- Thượng du tả ngạn Nhĩ Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

5- Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống (5) chẳng dính líu gì tới cổ Việt hết.

6-Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Tượng Quận.

7- Không có chánh sách trồng người tại cổ Việt Nam để đẩy dân Việt nam vào thế thiểu số."

Đặc biệt là trong chương này ông cũng đã đưa ra một giả thuyết khá lý thú về nguồn gốc của An Dương Vương, tuy nhiên đây không phải là trọng tâm của đề tài, nên người viết hy vọng có thể sẽ trình bày vấn đề này trong một bài viết khác trong tương lai.

Việt Sử Toàn Thư (VSTT) của sử gia Phạm văn Sơn, ấn bản đầu tiên năm Canh Tí (1960), do nhà xuất bản Đại Nam tái bản, tủ sách sử học, trang 50:

"Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt. Chúng tôi không đồng ý vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Ðà bằng binh đao, chúng tôi cũng, không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải. Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập".

Ông Phạm Văn Sơn cũng đưa ra thêm ghi chú ở cuối trang 50 này như sau:

"Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ, song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của tỉnh, Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói, Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng".

Sử gia Phạm Văn Sơn đã không đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên, ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu, để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần

Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này, tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau - đã đặt làm một thời kỳ riêng là "Kỷ nhà Thục, An Dương Vương" trong sử Việt. Điều này làm cho hậu thế hoang mang, vì không biết đâu là sự thật của lịch sử!
--------------------------------
Chú thích:
(1) Đây là trích dẫn từ sách Hậu Hán thư của Phạm Việp quyển bát thập lục (quyển 86), "Nam Man tây Nam Di liệt truyện đệ thất thập lục (76)"
(2) "HanoConv1.0", "Hanosoft". Xin thành thật cám ơn các quý vị trong hội Hán Nôm đã thiết lập nên những nhu liệu này và cho phép xử dụng miễn phí. Không có các nhu liệu này thì bài viết này sẽ không thể hoàn tất!.
(3) Trong ấn bản điện tử hiện đang lưu hành trên internet ghi là "Tượng Quận (Bách Việt)". Tuy nhiên người viết thấy trong bản chính (sách), ông Trần Trọng Kim viết là "Tượng Quận (Bắc Việt)".
(4) Lưu An viết sách Hoài Nam Tử. Người viết sẽ viết thêm về nhân vật này trong phần sau của bài viết.
(5) Nhiều sách viết là Dịch Hu Tống. Người viết sẽ dùng tên này.

---------------------------------------------
Hoan hô anh Trần Việt Bắc!
Anh mở ra trang này rất thú vị và cần thiết, vì có đủ "đất đai" để tham luận cho một đề tài rộng lớn: Đó là - lịch sử Việt Nam thời Thượng cổ, phần lớn dựa vào truyền thuyết, hoặc giả có dựa vào Sử Trung Quốc thì cũng phải rất thận trọng do tinh thần "kỳ thị" rất cao của người Tàu ngày xưa.
VS hy vọng có thể rút ra được những phần kết luận tương đối vô tư và chính xác cho những Địa Danh Lịch Sử VN trong 1 TT mà HSV đang làm.
Cũng xin anh Trần Việt Bắc dùng khổ chữ lớn hơn. Chữ nhỏ quá làm khổ những người có thị lực kém nhưng lại không thích dùng kiếng cận!
Thân mến
Vương Sinh

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Giao Chỉ và Tượng Quận (Tiếp theo)

2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ của nước Việt (6)

Ngược dòng thời gian, người viết xin trích dẫn những tài liệu trong thư tịch có liên quan đến vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Phương Đình Địa Dư Chí (PĐĐDC) của Nguyễn Văn Siêu (7), "lần đầu in bằng chữ Hán vào năm Canh Tý (1900), niên hiệu Thành Thái thứ 12", tái bản bởi nhà xuất bản Văn Hóa - Thông Tin, trang 28: "Nhật Nam thái thú: Vua Hán Vũ đế đổi Tượng quận nhà Tần là Nhật Nam. Nhà Ngô lại đặt là quận Cửu Đức…"

Ông Nguyễn Văn Siêu cho là Nhật Nam thuộc về Tượng quận (Nhật Nam ở xa hơn về về phía nam so với Cửu Chân và Giao Chỉ).

Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa, khi viết về các tỉnh miền trung châu Bắc Việt đã viết như sau (thí dụ điển hình là tỉnh Bắc Ninh)":

"Dựng đặt và diên cách. Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất hai huyện Luy Lâu và Long Biên...."

Các sử quan triều Nguyễn vẫn coi Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận đời Tần.

Vân Đài Loại Ngữ (VĐLN) của Quế Đường Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực, trang 167:

"Đời An Dương Vương, quân nhà Tần sang đánh cướp lấy miền đất Lục-lương của Nam Việt (người Lĩnh-nam phần nhiều ở vào khoảng đất núi, tính người cương cường nên gọi là Lục Lương), đặt ra các quận: Quế -lâm; Nam hải; Tượng -quận (Quế-Lâm nay là Quảng-tây; Nam-hải nay là Quảng-đông; Tượng-quận nay là nước ta).

Qua trích dẫn trên, ông Lê Quí Đôn cũng đã viết Tượng quận là Cổ Việt.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KKĐCSTGCM hay Cương Mục). Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998. Trong quyển 1: đề tài "Hùng Vương dựng nước" viết như sau:

"Năm Đinh Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.

Bấy giờ nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cõi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi thú. Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.
Lời chua:.... Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Bây giờ tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải, đất Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần".

Các sử quan triều Nguyễn nói cổ Việt là Tượng quận thời Tần.

Việt Sử Tiêu Án, soạn giả: Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ 1775. Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu 1960. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991. Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001. Kỷ: Ngoại Thuộc: Nhà Triệu, Triệu Đà.

"Nhà Tần cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận 1. Người Việt ta đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên".

Không thấy ông Ngô Thời Sỹ nói rõ về việc Giao Chỉ là một phần của Tượng quận, nhưng chữ "nước Việt ta" và "người Việt ta" đã nói lên việc quân Tần đã tấn công cổ Việt.

Khi nói về thời Triệu Đà ông viết như sau:

"Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to bốn chữ: "Triệu Kỷ Vũ Đế". Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta".

Qua câu viết này, dù không trực tiếp viết ra, nhưng người viết cho là ông cũng đã gián tiếp công nhận Giao Chỉ nằm trong Tượng quận.

Ở cuối trang, dịch giả viết trong ghi chú 1 như sau:
"1 Tượng Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay nhiều người lầm Tượng Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày nay."

Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của ông (Ngô Thời Sỹ) cũng viết: "Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam".

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (ĐVSKTT quyển 1, trang 138) viết như sau với ghi chú số 2 và 3 của người dịch:

Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương (8), đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam); cho Nhâm Ngao làm Nam Hải úy, Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta.
(Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa. Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là Lục Lương).

Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt hay ở ngoài cổ Việt?

3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.

Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện (9), Việt Chí của Trần Chu Phổ (10), Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu (11) (những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh (12), ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v.... Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An (trình cho Hán Vũ Đế năm 139 TCN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (năm 97 TCN), Hán Thư của Ban Cố (khoảng năm 92, là năm ông này bị chết trong ngục, bộ sử này sau đó đã được hoàn tất bởi cô em gái là Ban Chiêu), Hậu Hán Thư của Phạm Việp ( khoảng trước năm 445 là năm ông này bị giết) v.v.... Tuy nhiên, khi tham khảo những sử liệu được viết từ một quốc gia "thống trị"; để viết sử cho một quốc gia đã qua một thời gian "bị trị", các sử gia phải vô cùng cẩn thận, từ việc so sánh các sử liệu về việc đồng nhất của các sự kiện, còn phải phân tách, phán đoán, lý giải để tìm hiểu sự thật của lịch sử. Vì các sử gia của quốc gia thống trị đã viết sử theo quan niệm của họ, nhiều khi đến độ sai lầm vì nhiều lý do khác nhau. Nếu những tham khảo được lấy từ những điều chủ quan hay sai lầm để viết sử nước nhà, hậu thế sẽ đọc được những sự việc trong quá khứ với đầy nghi vấn và hoang mang với câu hỏi đâu là sự thật?

Sử gia Phạm Văn Sơn đã nêu ra vấn đề là cổ Việt (hay Giao Chỉ và Cửu Chân) không phải là Tượng Quận thời Tần, dù trong các thư tịch và cổ sử của nước Việt cũng như cận và hiện đại đều nói như thế.

Người viết đã trích dẫn đoạn văn của ĐVSKTT nói về Tượng Quận: "... đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây) 30, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) (cước chú số 3)".

Đoạn văn với cước chú số (3) trang 138, tập 1 viết như sau:

"3 Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam. Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: "Quận Nhật Nam - quận Tượng thời Tần ngày trước". Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ rằng: "Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất".
Dù đây chỉ là cước chú (13) trong ĐVSKTT, nhưng tài liệu này đã chỉ ra manh mối cho người viết, đã giúp rất nhiều cho việc tìm hiểu về cội nguồn của vấn đề.

Hán Thư, quyển 28 (14) "Địa lý chí đệ bát hạ" viết về quận Nhật Nam như sau: "Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần... Thuộc Giao Châu".

Hán Thư, quyển 7 (15) "Thiệu Đế kỷ đệ thất" viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha: "Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha."

Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần. Vì thế người viết nhận thấy vấn đề về "Giao Chỉ và Tượng quận" bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ tọa lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.

Câu hỏi được đặt ra:

- Tượng Quận thời Tần nằm ở đâu? Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ?

- Giao Chỉ có bị quân Tần tấn công và chiếm đóng không?

Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.
Theo thiển ý, để hiểu rõ về một biến cố xảy ra, chúng ta cần ba yếu tố chính. Đó là nhân vật, thời gian và không gian (địa điểm). Các sử liệu đã đưa ra tên của nhân vật, thời gian, và địa điểm - nơi đã xảy ra những diễn biến này. Tuy nhiên tên những địa điểm nơi xảy ra biến cố đã bị biến đổi theo thời gian; cũng như qua các triều đại. Vì vậy, hậu thế rất khó có thể mường tượng được những nơi liên quan đến biến cố này nếu không có họa đồ để tham khảo.

4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào? (pt. 22)

Sau khi gôm thâu sáu nước để thống lĩng Trung Hoa năm 221BC, Tần Thủy Hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Trung Hoa, Thủy Hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.

Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành: “Năm thứ 33 (214TCN),Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm,Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ” (16).

Qua đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm ba quận. Tuy nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào Lĩnh Nam từ lúc nào.

Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, "Nam Việt Úy Đà liệt truyện" (Sử Ký) viết: “...Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.
Câu dịch "Như thế đã mười ba năm" rất khó hiểu, vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào? Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú- quyển 113- Nam Việt Úy Đà liệt truyện: "Tập giải Từ Quảng viết: “Tần tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên. Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên niên lục niên (214 TCN) nhĩ".

Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong 6 nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm: 209 + (13-1) = 221 TCN (17). Phù hợp với việc "biên niên" trong chính sử Trung Quốc.

Nhà Tần "bình Việt địa" trong 8 năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị sự bành trường đế quốc nhà Tần là: 214 + (8 -1) = 221 TCN. Tuy nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc "bắt lính" từ các nước vừa chiếm như: "đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn" (ĐVSKTT) cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.
Vì thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm 220 TCN, thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để mang quân đi xâm lăng Bách Việt
--------------------------
Chú thích:
(6) Người viết mạn phép gọi là "thư tịch cổ" cho những tài liệu từ thời nhà Nguyễn trở về trước là những thư tịch viết bằng Hán tự.
(7) Nguyễn Văn Siêu sinh năm Kỷ Mùi (1799), tự là Tốn Ban, hiệu là Phương Đình, người làng Lủ (Kim Lũ), huyện Thanh Trì, Hà Nội. Văn nhân nổi tiếng cùng thời với Cao Bá Quát với câu đối khen tặng của vua Tự Đức:

"Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường"

Tùng: Tùng Thiện vương. Tuy: Tuy Lý Vương.

(8) ĐVSKTT: Đây viết là Lục Dương, cuối câu viết là Lục Lương.
Sử Ký của Tư Mã Thiên trong “Nam Việt Úy Đà liệt truyện" viết là Dương Việt. Cũng trong Sử Ký, phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết là Lục Lương. Vậy theo thiển ý, tác giả ĐVSKTT gồm hai chữ Lục Lương và Dương Việt thành chữ Lục Dương ở đây.
(9) Sử Ký của Đỗ Thiện được viết sau năm 1135, khoảng dưới triều Lý Anh Tông (1138-1175).
(10) Quyển sử này được viết trước sách Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu.
(11) Đại Việt Sử Ký (ĐVSK) của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, hoàn tất năm 1272.
(12) Đầu thời nhà Trần, người viết phỏng đoán là sách này được viết trong khoảng thời gian từ 1234 đến 1258 (xin đọc bài "Tìm hiểu Đại Việt Sử Lược", của cùng tác giả)
(13) Trang mở đầu của bộ ĐVSKTT: "ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ”. Bản in Nội các quan bản. MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HÒA THỨ 18 (1697). tập 1. Lời giới thiệu: Giáo sư Viện sĩ: Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác gỉa, văn bản và tác phẩm: Giáo sư Phan Huy Lê. Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn. NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, HÀ NỘI - 1998
(14) http://www.chinaknowledge.de/Literature/Historiography/hanshu.html
"Nhật Nam quận, cố Tần Tượng quận, Vũ Đế Nguyên Đỉnh lục niên khai, cánh danh. Hữu tiểu thủy thập lục, tịnh hành tam thiên nhất bách bát thập lí (3110 dặm). Thuộc Giao Châu". (日 南 郡, 故 秦 象 郡 , 武 帝 元 鼎 六年 開, 更 名 。 有 小 水 十 六, 并 行 三 千 一 百 八 十 里 。 屬 交州 。 〔 一 〕 戶 萬 五 千 四 百 六 十 , 口 六 萬 九 千 四 百 八十 五 。 縣 五 : 朱 吾 , 比 景 , 〔 二 〕 盧 容 , 西 捲 , 水入 海 , 有 竹 , 可 為 杖 。 莽 曰 日 南 亭 。 〔 三 〕 象 林 。)
(15) Hán Thư quyển thất. Thiệu Đế kỷ đệ thất: "thu, bãi Tượng quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha". Hán thư của Ban Cố, quyển 7 viết: "Thu, bãi Tượng Quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha (秋 ,罷 象 郡 ,分 屬 鬱 林 、牂 柯 )"
(16) Phiên âm Hán Nôm: “Tam thập tam niên, phát chư thường bô vong nhân, chuế tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa, vi Quế Lâm,Tượng quận, Nam Hải , dĩ thích khiển thú” [/i].
(17) " 209 + (13-1) = 221 TCN": năm thứ nhất là 209 TCN, đếm thêm 12 (thứ 13) là 221 TCN.

---------------------

5- Địa điểm đóng quân của quân Tần

Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?

Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?) để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).

ĐVSKTT: “Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương…
...đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh”.

a. Sách Hoài Nam Tử (18)

Tuy nhiên có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương "Nhân Gian Huấn", có đoạn đã viết về việc này như sau (19):

Kiến kỳ truyện viết: "Vong Tần giả, hồ dã". Nhân phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công - Tương ông tử tướng, trúc tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thủy, đông kết Triều Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt chi tê giác - tượng xỉ -phỉ thúy - châu cơ, nãi sử úy Đồ Tuy (Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái Đàm Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi tái, nhất quân xử (xứ) Phiên Ngu (Phiên Ngung) chi đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân kết Dư Can chi thủy, tam niên bất giải giáp trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Ẩu (Nôm: Âu) quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn.

Tạm dịch (20):
...
Truyện xưa viết: "Nhà Tần vong, tại sao vậy". Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến.
Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ỡ sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc (21) không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Họ kén chọn người tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.

Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.

Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển sách này ra đời.

Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường, em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN) và là chú họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài (22) (tỉnh An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN (hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).

Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, do tám học giả ở vùng Hoài Nam viết gọi là Hoài Nam Bát Tiên, dưới sự chỉ đạo của Hoài Nam Vương Lưu An. Sách này được trình cho Hán Vũ Đế xem năm 139 TCN. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 TCN - 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN). Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được viết sau biến cố này 75 năm, nên tương đối khá ngắn so với chiều dài của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.

Qua sử liệu, chúng ta biết quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay.

b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam



Bản đồ số 1 - Ngũ Lĩnh (ngày nay là Nam Lĩnh)



Bản đồ số 2- Ngũ Lĩnh-chi tiết

Ngũ Lĩnh

Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm 5 rặng núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:

Việt Thành lĩnh (Yuechengling 越城)
Đô Bàng lĩnh (Dupangling 都庞岭)
Minh Chử lĩnh (Mengzhuling 萌渚岭)
Kỵ Điền lĩnh (Qitianling 骑田岭)
Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling 大庾岭)

Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam - Quảng Tây, Hồ Nam - Giang Tây - Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.

Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam- bắc chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử. Sông Cám (hay Cống giang) cũng theo hướng nam - bắc chảy vào hồ Bá Dương.

Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li theo hướng bắc - nam chảy vào sông Chu. Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam chảy vào sông Tây (Tây giang).

Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng 3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng đường bộ.

Những quan ải tại Ngũ Lĩnh:

Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện: "(Nhâm) Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng: Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ".

Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay (梅关 Meiguan) (23). Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa hạ đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này. Từ Mai quan tới thị xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km (19 dặm). Thời Tần có tên là Hoành Phổ quan, cửa quan này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng Trương Cửu Linh (24) mở rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại. Phía bắc cửa ải có khắc hàng chữ "Nam Việt Hùng quan" (南粤雄关), phía nam có khắc hàng chữ "Lĩnh Nam Đệ Nhất quan".

Dương Sơn quan (25) (阳山关) ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh, gần Liên giang (Lian jiang 连 江). Ngày nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan 阳山), Thanh Viễn thị, góc tây bắc tỉnh Quảng Đông.

Hoàng Khê quan (湟谿关) ở phía nam Kỵ Điền lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ 3 con sông hợp lại là Bắc Giang (Beijiang 北 江), Liên giang (Lianjiang 连 江) và Ống giang (Wengjiang 滃 江). Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde 英德), Thanh Viễn thị (Qingyuan 清远), phía bắc đô thị Quảng Châu.

Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có Ly Thủy quan là chỗ Sử Lộc đào kinh Linh Cừ thông thủy đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.

Lĩnh Nam.

Địa thế: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh. Tùy theo sự giải đoán của từng người hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc. Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời là Mân Việt và Đông Việt). Người Việt Nam gọi Lĩnh Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT: "Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: ...Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong"; cũng như truyện "Lĩnh Nam Chích Quái"của Trần Thế Pháp. Trong khi đó học giả Tây Phương (26) nói Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách phổ quát thì Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay. Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục và văn hóa với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ.

Phía tây Lĩnh Nam là vùng cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan 乌 蒙 山) và Lục Chiếu sơn (Liuzhao shan (六诏 山, sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây). Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và phía nam của Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.

Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ ba của Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang), Đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam. Sông này tùy từng đoạn đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ thời là sông Tường Kha) - Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang là đoạn nối với biển Nam Hải.

Sông Tây giang có những chi lưu chính ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang (phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây giang.

Khí hậu: Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa hạ. Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam- thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng 5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một năm (nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C). Lĩnh Nam có nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao, 170 cm (67 inches) tại Quảng Châu, 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông, 180 cm (71 inches) tại Hà Nội.

Lịch sử: Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam, Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ, ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ qua những vùng có thể đi bằng đường bộ (27). Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hóa của Trung Quốc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam. Về phía đông bắc, sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn (28) năm 333 TCN, hậu duệ của vua Việt và một số dân Việt chạy về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến. Tại đây hai nước nhỏ được lập nên là Đông Việt và Mân Việt, vùng này được gọi chung là Dương Việt. Phía tây bắc của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền, từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) (29) lúc cổ thời. Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại đội quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng một cách kịch liệt. Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.

Các sắc tộc: Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc Thái là Tráng (30) (Zhuang 壯) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông, Lê (31) (Li 黎) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou 雷州) và ven đảo Hải Nam (32). Xa về phía nam là dân tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc. Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như người H’Mông (33), người Dư (34), Di tộc (Lô Lô) (35), người Dao (36) v.v…

Dân số Lĩnh Nam: Theo như Hán Thư, Địa Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng lại được 215,448 nhà, và số nhân khẩu là 1,272,390 (37) người. Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9).

Nước cổ Việt gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143,643 nhà và 981,835 người.

Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm 4 quận Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.

Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người viết phỏng đoán là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất có khoảng 2 triệu người. Ngược lại hai thế kỷ, trước khi nhà Tần sang xâm chiếm, người viết phỏng đoán dân số tại Lĩnh Nam có khoảng 1.5 triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng Đông (38), 1 triệu người tại cổ Việt. (Còn tiếp)
----------------------------
Chú thích:
(18) Độc giả có thể sao lại nguyên bản bằng chữ Hán tại: http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html
(19) Nguyên bản:

見 其 傳 曰 : 「 亡 秦 者 , 胡 也 。」 因 發 卒 五 十 萬 ,使 蒙 公 、 楊 翁 子 將 , 築 脩 城 , 西 屬 流 沙 , 北 擊 遼 水 , 東結 朝 鮮 , 中 國 內 郡 輓 車 而 餉 之 。 又 利 越 之 犀 角 、 象 齒 、翡 翠 、 珠 璣 , 乃 使 尉 屠 睢 發 卒 五 十 萬 , 為 五 軍 , 一 軍 塞鐔 城 之 嶺 , 一 軍 守九 疑 之 塞 , 一 軍 處番 禺 之 都 , 一 軍 守南 野 之 界 , 一 軍 結餘 干之 水 , 三 年 不 解 甲 弛 弩 , 使 監 祿無 以 轉 餉 , 又 以 卒 鑿 渠 而 通 糧 道 , 以 與 越 人 戰 ,殺 西 嘔君 譯 吁 宋 。 而 越 人 皆 入 叢 薄 中 , 與 禽 獸 處 , 莫 肯 為 秦 虜。 相 置 桀 駿 以 為 將 , 而 夜 攻 秦 人 , 大 破 之 , 殺 尉 屠 睢 ,伏 尸 流 血 數 十 萬 。
(20) Đương nhiên là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.
(21) Người viết dùng tên Sử Lộc như trong sách "Việt Sử Toàn Thư", của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56
(22) Lưu An được phong Hoài Nam Vương (164BC). Ông không nhập bọn theo "loạn bảy nước năm 154 TCN" thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về Trường An để tham chính. Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, "Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện".
(23) Tham khảo từ sách "Tigers, Rice, Silk & Silt" của Robert B. Marks, trang 21-24, và trong http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass
(24) Trương Cửu Linh (Zhang Jiuling 張九齡 678-740, thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan, 韶關), phía tây nam Mai Quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa Hoa Hạ và Lĩnh Nam
(25) Sử Ký: Tam gia chú 阳山、○索隐姚氏案:地理志云揭阳有阳山县。今此县上流百馀里有骑田岭,当是阳山关。
Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án:Địa Lý chí vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện. Kim thử huyện thượng lưu bách dư lý hữu Kỵ Điền lĩnh, đương thị Dương Sơn quan.
(26) Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998
(27) Hidden Trade Routes of The South: http://www.uglychinese.org/vietnamese.htm
(28) Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333 TCN
(29) Độc giả có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/en/citylife/041109/html/041109en20004.htm#
(30) Ngày nay, Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu 廣西壯族自治區 (Guangxi Zhuang Autonomous Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.
(31) Lê tộc ngày nay có khoảng 1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải nam
(32) Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China", Cambridge University Press, 1998, trang 54.
(33) H’Mong (Miao 苗族), tên cũ để gọi dân tộc thời xưa là Miêu tộc, tiếng Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.
(34) Dư tộc (She 畲) khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông.
(35) Di tộc (Yi 彝族) tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng hơn 3 ngàn người Lô Lô tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai và Cao Bằng.
(36) Người Dao (Yao瑶族) khoảng tr ên hai triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.
(37) Quận Nam Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162 người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố: 15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người. Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460 nhà, 69458 người.
(38) Theo tác giả Robert B. Marks: "Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China"[/i], Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000 nhà và từ 350,000 tới 400,000 người.




Bản đồ số 3 - 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Đàm Thành, Cửu Nghi, Nam Dã

Cửu Nghi

Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, "Chí đệ thập nhị", "Quận quốc tứ" (43) thì Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong "Thủy Kinh Chú Sớ" của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) (44): “… Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng. Sông Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang Dương, chảy về phía tây đi qua dưới núi Cửu Nghi, chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là núi Cửu Nghi”.

Cửu Nghi Sơn: địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (永州市 Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (宁远 Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam - Quảng Đông). Đỉnh cao nhất là núi Phấn Cơ (糞 萁 Fenji -1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.

Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành Dương (衡阳 Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau Trường Sa).

Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (蓝 山 Lanshan) tương đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.

Phiên Ngung



Bản đồ số 4 - 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Phiên Ngung

Nhân đọc Sử ký Tư Mã Thiên


Tần thời chiến quốc

Tần sau khi thống nhất

Tần Thủy Hoàng bản kỷ
"Năm thứ 33, Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận và Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ"

Quế Lâm

Quế Lâm là một địa cấp thị ở phía đông bắc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng TâyTrung Quốc, phía tây sông Li Giang. Tên thành phố có nghĩa là rừng quế đặt theo tên cây quế (Osmanthus spp.) mọc ven và trong nội thành của địa cấp thị. Người Trung Quốc xem Quế Lâm là nơi tuyệt nhất dưới thiên đường.

Năm 314 TCN, một nhóm định cư nhỏ được thiết lập dọc bên bờ sông Li Giang.  Nhà Tần  thành lập quận Quế Lâm tại khu vực ngày nay là nội thành Quế Lâm. Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 (111 TCN), vào thời  Hán Vũ Đế của nhà Hán, huyện Thủy An (始安) được thành lập, đây được xem như thời điểm bắt đầu của địa cấp thị này. Thời Đông Hán, lập Thủy An hầu quốc. Năm Cam Lộ thứ nhất (265) thời Tam Quốc, thuộc về  Đông Ngô Mạt đế cho thành lập quận Thủy An. Năm 507, được đổi tên thành Quế Châu. Khoảng năm Hồng Vũ thờinhà Minh, đổi lộ Tĩnh Giang thành phủ Quế Lâm. Thờinhà ThanhTrung Hoa dân quốc nó là thủ phủ tỉnh Quảng Tây (trừ giai đoạn 1912-1936 thủ phủ tỉnh là Nam Ninh). Đến thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì thủ phủ tỉnh Quảng Tây chuyển về Nam Ninh cho tới tận hiện nay. Theo dòng lịch sử, Quế Lâm là trung tâm  chính trị kinh tế và văn hóa của khu vựcLĩnh Nam. Năm 1981, Quế Lâm được Quốc vụ viện CHND Trung Hoa liệt kê cùng ba thành phố khác ( Bắc KinhHàng Châu và  Tô Châu ) trong danh sách các thành phố cần được bảo tồn hàng đầu về các di sản lịch sử và văn hóa, cũng như cảnh quan thiên nhiên.


Tượng quận  (chữ Hán: 象郡), trong các sách sử, là tên một quận do  Tần Thủy Hoàng đặt ra sau khi thôn tính vùng đất phía nam  Ngũ Lĩnh  (Bách Việt).
Trong giới sử học từng có quan điểm khác nhau về Tượng quận.
Có ý kiến (như học giả L. Aurousseau) cho rằng Nhật Nam vốn là quận Tượng thời  Tần Thủy Hoàng và Tượng quận bao trùm cả Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam thời Hán sau này[1]. Vì vậy, đã có sự đồng nhất giữa Tượng quận thời Tần và huyện Tượng Lâm thời Hán[2].
Các nhà nghiên cứu hiện nay dẫn các ý kiến, của H. Maspero, Vũ Phạm Khải, Tá Bá Nghĩa Minh, thống nhất phản bác ý kiến trên và khẳng định: Tượng quận mới được Tần Thủy Hoàng mở trong cuộc chiến tranh Việt-Tần ở phía nam Trung Quốc, trong đó quân Tần mới chỉ tiến tới Quảng Tây[3][4].
Viện Sử học Việt Nam dẫn Hán thư: "Năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Phượng thời Hán Chiêu Đế (76 TCN), quận Tượng bị bãi bỏ, chia cắt vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha". Quận Uất Lâm thuộc Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây Uất Lâm và gồm một phần Quý Châu. Như vậy quận Tượng cũ của nhà Tần (bị bỏ thời Hán) là ở phía tây Quảng Tây và một phần Quý Châu[3]. Trị sở của quận Tượng, theo Mậu Lăng thư do Hán thư dẫn tại phần chú, là đất Lâm Trần ở phía tây Nam Ninh, thuộc huyện Tân Dương, tỉnh Quảng Tây[4].
Học giả Cát Kiếm Hùng có ý kiến tương tự về vị trí Tượng quận là ở phía tây Quảng Tây[5].
Cả ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam do nhà Hán đặt sau này không nằm trong quận Tượng. Các sử gia căn cứ thêm vào Sử ký Tư Mã Thiên dẫn chứng: khi  Triệu Đànhân  nhà Tần suy yếu, chiếm ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (chiếm được trong  chiến tranh Việt-Tần) để thành lập nước Nam Việt (207 TCN) thì Nam Việt chưa bao gồm  Âu Lạc. Chỉ tới "sau khi Lã hậu  mất (180 TCN)", Triệu Đà mới chiếm lãnh thổ Âu Lạc và chia thành hai quận  Giao Chỉ và  Cửu Chân[4]. Còn đất đai Nhật Nam thời Hán - mà trong đó có huyện Tượng Lâm sau này tách ra thành nước  Lâm Ấp (năm 192) - chỉ được nhập vào lãnh thổ chung với miền Bắc và miền Trung Việt Nam ngày nay lần đầu tiên vào thời thuộc Hán, sau khi  Hán Vũ Đế đánh chiếm Nam Việt (111 TCN, Nam Việt khi đó bao gồm cả Việt Nam), các quan cai trị  Giao Chỉ tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn và hình thành quận  Nhật Nam[6].
Theo các trường Đại Học Nhân Dân, Đại Học Phúc Đán, và Đại Học Bắc Kinh ở Trung Quốc thì vị trí quận Tượng đã được xác định. Quận Tượng gồm 6 huyện, trên đất bây giờ là huyện Tịnh (Tĩnh) tây nam tỉnh Hồ Nam miền nam huyện Kiếm Hà, Cẩm Bình ở miền đông tỉnh Quý Châu, miền sông đầm miền tây của huyện Nhung Giang tỉnh  Quảng Tây, huyện Triết Thành, Bạch Sắc miền tây tỉnh Triết Giang, miền tây nam núi Đại Minh của Nam Ninh cho đến biên giới Trung Việt, một giải Quảng Nam, Phúc Ninh ở đông nam tỉnh ; Vân Nam.
Các học giả hiện nay thống nhất với H. Maspero lý giải rằng: sở dĩ có sự nhầm lẫn đồng nhất Tượng quận thời Tần và Nhật Nam thời Hán, vì quận Nhật Nam thời Hán có huyện Tượng Lâm ở cực nam: Tượng quận là cực nam của đế chế Tần và Tượng Lâm ở cực nam đế chế Hán - điều này gây ra sự lầm lẫn đó[4].



Các quận Lĩnh Nam thuộc thời Tần/Hán
Tượng Quận



Giao Chỉ và Tượng Quận
--

---------------------------------------
Nam Việt thời Triệu Đà
Các văn bản đều xác định thời Tần chưa đánh Giao Chỉ (Việt Nam). Giao Chỉ thuộc Nam Việt sau khi Triệu Đà phản phé Tần, chiếm một vùng to đùng, sau đó Triệu Đà thịt nốt Âu Lạc a.k.a. Giao Chỉ.

Tượng quận dưới thời Hán Vũ đế (140TCN – 87TCN) và Thiệu đế (86 TCN – 80 TCN).
Năm 112 TCN, nhà Hán sai quân sang xâm chiếm Nam Việt, nhà Triệu mất. Nước Nam Việt bị Hán chiếm và đổi là Giao Châu, châu này đặt dưới quyền cai trị của quan thứ sử. Giao Châu chia làm 9 quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Châu Nhai và Đạm Nhĩ. Mỗi quận đều đặt một quan thái thú để cai trị.
Theo Hán Thư, quyển 7 9
 “Thiệu Đế kỷ đệ thất” viết về việc bãi bỏ Tượng Quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha: “Mùa thu, bãi bỏ Tượng Quận,
chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha”.
Thời Thiệu đế, Tượng Quận đã bị phân chia vào các đơn vị hành chính khác và địa danh này đã không còn ngoại trừ trong cổ sử.