Saturday, February 27, 2016

CHIẾN THẮNG CUỐI CÙNG CỦA QLVNCH TẠI BẾN TRANH

CHIẾN THẮNG CUỐI CÙNG CỦA QLVNCH TẠI BẾN TRANH.

Nguồn: Paris Match số ngày 19 Avril 1975.

 photo dangphuongthanh_parismatch.jpg
Le colonel Thanh défend le delta du Mékong
Anh hùng bất tử Đặng Phương Thành
- Tác giả Trần Anh Tú

https://youtu.be/0rsuZYGoBWk



 

Paris Match số ngày 19 Avril 1975

Thưa các bạn,

Cách đây mấy ngày tôi đã đăng lại hai trang trên báo Paris Match phỏng vấn Đại Tá Thành (scan từ bản photocopy nên phẩm chất kém).

Tôi đã quên tiếng Pháp khá nhiều nhưng vì quá nóng lòng muốn dịch ra tiếng Việt nên tôi đã tìm được "Reverso", một website dịch miễn phí từ Anh qua Pháp và ngược lại; và nhiều ngôn ngữ khác. Tôi nhận xét dịch vụ này dịch khá hơn cả Google Translate vì không có nhiều chữ ngô nghê rất buồn cười mà Google hay gặp. Nó có thể dịch cả một bài viết với điều kiện là bạn phải copy và paste. Vì dựa vào bản photocopy nên tôi phải bỏ ra một buổi chiều nhập từng câu vào công cụ này để nó dịch ra tiếng Anh; sau đó tôi dịch ra tiếng Việt và nhập vào Microsoft Word. Thành ra nếu có sai sót, mong các bạn thông cảm. Sau đây là phần bản dịch của đoạn phỏng vấn này.

Tôi xin cầu nguyện cho người anh hùng này sớm được siêu thoát, người đã tạo nên chiến thắng lớn nhứt và cuối cùng của qlvnch; nhưng đã lìa đời rất thảm thương vì bị tra tấn đến chết sau khi trốn trại thất bại tại một trại tù của csvn sau 1975.
(Xin xem bài của Trung Tá Trần Văn Lưu cũng đăng trên blog này). - Tài.



 photo dangphuongthanh_parismatch.jpg
⃞ ⃞


Quận Bến Tranh

"Mỹ Quới, 150 dân làng đã được tập trung tại sân làng khi chúng tôi tới. Những người này không đi ra đồng sáng nay. Trong tầm nhìn của mắt, vùng châu thổ rạn nứt này, ngoại trừ lững lơ những đám sương mù, còn lại là trong vắt (a perte de vue, le delta craquele, sur lequel flottent de echarpes de brume, est vide). Xa xa, xuất hiện những cụm khói (au loin, des fumees d'explosion), đó là những khẩu 105 của pháo binh chánh phủ đang giã/nện (pilonner) những tàn quân của một trung đoàn quân Bắc Việt xâm nhập, đã bị tiêu diệt hôm trước (s'est fait aneantir la veille).

Đó là hòa bình và đó là chiến tranh. Vùng châu thổ này luôn luôn có hai bộ mặt. Trong khúc quanh của con kinh (la boucle de l'arroyo) chảy vòng qua làng, nổi lên những xác chết sình chướng và đen kịt (gonfles et noirs).

Cách đây hai ngày, Mỹ Quới đã là bộ chỉ huy của quân Bắc Việt. Trên ngưỡng cửa của một ngôi nhà, một người đàn ông với nét mặt đầy sợ hãi (aux yeux remplis de frayeur), đang ngồi, được canh gác bởi ba nghĩa quân (trois villageois en armes). "Người này trước đây là chính ủy của trung đoàn "(c'etait le commissaire politique du regiment), Đại Tá Thành giải thích cho tôi. Mập nhưng lùn (trapu), gương mặt tròn nhưng với nét cứng cỏi (les traits fermes), Đại Tá Thành đã hành quân (ratisser/rake) vùng châu thổ này từ nhiều tháng. Ông nhìn chăm chú cánh đồng chỉ còn bùn khô, ngăn cách bởi những con đê nhỏ, và thì thầm: "còn nữa". (il scrute la plaine, quadrillee par les diguettes, et murmure: " il y en a encore"). Ông nói như một sĩ quan Pháp của thập niên 1950. Tôi nói như vậy với ông, ông trả lời: "vùng châu thổ là vậy" (c'est la delta).

Nhưng bên dưới những bụi chuối (bananeraie), tạo bóng mát cho cho làng, những cô gái trẻ mặc áo lụa trắng đang phì cười (pouffler de rire ), những đứa nhỏ ở truồng vừa đuổi nhau vừa la trước mỗi nhà - những ngôi nhà bằng đất với lớp vữa màu xanh (maisons en dur, enduites de crepi bleu). Có nhiều lu lớn đựng nước ngọt mà những thanh niên có thể dùng những cái lon bằng thiếc để múc uống hay rảy nước cho mát (des gobelets de fer blanc pour boire et s'asperger). Nguời ta vừa lấy những xác dưới kinh, sẽ chôn cất và mọi việc sẽ cũng như trước. Cho tới đêm kế (jusqu'a la nuit prochaine).

Bởi vì đó là đêm mà các đặc công Bắc việt xâm nhập vào các làng để đe dọa các trưởng làng, trừng phạt những nông dân không tuân lịnh Việt cộng (chatier les paysans qui ne se plient pas aux consignes du Viet-cong). Giống như thời người Pháp còn hiện diện. Vùng châu thổ này, với một triệu người đang nuôi 20 triệu người, có thể nuôi toàn nước Việt Nam. Đây là vùng đất màu mỡ/phì nhiêu (fertile) nhất Đông-Nam-Á. Không có vùng châu thổ, Sài Gòn sẽ là một thành phố chết. Do đó mà tại sao Đại Tá Thành theo dõi, trong khu vực bao la này, nơi mà người ngoại quốc phải dựa vào địa bàn để di chuyển, những trung đoàn Bắc Việt phân tán thành từng toán nhỏ, giấu mình trong những ao (trous d'eau), đào những đường hầm dưới các đê và đôi khi sống dưới đó trong nhiều tháng.

Người nông dân vùng châu thổ KHÔNG thích Việt cộng. Và đối với họ, một người miền Bắc là một người Esquimau. Mỗi ấp ¬có nghĩa quân trang bị vũ khí nhẹ. Ở phía bắc của vùng châu thổ, những người Hòa Hảo, một giáo phái có màu sắc chính trị tổ chức thành một đạo quân thật sự, đã thành công khi làm khiếp đảm những phần tử liều lĩnh nhứt của đội quân quyết tử của Hà Nội. Nhưng những người nông dân này cũng ghét những công chức của Sài Gòn tham nhũng (ranconner) và không biết lội ruộng (ne savent pas marcher dans les rizieres). Họ có một danh từ để chỉ những người này: đó là những người mang túi/bị gạo (ce sont ceux qui emportent les sacs de riz.

Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục Việt cộng đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết.
Chúng ta đang ở Á châu và người nông dân đang chờ để biết ai sẽ là kẻ mạnh nhứt. Chính kẻ mạnh nhứt sẽ làm chủ vùng châu thổ này. Vào lúc này, vị đại tá khỏe mạnh này đang giữ quận Bến Tranh trong tay cho chính quyền VNCH ở Sài Gòn. Không nắm vững tình hình, người nông dân không biết tới sự thảm bại mới đây (ý nói sụp đổ của các tỉnh miền trung.-Tài) và hơn nữa, họ còn cười vì nghĩ rằng nó quá xa nơi họ đang sống.

Nhưng nếu Bắc quân, tại Xuân Lộc đang cầm chân những lực lượng giỏi nhứt của Sài Gòn, đột nhiên tấn công vùng châu thổ?

Chúng tôi tiếp tục trợt lên trợt xuống (trebucher) trên những bờ ruộng, tới Ấp Bắc. Vẫn còn những thiếu nữ với hoa cài trên tóc. Vẫn còn những đứa trẻ nô đùa vài mét cách các xác sình chướng và nám đen. Vẫn còn xuất hiện những nghĩa quân bảo vệ làng của họ. Nhưng họ sẽ chống được ai?

Chúng tôi vào nhà của xã trưởng. Có tám đứa nhỏ trên bộ ván gỗ lớn. Một bà lão đang đang cắm hoa trước bàn thờ ông bà. Vị xã trưởng chào đại tá.

- "Làng này thì bảo đảm".

Đại Tá nói.

Nhưng ông ta nhìn ra xa, hướng về các bụi chuối mà sức nóng của buổi trưa làm chúng lung linh dưới ánh mặt trời, như địch quân đang ẩn núp ở đó.

Tại Sài Gòn, trong một con đường rộng, kế khách sạn Continental, có một người đàn bà nhỏ thó đang sống, mảnh khảnh nhưng hoạt bát (menue et vive), vừa làm trung gian (interposer) giữa hai kẻ thù không đội trời chung, Tổng Thống Thiệu và Việt cộng. Đó là bà Ngô Bá Thành. Bà mời các phóng viên quốc tế đến vườn nhà bà. Đối với người nước ngoài, bà tượng trưng cho lực lượng thứ ba. Ở Washington, Paris, London, và có thể ở Moscow người ta lắng nghe bà. Người ta coi bà như một lực lượng để thay thế. Người ta cũng đang theo dõi một viên tướng mà giá trị lớn nhứt của ông là vẫn còn im lặng. Đó là Minh lớn. Người ta đồn đãi rằng ông sắp tái xuất giang hồ. Nhưng dân Sài Gòn, mỗi đêm hướng lổ tai về Xuân Lộc, chỉ có thể nghe tiếng đại bác của Bắc quân./."

Ký giả: Francois Caviglioli


⃞⃞


 photo dangphuongthanh2.jpg

Trận Đánh Gần Kinh Ngã Sáu ngày 11/3/1975


- Chúng ta không thể nào quên, nhưng chúng ta có thể tha thứ.
(vô danh).

Để tưởng nhớ những đồng đội đã hy sinh trong trận đánh gần kinh Ngã Sáu ngày 11/3/1975.

***

Kinh Tổng Đốc Lộc, chạy qua đồn kinh Ngã 6, là ranh giới thiên nhiên giữa tỉnh Kiến Phong và Định Tường. Kinh Rạch Ruộng nối kinh Tổng Đốc Lộc với sông Cửu Long.

TĐ 2/10 Sư Đoàn 7 Bộ Binh QLVNCH, mà tôi phục vụ, đã gần như bị xóa sổ vào ngày 11/3/1975 khi đi tiếp cứu cho đồn kinh Ngã Sáu (đồn này do 1 đđ Địa Phương Quân trú đóng với hai khẩu 105 ly, có tên như trên vì là nơi ba con kinh giao nhau) bị Việt cộng chiếm trước đó một ngày.

Xuất phát từ kinh Bằng Lăng, (con kinh chạy từ Quốc Lộ 4 đến quận Hậu Mỹ), TĐ tiến về hướng Tây để đến đồn kinh Ngã 6. (Sau này, tôi được biết một số tđ khác của Sư Đoàn 7 cũng tham gia cuộc tiếp cứu này bằng đường bộ hay trực thăng vận theo các hướng khác nhau). Có lẽ do ông TĐT chủ quan khinh địch, cũng như tin tức về địch không đầy đủ, tđ đã di chuyển theo ba mũi vào BAN NGÀY trên một địa thế TRỐNG TRẢI, với ruộng lúa đã gặt xong, nước lấp sấp với một vài mương nước ngang dọc. Khi gần đám vườn ở bờ kinh thứ hai (tôi không nhớ tên), tđ bị chận đứng bằng cối 81 ly và sau đó địch đã dùng đại liên 12.8 ly. Khi thấy địch dùng súng này, tôi biết địch chuẩn bị xung phong. Là sĩ quan ban 5, tuy không chỉ huy một đơn vị nào, tôi không nằm mẹp xuống đất để tránh đạn mà chồm đầu lên quan sát. Nhờ vậy tôi mới thấy địch quân xuất hiện ở phía trước và dầy đặc ở hông phải của tđ, chúng xuất hiện hàng hàng lớp lớp.

Do địa thế trống trải, tđ chỉ có thể tạt về phía trái để tìm chỗ chống cự (dựa vào các mương nước). Không quân đã gửi B-57 và F-5 yểm trợ đắc lực cũng như sự chống trả dũng cảm của mọi người trong tđ, nên đã gây thương vong cho đối phương rất nhiều. Tôi còn nhớ, một số cán binh Việt cộng, chân không mang giày để chạy nhanh, do bị thương nặng đã lết theo chúng tôi xin cứu chữa và đi theo. Tôi trả lời:

- "Chúng tao lo lính chúng tao không nỗi, huống hồ lo cho bọn bây!".

Tđ đã cố gắng cầm cự, chờ đến khi trời tối mịt, để lại một trung đội tử thủ, bắn cầm chừng, còn bao nhiêu rút về quận lỵ Hậu Mỹ gần đó, sau khi vượt kinh Bằng Lăng. Sau đó, tđ được trực thăng đưa về căn cứ Đồng Tâm. Mấy ngày sau, tôi nghe kể lại rằng khi Đại Đội Trinh Sát 7 vào tìm xác thì thấy các sĩ quan đều bị bắn bể đầu; do trời nóng, lại có nước lấp xấp, nên các xác chết đều hóa dòi. Kết quả: nhiều sĩ quan đđt và tr.đt đã tử trận và bị thương; một số lớn hạ sĩ quan, binh sĩ tử trận, bị thương, hoặc mất tích. Sau khi được tái trang bị và bổ sung quân số, sau đó TĐ có tổ chức một số hành quân nhỏ cho tới ngày 30.4.75.

Nhận định của tôi: đối phương đã tấn công đồn kinh Ngả Sáu để ‘công đồn đả viện’. Qua lời khai của tù binh, họ đã bố trí nhiều trung đoàn chung quanh đồn Ngã 6 để chặn đánh vì biết rằng QLVNCH sẽ phải cứu viện để lấy lại hai khẩu 105 ly của đồn này. Họ cũng nhằm mục đích cầm chân và tiêu hao lực lượng của quân khu 4 đế khỏi tiếp cứu các quân khu khác sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công và thất thủ. Nếu tôi không lầm, trận Kinh Ngả 6 là trận LỚN NHỨT tại Quân Khu 4 ngay sau khi Việt cộng nổ súng vào Ban Mê Thuột. Trận đánh lớn KẾ TIẾP là trận tr.đ 12 của Sư Đoàn 7 Bộ Binh giải tỏa Quốc Lộ 4 gần Long An.

Có nhiều báo chí quốc tế đặc biệt là Paris-Match đã làm phóng sự về trận đánh và phỏng vấn tr.đ.t. là Đại Tá Đặng Phương Thành. Ông đã bị đánh chết trong tù vì Việt cộng cay cú vì chiến công này của tr.đ 12. Tôi có photocopy bài phóng sự này nhưng vì quá mờ nên không đăng lên blog.

Tôi viết bài nầy, để tưởng nhớ rất nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh trong trận đánh. Thứ nữa, để giúp cho thế hệ mai sau *biết được có một trận đánh lớn như vậy tại Quân Khu 4 mà báo chí Việt Nam ở hải ngoại chưa thấy nhắc tới. Tôi biết ông Vương Kỳ Anh đã viết nhiều bài về Sư Đoàn 7 Bộ Binh nhưng chưa thấy ông đề cập đến trận đánh này. Tôi mong sẽ được nhiều ý kiến phản hồi hay đóng góp cho bài này.

*Một số quân nhân sống sót sau trận này, sau khi đi tù hay vượt biên, ở Mỹ hay các nước khác, vì quá buồn hay mặc cảm nên đã không viết về trận đánh này.

San Jose ngày 20.12.10 lúc 10:49pm.

ĐẠI TÁ ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH

Thưa các bạn: có một số bạn trẻ, có thể không biết ĐẠI TÁ ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH là ai?

Bài viết sau được được dịch từ tuần báo Pháp Paris - Match, đã đăng trên một blog của tôi từ lâu, nay tôi đăng lại trên Face Book.

Có thể nói, tôi là người Việt Nam, gần như DUY NHỨT, đã giúp phổ biến bài báo* này tại hải ngoại.

 photo dangphuongthanh2.jpg

Di ảnh anh hùng Đặng Phương Thành (từ trái sang phải: Hình chụp khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan Võ Bị Quốc Gia Việt Nam năm 1960, và hình chụp năm 1967 sau khi lập gia đình).

Khoảng cuối tháng 4/1975, quân CSBV đã định cắt Quốc Lộ 4 tại khu vực Bến Tranh, nhưng bị Trung Đoàn. Đoàn 12 của Sư Đoàn 7 Bộ Binh đẩy lui. Báo Paris Match đã có bài phỏng vấn Đại Tá ĐẶNG PHƯƠNG THÀNH, Trung Đoàn trưởng. Đây là CHIẾN THẮNG CUỐI CÙNG của QLVNCH, trước khi sụp đổ vào ngày 30.4.

Sau khi vào tù (khoảng tháng 6/75) thì tất cả báo nước ngoài trong nhà tôi đều bị đem cân ký hay đốt. Ba tôi cương quyết giữ lại toàn bộ tạp chí Địa Lý Quốc Gia (National Geographic), do tôi sưu tầm, có từ cuối thập niên 1940 đến tháng 4/75, không thiếu một số và bao gồm bản đồ vì ông rất thích đọc; dù từng dọn nhà 1 lần và dù cho CA khi vào nhà hay để ý đến bộ sách này vì ông để trong tủ kiếng trong phòng khách. Ba tôi kiếm được trang bìa của một tờ TIME hay NEWSWEEK, chụp ông HCM râu tóc bạc phơ, lộng kiếng và treo nơi trang trọng nhứt trong nhà, ai mới vào cũng thấy. (Coi như BÙA HỘ MỆNH!).

Khi sang Mỹ năm 1994, tôi vào thư viện, tìm kiếm các số báo của Paris Match trước 30.4 nhưng không thấy bài báo này. Nếu đặt mua trên mạng khoảng 40 đô/số, nên tôi đã nhờ người thân ở Quebec, tỉnh nói tiếng Pháp của Canada. Họ vào thư viện tìm kiếm, photocopy và gửi cho tôi.

* Trong một lần về nhà vào cuối tháng tư 1975, tôi đã đọc số báo này, sau đó về đơn vị. Đến tháng 6/75 vào tù và năm 1981 ra tù. Tôi phải chờ tới khi qua Mỹ mới nhờ người thân ở Canada tìm giúp số báo này. Lúc đầu định mua trên mạng dựa vào Paris-Match.com/fr/archives nên quá mắc vì gần 40 đô.
http://www.tranthanhhien.com/2014/01/chien-thang-cuoi-cung-cua-qlvnch-tai.html

*************************************

*************************************


Vinh Danh Anh Hùng
Đặng Phương Thành
Là Danh Nhân Quân Sự Việt Nam


Anh hùng Đặng Phương Thành nguyên Đại Tá Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 12 thuộc Sư Đoàn 7 Bộ Binh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nhân ngày giỗ lần thứ 35, 09/09/1976 - 09/09/2011 là Danh Nhân Quân Sự Việt Nam.


Sư Đoàn 7 Bộ Binh
 Sự tích: Anh hùng Đặng Phương Thành đã tạo chiến thắng lớn trong trận cuối cùng tại Thủ Thừa, tiêu diệt một Trung Đoàn việt cộng trong tháng 4/1975, nhờ đó giữ vững được Quốc Lộ 4 trong thời gian dầu sôi lửa bỏng này.

(*) Di ảnh anh hùng Đặng Phương Thành (từ trái sang phải: Hình chụp khi còn là Sinh Viên Sĩ Quan Võ Bị Quốc Gia Việt Nam năm 1960, và hình chụp năm 1967 sau khi lập gia đình).

Danh tánh, sự tích của ông sẽ được ghi vào Tân U Linh Việt Điện (quyển sách ghi chép sự tích thần kỳ của những người đã lao tâm lao lực cứu nước giữ nước trong lịch sử Việt Nam cận đại).

Khi Anh hùng Đặng Phương Thành đi tù cộng sản ngoài miền Bắc, nhân lúc ông vượt ngục bất thành và bị bắt lại, hậm hực vì mối nhục thua trận Quốc Lộ 4, bọn cai ngục cộng sản đã treo ông lên và đánh đập tàn nhẫn cho đến chết.

* Ngày giỗ của ông là 09/09/1976. (*)

(*) Chúng tôi nhận được thông tin từ bà Kim Nguyen, gia đình của Anh hùng Đặng Phương Thành cư ngụ ở Hoa Kỳ.

(*) Di ảnh anh hùng Đặng Phương Thành chúng tôi nhận được từ gia đình của người anh hùng gởi tới ngày 10/08/2011.

Làm tại Hải ngoại ngày 09/09/2011

Trúc Lâm Nguyễn Việt Phúc Lộc, tổng thư ký Hội Sử-Học Việt-Nam

- Bản sao gởi đến gia đình anh hùng Đặng Phương Thành.

Nguồn:
http://www.vnmilitaryhistory.info/danhnhanquansuvn/vinhdanhanhhungdangphuongthanh.htm

----------------------------------------------

Kinh Tổng Đốc Lộc, chạy qua đồn kinh Ngã 6, là ranh giới thiên nhiên giữa tỉnh Kiến Phong và Định Tường.  photo MAP OF DINH TUONG0001 1.jpg

Kinh Rạch Ruộng nối kinh Tổng Đốc Lộc với sông Cửu Long.  photo MAP OF DINH TUONG0001.jpg2 1.jpg

Bản đồ trận chiến và bài viết lấy từ blog:
http://www.tranthanhhien.com/2014/01/chien-thang-cuoi-cung-cua-qlvnch-tai.html

1
Kinh Tổng Đốc Lộc, chạy qua đồn kinh Ngã 6, là ranh giới thiên nhiên giữa tỉnh Kiến Phong và Định Tường.

Photo:

2
Photo:



**********************************************
Đây là bản đồ của Việt cộng tôi tìm thấy, nói về trận đánh ngày 11 tháng 3 năm 1975. Việt cộng nói họ thắng Sư đoàn (7?) lính VNCH.



Cá hai đều nói quân bên mình thắng. Vậy sự thật là bên nào thắng? Nếu VC thắng tại sao lại ôm hận giết Đại Tá Thành?
http://e24.com.vn/index.php?m=newsdetail&q=9&id=109
Đây là lời Việt cộng nằm vùng nói:
"CHIẾN THẮNG NGÃ SÁU BẰNG LĂNG"... Tượng đài được dựng và khánh thành vào ngày 25-04-2005, nằm trên địa phận thuộc xã Mỹ Trung - Cái Bè, Tiền Giang (ngay trên vị trí xưa kia là trận địa pháo 105 của Yếu khu Ngã Sáu của địch mà ta đã đánh chiếm)"


Việt cộng gọi VNCH là địch, VNCH cũng gọi Việt cộng là địch, để dễ hiểu ta gọi Việt cộng là "địch cộng"
Sau 1975 Việt cộng đổi tên tỉnh Định Tường là Tiền Giang, khiến cho các thế hệ sinh sau không ai còn biết cuốc chiến thắng này vì nó đã bị đổi tên. Phần đông các tỉnh hoặc thành phố quan trọng Việt cộng đổi tên sau 1975.
Trước 1975, thời VNCH Quận Bến Tranh gồm 15 xã: Hòa Tịnh, Lương Hòa Lạc, Mỹ Tịnh An, Phú Kiết, Phú Mỹ, Tân Bình Thạnh, Tân Hiệp, Tân Hòa Thành, Tân Hội Đông, Tân Hương, Tân Lý Đông, Tân Lý Tây, Thanh Bình, Thân Cửu Nghĩa, Trung Hòa.



Bản đồ tỉnh Định Tường trước 1975 của VNCH
 photo nam vn_zpsitfd3jah.jpg

bản đồ của Việt cộng nói về trận đánh này

 photo cn c ng saacuteu.jpg

Photo:

01 Nhớ anh hùng Đại tá Đặng Phương Thành
https://youtu.be/1iS76wjRGT4?si=niK0wVU8sSQaK_r5


02 Nhớ anh hùng Đại tá Đặng Phương Thành
https://youtu.be/1zLuIfRzTbI?si=eSmwDFEZLE0AFEjB


03 Nhớ anh hùng Đại tá Đặng Phương Thành
https://youtu.be/Q7v6lVWFNXQ?si=NTNtuOu2omJHruGJ


Sunday, February 21, 2016

"Con Đường Buồn Thiu” - “Street Without Joy” - "La Rue Sans Joie"

“Street Without Joy” "La Rue Sans Joie" “Con Đường Buồn Thiu”

 photo ANN-53-61-R29_zpsylgrnqn9.jpg
Cuộc Hành Quân “Camargue” tại Quảng Trị năm 1953, lính Dù Quân Đội Pháp và lính Dù Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, truy lùng Việt Minh cộng sản.
OPÉRATION “CAMARGUE” EN CENTRE VIÊT-NAM, DANS LA RÉGION CÔTIÈRE DE QUANG TRI: LARGAGE D’UNITÉS PARACHUTISTES.


Tại sao có tên “Con Đường Buồn Thiu”?

“Con Đường Buồn Thiu” là một nơi nổi tiếng tàn ác của Việt Minh (VC), nơi có chiếc quan tài chở trên xe bị mìn bung nắp ra, lật nghiêng, hất thi hài người chết ra khỏi hòm) người chết hai lần. Đội du kích làng Phù Lễ đặt mìn bừa bãi ở đây để phá hoại bất cứ loại xe nào, dân sự hay quân sự, làm dân thường chết oan không ít.

Năm 1953, Bộ Tư Lệnh Cao Cấp Pháp tập trung các Lực Lượng Trừ Bị trong khu vực với cố gắng quét sạch một lần cho xong những đám du kích, phục kích, pháo kích bừa bãi của Việt Minh đe dọa nầy. Đồng thời, các đoàn xe “công voa” của quân Pháp bị thiệt hại nặng nề vì các cuộc phục kích và pháo kích của các đơn vị của Trung Đoàn 95. Đây là đơn vị quân Việt cộng thiện chiến thâm nhập vào phía sau phòng tuyến Pháp. Khi Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa phục kích tiêu diệt được toán du kích nầy, tình hình an ninh khá hơn nhiều.

“Con Đường Buồn Thiu” ở đâu? Con Đường Buồn Thiu chính là con đường đất khoảng từ Vân Trình tới Diên Sanh. Ghe đi đò dọc, đi theo kinh Vân Trình nầy. “Con Đường Buồn Thiu” là Phò Trạch.

Vào Huế bằng đò dọc, theo sông Hiền Lương (Bến Hải) vào sông Đông Hà, đến An Cư thì vào sông Thạch Hãn, bọc qua chỗ cầu Sãi trên sông Vĩnh Định để vào Ba Bến, vào Ngô Xá, Trà Trì, Trà Lộc vào kinh Vân Trình, hết kinh Vân Trình qua làng Đại Lộc (thường nói trại là Đại Lược) vào phá Tam Giang để ngược lên Huế.


Con Đường Buồn Thiu” chính là con đường đất nầy (bản đồ Con đường buồn thiu), khoảng từ Vân Trình tới Diên Sanh.

Vào tháng 7 năm 1953, Bộ Tư Lệnh Cao Cấp Pháp quyết định tổ chức cuộc hành quân tên là “Camargue” tại “Con Đường Buồn Thiu” nầy để càn quét quân Việt Minh (tiền thân Việt cộng 'CSVN'), thực hiện những cuộc đổ bộ dọc theo bờ biển cát tại vùng Trung Việt, đồng thời có thêm hai đơn vị thiết giáp phối hợp hoạt động cũng như lực lượng Nhảy Dù làm hậu bị để khóa những con đường trốn chạy của Việt cộng sau khi vòng vây đã xiết chặt. Với một số:

- 1 Trung Đoàn bộ binh
- 2 Tiểu Đoàn nhảy dù
- 1 Trung Đoàn thiết giáp
- 1 Đơn vị hỏa xa bọc thép
- 4 Tiểu Đoàn pháo binh
- 34 (Ba mươi tư) máy bay chuyển vận
- 6 Máy bay trinh sát
- 24 Oanh tạc cơ và
- 12 Tàu hải quân, bao gồm ba tàu LST’s.

Lực lượng nầy chẳng kém gì lắm nếu so với tầm cỡ của những cuộc đổ bộ hồi Thế Giới Chiến Tranh Thứ Hai ở Thái Bình Dương. Lực lượng Cộng Sản rõ ràng chỉ có Trung Đoàn 95 và một ít đơn vị du kích địa phương, ít có cơ may thoát khỏi cuộc bao vây nầy.

Cuộc tấn công thực hiện bằng hai lực lượng đổ bộ, ba chiến đoàn bộ binh và một lực lượng nhảy dù, do tướng Leblanc chỉ huy tổng quát, mỗi cánh quân có một bộ chỉ huy đặc nhiệm do một đại tá cầm đầu.

Rạng đông ngày 28 tháng 7, Chiến Đoàn A đổ bộ vào bờ biển. Hai giờ sau, Chiến Đoàn B từ phía bắc tiến xuống phía nam đằng trước tuyến đổ bộ của Chiến Đoàn A. Vào lúc 7giờ 15, Chiến Đoàn C tiến dọc theo kinh Vân Trình để đẩy các đơn vị địch ở phía tây sông nầy phải ra sát bờ sông hoặc phải vượt qua sông. Chiến Đoàn B lưu ý phối hợp hoạt động với Chiến Đoàn D đổ bộ vào khu phía nam của Chiến Đoàn A, ở phía bắc bán đảo trên phá (Tam Giang).

Nếu được, Chiến Đoàn B sẽ đổ bộ sớm hơn, vào lúc 3 giờ sáng cho lực lượng thủy binh và 5 giờ cho lực lượng bộ binh, tiến lên phía bắc, xuyên qua bán đảo phía ngoài Phá Tam Giang để tạo một trận tuyến chung với Chiến Đoàn C càng sớm càng tốt. Hai Tiểu Đoàn Nhảy Dù làm lực lượng hậu bị chờ lệnh triển khai của bộ Tư Lệnh được đặt trong tình trạng ứng chiến. Đây là lực lượng quan trọng sẽ được đưa vào chiến trường để kết thúc trận đánh.

Thoạt nhìn, trận chiến có vẻ thành công. Xử dụng một lực lượng tổng cọng tới hơn ba mươi tiểu đoàn, gồm cả một lực lượng tương đương hai trung đoàn thiết giáp và hai trung đoàn pháo binh, cuộc hành quân dọc theo “Con Đường Buồn Thiu” chắc chắn là một trong những cuộc hành quân kinh khủng nhứt từng xẩy ra trên chiến trường Đông Dương. Tuy nhiên, về mặt khác, quân số kẻ thù cao lắm cũng chỉ có một trung đoàn bộ binh yếu kém. Sự kiện làm cho cuộc hành quân của Pháp gặp nhiều khó khăn là địa hình.

Từ bờ biển nhìn vào đất liền, khu vực hành quân tự nó có bảy vùng đất khác biệt nhau:
- Thứ nhứt là bờ biển, dài và phẳng, có những đồi cát, không có gì khó khăn lắm. Tuy nhiên, ngoài 100 mét bằng phẳng đó, tại nơi những đụn cát bắt đầu, độ cao thay đổi từ 15 đến 60 bộ, khó trèo lên được và những đụn cát nầy chấm dứt bên phía đất liền bằng nhiều mương rạch hoặc bờ đất đứng. Vài làng đánh cá dựng tạm trên các đồi cát chạy sâu vào hơn hai cây số.
- Tiếp đó là một khu vào sâu khoảng 800 mét, gồm bãi tha ma, chùa miễu rất thuận lợi cho quân phòng ngự.
- Tiếp đó nữa là “Con Đường Buồn Thiu” chạy dọc theo các ngôi làng nhỏ cách nhau khoảng bốn, năm chục mét.

Mỗi làng là một khung cảnh phức tạp, mỗi bề khoảng vài trăm thước bao bọc bằng những lũy tre, bụi bờ hoặc các hàng rào nhỏ làm cho máy bay rất khó quan sát. Trung Đoàn 95 đã bỏ ra hai năm để lập hệ thống phòng thủ cho các làng nầy và liên kết với nhau bằng một hệ thống địa đạo (nhiều lối chui lòn ăn thông trong lòng đất, các điểm chôn giấu vũ khí, trạm cứu thương. Không một cuộc tấn công đơn lẻ nào của các lực lượng lưu động lớn có thể khám phá hay tiêu diệt được. Khu vực nầy gồm hai chục cây số bề dài và ba trăm mét bề ngang, với những làng mạc như thế tạo thành trung tâm kháng chiến của quân Việt cộng Sản ở miền trung Việt Nam.

Về mặt khác, phía “Con Đường Buồn Thiu” là một dãy làng kém đặc sắc, mà trung tâm là làng Vân Trình. Ngược lại, khu nầy được che chở bằng một khu vực rộng lớn gồm những đầm lầy, hố cát, cát lún, kéo dài tới Quốc Lộ 1. Với bề ngang trung bình khoảng tám cây số, chiến xa và các loại xe có động cơ khác của quân đội Pháp không thể di chuyển được, ngoại trừ vài đoạn đường, dĩ nhiên ở đây chôn rất nhiều mìn. Nói một cách ngắn gọn, “Con Đường Buồn Thiu” là một hệ thống phòng thủ mà người Pháp quyết định đập tan bằng một cuộc tấn công phối hợp ba lực lượng: không quân, hải quân và bộ binh.

Quân Pháp còn gặp một khó khăn khác là những làng nầy còn có cư dân đang ở, họ là những nhóm nhỏ làm ruộng hoặc đánh cá. Ít ra, về mặt lý thuyết, số dân nầy được coi là “thân hữu”. Một ngày trước khi cuộc hành quân khai diễn, Bộ Chỉ Huy Cao Cấp ra lệnh cho tất cả các đơn vị phải có “thái độ nhân đạo” và tôn trọng người dân. Trước tiên, quân Pháp không được oanh tạc hay đốt làng. Lệnh nầy chắc chắn hạn chế hỏa lực, làm giảm hiệu năng của cuộc tấn công, đặc biệt khi tấn công vào các căn cứ Việt Minh.

Giờ H là rạng đông ngày 28 tháng 7 năm 1953. Các chiếc tàu LST ì ạch rời khỏi vị trí tập trung vào tối hôm trước, chạy suốt đêm để tới cho kịp vùng đổ bộ dọc theo bờ biển đối mặt với “Con Đường Buồn Thiu”. Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 4 giờ sáng, trong tiếng lách cách vũ khí cá nhân va chạm và tiếng máy tàu gầm rú. Các loại xe lội nước Crabs (cua) và Alligators (cá sấu) của đơn vị đổ bộ bắt đầu rời tàu chạy xuống nước.

Crabs và Alligators là hai biệt danh của loại xe lội nước do Mỹ chế tạo. Crabs là loại chuyển vận xa 29-C và Alligators là loại Thiết Vận Xa Đổ Bộ L.V.T. (Landing Vehicle, Tracked) 4 và 4 A. Như tên gọi, Crabs không bao giờ là loại xe dùng để tác chiến, nhưng người Pháp ở Đông Dương chẳng bao lâu khám phá ra rằng loại xe nầy có thể dùng để chuyển quân như một loại xe thủy bộ tại những vùng đầm lầy không có đường sá, đồng ruộng ở vùng đất thấp Việt Nam hay dọc các bờ biển.

Đầu tiên, loại xe nầy không trang bị vũ khí nên họ phải thiết trí vài loại vũ khí nhẹ, súng cối và chúng trở thành mục tiêu cho loại súng không giật của địch. Sự kiện nầy làm thay đổi chiến thuật, đến năm 1953, các đơn vị xe lội nước nầy trở thành đơn vị thiết giáp thường trực của quân Pháp ở Đông Dương. Đó là sự phối hợp giữa hai chi đoàn 33 xe Crabs cho mỗi đơn vị, dùng để thám thính và truy kích, ba chi đoàn xe Alligators (L.V.T. Landing Vehicle, Tracked) tạo thành lực lượng nòng cốt, do đó, chúng là những đơn vị thiết giáp vũ trang. Cuối cùng một chi đội với 6 xe L.V.T. trang bị đại bác, làm thành một đơn vị pháo di động.

Về mặt khắc, các xe lội nước nầy không được chắc chắn và đòi hỏi bảo trì kỹ lưỡng, khó thực hiện khi các xe nầy được xử dụng trong vùng đầm lầy ở Đông Dương. Loại Crabs trước tiên được chế tạo để vận chuyển hàng hóa ở Alaska – không đủ nước để nổi và hiện cao trên mặt đất, dễ trở thành mục tiêu cho địch sau khi địch khám phá ra rằng đó không phải là loại xe bọc thép. Mặt khác, loại xe nầy có thể chở trên xe vận tải nhà binh (G.M.C.) hay trên tàu thủy hay xà-lan được. Loại Alligators nặng hơn và có bọc thép, lội nước thì hay nhưng khi chạy trên đất thì nặng nề và may móc thì yếu. Trên bộ, loại xe nầy không thể chạy được xa, có thể chuyên chở bằng các loại vận chuyển đăc biệt; không thể chở trên xe nhà binh G.M.C. vì quá to và nặng.

Tuy nhiên, tổng số 160 chiếc xe lội nước tiến vào bờ biển Trung Phần Việt Nam, một chiếc khi đi qua quậy nên một vũng bùn xám xịt màu chì, cùng với những lá cờ cột trên cần ăng-ten bay phất phới trong gió sớm. Đợt đổ bộ đầu tiên thực hiện vào lúc 6 giờ sáng, tiến qua các ngôi làng dọc bờ biển và tức khắc chiếm lĩnh dãy đồi cát hình vòng cung đầu tiên có thể từ đó quan sát hết các ngọn đồi cát khác nằm dọc theo bờ biển. Cuộc tấn công của quân Pháp vào “Con Đường Buồn Thiu” bắt đầu.

Các đơn vị bộ binh thường trực khác thuộc Binh Đoàn Lưu Động Bắc Kỳ (Tonkin) gặp khó khăn hơn. Một trong ba tiểu đoàn, chỉ một mà thôi, Tiểu Đoàn 3 thuộc Bán Binh Đoàn Lê Dương Hải Ngoại số 13 không có kinh nghiệm hành quân đổ bộ, và hai tiểu đoàn khác, Tiểu Đoàn 1 người Mường và Tiểu Đoàn Khinh Binh 26 người Senegal cũng chẳng kinh nghiệm gì trong việc đổ bộ cả. Không giống như việc đổ bộ bằng tàu hạng nặng, loại tàu nhỏ nầy lắc lư, binh lính bị nôn mửa, phải bốn giờ đồng hồ cuộc đổ bộ mới hoàn tất thay vì hai giờ như trong dự trù.

Trong khi đó, binh lính chiến đoàn thủy bộ Sư Đoàn 3 cho xe tiến lên các đỉnh đồi cát. Các xe thiết giáp lội nước Alligators sau khi đổ bộ, vượt qua các đầm lầy và binh lính trên các xe nầy đã triển khai đội hình trên mặt đất. Trong nhiều trường hợp khác, loại xe Crabs nhẹ hơn tiến lên các ngọn đồi cát sau khi vượt qua các bờ đất cao phía ngoài bờ biển. Tuy nhiên, cuối cùng, dù phòng tuyến của họ bị đứt đoạn ở khoảng giữa các làng Tân An và Mỹ Thủy, họ cũng vội vã tiến vào đất liền. Quân Việt cộng không có phản ứng gì, xem như họ không hiện diện ở đó. Có một số người bỏ chạy trốn khỏi làng Mỹ Thủy và ở phía bắc có hai Trung Đội đang tìm đường rút lui.

Trong khi đó, Chiến Đoàn B do Đại Tá Du Corail bắt đầu hoạt động. Lúc 6 giờ30, hai tiểu đoàn của Binh Đoàn Lưu Động Trung Việt vượt qua sông Vân Trình và tới 7 giờ 45 các nhóm đi đầu báo cáo thấy bóng người ngồi trên xe lội nước Crabs đang chạy qua những đồi cát.
Mặt bắc “Con Đường Buồn Thiu” đã bị khóa lại.

Bên phải Binh Đoàn Lưu Động Trung Việt, là Trung Đoàn Kỵ Binh người Ma-Rốc không gặp may. Đơn vị nầy hướng tới vùng đầm lầy không có đáy và các vũng cát sâu nằm ở phía đông Quốc lộ 1. Hầu hết xe cộ của họ, ngoại trừ loại chiến xa M-24 hạng nhẹ, chẳng bao lâu bị kẹt giữa đầm lầy. Họ đến được kinh Vân Trình (tuyến xuất phát của cuộc hành quân càn quét trên bộ) vào lúc 8giờ 30. Trong khu vực của họ cũng không thấy địch phản công.

Thực ra, toàn bộ vùng quê nầy coi như vùng chết hoàn toàn. Không thấy nông dân trên đường. Trong làng, dân chúng trốn trong nhà. Suốt toàn bộ khu vực vắng vẻ nầy chỉ thấy các vật di động là các hàng xe thiết giáp và các xe G.M.C. đang vất vả vượt qua các ngọn đồi cát và bãi lầy để tiến tới kenh Vân Trình.

Chỉ có bên phía cực phải Chiến Đoàn B là có tiếng súng nổ. Ở đó, một đại đội người Angiêri bất thần đụng với một toán khoảng vài ba chục Việt Minh. Binh nhì Mahammed Abd-el-Kader thuộc Đại Đội 2 bị đạn Trung Liên B.A.R. vào ngực, té xuống phía trước. Đồng đội anh ta phản công, bắn chừng vào các bờ bụi và các hố cát. Abd-el-Kadar là thương vong đầu tiên trong trận tấn công nầy.

Bên phải Chiến Đoàn B, Chiến Đoàn C do Trung Tá Gauthier chỉ huy gặp khó khăn nhứt trong cuộc hành quân. Phần lớn chiến đoàn nầy vượt qua Đường Số 1 hướng về kinh Vân Trình phía bắc Mỹ Chánh. Toán thứ hai tiến song song với Quốc Lộ 1 rồi quay về bên phải để tiến tới kinh Vân Trình, đoạn giữa làng Vân Trình và đầm lầy. Cuối cùng, tiểu đoàn (tabor) 9 Ma-Rốc, vào lúc 6giờ 30 dùng xe lội nước đổ bộ xuống làng Lai Hạ, giữ an ninh mặt biển, rồi quặt về phía đông nam dọc theo vùng đất cạnh phá Tam Giang với mục đích bao vây “Con Đường Buồn Thiu”. Tới 8 giờ 30 thì tiến đến làng Tây Hoàng và hoàn thành giai đoạn 1 cuộc hành quân.

Chiến Đoàn D, do trung tá Le Havre chỉ huy, chặn phía bán đảo dọc theo phá Tam Giang tới thành phố Huế. Do rút kinh nghiệm, đoàn quân nầy ít gặp khó khăn như Chiến Đoàn A. Cuộc đổ bộ bắt đầu lúc 4giờ 30 có chi đoàn xe lội nước số 7 đi đầu, theo sau là các đơn vị biệt động và Tiểu Đoàn 3 của Trung Đoàn 3 Angiêri. Lính biệt động và đơn vị đổ bộ tới bờ biển và tiến quân không ngừng. Chi đoàn lội nước tiến lên phía bắc hướng về phá Tam Giang, trong khi quân biệt động chiếm giữ thị trấn Thế-Chí Đông và tiến thẳng qua bán đảo, tiến tới bờ bắc phá Tam Giang vào lúc 5 giờ 30. Coi như Trung Đoàn 95 Việt Minh bị bao vây.

Sau đó là giai đoạn căng nhứt trong toàn bộ chiến dịch: Càn quét địch. Tướng Leblanc ra lệnh cho các tàu hải quân tiến lên phía bắc của các làng Ba-Làng và An Hội, bỏ neo cách bờ khoảng 4 dặm nhằm mục đích khóa chặt không cho địch quân trốn chạy bằng đường biển. Phía cực bắc “Con Đường Buồn Thiu”, Chiến Đoàn B bắt đầu càn quét qua từng làng, thực hiện một cuộc hành quân lớn nhứt một cách cẩn thận, không quan tâm tới hậu quả. Binh lính bao vây từng làng một. Sau đó, bộ binh trang bị đầy đủ tiến vào làng lục soát từng nhà trong khi các toán dò mìn và quân khuyển dò tìm (3) các bụi tre, cau tìm kiếm cửa hầm bí mật của địch giữa sự im lặng của dân chúng.

Như thường lệ, các người đàn ông trẻ trong làng đều bị bắt giữ, họ được các sĩ quan tình báo thanh lọc, tuy nhiên chẳng ai bị truy tố cả.

Tới 11 giờ, Chiến Đoàn B tiến được 7 dặm, xuyên qua các con đường ngoằn ngoèo trong các làng nhỏ nầy, không gặp một sức kháng cự nào. Họ tới làng Đơn Quế (4), ngay giữa “Con Đường Buồn Thiu”, tại ngã tư các con đường nhỏ xuyên qua các đồi cát dẫn tới kinh Vân Trình. Hồi xưa, nơi nầy có một cái “trạm ngựa” xây bằng gạch để chạy văn thư cho triều đình (5), nay trạm nầy vẫn còn, điều đó cho thấy tính cách quan trọng nào đó của nó vào hồi xa xưa.

Con Đường Buồn Thiu
http://www.youtube.com/v/ LS_Z59mIwgw


Làng Đơn Quế nằm dưới ánh mặt trời giữa trưa, nép mình giữa các hàng tre lắc lư, chính là hình ảnh thanh bình của miền thôn dã Việt Nam trong mùa gió mùa đông-bắc, khi nông dân chẳng còn việc gì nhiều để làm ngoài việc cầu trời mưa để cho lúa lên xanh rồi chuyển qua màu lúa chín vàng ruộm. Nhưng bây giờ thì Đơn Quế trở thành mục tiêu tấn công của các chiến xa hạng nhẹ M-24 của tiểu đoàn 6 Ma-Rốc. Thực ra, toàn bộ mũi tấn công phía bắc đều do binh lính Ma-Rốc đảm nhận, tiểu đoàn 1 Khinh Binh có nhiệm vụ thanh sát và được Trung Đoàn 69 pháo binh Howitzers của Trung Tá Piroth yễm trợ. Trung Đoàn nầy đã được hoan nghênh tại Fez, một thành phố phía bắc Ma-Rốc. Những đơn vị nầy trưởng thành trong chiến tranh, chiến đấu chống lại các đơn vị thiết giáp của Tướng Rommel Đức quốc xã ở Tuy-Ni-Di, vượt qua vùng Rapido, tiến qua vùng đồi núi Petrella ở Ý, đập tan binh đoàn 19 của Đức ở Hắc Lâm (Black Forest) và chạy đua cùng quân đội Mỹ, cố giành công chiếm Berchtesgaden. Họ là đạo quân nổi danh của quân đội Pháp ở Bắc Phi và nhiều người Ma-Rốc đã lên tới hàng sĩ quan cao cấp – tướng lãnh của quân Pháp, hơn bất cứ quân nhân thuộc nước nào khác. Ở đây, họ lại thực hiện công việc đó trong khi càn quét khu vực nầy.

Các chiến xa M-24, cẩn thận dàn ra, tiến vào làng Đơn Quế, có bộ binh tùng thiết. Với giác quan thứ sáu bẩm sinh, binh lính Ma-Rốc cố dò mìn bẫy. Họ tới cách làng chỉ còn 150 mét. Mọi sự đều yên tĩnh, nhưng chính giác quan thứ sáu cho họ biết có điều nguy hiểm đang chờ họ trong làng. Một cách lặng lẽ, bộ binh chiếm con đê phía ngoài làng, bên hông các chiến xa.

Trên đầu xe, các người chỉ huy còn ngồi cao trên cửa xe để tầm quan sát được xa, và để hít hơi gió nhẹ. (Tại Trung Đoàn Kỵ Binh Hải Ngoại Số 1, một đội xe có một kỹ sư Đức Quốc Xã cũ, thiết kế một máy lạnh trong chiến xa. Chuyện được nhiều người biết khi chiến xa nầy bị phục kích, toán trên xe chiến đấu bền bỉ một cách bất thường, khi máy đó bị hỏng, họ hồi phục lại được).

Thiếu Tá Derrieu, chỉ huy chi đoàn chiến xa đi tiên phong, hướng thẳng về phía làng. Con đường vào làng chẳng thấy có chướng ngại gì cả, cũng không thấy dấu có chôn mìn. Dù sao, xe tăng vẫn phải dừng lại chờ toán dò mìn ra dấu mới tiến thêm lên phía trước. Một cách có kỹ thuật, các anh lính nước da màu nâu, tai mang ống nghe và tay cầm cán máy dò mìn dài đang dò đường tiến tới làng Đơn Quế, im lặng làm việc dưới ánh mặt trời nhiệt đới gay gắt. Sau đó, anh Trung Sĩ Ma-Rốc đi đầu toán dò mìn không kịp nổ súng phản công khi thấy tia lửa tóa ra từ đầu nòng súng Việt Minh. Họ thấy lính Ma-Rốc tới quá gần! Dù sao, trận đánh cũng đã xảy ra một cách dữ dội và ngắn ngủi. Phản ứng hết sức nhanh, người lính đi đầu toán chỉ còn kịp nhào xuống đất, cuộn tròn mình vào trong bùn của đám ruộng bên đường. Chẳng ai bị thương nặng.
Các chiến xa gặp may vì quân Việt Minh đã nổ súng trước thời hạn. Hai khẩu đại bác không giật đúng ra chỉ nả đạn khi các chiến xa đi đầu rời khỏi các con đê để tiến vào các đám ruộng sâu.

Súng trên các chiến xa phản công bắn vào các mục tiêu nghi ngờ. Các khẩu liên thanh tỏ ra hữu hiệu hơn khi bắn vào các nhà tranh trong làng. Bộ binh triển khai thành một hình vòng cung bao vây làng Đơn Quế, nhưng vẫn chưa tiến vào làng. Đằng sau một trong những ngôi mộ ở bãi tha ma như người ta thường thấy trong vùng dân cư vùng quê viễn đông, viên chỉ huy tiểu đoàn đang ngồi xổm trên bùn, bản đồ đặt trên đầu gối, tay thì cầm ống nói máy truyền tin. Cái máy truyền tin đó do một người Việt Nam đeo trên lưng, người nầy cũng đang ngồi xổm xuống đất như tiểu đoàn trưởng vậy. Người mang máy nhìn một cách dửng dưng về phía trước, đầu anh ta đội một cái mũ rẻ tiền, trong cái nắng tỏa ra mơ hồ trên cánh đồng lúa.

Pháo của Trung Đoàn bắn vài loạt vào mục tiêu, và ít phút sau thì có tiếng máy truyền tin gọi yễm trợ. Làng Đơn Quế bắt đầu tan nát dưới hỏa lực pháo. Nhà tranh trong làng hết cái nầy tới cái khác bắt đầu cháy, khi các quả pháo rơi xuống nổ ầm ì. Vậy mà cũng chẳng có bóng người chạy ra, ngoại trừ có sự di chuyển ở các bờ tre quanh làng, thỉnh thoảnh có tia lửa chớp sáng ở đầu súng (cũng khó thấy rõ trong ánh nắng ban trưa). Có thể trong làng không có người. Bất thần, có tiếng nổ lớn ngay giữa làng, một cột khói đen dày đặc bay lên cao.

Thiếu Tá Derrieu dùng ống nhòm của xe tăng quan sát khung cảnh trước mặt rồi nói với đám lính chung quanh:

- “Có lẽ pháo trúng hầm đạn. Tiến lên đi.”

Tiếp đó là tiếng máy chiến xa gầm rú, ỳ ạch nối đuôi nhau tiến vào làng, bây giờ trông làng như một cái địa ngục. Qua máy truyền tin, Thiếu Tá Derrieu ra lệnh:

- “Đi cho đúng hàng, nhìn vào lằn xe đi trước, đừng sợ làm hại lúa.” Quả thật, anh ta nghĩ đến điều ấy quá muộn dù tổ tiên anh ta cũng là nông dân.

Bây giờ, ở đâu cũng xuất hiện những bóng đen nhỏ, từ các cửa sổ và trên mái nhà, các hố cá nhân đào bên đường, đúng là một làn sóng người chận đứng cuộc tấn công của xe tăng vào làng. Đây là giai đoạn hai của cuộc phòng ngự bất thường. Một khi không nắm giữ được vị trí, Việt Minh dùng dân chúng làm mộc che cho đám lính du kích rút lui. Mưu mẹo đó lần nầy bị thất bại. Chiến xa không hành quân một mình, các bóng người mặc đồ đen từ trong làng chạy thẳng vào họng súng của lính Ma-Rốc. Tới 1 giờ trưa, Đại Đội 3, Tiểu Đoàn 310 thuộc Trung Đoàn Độc Lập 95, Quân Đội Nhân Dân Việt Nam bị tiêu diệt hoàn toàn, nhưng sự hy sinh của họ đã thực hiện đúng ý đồ cấp chỉ huy của họ đã vạch ra. Trong vòng hai giờ đồng hồ, đại bộ phận đơn vị rút được về cuối phía nam, chỗ nầy nhỏ như một cái túi, điểm cuối của kinh Vân Trình, nối liền với phá Tam Giang, có cây cối che kín, không ai có thể khóa chặt vòng vây ở ngay tại đó được.

Về phía Pháp, Tướng Leblanc thấy rằng, địch quân thay vì chiến đấu tới cùng thì đã cố gắng một cách tuyệt vọng bằng cách kéo dài thời gian đến tối rút về phía các ngọn đồi phía tây Quốc Lộ 1. Vì vậy, ông ra ra lệnh thả hai Tiểu Đoàn Dù thuộc Lực Lượng Trừ Bị. Vào lúc 10 giờ 45, Tiểu Đoàn 2 thuộc Trung Đoàn Nhảy Dù Thuộc Địa Số 1 được đưa bằng phi cơ từ Hà Nội vào, nhảy xuống làng Đại Lộc, vùng đồi cát gần Chiến Đoàn D, tức khắc tiến về đầu kinh Vân Trình. Đó là cuộc chạy đua nôn nóng nhằm khóa kín vòng vây Trung Đoàn 95.

Tới giữa sáng Ngày D, vẫn còn nhiều khe hở lớn ở phía nam kinh Vân Trình, gần làng Phú An và Lai Hạ, trong khi Tiểu Đoàn 9 Ma-Rốc đang cố vượt qua các hố cát và đầm lầy để tới tuyến xuất phát. Rõ ràng Việt cộng dự đoán rất đúng điểm yếu nhất trong vòng vây của Pháp và phản ứng đúng theo dự đoán đó. Vào lúc 8 giờ 45, ngay khi binh lính Ma-Rốc tiến dọc theo các con đê quanh làng Phú An, đại liên và súng nhỏ bắn rất dữ vào đội hình họ. Vì họ đi trên đường đê, in hình rõ trên nền trời và bóng thì lại in xuống các ruộng lúa nước nên trở thành những mục tiêu ngon lành cho địch quân. Tiểu đoàn nầy bị thiệt hại nặng. Bị cầm chưn, Tiểu Đoàn 9 gọi tiếp viện. Nhưng tiểu đoàn nầy là đơn vị thuộc chiến đoàn đang đóng ở xa hơn đơn vị đổ bộ thuộc chiến đoàn D kế bên đã bắt đầu bắn chặn. Liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn ở Mỹ Chánh không thực hiện được. Chưa tới 9 giờ 10, Đại Tá Gauthier nhận ra rằng toán quân ở phía cực phải của ông ta hoàn toàn yếu thế.

Nhưng Việt Minh không xử dụng toàn bộ chiến thuật của họ. Vào lúc 11giờ, các đơn vị nhỏ của Tiểu Đoàn 227 Việt cộng tấn công bằng súng cối hạng nặng vào Trung Đoàn Lê Dương Kỵ Binh Hải Ngoại Số 1, đồng thời cũng tấn công bằng súng cối hạng nặng vào Tiểu Đoàn 2, Trung Đoàn 4 Bộ Binh Ma-Rốc. Tới 9 giờ 40, Gauthier quyết định thực hiện cú đánh ngược cuối cùng của ông ta: vội vàng điều động từ Huế, tung vào hai Đại Đội khóa sinh đang huấn luyện và ba Đại Đội của Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Cuối cùng, hai Đại Đội bộ binh tăng cường được lệnh tiến vào làng Lai Hạ bằng tàu đổ bộ nhưng mãi đến 3 giờ chiều cuộc tiến quân nầy mới hoàn tất. Sau đó họ bị kẹt trong khu đầm lầy mất 4 giờ đồng hồ nữa mới tới được chỗ Tiểu Đoàn Ma-Rốc bị tấn công. Được tiếp viện, tăng cường sức mạnh, binh lính Ma-Rốc phản công dữ dội, tới 5 giờ rưởi chiều thì chiếm được làng.

Thấy chỗ yếu của Chiến Đoàn C, Tướng Leblanc cho thả dù Tiểu Đoàn 3 Dù đang ứng trực tại Tourane (Đà Nẵng). Lệnh nầy ban ra lúc 11giờ 45 và hạn phải thực hiện vào lúc 2 giờ chiều. Nhưng vẫn còn vài điều chưa rõ trong lệnh hành quân. Theo các sĩ quan tham gia cuộc hành quân thì có hai lỗi lầm: Một là lệnh máy bay cất cánh hoãn lại cho tới 3 giờ chiều,
Hai là thời tiết nơi khu vực đổ quân.

Trong mùa gió mùa, vào buổi chiều dọc bờ biển miền trung gió thổi rất mạnh. Đây là điều ai cũng biết, nhưng thỉnh thoảng các đài khí tượng xa miền Trung, đặt gần Sài Gòn hay Hà Nội không tiên đoán được điều đó. Kết quả là khi các máy bay C-47 vận chuyển binh lính xuất hiện ở bầu trời khu vực đổ quân ở làng Láng Bào thì gió đang thổi mạnh, 30 cây số một giờ, gấp đôi cấp gió tối đa cho phép đổ quân. Các sĩ quan chỉ huy cuộc nhảy dù, nhìn khói từ trái khói tỏa ra bị gió thổi sát mặt đất bèn lắc đầu. Một sĩ quan nói:

- “Không thể cho nhảy dù xuống được, họ sẽ bị thổi ra khỏi khu vực vì họ nhẹ lắm.”

Thực ra, "nhẹ cân" là vấn đề và đôi khi trở thành chuyện cười trong binh lính Nhảy Dù Việt Nam. Họ xử dụng dù của Mỹ là loại dù dành cho người nặng 200 pounds, cộng thêm 85 hay 100 pounds trang bị. Vì vậy, loại dù nầy quá lớn với người lính Việt Nam nhỏ con nặng khoảng 100 pounds, dù họ có mang đầy đủ tất cả những thứ lỉnh kỉnh thì cũng chỉ mới nặng bằng nửa người lính Mỹ hay người Tây phương. Do đó, nhìn chung, người lính Nhảy Dù Việt Nam thường bay trên trời lâu hơn (dễ trở thành mục tiêu cho quân địch nhắm bắn) và bay ra ngoài khu vực đổ quân. Cũng không thể cho người lính nhiều trang bị hơn vì một khi đã xuống tới đất, họ không thể mang những trang bị đó đi quanh. Việc "nhẹ cân" nầy, cùng với cơn gió mạnh là tai họa cho họ.

Tới bây giờ, việc đưa thêm quân vào phía bán đảo là hoàn toàn cần thiết để bảo đảm việc bao vây quân đội Việt Minh không cho rút ra ngã bờ biển và phá Tam Giang. Do đó, một Tiểu Đoàn tăng cường được thả dù xuống bất kể hậu quả như thế nào. Vào lúc 4 giờ 50 chiều, đợt đầu tiên quân Nhảy Dù Việt Nam được thả xuống, và sau đó ít giây là các chuyến bay khác, các chiếc dù rơi trong bầu trời xanh. Mọi sự tuồng như tốt đẹp. Có một chiếc dù không mở và người ta thấy người lính rơi thẳng, chân xuống trước, như một vật nặng, khi đụng xuống cát thì tung lên một đám bụi như một quả pháo rớt xuống vậy.

Họ gặp gió mạnh và bị kéo xa tới 150 mét trên mặt đất, giống như có bàn tay vô hình nắm họ mà kéo đi vậy. Có người thay vì rơi theo chiều dọc thì bị gió kéo theo chiều ngang. Có người khi xuống đất thì bị rơi vào bụi bờ, đầm lầy và các con đê làng bằng một tốc độ nhanh như ngựa đang kéo xe. Có hai người giây dù mắc chéo vào nhau, cố gở ra nhưng không được. Đồ trang bị được thả xuống thì tệ hơn. Các trang bị nầy nhẹ hơn trọng lượng người lính nên bị gió thổi đi xa, rơi xuống biển hay bay vào vùng Việt cộng kiểm soát. Tới 5 giờ 30 thì tiểu đoàn tập trung được (Có người bị bay đi xa đến hai cây số và cố tìm đường về với đơn vị). Đó là đơn vị trang bị nhẹ nhưng chiến đấu giỏi. Mười phần trăm trong số họ bị thương khi nhảy dù xuống và hầu hết các trang bị nặng như súng cối, đại liên, đại bác không giật và đạn dược bị mất hết. Tuy nhiên họ cũng kịp thời chiếm lĩnh vị trí làm gọng kềm ở phía nam để kẹp Trung Đoàn 95 vào vòng vây giữa Chiến Đoàn 3 xe lội nước và Tiểu Đoàn 2 Dù được thả xuống đây vào sáng sớm.

Tới tối, sau khi chiếm được làng Phú An và Vân Trình, địch quân bị vây vào một khu vực rộng chỉ có 4 cây số bề ngang và 14 cây số bề dài. Về mọi mặt, cuộc hành quân Camargue được xem như thành công.

Tuy nhiên, sự thành công chỉ là bề mặt hơn là trên thực tế. Rõ ràng một nửa “Con Đường Buồn Thiu” nầy đã rơi vào tay quân Pháp nhưng chẳng bắt được tù binh nào cũng như vũ khí của địch. Điều đó có nghĩa là quân địch và trang bị của họ còn ở trong vùng bị bao vây phía nam Vân Trình. Việc nầy, muốn thành công phải có một cái bẫy khóa hết sức chặt.
Cuộc bao vây nầy, không được chặt như vậy. Dọc theo khu vực phía nam của Chiến Đoàn C, tuyến giao thông hào phòng ngự cuối cùng ở Phú An và cuộc phản công của Tiểu Đoàn 227 làm cho quân Pháp không tới được biên giới thiên nhiên của kinh Vân Trình. Kết quả là 4 Tiểu Đoàn Pháp canh giữ một phòng tuyến dài 12 cây số để canh chừng một lực lượng địch khoảng 2 ngàn 6 trăm người trốn thoát. Rõ ràng khu vực bị bao vây có nhiều kẻ hở nghiêm trọng, đặc biệt toàn bộ hệ thống rạch ngòi kinh rạch cắt ngang kinh Vân Trình tới Quốc Lộ 1.

Để cầm chắc, các xe lội nước Crabs và Alligators dừng lại gần hoặc ngay giữa các kinh rạch và hàng trăm lính bộ binh khó nhọc ngâm mình trong bùn hoặc trong ruộng lúa nước ngang tới đầu gối suốt đêm để canh chừng các bóng đen xuất hiện trước mặt họ, nơi một tiếng động nhỏ của con nhái nhảy xuống nước hay một cán binh Việt cộng sẩy chân đạp nhằm một cành cây đều được chú ý nhưng chẳng có gì cả ngoại trừ tiếng con trâu đi lạc đường thở phì phò tìm đường về chuồng.

Tới sáng, binh lính tập trung tiến lên phía trước. Dưới ánh mặt trời, làng mạc trông có vẻ hoàn toàn hoang vắng. Nông dân không ra đồng, cũng không có hình ảnh các em bé cho trâu ra đồng uể oải nhai cỏ. Chỉ có hình ảnh di động trong cánh đồng quê nầy là chiến xa di chuyển hay các xe lội nước đang chạy chầm chậm trong cơn gió nhẹ sớm mai và các anh lính bộ binh áo quần dơ dáy đầy bùn, tiến thành hàng dài trên các cánh đồng lúa, đôi khi đứt đoạn vì kéo dài ra tới phía chân trời.

Tới 11 giờ, mặt trời nung nóng những cái nón sắt, nón bêrê hay nón vải họ đội trên đầu. Chiến Đoàn A và D, cùng đi với các bộ phận Chiến Đoàn B tới kinh Vân Trình, suốt chiều dài đối diện với Chiến Đoàn C của đại tá Gauthier thì cái bẫy đã gói trọn “Con Đường Buồn Thiu” vào giữa. Các gọng kềm thép của các lực lượng trang bị hiện đại, có thêm sự hỗ trợ của tàu thủy, xe lội nước, xe tăng và máy bay, cố bao vây những người lính được huấn luyyện một cách vội vã, do những người chỉ huy có trình độ chiến thuật không cao, nhưng cuối cùng chẳng bắt được ai cả.

Để ăn chắc, người ta bắt giữ những kẻ tình nghi, đó là những người đang ở trong tuổi lính, không chứng minh được là người thuộc trong làng nên bị tình nghi là đang ở trong đơn vị quân Việt cộng.

Người ta cũng tìm được một ít vũ khí và ở phía cực bắc của khu vực bị bao vây: Đơn Quế, nơi quân Việt cộng đã chống lại, một ít bị bắt với vũ khí trong tay. Nhưng toàn bộ Cuộc Hành Quân Camargue kể từ hôm bắt đầu cho đến gần hai ngày sau thì coi như thất bại. Tuy nhiên, cuộc chiến chưa hẵn đã chấm dứt.

Máy bay trinh sát bay thấp phát hiện có sự di chuyển về hướng làng An Hội, có chứng cớ cho thấy vài đơn vị của Trung Đoàn 95 chạy thoát về hướng bắc. Vì vậy, tới 1 giờ trưa, tướng Leblanc ra lệnh cho lính thủy và một vài đơn vị bộ binh thuộc Chiến Đoàn A thực hiện cuộc tấn công vào An Hội. Cuộc tiến công diễn ra thật nhanh, đổ bộ lúc 3 giờ chiều, lục soát những gì nghi ngờ và trở lại tàu lúc 6giờ chiều. Nhiệm vụ hoàn thành.

Còn một việc cần hoàn thành trong các làng đã bị chiếm đóng: lục soát từng nhà, tìm những gì cất dấu và các cán bộ Việt cộng, những người nầy mặc đồ đen, chỉ khoảng 20 tuổi, thực sự là những người điều khiển chiến tranh bên phía địch. Hàng trăm lính bộ binh cầm máy dò mìn tỏa ra đi tìm, hoăc họ chỉ cầm cây sắt xâm hầm hay dộng báng súng xuống đất, nơi nào nghi có hầm bí mật, có người thì cầm tay nhau nối thành giây, để mò xuống các đầm lầy, ao hồ tìm vũ khí địch cất dấu hoặc trang bị chất đống dưới nước. Một khối lượng lớn người đi lên đi xuống khắp cả vùng quê.

Thỉnh thoảng có người kêu to đau đớn và đồng đội kéo anh ta lên khỏi mặt nước. Chân anh đạp trúng chông. Một mảnh gỗ có cắm những cái chông đầu có hình mũi tên nhọn có thể đâm thủng chiếc giày nhà binh. Vì bị nhiễm độc, chân người phải ba bốn tháng mới lành. Tuy nhiên người ta vẫn nắm tay nhau thành một sợ giây dài để lội xuống nước hoặc những toán dò mìn và quân khuyển tiếp tục công việc nhàm chán và đều đặn đó mà biết chắc chẳng kết quả gì.

Trên đỉnh các ngọn đồi cát, các xe Crabs và Alligators của Chiến Đoàn Xe Lội Nước 2 và 3 đang quan sát vùng bờ biển làng Trung An chờ các toán tình báo an ninh người Việt và Pháp đưa người tới. Họ chính là nạn nhân chiến tranh, những người dân thường xui xẻo khi các xe thiết giáp quân Pháp càn quét các khu ruộng lúa, với chỉ mười phút phá hại công trình trồng trọt của người dân đã được năm tháng mà việc cày bừa thì quá sức nặng nhọc; hoặc còn bị cán bộ kinh tài bắt đóng thuế cho đảng sau khi đã đóng 3 phần tư cho chủ ruộng hay chủ nợ nặng lãi và thuế cho chính phủ. Tình thế thật tệ hại, chẳng có tiền may áo cho bé Hoàng đi học ở trường làng, cũng không có cá, thịt heo cho tết năm nay.

Tới cuối ngày D+2, mọi sức kháng cự không còn. Ngày hôm sau các đơn vị tiên phong, Nhảy Dù, các toán đổ bộ và biệt động được lệnh rút lui. Bây giờ là công việc kiểm soát thường trực vùng mới chiếm đóng. Những cây cầu bị phá mấy năm trước nay được dựng lại, những con đường bị Việt Minh cắt khúc được đắp lại. Những hầm hào chiến đấu do Việt cộng dựng chung quanh “Con Đường Buồn Thiu” bị loại bỏ. Viên chức chính quyền Quốc Gia e ngại xuất hiện trước con mắt dân chúng thù nghịch hay sợ hãi sau một tuần chiến đấu và nhiều năm sống cô lập mà mọi thứ đều thiếu thốn, ngay cả viên thuốc trị bệnh sót rét.

Thiếu Tá Derrieu của Tiểu Đoàn 6 Ma-Rốc, nhìn một vài viên chức chính quyền mới ở trong làng Đơn Quế, nói:

- “Thực là buồn cười, trông họ chẳng bao giờ có thể thành công, làm đúng những gì người dân mong muốn, dù họ có muốn tạ lỗi với tất cả mọi người. Chúng ta mới thực hiện một cuộc hành quân bằng máy bay và chiến xa còn họ thì khoác lác khoe khoang hoặc đe dọa dân làng làm như họ là kẻ thù của đất nước mà chúng ta phải đối đầu.”

Dujardin, một trung úy còn trẻ, đứng cạnh bóng im của một chiến xa M-24, nói:

- “Có thể như vậy, nhưng tối nay tôi chẳng quan tâm đến họ sau khi chúng ta rút quân ra khỏi vùng nầy. Họ sẽ ở lại đây cùng với nhóm nhân viên hành chánh ngay trong ngôi nhà người chỉ huy Cọng Sản ngủ ở đó tối hôm qua, cách cái đồn gần nhứt là ba trăm mét. Tôi chắc rằng họ không dám ngủ ở đây mà vào ngủ trong đồn.”

- “Có lẽ vậy, họ sẽ mất mặt với dân làng và công việc của họ trở thành vô ích.”

- “Nếu không vào ngủ trong đồn, ngày mai họ chết. Đúng là chẳng ích lợi gì. Dù sao, với hậu quả tâm lý của cuộc hành quân, chúng ta có thể bắt đầu với toàn bộ công việc ngay từ bây giờ cho tới ba tháng tới. Thật là một thứ hổn độn vô ích.”

- “Vâng, nếu người Việt Nam không thể thắng thì chúng ta cũng vậy thôi. Dù sao, đây cũng là đất nước của họ. Chúng ta hãy lên xe thôi.”

Rồi hai người nhún vai đi về phía các chiếc xe tăng, trèo lên pháo tháp.

Bên dưới, trong làng Đơn Quế bị chiến trận tàn phá, các viên chức hành chánh người Việt trẻ đầy nhiệt tình mặc áo kaki và quần đen vẫn còn nói chuyện với dân làng đang đứng im lặng và bất động như các pho tượng gỗ.

Ngày 4 tháng 8/1953, Bộ Chỉ huy Cao cấp tuyên bố chấm dứt Cuộc Hành Quân Camargue. Theo tin báo chí, cuộc hành quân hoàn toàn thắng lợi, một lần nữa chứng minh sự tiến bộ và linh động của quân đội Pháp và giá trị trang bị lưu động của họ trong chiến tranh đầm lầy. Tuy nhiên, trong chính báo cáo của họ thì cuộc hành quân đem lại những cảm giác lẫn lộn.

Trung đoàn 95 mất dạng một thời gian ở vùng bờ biển Trung Việt, khoảng vài chục làng lại được đặt dưới quyền kiểm soát của chính quyền Quốc Gia. Nhưng đây không phải là cuộc hành quân “rẻ tiền”. Một con số lớn và quan trọng về binh lính cũng như quân dụng của địch đã được rút khỏi các khu vực sinh tử, nơi họ thiếu thốn một cách nghiêm trọng và chính nơi họ vắng mặt tạo nên tình trạng khẩn cấp cho họ.

Kết quả thiệt hại thực tế của địch làm cho người ta nãn lòng. Về phía quân Pháp có 17 người tử trận và 100 bị thương; địch 182 chết và 387 người bị bắt cùng với 51 súng trường, 8 súng máy, 2 súng cối và 5 trung liên B.A.R bị tịch thu. Trong số nầy, không rõ bao nhiêu người thuộc Trung Đoàn 95 hay thuộc lực lượng du kích địa phương.

Về chiến thuật chiến tranh đầm lầy, cuộc hành quân Camargue một lần nữa cho thấy rằng khó có thể khóa kín vòng vây một khi một tiểu đoàn trấn giữ hơn một cây số rưởi bề dài – Thật ra các tiểu đoàn ở cạnh sườn phía nam của khu vực bao vây cuối cùng đã trấn giữ mộ chiều dài hơn ba cây số. Do đó, một số lớn quân Cọng Sản lọt ra khỏi vòng vây qua những lỗ lưới (bouclage).

– Vòng bao vây bộ binh và thiết giáp Pháp trở thành dấu hiệu báo trước chẳng bao lâu bộ binh sẽ chầm chậm tiến tới vào ngày hành quân đầu tiên, loại trừ mọi hy vọng xiết chặt khu vực bao vây chót vào khi đêm xuống.

Bộ binh tiến chậm, tính trung bình một cây số rưởi một giờ đồng hồ. Tại đây, vị chỉ huy chiến thuật gặp phải tình trạng tấn thối lưỡng nan. Mục đích cuộc hành quân không phải là chiếm lĩnh diện địa mà càn quét Cộng quân ra khỏi vùng họ dễ trốn tránh, núp lén, các hầm bí mật. Do vậy bất cứ một cuộc tiến quân nhanh nào sẽ làm lỡ cơ hội kiếm tìm vũ khí, binh lính và các tổ chức bí mật của địch. Tình trạng tấn thối lưỡng nan nầy làm hao tốn thời gian của cuộc hành quân càn quét và chẳng bao giờ làm thỏa mãn ý đồ của cuộc hành quân đó.

Về căn bản, khuyết điểm quan trọng của Cuộc Hành Quân Camargue cũng tương tự như các cuộc hành quân khác của Pháp ở Đông Dương, không khóa chặt lực lượng địch có thể thành công trừ phi lực lượng tấn công trội thế hơn với tỷ lệ 15/1 hay 20/1 so với quân phòng thủ vì địch thì quen địa thế, có lợi về mặt tổ chức phòng ngự và được cảm tình của dân chúng.

Quân Việt Cộng có thêm một lợi thế quyết định khác là tin tức tình báo. Ít khi phía Pháp biết chắc là họ tìm kiếm gì trong một cuộc hành quân càn quét như thế. Mặt khác, chính vì mức độ quân số và tính cơ khí hóa của quân Pháp khi chống lại Việt Minh trước sau gì rồi cũng để lộ ý đồ của Pháp hoặc ngay cả lệnh lạc đã được ban ra. Việc xử dụng một lực lượng lớn lao như vậy cần có tin tình báo chính xác và đầy đủ và quan hệ giữa các viên chức tình báo ít hiện diện và chưa bị phát hiện. Do đó, tính chất bất thần của chiến thuật là – ngoại trừ tấn công bằng nhảy dù - phải tiến quân nhanh như một yếu tố bù trừ cho hành động kiểm soát kỹ lưỡng khu vực tiến quân.

Về phía Việt Minh, Trung Đoàn 95 vẫn tồn tại và về sau, mùa xuân năm 1954, tiếp tục chiến đấu, lại thâm nhập vào vùng đất đã bị càn quét, tấn công các đoàn xe trên Quốc Lộ 1, và tấn công ngay cả một tiểu đoàn Quân Đội Quốc Gia đóng gần Huế. Đơn vị nầy rút đi vào tháng 7/ 1954 theo Hiệp Định Đình Chiến Genève chia Việt Nam làm hai miền dọc theo vĩ tuyến 17 ở phía bắc Quảng Trị. Môt lần nữa, Trung Đoàn 95 đào bới vũ khí của họ chôn giấu dưới đầm lầy, ao hồ và xuất đầu lộ diện giữa thanh thiên bạch nhật tiến ra phía bắc, dọc theo con đường số 1 mà họ đã chiến đấu một cách gian khổ. Dọc theo con đường nầy, thỉnh thoảng có những trạm đóng quân của các chiến xa thuộc tiểu đoàn 6, súng thì chỉa lên trời, pháo tháp mở bung nắp ra.

Hòa bình ngắn ngủi diễn ra trên Quốc Lộ 1. Đầu năm 1962, vài cuộc phục kích xảy ra mà người ta biết là do những đơn vị chuyên nghiệp và thiện chiến, và chẳng bao lâu sau, quân đội Miền Nam cho biết rằng họ đã xác minh được đơn vị hoạt động trong vùng là Trung Đoàn 95 Việt cộng. Trung đoàn nầy đã quay trở lại “Con Đường Buồn Thiu”.

(Street Without Joy) trích dịch ở chương 7, của cuốn sách cùng tên, nói về "Cuộc Hành Quân Camargue". Người dân Huế và Quảng Trị gọi là “Trận Thanh Hương.”

Bernard Fall là người Pháp, từng tham gia chống Đức trong trận Thế Giới Chiến Tranh Thứ Hai. Sau khi chiến tranh chấm dứt, ông đi học lại, đậu tiến sĩ và qua sống ở Mỹ.

Trong chiến tranh Đông Dương Lần Thứ Nhứt (1945-54), ông qua Việt Nam làm phóng viên.

Địa điểm B. Fall bị giết chết
Điều nầy gợi cho binh lính Pháp một ấn tượng u ám rằng con đường số 1 là “Con Đường Buồn Thiu”, (2)

B. Fall theo chân quân đội Pháp trên khắp chiến trường Đông Dương, có kinh nghiệm về chiến tranh du kích và viết nhiều sách báo về cuộc chiến tranh nầy.

Khi chiến tranh Việt Pháp chấm dứt, ông về Mỹ làm giáo sư tại phân khoa Quan Hệ Quốc Tế tại trường Đại Học Howard. Chiến Tranh Đông Dương bùng nổ Lần Thứ Hai (1960-75), ông lại qua Việt Nam làm phóng viên chiến trường một lần nữa.

Địa điểm B. Fall bị giết chết.
Điều nầy gợi cho binh lính Pháp một ấn tượng u ám rằng con đường số 1 là “Con Đường Buồn Thiu”, (2)

Năm 1967, khi theo chân một đoàn xe tiếp tế của Mỹ từ Phú Bài ra giới tuyến, tới gần cầu An Lỗ, xe bị mìn, ông chết ngay trên xe, trước ngực vẫn còn mang chiếc máy ghi âm đang chạy nên tiếng mìn nổ ghi cả vào trong máy. Lúc ấy, vợ ông, Dorothy Fall, đang có thai, từ Mỹ mang cái bụng bầu qua Việt Nam đón xác chồng về.

B. Fall là một người cầm bút mô tả sự tàn ác của Việt Minh (Việt cộng trong chiến tranh Đông Dương. B. Fall bị coi là thành phần phản chiến, thiên tả.

“Những gì Pháp đã từng đối đầu ở Đông Dương trong thời kỳ cộng sản Việt Minh bây giờ là dạng thức của một cuộc chiến có tính cách chủ trương bạo lực, một cuộc chiến tranh không có trận tuyến, trong rừng rậm chống lại một kẻ thù ẩn núp có mật khu an toàn, được hỗ trợ và viện trợ từ một lân bang (Trung cộng?). Quân lực Pháp cũng phải đối đầu với những chiến dịch khủng bố tinh thần rất kinh hãi, được tổ chức một cách khéo léo và có hiệu quả cao dọc theo Quốc Lộ 1. Những khó khăn đó chính là một loạt các làng mạc được tổ chức phòng vệ kỹ lưỡng dọc theo dãy đồi cát và các đầm nước mặn chạy dài từ Huế đến Quảng Trị.

(1) Quân đội Pháp có các đội K-9 trong các đơn vị lớn, hoạt đông rất hữu hiệu, tìm ra nơi địch ẩn náu.

(2) Dẫn chứng một ví dụ chống du kích thành công ở phía sau phòng tuyến Nga trong Thế Giới Chiến Tranh thứ II, Quân Đoàn Đức L.V. xử dụng những đơn vị sau đây để càn quét lực lượng 3.000 quân du kích ở phía bắc Briansk: Sư Đoàn Thiết Giáp số 5, Sư Đoàn Bộ Binh số 6, Sư đoàn An Ninh 707, Trung Đoàn Bộ Binh 747.

Ở Mã Lai, tổng cộng có 25 ngàn binh lính Liên Hiệp Anh và Mã Lai, chiến đấu liên tục trong vòng 12 năm để đánh bại một lực lượng du kích cộng sản chỉ có 8 ngàn người.

Năm 1964, quân thường trực Cộng Sản ở Nam Việt Nam là trên 35 ngàn, tiêu chuẩn hóa thành 45 tiểu đoàn và được 90 ngàn du kích vùng miền. Nếu tính theo tiêu chuẩn 10 chống 1, ít ra Nam Việt Nam phài có một triệu quân. Thực ra, lúc đó, Nam Việt Nam có một quân đội, kể cả lính chính quy và lính vùng miền chưa tới nửa triệu người.”

Chú thích của người dịch:

(3) Tiếng Pháp là “La Rue Sans Joie” tiếng Anh là “Street Without Joy”.

(4) Làng Đơn Quế, tác giả viết lầm là Dong qué. Chắc là vậy, quí vị nào biết rõ hơn, xin chỉ giáo!

(5) Hồi xưa, triều đình dùng ngựa để chuyển thư văn, dọc “Con Đường Cái Quan”, có các trạm, có ngựa để người cưỡi thay ngựa mà chạy cho mau. Tại thành phố Quảng Trị, phía ngoài cửa Tiền, trên đường Quang Trung, đoạn gần trường Nguyễn Hoàng, chỗ có con đường đất đi vào làng Thạch Hãn, có một trạm ngựa nay đã mất dấu. Tuy nhiên, trước năm 1945, người dân Quảng Trị thường gọi khu vực nầy là trạm hoặc “Xóm Trạm”. Một trạm khác nằm ở làng Đơn Quế như B.Fall nói ở trong bài; có lẽ còn vài trạm khác nữa!

“Đối với những gì quan trọng và thấy trước được, B. Fall thuật lại một cách sống động và phân tích một cách cẩn thận; tác phẩm nầy là một cuốn sách mà các nhà thiết lập chính sách ở Hoa Thịnh Đốn và các binh lính Mỹ trên chiến trường cần phải đọc. Rủi thay, phần đông chẳng ai học bài học đó.

“Năm 1959, ông nhận giải thưởng của Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) với công trình nghiên cứu về sự lật đổ của Việt cộng Sản. Là tác giả của nhiều sách và nhiều bài viết về chiến tranh Đông Dương, ông trở thành nhà phân tích có ảnh hưởng nhứt về chính sách của Mỹ ở Việt Nam.”


*********************
*********************


SATURDAY, 11 FEBRUARY 2012

Bernard Fall: Death on The Street Without Joy


Bernard Fall in Vietnam, 1960s: photographer unknown, n.d. (courtesy of Dorothy Fall, via National Archives and Records Administration; reproduced in Robert Fahs: Bernard B. Fall and the Limits of Armed Intervention, from Prologue, Spring 2011, Vol. 43, No. 1)

Bernard Fall, a committed scholar/historian, son of Viennese Jewish parents murdered by Nazis, raised in France, a veteran of the French Resistance, had stood alongside French soldiers in their doomed attempt to retain a colonial foothold in Indochina in the 1950s. Fall's account of their ultimate debacle at Dien Bien Phu would be published as Hell in a Very Small Place, 1954. Seven years later another evocatively titled work, Street Without Joy (its title a translation of the name given by the French to a particularly lethal and unforgiving stretch of Vietnamese coastal terrain), would suggest that French command and strategy had been flawed, and that anti-colonial insurgency in Vietnam could not be quelled by conventional methods. Fall proposed the use of counterinsurgency tactics inspired by the guerilla-warfare methods of the adversary, and argued for economic and political intervention on a large scale. And he contended that in order to expel Communism from Vietnam, the full weight of American military might would be required.

Fall completed his academic dissertation on the Viet Minh regime in 1955 and began a career in teaching and governmental contracting and consultancy. He taught international relations at Howard University and worked as an instructor at the National Security Agency. Increasingly however, in articles and talks -- particularly in an April 1958 speech in New York and in an essay the following month in The Nation -- his idiosyncratic views on the inadequacy of traditional methods of counterinsurgent warfare, and his stated skepticism concerning the new Diem regime in South Vietnam, brought him under scrutiny in Washington.

Fall's ideas had become known, and were, perhaps somewhat ironically in light of later events, interpreted by officials as critical of U.S. policy. His career work for the U.S. government as a contract analyst was thus hampered, with the trouble coming to a head after he was invited to apply for a position with the International Cooperation Agency (later USAID) at the Royal School of Administration in the new independent Cambodia. The ICA wanted to put Fall to work as adviser to the U.S. embassy in Cambodia and as a professor of international relations at the Royal School in Phnom Penh. A phantom U.S. State Department hand, however, entered the hiring process at a decisive point in the negotiations. Graphic evidence of the cloak-and-dagger form of this intervention can be found in documents reproduced by the scholar Robert Fahs in an article in the National Archives and Records Administration journal Prologue (Spring 2011, Vol. 43, No. 1).

Secretary of State John Foster Dulles opposes Fall's appointment to the position at the Royal School of Administration in his 26 May 1958, telegram to the American embassies in Saigon and Phnom Penh: from Records of U.S. Foreign Assistance Agencies, 1942–1961/National Archives and Records Administration: reproduced in Robert Fahs: Bernard B. Fall and the Limits of Armed Intervention, from Prologue, Spring 2011, Vol. 43, No. 1

Ed Hough of the State Department notes in a May 28, 1958, memo that he had informed Tom Eliot that Hough agreed with his division chief to let Fall "fall": from Records of U.S. Foreign Assistance Agencies, 1942–1961 National Archives and Records Administration: reproduced in Robert Fahs: Bernard B. Fall and the Limits of Armed Intervention:, from Prologue, Spring 2011, Vol. 43, No. 1

Having been surreptitiously "let 'fall'", the stubbornly resilient Bernard Fall nonetheless refused to become discouraged. Despite the undermining and ultimate breakdown of contract negotiations with the ICA, he continued undeterred with his research work on Southeast Asia, and did indeed go on to teach in Cambodia, at the Royal School, but without U.S government backing, in 1961-1963.

Still he kept on studying, working, observing in the field. Though suffering from serious illness, he was back in Vietnam in 1965-1966. "He was fearless," his widow, Dorothy Winer Fall, wrote in her preface to Bernard B. Fall: Last Reflections on a War (1967); "he had to prove to himself that he was the old Bernard -- hoofing it with the troops -- in the mud and jungles of Viet-Nam. But also, he had to test his convictions and could rely only on information gathered firsthand. This was the trip on which he was to change many of his opinions." The critical shift in view for Fall was a loss of the belief that this was a war the outcome of which could ever be determined by the interference of outside agencies.

By the end of 1966 he was reporting from South Vietnam for the New Republic, and moving independently in combat areas as a war reporter.

photo LZ. A small firebase south of Quang Tri: photo by dvdhdgkns, November [?]1969, posted 2009

Summoned during January 1967 by the U.S. First Division to assist in the prison-camp interrogation of Professor Vinh Long and Middle Level Teacher Tran Van Tan, the highest-ranking Liberation Front cadres yet to be taken into American hands, Fall learned more about the asceticism, courtesy, intelligence, dignity and unswerving dedication of the Americans' opponents.

Professor Long spoke no French, but he had come down from Hanoi, and spoke Russian, so Fall first conversed with him in Russian, and then in "my bad Vietnamese," with the aid of an interpreter.

Fall's account of their conversation appeared in a New Republic piece titled "Unrepentant, Unyielding: An Interview with Viet Cong Prisoners".

"'We were given an accurate picture of what was going on in the South and told that victory would be easy. Of course, with the Americans here, it's not so easy.' He picked up a cigarette in the C-ration carton, offered the others around, and then looked straight at me.

"'But we'll win anyway. Every country in the world helps us. Look at the American, Morrison, who committed suicide because he disagreed with American policies.'

"True, I said, but how about the other 200 million Americans who don't kill themselves? "'The Lib

eration Front forces will win in any case, because all the Vietnamese people help us. The war can only be settled among the Vietnamese themselves. The Americans and their allies will go... Oh, I know the French were weaker than the U.S. is, but we'll still win because our cause is right. Did the Americans think they can stay with this kind of war for 30, 40 years? Because this is what it is going to take.'"

photo

2nd Platoon. Wunder Beach, east of Quang Tri. Near Street Without Joy: photo by dvdhdgkns, October [?]1969, posted 2009

On 19 February 1967, Fall decided to accompany the U. S. 1st Battalion, 9th Marine Infantry Regiment on Operation Chinook.

For Fall this meant a return to The Street Without Joy, the area south of Danang where the French had fought in 1953. Fall probably knew the area as well as any non-Vietnamese in the country at that time, military personnel included. He had been over the same terrain with the French in Operation Camargue. Of what had been encountered then he had written in Street Without Joy as follows:

"From the coast looking inland, the zone of operations divided itself into seven distinct natural strips of land. The first was the coastline itself, fairly straight, covered with hard sand and offering no particular difficulties. However, a bare 100 meters beyond began the dunes, varying in height from 15 to 60 feet, very hard to climb and ending on the land side in veritable ditches or precipices. A few fishing villages are precariously perched in the dune zone, which in certain places has a depth of more than two kilometers. Then comes a zone of about 800 meters deep entirely covered with small pagodas or tombs and temples, which offer excellent protection to any defenders. This zone is followed by the 'Street Without Joy' itself, fringed by a rather curious system of interlocking villages separated one from the other by often less than 200 to 300 yards. Each village forms a veritable little labyrinth that measures barely more than 200 feet by 300 feet and is surrounded by bushes, hedges or bamboo trees, and small fences which made ground as well as aerial surveillance almost impossible. [The Viet Minh] had spent more than two years fortifying the villages with an interlocking system of trenches and tunnels, underground arms depots, and first-aid stations... Close to 20 miles long and more than 300 yards wide, this zone of villages constituted the heart of the Communist resistance zone along the central Annam coast."

His 1967 revisitation would later be described by his wife, who at the time was in Hong Kong awaiting him, as "a rendezvous with destiny".

It proved a fateful decision, culminating in a wrong step, the sudden abrupt bursting of a land mine, and death for Bernard B. Fall (then forty, the father of three children) and a young Marine sergeant at his side.

photo 2nd Platoon, Wunder Beach, east of Quang Tri. Near Street Without Joy: photo by dvdhdgkns, 1969, posted 2009

Afternoon of the third day. Still on The Street. Now bunker system out there they're going to blow up. The weather is finally cleared and we have an observation plane over our heads, turning around shepherding us. But Charlie Company has fallen very badly behind now there's a big hole in our left flank and there's some people running away from us obviously getting out of the way . . . Trying to move across . . . we've got to start firing if they move . . .

[Sound of gunfire and plane here on tape . . . A lot of gunfire here . . . much excitement . . . Shouting of instructions, etc. . . .]

FALL. There's our machine gun firing! They're running!

VOICE: Advance word -- they're moving off to the left.

"Moving off to the left . . . running."

FALL: There's our mortar!

VOICE: What are they shooting at?

FALL: What do you mean -- they're shooting at the buffalo boys! -- Oh, for Christ's sake! Those Vietnamese . . . Oh, my God!

[A lot of rapid gunfire here]

FALL: There they go.

FALL: They're shooting at some buffaloes apparently.

[Gunfire] FALL: How does he know? VOICE: See that guy right in the center? You can hardly see -- move across -- got on a white jacket -- see that hat? Set up about 1100 meters -- open up with a burst of 20 . . . FALL: It's impossible at 1100 meters to distinguish with . . . [Gunfire]

VOICE: Very good.

FALL: There's no return fire whatever but the Chieu Hois who are with us -- there are former Viet Cong returned to the government side and are fighting now with government forces -- well, they assure us that Charlie Company is moving right through the area and by tonight we will know whether what we killed were genuine VC with weapons or simply people. I personally looked through binoculars of the platoon leader from the machine gun platoon and I saw people fleeing to the boats and waving the Vietnamese government flag with three red stripes on a yellow background. Find out more about this later . . . This is Bernard Fall on The Street Without Joy.

[Silence here on tape]

. . . . first in the afternoon about 4:30 -- shadows are lengthening and we've reached one of our phase lines after the fire fight and it smells bad -- meaning it's a little bit suspicious . . . Could be an amb . . .

[End of tape]

Bernard B. Fall (1926-1967): from The Last Tape, in Last Reflections on a War, 1967

File:Bernard B. Fall.JPG

Bernard Fall eating with U.S. troops in Vietnam: photographer unknown, n.d.; image by SGGH 15 January 2009

http://rs16.loc.gov/service/pnp/ds/01300/01310v.jpg

Secretary of Defense Robert McNamara standing at a podium in front of a map of Vietnam during a press conference: photo by Marion J. Trikosko, 29 June 1966 (U. S. News & World Report Magazine Photograph Collection, Library of Congress)

http://lcweb2.loc.gov/service/pnp/ppmsca/03200/03208v.jpg

Wounded servicemen arriving from Vietnam at Andrews Air Force Base: photo by Warren K. Leffler, 8 March 1968 (U. S. News & World Report Magazine Photograph Collection, Library of Congress) AT 04:10

7 COMMENTS:

ACravan said...

Astonishing in every respect. I'd forgotten about Bernard Fall. It's always remarkable to see how "big" events are composed of millions of small details, including sneaky hands and devilish, frightened, jealous and petty minds. I had lunch the other day ("downtownish") with a friend who is so practical and competent in his work and so dreamy in his thoughts. He described to me his beliefs about the new millenium and how all the signs are present that things are coming together in positive utopian ways. Clearly, he's seeing different street signs than I am. Curtis

11 FEBRUARY 2012 AT 08:04

Hazen said...

Ah, yes, ‘Nam. A place and a time and a nightmare—of our own devising. We turned a corner back there, discovered limits, lunged ahead anyway, learned nothing, except to carry a bigger stick. The rich and powerful were consolidating the empire they’d carved out during prior episodes of serial warfare. The industrial killing machine set new records. We learned the mathematics of body counts. We did carpet bombing using ‘bomblets’; we did high-altitude terrorism. The dead fueled the economy. Lies were as thick as maggots on a mule carcass. It was a long moment of national angst. Then we found a tunnel, at the end of which a light was said to exist. Designated portions of the world were made to suffer and bleed toward this light, while being hammered with liberty and democracy and free markets. At night we partied. Nobody wins a war. One side just loses first.

11 FEBRUARY 2012 AT 12:39

STEPHEN RATCLIFFE said...

Tom,

Amazing, what a story -- never had heard of Bernard Fall (good for Curtis, and you too!) -- thanks for such gripping ("astonishing") stuff. From Heller's fiction to Fall's Last Tape ---- ("Could be an amb") . . .

2.11

light coming into fog against invisible ridge, gibbous moon in fog above branch in foreground, sound of wave in channel

the color which belonged to it, torn right corner

the word “forms” experience, inside, which stilled

grey rain cloud against invisible ridge, whiteness of gull flapping toward point

11 FEBRUARY 2012 AT 13:33

ACravan said...

"One side just loses first." I expect that sums things up pretty well, though I feel pretty hopeless at the moment, at least in this country under this president, this administration, that anything is likely to change. (I didn't really expect anything different.) I can't get exercised blaming past presidents or generals. These are ever-advancing problems and here we are now "same as it ever was." (Since that's the first and last time I'll ever quote a David Byrne lyric, I hope I've done so correctly.)

Steve's poem complements this post really, really well. "torn right corner"; "inside, which stilled"

I love the poem and don't know how he does it.

I remember knowing about, but not understanding the significance of Bernard Fall's story, and my memories all come -- waking and sleeping -- in NY Times' typeface and black & white period photographs.

Reading this material is, I think, a wonderful, but unusual way to spend Saturday night. It was a great day. We're having one of our typical (for this winter) snowstorms -- pretty, reasonably heavy, but nothing (thank heavens) really sticking or accumulating.

Earlier today we decided to drive to a place we'd heard about but never visited - a sort of honest English pub translated to Pennsylvania horsey countryside called The Whip in Coatesville. It really was great. I'm not the world's biggest Andrew Wyeth fan, but one remarkable thing about Chester County is that the colors are exactly Andrew Wyeth's palette. Since he's a painter American kids tend to be introduced to at an early age (I'm thinking of Christina's World) and because that for me intertwines with the Bernard Fall story and Vietnam, it comes together as a mood, without obviously making any sense. Curtis

11 FEBRUARY 2012 AT 19:07

TC said...

Bernard Fall's sixth and last trip to Vietnam began in December 1966. He was on a sabbatical year, was being financed by a Guggenheim grant and his wife had just given birth to their third child. For eighteen months he had been suffering from an incurable disease, retroperitoneal fibrosis, had been through several surgeries, lost one kidney, and felt, as his wife would later put it, that "his 'machine' was failing him".

So an air of fatality hung over the trip; "there were those among us who felt we wold never see him again," Dorothy Fall said.

Vietnam had long been Fall's "beloved country".

His first trip there came in 1953, researching his doctoral dissertation on the Viet Minh, the guerilla force commanded by Ho Chi Minh which was then engaged against French colonial troops. That trip he paid for with savings from his student days. He accompanied the French military on operations in the North. From a base in Hanoi he made his way deep into the provinces, visited villages, interviewed tax collectors, and gained his first inklings about the infrastructure of the Viet Minh. He learned their hold on the people and the countryside was far more extensive than the French had suspected.

On his second trip in 1957 it became apparent to him that the Diem regime in the South was far more corrupt, and far more seriously challenged by Viet Cong infiltration, than had been known.

It was as a result of his revelation of these findings, upon his return to Washington, that he fell under U.S. government surveillance.

He had retained a French passport to enable him to travel in zones where Americans were non grata. In 1962 he obtained a visa to voyage to the North, where he interviewed Ho Chi Minh and Pham Van Dong. After that trip, having by this time developed academic and professional connections in Washington, he became an American citizen.

From thence until the end of his life, he led the complicated existence of a man with many countries, caught between several worlds, entirely at ease in none of them.

He was accustomed to fraught circumstances. He had lost both parents to a war (his father captured and tortured by the Gestapo, his mother deported to Auschwitz), had fought Nazis in the French resistance as a teenager, become a university professor, worked as a private contractor for Uncle Sam, waded through jungles and swamps with different armies and come close to death so many times that it must in those closing moments have greeted him as not entirely a stranger.

11 FEBRUARY 2012 AT 23:19

Ed Baker said...

Like it was only a moment ago;

McNamara, Hough, Westmorland, et al ....

the names have changed but they're yet driving-the-tanks & dropping The Napalm !

only difference now and "they" learned this from the news-reportage from, what the Vietnamese call The American War,

to censor the war-fare news... and NO REAL PHOTOS/ or "on-site" reporting except what is Approved .

I'm a-tellin you, my memories now right back in the 1962-67 or so ! Further?

we've been in the Horse-Shit

so long we can no longer smell the Stink !

12 FEBRUARY 2012 AT 04:59

STEPHEN RATCLIFFE said...

Tom,

Thanks for further thoughts/notes on Bernard Fall (what a great name he got at birth, heading into the life he went on to live in all its turns and travels) and thanks Curtis for your note/thoughts on the poem.

L’opération « Camargue », menée du 28 au 30 juillet 1953 en Centre Viêt-Nam, dans la région côtière entre Hué et Quang Tri, était destinée à reprendre le contrôle de cette région pour contrer une offensive préparée par le Viêt-Minh.Cette opération fut menée avec la participation de troupes aéroportées parmi lesquelles le II/1er RCP (2e bataillon du 1er Régiment de Chasseurs Parachutistes), de blindés du 1er REC (Régiment Étranger de Cavalerie) parmi lesquels ceux du 7e GEA (Groupe d’Escadrons Amphibies) ainsi que le Groupement D, le GM 7 (7e Groupe mobile) et avec le concours de bâtiments de la Marine.

12 FEBRUARY 2012 AT 17:23

http://tomclarkblog.blogspot.com/2012/02/bernard-fall-death-on-street-without.html


Tuesday, February 16, 2016

Không Ảnh Trên Đường Mòn hcm

Không Ảnh Trên Đường Mòn hcm

 





 photo camera.png
Trực thăng võ trang - HUEYGUNSHIP - ARVN-VNCH


Không Ảnh Trên Đường Mòn HCM



Skyraiders A-1H of the 516th Fighter Squadron South Vietnam Air Force,
at Da Nang Aug. 1967

Quenbee-1

Nếu giải đoán không ảnh hình trên đây (trang 276, Vol-1 “The New Legion) là hình chụp từ trên cao do phi cơ trinh sát U-2 hay Woodo F-101E chụp thì cho rằng: Một đại đội quân Bắc Việt với đầy đủ trang bị súng đạn, đang băng qua con Sông cạn Xepon. Nhưng với hình chụp trên trực thăng H.34, đang bay cạ càng bánh xe trên ngọn cây thì rõ ràng đây là toán Dân-công khuân vác những tạc đạn đại bác phòng không, từ tuyến đường cuối cùng của đoàn xe Molotova cho đến các đỉnh cao đặt súng. Họ đang ngụy trang bằng những nhánh lá cây, kể cả cây gậy để mò mẩm qua sông cũng ngụy trang để nguyên cành lá.

Cảnh một chiếc trực thăng H.34 bất chợt lướt qua, phi công do phản xạ tăng tốc lực cho mau qua khỏi vùng nguy hiểm, còn người buộc dây nịt an-toàn đang tòn-teng nơi cánh cửa trực thăng như Th/sĩ Duncan và Chuẩn Úy Huỳnh Thuận Nhả LLÐB (sau qua Không Quân lên Trung Tá và chết khi lệnh bỏ Pleiku) thì tha hồ mà bóp chụp hình lia lịa không dứt. Còn người Cơ-phi ở không Chuẩn Úy Nguyễn Văn Mai thì làm gì trong cảnh tao-ngộ nầy! Một cái quơ-ngoắt tay chào đón “vô thức” qua hành động lịch sự phản xạ tự nhiên của người chiến sĩ Không Quân hào hoa dù nơi chiến trận. Nếu họ có súng sẳn trên tay, họ có kịp bắn lên không? Tôi xin trả lời chắc chắn với đọc giả: “Là không kịp rồi!”

Thời tiết vùng núi sáng nào cũng như ngày nào, khí lạnh toát ra từ đá núi, cây rừng còn đọng lại hơi sương, thỉnh thoảng vài cơn gió biển thổi vào đem hơi ấm cần thiết cho dân miền sơn cước. Vài cụm mây ngàn bỏ núi bay xa, nơi đây lá rừng lung-lay xào xạt, trên bầu trời xanh thẳm điểm vài sợi mây vảy cá Cirrus nằm bất động, báo hiệu một ngày dài với trời nắng đẹp.

Thượng đế như chìu lòng cảm thông cho sự lo âu của phi hành đoàn Biệt-kích Delta sẽ dấn sâu vào vùng lửa đạn với những phi vụ âm thầm không danh xưng trong bóng tối.
Trên bãi cỏ, hai chiếc trực thăng CH-34 lù lù nằm im lìm trên đó, ướt đẫm hơi sương như hai con kình-ngư vừa trườn lên bờ phơi nắng.

Cơ-phi Mai đang hì hục, hấp tấp dang tay đẩy liên tục cần bôm xăng từ các thùng phuy chuyền qua trực thăng. Mồ hôi Mai nhuể nhoải ướt đẩm chiếc áo Bà ba đen, nhưng không phải là bác nông dân cày bừa mà là người hùng cày sâu nơi vùng lửa đạn. Mai dang tay lau bớt mồ hôi tuôn trên trán và dụi nhẹ vào đôi mắt đang cay.
Tôi đang bước nhanh đến Mai:

- “Anh Mai! Anh nghỉ tay một chút cho khỏe, để Tôi bơm cho… khi nào khỏe hẳn anh giúp Tôi kiểm soát mứt độ dầu, xăng, nhớt thủy điều và các cơ phận xoay chuyển o.kay!

- “Mình chỉ bơm chiếc của mình mà thôi, để Huệ và Khôi bay ra Quảng Trị đổ xăng cho đỡ khỏi phải dùng xăng ở đây; Một công hai việc vừa để dành xăng ở đây mà cũng vừa an toàn hơn phải lấy trong thùng phuy lâu ngày đọng nước trong đó”.

- “Chút nữa anh bôm nhớ chừa cặn lóng ở dưới đáy thùng, và kiểm soát lại coi xăng đã hết hạn chưa… vì xăng để lâu trong thùng phuy sẽ bay mất nhiệt lượng octane, sẽ nguy hiểm khi mình dùng sức máy tối đa… Chút nữa đây lên trực thăng, anh nhớ nhắc Thượng-sĩ Donald-Duncan xiết dây nịt an toàn cho chắc, vì trước khi mình vào chụp hình ở Bộ chỉ huy Tiền Phương Ðoàn 559. Tôi phải thử trước một động tác “8-chậm,” phi công Mỹ gọi là “Lazy-8,” có nghĩa là bay quẹo chữ I thay vì chữ U, nói cách khác đó là phương thức bay ngược 180 độ nhưng ở đây dùng khoảng cách Ðứng chớ không thể dùng khoảng cách Ngang. Làm như vậy không đụng vào vách núi dựng đứng nơi đó và tránh bay qua vùng mà hai Tiểu Đoàn phòng không Bắc Việt luôn luôn sẳn sàng nhả đạn… Anh nhớ Tôi sẽ đâm đầu xuống tăng tốc lực tối đa, xong sẽ cất mũi trực thăng chổng ngược thẳng đứng lên trời, đợi khi nào tốc lực xuống đến 25 hải-lý sẽ đạp phối-hợp nhẹ nhàng chân phải cho trực thăng từ từ hạ mũi xuống, rồi uyển chuyển phối hợp động tác tay lái đem phi cơ lên thăng bằng; như vậy là mình đang trở lại 180 độ trên trục mà mình đả bay qua… biết đâu Lính bắc Việt thấy cảnh ngoạn mục nầy nên người anh em thù địch sẽ vổ tay mà quên bắn mình... Anh tin như vậy không?

Mai hiểu được ý nghĩa bông đùa của Tôi khi phải giáp mặt với sự hiểm nguy, hắn nhanh nhẹn trả lời cho tôi yên tâm:

- “Anh lo việc lớn đi, còn việc nhỏ để tôi lo… tôi đã kiểm rất kỹ rồi anh yên chí, ống hút của cần bơm xăng không đụng đáy thùng mà cách gần tới hai tất an toàn lận”.

- “Anh Mai! Những chuyến bay có anh bên cạnh tôi rất yên tâm, vì chuyến bay nầy rất muôn phần nguy hiểm Tôi cảm thấy phải cho anh biết để chuẩn bị ứng phó”.

Trong Không Quân ngành trực thăng, chúng tôi xem nhau như anh em ruột thịt, người nào cũng là quan trọng cần thiết như nhau không thể thiếu được; sự thật chúng tôi là những chiến sĩ anh hùng không tên tuổi. Các phi vụ thường được giữ tuyệt đối bí mật, âm thầm chiến đấu trong bóng tối hay trong dông bảo để tạo sự bất ngờ, vào những đêm trời không trăng sao, thời tiết càng xấu càng tốt, địa hình càng khắc nghiệt càng tăng thêm yếu tố bất ngờ, rồi càng tăng thêm sự kín đáo khi thả Toán nơi chốn rừng già hoang-dã. Những phi vụ cảm-tử như vậy mà ngay người chiến hửu Không quân cùng binh chủng cũng không ai biết được, ngoài Sở Liên Lạc, Nha Kỹ Thuật và Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Ðặc Biệt.

Nghe đến danh từ Queen-Bee, Delta-Alpha-1, 2, các phi công sừng sỏ xuất sắc nhứt của Không Lực Hoa Kỳ và U.S. Army Aviation cũng phải chào thua bái phục. Ðâu cần phải thâm niên quân vụ, đâu cần phải mang trên ngực cánh “hoa tiêu lãnh đạo” có vòng nguyệt quế và tinh cầu dẫn độ. Những phi công mới ra trường đã đi vào huyền thoại lịch sử chiến tranh Việt Nam ngang hàng với các bậc đàn anh của họ.

Trong hỏa tuyến xung vào vùng trời lửa đạn, làm gì có sự phân biệt cấp bực giữa chiến sĩ với nhau, chỉ có lòng can đảm, sự hy sinh cho chiến hữu mới là những trang “chiến-sử” để đời của người Lính trận. Ðó mới chính là gia tài trang trọng và cao quý nhứt mà người chiến sĩ quân lực VNCH ít khi phải đem rao hàng giữa chợ đời.

Thông thường những chuyến bay nguy hiểm tôi thường bay một mình, không có cơ-phi. Tôi rất tiết kiệm, tránh né tối đa sự thương vong vô ích có thể xảy ra cho đồng đội; nhưng đặc biệt hôm nay tôi phải chấp nhận loại đạn AK hơn loại súng phòng không hoặc hỏa tiễn cầm-tay SA-7.

Vì Tôi biết phải giỡn mặt với hai Tiểu Đoàn phòng không của cộng sản bắc Việt bảo vệ Bộ chỉ huy Tiền phương Ðoàn 559; vùng mật khu vô cùng huyền bí, phía SOG Mỹ cho là vùng kiên cố “Oscar-8.” Tôi sẽ bay theo kiểu Cá lia-thia lách mình tránh né dưới rặng đá bén nhọn của san-hô, chôm chổm dựng đứng. Bổng dưng tôi nhớ lại những lời Ni ân-cần dặn dò: “Khi đi bay Anh nhớ đừng bao giờ quên đeo chiếc Từng ảnh thánh giá nầy… Chúa Mẹ sẽ bao che cho anh suốt chuyến bay được an-lành, nhớ hỉ... nhớ hỉ!

Nàng muốn tôi luôn luôn bám giữ niềm tin như vậy, nhưng tôi lại cứ bình thường; “Thôi thì cứ nghe theo nàng, không có lợi thì thôi chớ cũng chẳng có gì gọi là hại cả!”

Tôi sẽ bay cùng với Hảo, anh bay rất vững nhưng ít chịu liều mạng, không giống như Khôi và Huệ, hai hiện tượng nầy thôi khỏi nói, “Ðúng anh hùng tử chí hùng nào tử” do đó tôi cắt đặt hai anh túc trực cấp cứu khi Tôi chẳng may bị nạn. Ðúng “ngựa hay thường sanh chứng!”.

Riêng Huệ, anh đã làm cho Tôi và Thiếu Tá Thơm thuộc LLÐB phải bị Thiếu Tướng Cao Văn Viên, Tư Lệnh Quân Khu-3 kêu lên chửi cho một trận nên thân: Tôi còn nhớ rõ ngày ấy vào một buổi chiều tối, khi tôi đi kiếm vài món gì nhét vào bao tử cho xong. Trên đường trở về khách sạn mà CIA mướn trọn hết cho Phi đội chúng tôi để bảo mật, thì được ông chủ khách sản chạy ra phân bua: Có ông Thiếu-úy của Ðại- Úy, tướng đi nghiêng nghiêng, gương mặt đỏ ngầu, tôi biết ngay là Huệ, xách súng và rủ các ông khác bao vây đồn quân cảnh ở ngả tư đàng kia. Tôi hối hả hỏi ông “Ông biết tại sao, lý do gì vậy”. Tại vì các ông ăn mặc và súng ống của Việt Cộng, nên cảnh sát đã phối hợp với quân cảnh ụp vào khách sạn xét hỏi, khi ông thiếu úy đi về thấy vậy, ông nổi điên chửi thề:

Năm 1949, Bộ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục T. T. Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, bốn năm sau lại đề nghị 2 tỉ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình Báo OSS, do Ðiệp Viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-Pó giúp ông Hồ cả ngàn khẩu súng Carabin và Trung Liên Bar, cho Hạ Sĩ quan OSS huấn luyện Trung Đội võ trang tuyên truyền của Võ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dũng làm Trung Đội phó.

Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hủy dùm hàng tiêu dùng) để tạo thế cân bằng lực lượng của hai tay Con. Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa.

Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục xe nhà binh GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn khi MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.

Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoạch hòa đàm, thì quân Dù bị máy bay Mỹ thả bom nướng một Ðại Đội Dù tại bức tường thành, gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? Thả bom lầm là chuyện thường… Chiến tranh mà! (Theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông Quốc Lộ-I, ngoài biển tiến lên để Mỹ phối-hợp yểm trợ), và phải đúng thời điểm mặc cả tại Hòa Đàm Paris, mới được phép.

- “Ð.M. quân cảnh Mỹ mà thấy tụi nầy chở trên xe Jeep Delta cả chục người kể cả đàn bà con nít mà tụi nó không dám đụng đến mà quân cảnh Việt Nam là cái thá gì mà dám phiền nhiễu tụi nầy?”

Nói xong ông Thiếu Úy tập họp tất cả lại điều động bao vây Ðồn quân cảnh bảo Trung Úy Ðồn trưởng phải đích thân đi ra xin lỗi vì dám vào khách sạn của ông hạch hỏi lôi thôi; tôi có linh tính ngày mai thế nào cũng bị Tư Lệnh Vùng chửi bới.

Y như rằng, Tôi và Thiếu Tá Thơm bị Thiếu Tướng Viên kêu lên chửi cho một trận vuốt mặt không kịp:

– “Các anh đừng ỷ các anh là đơn vị cảm tử, ưu tú nhứt của quân lực VNCH rồi muốn làm gì thì làm à, càng giỏi mà đừng kiêu binh thì người dân mới kính phục quân đội… Trung úy trưởng đồn thông cảm sự hy sinh của các anh, chớ người khác họ lấy xe tăng cán đè lên các anh nát đầu dẹp lép, các anh hiểu chưa? Ăn mặc đồ Việt Cộng mà dám vây đồn quân cảnh, các anh liều thật… súng AK-50 của các anh thì làm được gì với xe tăng?”.

Tôi về lại khách sạn gặp Huệ, tôi cũng chẳng nói tiếng nào, có phải con người mà hằng đêm bay phi vụ đùa giỡn với tử thần đã đem lại một tinh thần bất ổn, căng thẳng vì giao động mạnh? Thế nhưng Huệ sửa lại tư thế càng kính trọng và nể phục tôi hơn, Tôi có thể hiểu được qua nét mặt của Huệ.

Còn Khôi, con người cứ lầm lầm lì lì khó hiểu. Thì giờ anh bỏ ra nhiều nhứt là mài dao trên một miếng đá mài tí hon. Thật là một hiện tượng kỳ quái; đêm đó tôi còn nhớ, Vũng Tàu một thành phố kết hợp nhiều binh chủng nhứt, Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Người Nhái, Biệt Kích Lôi Hổ, Biệt Ðộng quân… Tôi đang ngồi trên chiếc ghế đẩu cao của một quán Kiosque ở Bãi Trước, thì nghe tiếng súng nổ khắp nơi, mọi người đều nằm rạp xuống đất để tránh đạn, nhìn qua nhìn lại chỉ có một mình tôi thản nhiên ngồi uống rượu. Vì tôi biết chắc chắn họ chỉ bắn lên trời thôi chớ chẳng có gì phải sợ, sau một hồi nổ súng, các binh chủng khác đều rút lui chỉ còn lại lác đác vài anh Biệt Kích gan lì ở lại lâm le khẩu súng. Tôi nhìn ra thấy Trung sĩ Ðức, hắn vừa được tôi bóc ra trong chiến khu D tuần trước; Tôi trừng mắt quát lớn (không biết sao hồi đó tôi dữ quá).

– “Ðức… Ð. M đi về ngay!”

Hắn riu-ríu đi về nhưng vẫn chu miệng lên trời la lớn:

- “Ð.M. không có ông thầy tao kêu về… thì chết mẹ tụi bây hết!”

Một lát sau, không khí Bãi Trước vẫn vui lại như không có chuyện gì xẩy ra trước đó.

Một người đàn bà trạc tuổi 40 mươi, mặt mày phấn son tươm tất đi ra chào hỏi như muốn làm thân:

- “Em thấy Ðại Úy anh hùng quá chẳng sợ súng đạn là gì… cứ ngồi uống tỉnh bơ”.

- “Có gì đâu mà sợ… họ bắn dọa lên trời thôi chớ có gì đâu mà sợ”.

- “Em đề nghị Ðại Úy chuyện nầy nghe”

- “Ðâu chị nói thử”.

- “Tụi em ước ao Ðại Úy đỡ đầu cho quán của tụi em, chúng em sẽ biết điều với Ðại Úy… có như vậy quán tụi em sẽ không bị phá phách… nghe Ðại Úy”.

Tôi cảm thấy khó chịu và tội nghiệp cho người dân trong thời buổi chiến tranh:

- “Thôi đi… Tụi tôi ở đây có vài tuần xong chiến trận Bình Giả chúng tôi sẽ đi chỗ khác… Chị coi bao nhiêu tiền tôi trả, tôi phải về khuya rồi”.

- “Không có bao nhiêu thôi để em xin mời đại úy”.

Tôi bèn đặt tấm giấy bạc lên bàn, cẩn thận giằn ly rượu lên trên rồi ra về một mạch.

Vừa nằm xuống chưa kịp chợp mắt, đã có ai gõ cửa rầm rầm nơi phòng mình, vừa mở cửa đã thấy Trung Úy Ðỗ Cao Luận, Ðại Đội Trưởng Biệt-Kích Dù, mặt đỏ kè có lẽ uống quá nhiều rượu.

Tôi nghe tiếng nói không chững chạc qua hơi rượu:

- “Anh Vinh! Tôi muốn đấu súng với anh!”

- “Luận… ê… bộ hôm nay Bồ có chuyện buồn”.

Hắn gật gù trả lời:

- “Không có gì buồn mà chỉ có rửa hận thôi! Anh có đàn em mà không biết dạy-dỗ… mũi dại thì lái phải chịu đòn… có thế thôi”.

Tôi điên tiết lên nhưng phải vuốt cơn giận xuống.

- “Chuyện đâu còn có đó… không lẽ trong chiến trận mình đã hy sinh cho nhau mà bây giờ vì một người đàn bà mà mình phải hy sinh sanh mạng thật nhục quá… Tôi vẫn biết giữa anh và tôi, ai cũng xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, nhưng mình phải dành cái chết nơi xứng đáng.”

- “Thôi anh về ngủ đi… sáng mai tôi sẽ khuyên Khôi vụ nầy… anh yên chí tôi biết tánh nó” Luận bước lùi xiễng niểng, nặng nề lảo đảo ra xe để lại mùi hơi rượu nồng nặc.

Tôi không thể nào chộp mắt lại:

- “Tại sao có việc nầy… lỗi bởi do ai?”

T. Lan là vợ Bé của một cựu Tổng Bộ Trưởng quyền thế, đã có liên hệ tình ái với Luận, chàng Trung- úy rất đẹp trai phải nói nhứt nhì trong quân đội, còn Khôi… so ra còn xấu hơn mình, tình yêu gì mà khó hiểu quá? Mà cũng thiệt kỳ quái, chiều nầy đi vào phi trường để bay thám sát LZ, xe Jeep thiếu gì, nhưng kẹt nổi ai cũng muốn leo lên chiếc xe Cortina Trắng mui trần của T. Lan để vào phi trường; gót giày nhà binh nện lên làm trầy trụa cả lớp sơn trắng.

Chính tôi đã hỏi nàng:

- “Sao cô không để các anh tự lái xe đi… như vầy thì nát xe hết”.

T. Lan nhoẻn miệng cười:

- “Em dự định trầy sơn em sẽ sơn màu đỏ cho nó ngầu và hợp thời trang hơn!”

- Thôi mình ráng dỗ giấc ngủ, ngày mai tính sau.

Nhưng lại nghĩ mong lung tới Trung-sĩ Ðức, vừa rồi nếu mình không cứu hắn từ trong lòng địch từ Chiến khu D ra thì sức mấy đang hang tiết vịt mà nó chịu nghe lời mình trở về Trại. Nghĩ cho kỹ Toán hắn hên và thật may, mới thả chiều hôm qua thì sáng hôm nay lại được bóc về liền.

Hắn kể chuyện mà bắt tức cười:

- “Chiến thuật ngụy-âm” Chúng tôi thả Toán của Tùng và Nhựt bằng phương cách tạo nhiểu loạn âm thanh; Trên thế đất bằng phẳng rừng cây cao dầy đặt bạt ngàn như Chiến khu D, hoặc rừng cao-su bát ngát như Bình Giả; Tâm lý ở vùng rừng núi người ta thường chuẩn bị cho một đêm dài trước khi trời sắp xụp tối.

Trưa ngày hôm đó, hai Toán-trưởng, hai Phi-công trưởng và hai sĩ quan Việt Mỹ đặc trách hành quân, Thiếu tá Tất và Thiếu tá da màu Thompson. Chúng tôi được một chiếc phi cơ của quân đội Úc “Otter” chở đi thám sát bãi đáp, Tôi đề nghị phi công của chiếc Otter bay cao ngang qua vùng hành quân lấy trục thẳng từ Ðông sang Tây và khi trở về đáp lại Vũng Tàu, tránh tuyệt đối không bay trở lại trên vùng đó, làm như vậy để khỏi bị sự chú ý của địch.
Chỉ còn vài phút nữa là bay ngang vùng phải chọn bãi đáp cho tối nay. Bốn nhân vật quan trọng nhứt trong phi vụ thám sát nầy là hai cặp, Nhựt và Khôi, Tùng và Tôi. Chỉ duy có vài phút trôi qua nhanh chóng, mổi cặp tự bàn thảo với nhau trong việc chọn bãi đáp, nhưng phần nhiều phi công quyết định; Toán trưởng chỉ có việc ghi chấm bãi đáp theo ý định của phi công.

Chúng tôi thường chọn một bãi Chính và một bãi Phụ; Trên bản đồ có khoanh vùng thám sát cho từng Toán trách nhiệm. Thời gian bay ngang qua bải đáp quá nhanh, bốn đứa chúng tôi, ai mặt mày cũng đỏ kè vì phải vận dụng trí óc quá nhiều căng thẳng thần kinh; Tôi nhìn qua Khôi và Nhựt thì họ cũng vừa trỏ ngón tay Cái lên báo hiệu okay.

Thế là từ giờ phút nầy trở đi bãi đáp như một nhân tình không thể xóa mờ trong tâm trí chúng tôi; Thiếu tá Thompson có hỏi tôi hai tọa độ bãi đáp nhưng tôi do-dự, làm sao tin ai được, Tôi có trách nhiệm phải bảo vệ tuyệt đối bí mật cho Toán, cho nên Tôi thối thoát:

- “Tối nay Tôi sẽ cho Thiếu-tá biết ngay lúc về đáp vì có thể giờ chót đáp vào bãi phụ thứ hai”.

Ánh nắng ban chiều còn lảng vảng dưới trời Tây như muốn nhắn nhủ loài người thôi dừng lại sự chém giết lẫn nhau vì tất cả rồi đây sẽ chôn vùi vào bóng tối âm ti. Ba chiếc trực thăng tuần tự nổ máy giữa gốc phi trường nhưng không át nổi tiếng động-cơ gầm thét khi lên xuống; Tôi cất cánh trước rồi Huệ và Khôi sau cùng; Huệ bay chiếc thứ hai không có chở Toán mà chỉ để cấp cứu khi có chiếc nào bị nạn và cũng để đánh lạc hướng đối phương. Phi cơ đang bay đội hình nấc thang, chút nữa đây giữa đám cây cao dầy dặt; Lính Bắc Việt chỉ nghe một đoàn trực thăng bay ngang qua như mọi ngày, không biết từ phương hướng nào tới, âm thanh nhiểu loạn, lẫn lộn lớn dần rồi vụt một cái ào lướt qua, âm thanh tiếp tục nhỏ dần dần đến khi không còn âm vang. Làm sao Lính Bắc Việt biết được chỉ có vài giây, một chiếc vừa thả Toán cách đó không xa!

- “Hai, Ba sẵn sàng… mình xuống thấp 100 bộ, hãy giữ cao độ nầy, mổi chiếc cách nhau 7 giây okay?”.

Tôi xuống thấp… bải đáp trước mặt, làm động tác đứng khựng nhịp nhàng tay-lái… không được rồi, chúng gài chông cao năm thước để chống trực thăng đầy lố-nhố trên trãng tranh của bãi đáp, Tôi cất cánh lại tiến về bãi đáp dự phòng, vừa lúc nầy thì chiếc thứ Ba của Khôi vừa lướt qua; Tôi bám theo sau hắn giữ khoảng cách 7 giây. Bây giờ tới phiên Khôi thả tôi giữ khoảng cách sau hắn; Khôi đang giảm sức máy, đầu phi cơ ngốc lên, chuẩn bị đáp; Tôi giữ nguyên tốc độ vượt qua trên đầu hắn, chưa được 7 giây thì Khôi đang nối đuôi sau lưng tôi. Giờ tới phiên Tôi thả, bãi đáp trước mặt hơi nhỏ khó khăn hơn; Tôi nhẹ nhàng giảm tốc lực máy, đáp xuống… một, hai rồi năm giây Toán phóng xuống quá nhanh; Tôi cất cánh nối đuôi theo chiếc trước của Huệ, bay thẳng một mạch không đỗi hướng về lại căn cứ. Cuộc thâm nhập thật hoàn hảo!

Ðúng 10 giờ sáng hôm sau, Toán của Trung úy Tùng cho biết đã bắt được một tù binh xin được bóc về gấp, gần chỗ bãi đáp hôm qua bị gài nhiều chong chống trực thăng. Lời nhắn của Toán trưởng, nên bay từ hướng Bắc xuống, từ nơi có nhiều cây cao dầy đặt nhưng rất an toàn, không nên lấy hướng từ Xóm sình, Bầu-Cạn, Bầu Phụng trở lên sẽ bay qua đầu một trung đoàn trừ của Bắc Việt chốt ở đó, Toán chỉ trãi báo hiệu bằng tấm vải nhựa màu vàng cam khi nghe tiếng trực thăng, tuyệt đối không đốt khói màu. Trung sĩ Ðức là người lập công đầu; Hắn mừng rỡ vừa nhảy xuống phi cơ, bu lô bu loa trong niềm tự hào, hắn kể cho phi hành đoàn nghe:

- “Tôi nghe ở đàng xa có tiếng chân người bước vội, tôi núp ngay xuống bụi rậm dầy nhứt ở bên cạnh lối mòn. Tim tôi đập thình thịch, súng luồm luồm ở vị thế sẵn sàng nhả đạn, tuy tôi được lịnh tránh tối đa không được nhã đạn. Tiếng lá xào xạt mỗi lúc một gần, tôi nghĩ thằng Việt Cộng nầy chắc chắn nó không biết có tụi tôi ở nơi đây, nên nó vừa đi vừa thản nhiên hút gió. Khi nó vừa qua mặt tôi thì nó đi vào một bụi cỏ gần đó; Tôi ngó qua thấy nó không cách tôi xa lắm và đang cởi quần; Tôi nghĩ nó đi Ể. Tôi liền tiến tới ngay sau lưng nó la hét to lên, cốt cũng để báo động cho Toán biết luôn.

- “Dơ tay lên… Ð.M. dơ tay lên!”

Tôi thấy nó chẳng chút gì sợ hải mà thản nhiên trả lời:

- “Ð. Một… đây, Ð. một đây!”

Tôi tức giận thét lớn:

- “Ð.M… Ð Một cũng phải dơ tay lên.”

Lúc nầy Hắn mới sợ hãi quay lại nhìn tôi một lát rồi mới chịu dơ tay lên mà không kịp kéo quần, Ð.M. thúi quá! Tôi xong tới trói tréo tay hắn lại bằng chiếc còng dã chiến Nilông thì cũng vừa lúc Trung úy Tùng chạy đến, chúng tôi kéo hắn chạy trối chết ra bãi đáp… Tôi không hiểu ám số Ð-Một là cái con mẹ gì?

Nằm trong phòng ngủ hạng sang có máy đều hòa mà Tôi không tài nào ngủ được, tôi nhảy xuống giường chơi thêm một chai beer nữa họa may dỗ được giấc ngủ rồi ngày mai còn phải gặp Khôi để giải quyết chuyện tình cảm lăng-nhăng giữa đồng đội cùng sống chết có nhau. Thật tình yêu phức tạp khó hiểu quá! Ðẹp trai không chịu mà chịu xấu trai mới nên nông nổi, ngày mai Tôi sẽ phải giải quyết sao đây!

Mặt trời đã lên cao nhưng Tôi vẩn còn ngủ vùi như khúc gỗ, bổng có tiếng gõ cửa dồn dập; tôi nhảy ra khỏi giường như chiếc lò xo ra mở cửa; Khôi xuất hiện vui vẻ mời tôi đi ăn sáng.

– “Tôi định gặp anh thì anh đã đến.”

Khôi dồn dả hỏi tôi:

– “Có chuyện gì quan trọng không đại-ca?”

- “Ối, cũng chẳng có gì là quan trọng, anh đồng ý tính mạng của anh em mình mới quan trọng.”

Khôi cướp lời:

- “Khỏi nói đúng là như vậy.”

Chúng tôi lái xe Jeep ra Bải Sau ăn sáng, trên đường đi tôi không nhắc nhở gì chuyện tối qua Trung Úy Ðổ Cao Luận đòi đấu súng với tôi.

- “Bửa nay hai anh em mình đi thi tài bắn súng, ai thua thì trả ăn sáng?”

Khôi dẩy nẩy:

- “Tôi hứa bao anh ăn sáng rồi mà… vả lại tôi làm sao bắn giỏi bằng đại-ca?”

Chúng tôi vào một cái quán xa nhứt và cũng vắng vẽ nhứt; Sau khi ăn uống no nê, tôi từ từ nói:

- “À Khôi nè, đừng nói tôi hay tò mò… Anh làm quen với cô T. Lan được bao lâu”

- “Cũng không lâu lắm… mới được vài ngày đây thôi”

- “Anh đừng nghĩ tôi tò mò, chỗ anh em mình sống chết có nhau… vì thế cuộc sống của chúng mình có những mấu chốt dính dấp chặc chẻ như ruột thịt… anh đồng ý điều đó.”

- “Chắc chắn dĩ nhiên là vậy!”

- “Anh có biết T. Lan là người yêu của Luận, Ðại đội trưởng Biệt Kích Dù?”

- “Biết chớ, nhưng T. Lan đâu phải vợ của thằng Luận”

- “Ðành rằng như vậy nhưng giữa T. Lan và Luận anh quý người nào hơn?”

- “Tôi quý cả hai, Luận là chiến hữu cùng sống chết có nhau nhưng T. Lan là người yêu, dầu mới quen nhau nhưng tôi không thể bỏ nàng được”.

- “Một bên là tình bạn cố hữu lâu đời và một bên là tình yêu mới chớm nở, chả lẽ chuyện nầy anh không thể giải quyết được sao?”

- “Anh Vinh à, mặc-dù anh lớn tuổi và là cấp chỉ huy của tôi, nhưng anh làm sao hiểu được khi yêu con tim nó có lý lẽ riêng của nó!”.

- “Khôi à… tôi rất hiểu điều đó, nhưng đây mình bỏ qua cấp bực mà chỉ lấy tình chiến hửu cao quý để đối xử với nhau, tôi thấy nó trọn tình vỉnh cửu, dù sao mình cũng tự hào là người trai anh hùng của thế hệ; Tôi nghĩ Khôi con người tài ba mà chẳng lẽ chỉ có một T. Lan trong cuộc đời mình, ngoài xã hội thiếu chi người đã đẹp mà nết na chung thủy… hay là anh chịu khuất phục không đủ bản lãnh hay tài ba để tìm một người đẹp hơn T. Lan?

- “Ðúng, anh là cấp chỉ huy tài ba không những trong nghề nghiệp mà còn thầy đời về tâm lý, anh đã khơi đúng lòng tự trọng của thằng Khôi nầy… Bây giờ trở đi tôi xin hứa với anh, mối liên hệ giữa T. Lan và tôi sẽ chấm dứt từ đây”.

Ðể cho không khí bớt căng thẳng tôi cà-rởn nói đùa như có lời khích bác:

- “Nếu mình o - mèo dở ẹt không kiếm nổi cô nào khác thì tội gì mà nhả ra… phải không!”

Anh Vinh à! Đây là lần cuối, thôi đừng nhắc nhở chuyện đó nữa, anh nói đúng: “Mình không thể bỏ anh em, bạn bè chiến hửu cùng sống chết có nhau!

Bây giờ nghĩ đến hai hiện tượng Khôi và Huệ túc trực cấp cứu, tôi vô cùng yên tâm, vừa suy tư đến đây thì cũng vừa lúc Khôi và Huệ đến tôi; Huệ có cầm trên tay cho tôi một ca-nhôm càfê đen.
Hắn nói:

- “Trong thời gian nghiên cứu bản đồ, anh uống chút cho tỉnh!”

Tôi, Hảo, Huệ và Khôi, bốn đứa ngồi cho hỏ trên bải cỏ. Tôi chậm chạp thuyết trình:

- “Dự trù Tôi sẽ cất cánh lúc 10 giờ, hai anh cất cánh sau tôi một chút bay thẳng về Ðà Nẳng, nhớ giữ tần số UHF… VHF… F.M… thỉnh thoảng các anh gọi tôi hoặc ngược lại, Hảo sẽ gọi các anh” Xuống Ðà-Nẳng các anh đổ xăng vẩn luôn luôn giữ ba tần số nầy có gì khẫn cấp thì gọi Okay..? Khi cất cánh lại nhớ bay về hướng Quảng Ngãi, khi bay xuống gần đến Benhét tôi sẽ trở về Quảng Ngải đổ xăng và gặp các anh ở đó. Chúng ta sẽ gặp người đẹp Quảng Ngải, Cô Mầu bán kẹo Gương, nhìn nàng rửa con mắt cho thỏa chí rồi lên nhà hàng Thế giới Tửu gia dùng cơm.

À còn quên một chuyện rất quan trọng, ngay sau khi cất cánh, các anh đừng vội bay một lèo về Ðà Nẵng mà bay vòng vòng ở Sông Mỹ Chánh, vì Tôi sẽ không bay chụp ảnh từ biên giới Lào Việt dọc xuống miền Nam, trọng điểm từ đỉnh núi đá vôi Coroc xuống lần theo Sông Xe-pon mà bay thẳng một mạch đến sào-huyệt Tiền phương Ðoàn 559 trước, vì rằng Tôi không muốn chúng sẳn sàng chào đón, nếu mình ló dạng nơi nào khác trước đó thì chúng sẽ báo động ngay. Mình sẽ bị lảnh đủ vì nơi đó là vùng tử địa, núi non chôm chổm, vách đá đứng sựng, nơi hai Tiểu Đoàn pháo phòng không bảo vệ chặc chẽ, phi cơ khu trục chiến thuật rớt quanh đó rất nhiều, mới vừa rồi một gunship AC-130E bị bắn rớt phi hành đoàn coi như tan xác, vì theo ROE cho nay co Sam- enveloped… Các anh có gì để hỏi? Okay chúng ta chuẩn bị cất cánh”

LLDB Huỳnh Thuận Nhã xuất hiện trong bộ đồ ngụy trang da-beo lốm đốm và Thượng Sĩ Donald Duncan trong bộ đồ rằng-ri TQLC, trên bộ đồ ngụy trang nầy chằng chịt nhiều thứ máy chụp hình, phim ảnh, dây súng đạn đủ thứ.
Người Mỹ ỷ vào sự lớn xác nên họ mang rất nhiều thứ lỉnh kỉnh trên mình, như ống nhòm, gun flare, bản đồ thậm chí còn có kiến mát nữa.
Tất cả đều được điều động ngồi gọn lên phần trước của Trực thăng, Cơ-phi Mai đang tháo hai khúc gổ chèn bánh xe quăng vội một bên, rồi nhảy phóc lên sàn tàu, dơ ngón tay Cái ám hiệu sẳn sàng nhưng không quên nhe hàm răng ngó lên cười để cũng cố sự can đảm. Mọi người đều hiểu được đây là chuyến bay định mệnh, đúng nghĩa vào sanh ra tử!

Tôi vừa làm thử một thao tác “Lazy-8” rất ngoạn mục nhưng không biết tới đó, vách núi chập chùng chận cao trước mặt mình có làm được đẹp như vậy không, hay là quá căng thẳng thần kinh cùng sự mệt mỏi, rồi không làm được thì chết mẹ cả lủ năm mạng người. Sào-huyệt Ðoàn 559 (Oscar-Eight) cách Khe Sanh 25 dậm về phía Ðông-Nam, nơi đây tôi phải bay sạt trên ngọn cây không phải vì sợ Radar theo dỏi mà sợ chúng biết tụi tôi mon men tới, chúng sẽ vui vẻ chuẩn bị chào mừng bằng những tiếng pháo phòng không đủ loại.

Tôi cứ bám hướng 155 độ, bay sạt trên ngọn cây, dợn sóng lên xuống theo địa hình lồi lỏm của thế đất. Xa xa là tiền đồn Satram của ngày xa xưa nay bỏ ngỏ như một đồn ma hoang vắng, đã bị bỏ hoang từ thời Ðệ-I Cộng Hòa; Trước mặt là dảy núi Tam Bôi, ánh nắng ban mai chói chang đang tỏa xuống cạnh sườn Ðông của thung lủng với vách núi đá sừng sửng dựng đứng, lác đác đó đây trên điểm cao, những ổ phòng không lúc nào cũng sẳn sàng nhã đạn. Dưới đó có một con suối lớn ngoằn ngèo chảy ngược nhưng lại xuôi về Ðông Nam, tiếp nối thung lủng ALuôi, Ashau như tấm thảm xanh bằng phẳng trải dài bát ngát với cỏ rạ sình lầy.

Còn vài phút nửa là chúng tôi sẽ đâm đầu vào ổ kiến lửa; Nó ở giữa lưng chừng của hai tiền đồn đả bỏ hoang từ lâu là Litôn và Tourout, cảm giác ngoại cãnh khác lạ trong tôi, bỗng dưng toát lên hai thái cực đối nghịch với nhau. Hồi còn là phi công quan sát, ở vị trí từ trên cao nhìn xuống, tôi thường chép miệng khen thầm “quê hương mình quả thật quá đẹp, núi non hùng vĩ bạt ngàn. Nhưng giờ đây ngoại cảnh trước mắt quá hải hùng, buộc chặc trong tằm mắt phải nhìn thật gần, thật sát, thật rõ được những gì đang đe dọa cho đất nước miền Nam.
Dưới đây, hoạt cảnh đổi thay nhộn nhịp đến kinh hoàng trên dọc tuyến đường Mòn Hồ Chí Minh, chi chít đường xá mới mọc, lối mòn tua tủa song song chạy về hướng Nam, biết bao là cầu mới dựng tạm bắt ngang. Những doanh trại, nhà kho nằm ẫn dật dưới lùm cây dọc theo con Suối, có nơi lá ngụy trang đã rụng rời phơi bày mái nốc lợp bằng “Tre-đan đập-dập” lộ thiên như thách thức, rẩy nương tạp nhạp lẩn lộn với đủ loại hoa màu, Sắn, Ngô, Khoai, Cải bẹ… để ngụy trang đánh lạc hướng sự chú ý của các phi cơ trinh sát không ảnh U-2 và RF-101 nhưng làm sao lừa được những cặp mắt cú-vọ của Nhã và Duncan qua những thước phim để đời.

Ai dám bảo đảm cho Cộng Sản Hà Nội thôn tính Miền Nam!

Không phải Liên Xô mà cũng không phải Trung Quốc mà là người bạn quý của chúng ta! Nếu phải nêu đích danh là W. A. Harriman, thủ lãnh đảng hội Skull and Bones thì quả là không sai – Một trò chơi chiến tranh chớ không phải là cuộc chiến tranh thực sự.

Nếu Hoa kỳ muốn làm tiêu tan ý đồ của Cộng Sản Bắc Việt, cứ mỗi tuần lể chỉ một lần thôi, thả vào nơi đường Xa lộ Harriman (Đường Mòn Hồ Chí Minh): Vì đã nhiều lần CSBV tuyên bố trước thế giới không có quân lính của họ ở nơi đó (đường mòn HCM), có nghĩa là chỉ có Khỉ và Vượn mà thôi.

Ðể phòng thủ tự vệ, Không-quân miền Nam chỉ thả một trái Bom CBU-55, và cứ một tuần một lần rồi dùng AC-130B bay dọc theo hành lang xa lộ dùng đại bác không giật 106ly loại đạn tầm nhiệt mà chơi. Không bao lâu chẳng còn chiếc xe máy nổ nào ở trên tuyến hành lang và chỉ còn lại một loại xe “cải tiến” (nói theo danh từ của Việt cộng, cho la Xe-thung) nhưng lại không có người hay trâu bò để kéo. Dĩ nhiên là tiêu tan ý đồ cưỡng chiếm Miền Nam bằng võ lực.

Phía Cộng Sản thường nói: Mỹ là tay sen đầm quốc tế, còn các nước khác cho Mỹ là cảnh sát thế giới. Riêng Tôi thì cho rằng, Mỹ là Chủ cái chia bài rất điệu nghệ, phát hiện tay Con nào thua quá nhưng muốn cầm chưn để chơi tiếp. Chủ Cái Mỹ bèn có hai cách: Một, lấy tiền của tay Con kia cho tay nầy ăn để chơi tiếp – Hai, Chủ Cái chơi đẹp - cho tất cả tay Con đều “hẩu-sực” rồi từ từ lùa hốt sau.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ vừa viện trợ cho Pháp (nhưng thực tâm Mỹ muốn nhờ Pháp tiêu thụ những thứ vất đi nầy, và chịu lệ thuộc cho quyền lợi của Mỹ).

Năm 1949, Bộ trưởng ngoại giao Mỹ, Acheson [một thành viên Skull and Bones] thuyết phục TT Truman giúp viện trợ cho Pháp sơ khởi 15 triệu Mỹ kim, 4 năm sau lại đề nghị 2 tỉ đôla, nhưng đồng thời trước đó vấn đề Tình báo OSS, do Ðiệp Viên 019 Lucien Conein nhảy dù xuống mật khu Pác-pó giúp Cụ Hồ cả ngàn khẩu súng Carabin và Trung Liên Bar, cho Hạ Sĩ quan OSS huấn luyện Trung đội Vỏ trang tuyên truyền của Vỏ Nguyên Giáp và Văn Tiến Dủng làm Trung đội phó.

Hồi Ðệ-II Cộng Hòa, CSBV chơi trội, pháo kích ác liệt vào phi trường Biên Hòa chẳng hạn như năm 1967 phá hủy một số lớn phi cơ (Mỹ muốn CSBV tiêu hủy dùm hàng tiêu dùng) để cân bằng lực lượng của hai tay Con, Hoa-Kỳ dùng B-52 tiêu diệt lực lượng CSBV gây ra sự thiệt hại đáng kể để dung hòa.

Khi dùng chiến dịch khai quang đến hồi cao điểm, Quân CSBV đói, thì CIA tìm cách xúi bẩy Tiểu Khu trưởng chở vài chục xe nhà binh GMC gạo vào cứu đói, còn Vùng Duyên hải, thì Hải-Ðoàn 759 thả gạo trôi từ ngoài biển vào bờ. Còn MTGPMN rên rỉ quá thì CIA buộc VNCH thả ngay các tay gộc cán bộ MTGPMN để họ được ra Bắc nghỉ ngơi R&R.

Vào những ngày cuối cùng của tháng Sáu, 1972, Quân Dù của VNCH chưa được lệnh mà đòi xung phong chiếm Cổ Thành Ðinh Công Tráng làm ngược thế thương lượng theo kế hoạch hòa đàm, thì quân Dù bị máy bay Mỹ thả bom nướng một Ðại Đội Dù tại bức tường thành, gọi là thả bom “lầm” – làm gì nhau? Thả bom lầm là chuyện thường… Chiến tranh mà! (theo kế hoặch là TQLC chiếm từ phía Ðông Quốc Lộ-I, ngoài biển tiến lên để Mỹ phối-hợp yểm trợ), và phải đúng thời điểm mặc cả tại Hòa Đàm Paris, mới được phép.
Còn CSBV muốn Tổng Nổi Dậy chiếm Miền Nam 1972, nhưng chưa đúng thời điểm nên phải bị hy sinh 100.000 quân, khiến Tướng Giáp phải từ nhiệm.

Nhưng quyền hạn do lãnh đạo Mỹ chỉ định là Sư-đoàn TQLC tái chiếm Cổ thành. Báo hại trong buổi hợp tại Camp Evan khi TQLC được chỉ định chiếm Cổ thành, thì bị ngay sự phản ứng của Trung tướng Dư Quốc Ðống phẩn nộ ngay buổi hợp.

Tôi xin phát biểu nguyên văn:

- “Ð. M. Thằng nào ở Dù ra mà phản bội lại Dù thì đéo khá được”.

Có lẽ Tướng Ðống nghĩ rằng đây là phóng đồ hành quân do Tướng Trưởng quyết định. [Chúng ta cũng đừng nên nghĩ rằng cuộc hành quân Lam Sơn 719 là tiếng Việt nhưng Mỹ đã đặt tên qua sự cố vấn của CIA trước một tháng, 18/1/1971, do Richard Helms va Donald Rumsfeld] làm mất đi tình huynh đệ chi binh giữa các Tướng lãnh với nhau.

Tôi phải mở to mắt ra để nhìn về phía trước, bằng mọi giá phải khóa chặt tầm nhìn của súng phòng không Bắc Việt. Thông thường chúng điều chỉnh tầm tác xạ ở góc bắn bao quát lên trời chớ không bắn tầm ngang hoặc chỉa xuống dòng Suối của thung lủng; Ðây cũng là cách bay nhũi vào lửa đạn mà tôi đang nghĩ tới cách thoát thân. Tôi quyết định bay thẳng gốc với con đường mòn trước mặt giao tiếp với một con Suối lớn bắt nguồn từ giòng Sông Xê-Pon chảy ngược lên mạn Tây Bắc của Tỉnh lỵ Tchepone.

Bất chợt, như phản xạ, Tôi tự động chúi mũi tăng tốc độ tối đa để vượt qua tầm mắt của Toán người đang cố lội qua Suối; Họ đang cồng lưng vác vật gì nặng lắm! Có lẽ đạn phòng không? Mình mẩy ngụy trang đầy cành lá! Tại sao Họ không bắn chúng tôi mà lại vẩy tay chào mừng như đồng chí?

Tôi nghe trong nón bay, ở dưới buồng lái Mai nói nhắn lên:

- “Anh nghe thấy gì không?”

Tay chân đều kẹt đang lái, Tôi vừa ngậm micro vừa nói ú ớ:

- “Thấy lính Bắc Việt vẩy tay chào anh”

“Duncan và Nhã đang bận bấm liên tục chiếc máy hình, Tôi đâu có việc gì làm… mà không biết tại sao Tôi tự động vẩy tay, cho nên họ mới vẩy tay lại”.

Tôi hỏi gặn lại,

- “Tại sao họ không bắn mình”

Mai cười hô hố trả lời:

- “Có lẽ Toán dân công khuân vác, Họ đâu có mang súng, anh nào cũng ì-ạch xiểng niểng chống gậy qua Suối, dường như Họ mang cái khỉ gì trên lưng nặng lắm, qua Suối không vững… nếu như U-2 hoặc RF-101 mà chụp không ảnh… thì Họ cứ cho là một đại-đội hay trung-đội nào đó với đầy đủ súng ống đang băng qua Sông, chớ đâu có biết đây là Toán dân công khuân vác, có người chặt cả cành cây còn lá để ngụy trang, làm gậy chống chỏi qua Suối.
Những cái vẩy tay qua lại vô tâm hay lịch sự vô thức? Hay phản ứng tự nhiên? Không phải “tao-ngộ chiến”… trong giây lác ngở ngàng không dự đoán phải làm sao

Chúng tôi sắp lướt nhanh qua con đường đất đỏ trước mặt, lần nầy chắc Mai vẩy tay có ý thức, chớ ở không làm gì, vẩy tay ra cái điều là dân lịch sự hào hoa cũng nên lắm!

Quả thật ở ngay trên đường đất đỏ nầy có một chiếc xe ‘hũ-lô’ làm đường, kiểu có ống khói hồi lý-toét xa xưa, vài chục người bu quanh, hai tay cầm cái Rế cái Xọt, dường như đang hất đất đá xuống những lổ trủng làm đường. Làm sao biết được đàn ông hay đàn bà dưới những vành nón lá nhỏ hơn kiểu Miền Nam một chút. Chúng tôi đang nghĩ rằng họ sẽ ngước mặt lên khi nghe tiếng động cơ bay ngang; người ngước lên nhìn trước nhứt là ngay vào lúc Tôi đang bay ngang đầu họ, còn lại phần đông chưa kịp phản ứng; Những chiếc hình nầy của Duncan và Nhả sẽ tái xác định vào lúc nào thì tất cả đều biết chúng tôi bay ngang.

Ðã đến nơi tử địa rồi, Tôi đang căng thẳng thần kinh, hồi hộp mím môi ghìm tay lái. Bay lách qua, lách lại như con cá lia-thia ẩn hiện trong hóc đá san hô, cạnh sườn bên trái con Suối lớn, để tầm quan sát chụp ảnh được rỏ ràng hơn, bên phải tôi, trên cao vách đá, đã phát hiện ra ít sự hoạt động của người qua lại trên lối mòn, cỏ vẹt ra nằm rạt hai bên. Nhưng cảnh vật vẩn yên tịnh, có lẽ là Họ không ngờ rằng giờ nầy có chúng tôi đến thăm mà không hẹn trước; Trên vách đá cao hơn đã thấy có dấu vết phơi áo quần bộ đội, Tôi cảm thấy vững tâm vì các ổ phòng không đang chốt ở các cao điểm, hơn cao độ chúng tôi đang bay dọc theo dưới con Suối. Và dỉ nhiên tầm tác xạ của chúng không làm gì được để gây thiệt hại cho chúng tôi.

Thình lình, Tôi nghe khoảng cách sau đuôi hai tiếng nổ ầm ầm, Tôi nhũi mũi tăng tốc độ bay sát vào vách đá, nương vào các chướng ngại vật thiêng liêng để lẫn tránh. Rồi cũng phía sau đuôi tiềng AK nổ dòn tan như bắp rang. Tôi chẳng sợ sệt gì cả vì tầm đạn còn quá xa không thể nào đến đây được; Dường như chúng đã báo động, tôi đã nhìn thấy rỏ những vệt khói trắng từ bên kia Suối. Có lẽ B-40 hay 41 gì đó bắn qua nhưng đạn đạo không tới, nên rơi nổ giữa dưới lòng Suối; Thời gian bay qua Ðoàn 559 Tiền phương sao lâu quá mà khúc ẹo con Suối lại quá gắt, đôi khi lượn trái đôi khi lượn phải mà vách núi đá thì đứng sừng sựng như muốn chụp xuống trực thăng.

Bây giờ ở phía sau đuôi thì hình như không còn đe-dọa nữa, nhưng ác nghiệt thay những mảnh đạn súng cối tối tân nhứt thời đó của Liên Xô là Cối 120ly lại bóc lên trước mặt, có những cột khói nổ tung rải rát không biết đâu mà tránh. Chúng bắn từ những cao điểm ở trên chóp núi dọc theo dưới con Suối, nên luôn luôn chúng tôi phải lướt trên những cụm khói của hỏa pháo, mùi khói thuốc khét nghẹt đến muốn ngạt thở.

Trong phản ứng, Tôi dùng hết sức máy để qua khỏi vùng tử địa càng nhanh càng tốt, trực thăng thoáng nhanh có lúc muốn chui vào vách đá bên trái con Suối. Bay như thế nầy có thể tránh khỏi những mảnh đạn của súng cối phòng không, nhưng vô cùng nguy hiểm vì phải đòi hỏi tay nghề khá điêu luyện. Tôi đang thấy rõ hai vệt khói trắng đục bên phải, từ vách núi phía trên cánh quạt chính phụt xuống, Tôi lại cứ ngở rằng loại B-40 hay 41 gì đó; Nhưng khi chúng bay ngang tôi sức gió thật mãnh liệt và theo sau một vệt khói dài nơi sau đuôi. “Thôi chết rồi SA-7, 5, 3 gì đây” Trong nón bay Tôi vẩn nghe được tiếng gió rít, cảm nhận tốc lực và âm thanh thật hải hùng, rồi hai tiếng nổ kinh hoàng… ầm ầm trên thành đá bên trái của chúng tôi chừng 20 thước. Trực thăng bị ảnh hưởng luồng gió cực mạnh rùng mình đôi chút.

Con người thường khi gặp nguy hiểm hay quá thất vọng thường nghĩ đến Thượng đế. Lúc nầy tự nhiên Tôi nhớ đến lời Ni dặn,

- “Chúa Mẹ Maria ơi cứu con!” Tôi Amen loạn xạ!

Có lẽ hai trái hỏa tiễn SA-7 cầm tay nầy hay đạn pháo 85 ly, 75 ly gì đó. Nếu đạn 85 hay 75 ly thì làm gì có vệt khói mạnh thẳng bon ở sau trái đạn, mà đạn đạo làm gì đi xa thẳng đường như hỏa tiển; Nếu như ống thoát khói của H-34 ở bên phải thì mình đã bị nó hút vô rồi; vả lại khi bắn hỏa tiễn sẽ không có hiệu quả chính xác, trừ phi trái hoả tiển có đủ tốc lực và cao độ thì nó mới được chính xác nhũi vào mục tiêu. Cho nên chúng tôi đã thoát chết do hai đều may mắn kể trên: cao độ thấp và ống thoát khói ở ngoài tầm nhiệt phi đạo của hỏa tiễn.

Thôi qua khỏi rồi, đừng quan tâm gì nữa để trí não lo chuyện khác, trước mặt lại lập lại cảnh cũ, những cột khói súng cối lại cường độ nhiều hơn trước, nhưng thời gian và tâm trí đâu mà đoán ước lượng cỡ bao nhiêu cự ly; Thôi đành cứ bay sạt ngang cạnh vách đá chớ biết làm sao hiểu được ở đâu mà tránh. Ðạn tránh người chớ người làm sao tránh đạn!

Chúng tôi đang thấy một số rất đông người ở dưới Suối, dường như họ đang thản nhiên tắm giặc; Ô coi kìa! Họ đang tũa chạy lên bờ, một lát sau chúng tôi nghe tiếng AK như chưa bao giờ được nghe nhiều như vậy, nhưng chúng tôi cứ tỉnh-bơ vì quá xa sau ấy; Nhưng nếu mà đừng hồi hợp thì nghe tiếng AK dòn như pháo Tết, pháo nổ trước mũi Lân đang múa giao thừa. Nơi đây cảnh vật bắt đầu yên tỉnh, núi đá cao dần, tôi bớt sức máy giữ trong chế độ bay bình thường.

Tôi giựt mình thấy chân ngọn núi Tam Bôi dựng đứng như cánh cửa sắt khổng lồ chấn ngang chực ụp xuống chúng tôi – rán gò tay lái, Tôi bình tỉnh ấn nhanh mũi phi cơ lấy tốc lực, nhanh lần, nhanh hơn đến vận tốc tối đa… đũ tốc độ, kéo mũi phi cơ thẳng đứng, xung quanh toàn vách núi… thân thể mọi người dính chặc vào ghế lái, thân tàu, mặt dài thộn ra… mũi phi cơ ngóc lên thẳng gốc, cao cao dần, một màu xanh bầu trời trước mặt, không còn thấy đất mà chỉ có trời và không-gian… tốc độ giảm dần còn 25 hải lý; đạp nhẹ đều chân phải, mũi phi cơ lắt nhẹ, rồi từ từ đâm đầu xuống Suối… tốc độ nhanh dần đến bình phi. Chúng tôi đang vòng lại 180 độ trong chìu thẳng đứng chử I. Tôi nghe trong nón bay tiếng Mai phàn nàn

- “Anh ra khỏi vòng nguy hiểm một chút để chúng tôi nghỉ mệt, rồi vào lại sau!” Tôi hiểu được sức chịu đựng có hạn, nghĩ chỉ còn cách dựa vào đám rừng nguyên thủy dày đặt cây cao trước mặt bay qua đó cho anh em nghĩ mệt một chút.

- “Okay mọi người nằm đại xuống sàn tàu nghĩ 5 phút rồi tiếp tục!”

Lúc nầy Tôi mới có thời gian để hỏi Hảo:

- “Anh có liên lạc gì với Huệ chưa?”

- “Tụi nó ở không, rảnh quá cho nên cứ gọi hoài làm sốt cả ruột”

- “Thì anh cũng rảnh, nên trả lời cho Huệ yên tâm… liên lạc tốt chớ”

- “UHF và VHF thì rất tốt, duy có FM thì không nghe rõ”.

Nhìn tận mắt thung lủng với vách đá sừng sửng hiểm trở như vậy, quả thật đây là thánh địa khá vững chắc của Bộ chỉ huy tiền phương Ðoàn 559 mà phía Bắc Việt cho là Trung tâm đầu nảo lảnh đạo cuộc chiến miền Nam. Còn phía SOG thì đặt tên cho nó là “Oscar-Eight” – CIA với mục tiêu chiến lược họ gọi rằng:
“Mọi nơi miền Nam đều bị đụng trận nhưng chưa hoàn tất và chỉ để gây tiếng vang mà thôi” (Everything worked, but nothing worked enough) Vì thế nên mặc dù Miguez bị mổ ruột và thiêu sống, dù đây là một hành động vô cùng tàn ác trước sự chứng kiến của Toán SOG nhưng lệnh CIA buộc họ phải nhảy vào “Oscar-Eight”.

Giữa tháng Sáu năm 1967, lực lượng Hatcher Force được lệnh phải thâm nhập vào Trung Tâm đầu nảo Ðoàn 559 nầy, nó nằm vào khoảng 40 cây số phía tây-bắc thung lũng Ashau/ALuoi mà vừa rồi chúng tôi đã bay qua đó. Nơi đây đường xá cũng như sự hoạt động điều binh rất nhộn nhịp nối liền giữa Ðường 92 từ Lào qua 922 cùng nối liền 548 qua phần đất Việt Nam; Nơi đây ghi nhận số phi cơ đủ loại bị bắn rơi ngoài H-34 Queen Bee của Việt Nam là không hề hấn gì. Với lối bay khóa chặc các họng súng cũng như hóa giải sức thu-hút của hỏa tiễn cầm tay của Bắc Việt. Phi hành đoàn chúng tôi không ngạc nhiên gì về công sự phòng thủ kiên cố, những hầm trú ẩn nằm sâu trong hóc núi đá như những cánh cửa sắt có thừa sức chịu đựng của B-52, hai Tiểu Đoàn phòng không già kinh nghiệm, đang bảo vệ vùng trời của Tướng một sao Võ Bam trấn giữ tại đây. Ðây mới thật là Trung tâm kiểm soát và điều động hành quân trên trục Xa Lộ Harriman (Đường Mòn Hồ Chí Minh).

CIA mật báo cho biết, nơi đây là kho tiếp liệu lớn nhứt ngoài phạm-vi miền Bắc. Dĩ nhiên cái kiểu làm ăn của CIA là phải vào hang Cọp mới bắt được Cọp. Trung sĩ John Meyer trước đây đã vào một lần, ông cho đây là “ổ kiến Lửa” (the area was really hot. I mean, every team that went in there got the shit shot out of it).


Chỉ trước khi Toán Thám Sát SOG cho lệnh B-52 oanh tạc, máy dò tìm tình báo của họ phát giác từ nơi đây phát đi hàng ngày 2,300 công điện đi đến từ miền Bắc và song song với Lào. Do đó Tướng Westmoreland tin chắc có một tướng lãnh tư lệnh nơi đây. Dù rằng rừng nào Cọp nấy, nhưng Tướng Westmoreland rất hăng hái gởi Toán Thám Sát vào nơi đó định chuẩn, rồi đề nghị TT Johnson đưa quân đội Mỹ vào hành quân tiêu diệt. Hậu quả Westmoreland bị triệu hồi về trong im lặng.

Nơi đây chúng tôi kiếm một chỗ tương đối đáp được an-toàn không thể có, chỉ duy nhứt là bãi đáp ở trong lòng chảo sâu như cái chén, mà xung quanh đó chúng tôi cũng thừa hiểu rằng - chằng chịt những ổ phòng không lộ-thiên trên các sườn núi đá. Dưới chân núi là các hầm và hang động có thể chứa chấp từ cấp Tiểu Đoàn đến Trung Đoàn. Nhưng kết cuộc chúng tôi cũng lựa vào thời điểm mà những người ở vùng rừng núi thường chuẩn bị chổ ngủ cho một đêm dài trước đó.

Mặt trời tuy ngả về Tây ánh sáng vẩn còn le lói, chúng tôi cách bãi đáp chừng năm mười phút. Bổng dưng ở núi rừng bóng đêm chụp xuống một cách mau lẹ, là lúc đó tầm viễn kính thâu ngắn lại. Chúng tôi đã tìm được một hóc đá ở bên sườn xa về hướng Tây, tiếng động bị ngăn cản bằng một triền núi sau lưng chúng; Một cuộc ‘thâm-nhập’ coi như khá chu-toàn!

Sáng sớm hôm sau, thung lũng của cứ điểm chìm đắm dưới bức màn sương lờ mờ dưới con mắt của Toán SOG-Hatcher, B-52 sẽ thả đúng vào lúc 10 giờ sáng, gồm 9 chiếc, ba đợt, mỗi đợt ba chiếc với danh hiệu là “Arc-Light” cách nhau 5 phút. Hai toán viên người Mỹ là Thượng sĩ Billy Waugh và Covey từ cao điểm qua ống dòm: Gần 1000 trái bom loại nhỏ “mắt-Rắn” 250, 500, và lớn nhứt là 750 cân anh trải thảm trên thung lũng Ðoàn 559 Tiền phương. Hai người Mỹ đồng báo cáo ghi nhận có khoảng 50 tiếng nổ-phụ; Waugh vô cùng ngạc nhiên, ngay sau khi ngưng tiếng Bom nổ, Nó thấy lính Bắc Việt chạy ra từ những hang động dưới hóc đá và từ hầm đào sâu trong núi. Chúng ùa ra như ổ kiến lửa bị động, xô đẩy, lăn các thùng phuy xăng còn nguyên vẹn ra thật xa chỗ cháy.
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh:

- “Thật đồ chó đẻ, chúng ta thả Bom chẳng ăn-thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn, Tôi thấy họ đang dập tắt các đám cháy và di chuyển xăng dầu ra chỗ an toàn!”


Trục Ma Quỷ gọi chiến dịch này là “Tiếng Sấm Rền” là nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement). Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, chín chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đã ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Võ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó.
Thượng sĩ Waugh liền gọi máy cho Trung tá Harold Rose ở Trại LLÐB Khe Sanh:
"Chúng ta thả Bom chẳng ăn thua gì cả, dường như chúng chẳng thằng nào bị chết nhờ ở trong hầm đá hang động được che chở an toàn".


Vì là trò chơi chiến tranh của trục Ma Quỷ, chín chiếc máy bay Arc-Light B-52 nầy là oanh tạc cơ chiến lược cất cánh tại đảo Guam, và các chiếc tàu Liên Xô ngụy trang là tàu đánh cá đã ước lượng giờ B-52 sẽ ở trên mục tiêu là 10.00 giờ sáng, thế nên Tướng Võ Bam mới ra lệnh cho lính của Ông núp vào hang động trước đó, chớ còn B-52 bay trên 30.000 bộ có nghe tiếng động gì đâu mà xuống hầm. Vì thế nên trục Ma Quỷ mới gọi là chiến dịch “Tiếng Sấm Rền” nghe cho vui tai chẳng có tiêu diệt ai cả, đây là điều lệ trò chơi gọi là ROE (Rule Of Engagement). Ðổi lại, lấy thí dụ thành phố Ðà Nẵng chẳng hạn, vào một buổi chiều nào đó khi chiếc Tàu Bệnh-viện của Ðức Helgolan bắt đầu rời bến cảng Ðà Nẵng chạy ra khơi thì y như rằng: Phi trường Ðà Nẵng bị pháo kích! Ở trong phi trường thì sáng hôm đó có máy phóng thanh cho quân đội Mỹ ở trong Main Compound biết trước vào giờ ăn sáng, thường thường họ cho biết giờ nào, bao nhiêu trái đạn sẽ rơi vào phi trường. Ðến khi trước giờ pháo kích 5 phút thì còi báo động nơi Main Compound hụ lên để nhắc nhở mấy thằng Cu Mỹ nào chẳng may ngủ sớm thì thức dậy mà chui xuống hầm, không thì toi mạng ngay.

Mục đích trò chơi nầy là để tiêu hủy các phi cơ tại chỗ vì chúng nhứt định sẽ không đem về Mỹ, nếu còn nhiều phi cơ trong việc chuyển tiếp qua Việt Nam Hóa chiến tranh phải tốn kém thêm, vì phải bổ sung quân số, tăng cường số đơn vị rất nhiều tốn kém. Cái đỉnh cao dự trù cộng sản bắc Việt pháo tiêu hủy càng nhiều càng tốt để sự chuyển tiếp các đơn vị tân lập sẽ thu gọn khi Mỹ rút về nước. [Ðiều nầy làm tôi nhớ lại, khi Việt cộng pháo vào phi trường Ðà-Nẵng, tôi phải di tản các trực thăng vào các bải đậu an toàn, xa các trực thăng đang bị cháy, thì người cố vấn, Thiếu Tá Waitt bảo tôi - 'không cần di tản', cháy chiếc nào, Không kỵ Mỹ sẽ giao cho chiếc khác ngay lập tức để đủ cấp số phi đoàn]

Những điều trên đây phải khen vợ Lính Không Quân chúng tôi, không am tường chính trị cũng như quân sự, nhưng cứ mổi buổi sáng vào lúc 8 giờ, mấy bà nghe léo nhéo tiếng Mỹ gì đó ở Main Compound, thì các bà thản nhiên đợi đến 5 giờ chiều ra bến cảng Chợ Hàn, Ðà Nẵng mà thấy chiến Tàu Bệnh viện biến dạng là các bà chạy một mạch về nhà kêu réo mấy ông chồng:

- “Tối nay Việt Cộng pháo kích, Tôi ẩm mấy đứa nhỏ ra phố trốn… còn Ông muốn chết thì cứ ở lại đây mà đợi Pháo!”

Quả thật đúng như vậy!

Tôi bay trở vào lại gặp ngay con đường đất đỏ thẳng bon trên thế đất bằng phẳng, nhưng cây to dầy dặt của một khu rừng già nguyên thủy chưa có người khai phá. Bay ôm sát bên trái con đường để Nhã và Duncan được dễ dàng xoay sở chụp hình những gì khả nghi hoặc khác lạ về hoạt động của địch. Con đường bắt đầu chui xuống thấp rồi mất dạng trong đám rừng quá dầy. Tôi không cách nào tìm ra nó, bay cao thêm một chút để tăng tầm quan sát, thêm mười phút nữa để mò tìm, nhưng hoàn toàn không thấy nó đâu mà chỉ thấy trùng trùng điệp điệp toàn rừng cây cao.

Theo chiến thuật đột kích chụp ảnh chốp nhoáng không cho phép tôi trên nguyên tắc bay ngược lại tìm nó mà vẫn tiếp tục bay. Tôi lấy qua trái 30 độ bay trong vòng 3 phút, rồi lấy qua phải 60 độ bay trong vòng 3 phút, rồi trở lại 60 độ qua trái… cứ như thế mà bay cho đến khi nào gặp con đường thì bay theo nó, tiếp tục phi vụ, nhưng tuyệt đối không được bay lên cao vòng tròn tìm kiếm con đường.

Những con mắt cú vọ lõ ra tìm kiếm, không bao lâu tất cả chúng tôi đã khám phá ra được không những một con đường mà 3, 4 con đường, giống 4 con rắn đỏ đang bò trườn song song lượn mình trên đám cỏ. Tất cả chúng đều xuôi xuống về Ðông-nam, Tôi chúi mũi xuống sạt ngọn cây, mắt nhắm vào con đường lớn nhứt vì nó gần với chướng ngại vật thiêng liêng là đám rừng già. Lúc nầy Nhã và Duncan với con mắt kinh nghiệm nên không tránh khỏi thần kinh đang giao động. Họ cũng biết rằng không còn con đường nào khác, tòn teng chắc nịt trong sợi nịt an toàn mà bấm nút.

Ðang suy nghĩ mông lung thì nghe sau đuôi tiếng AK nổ dòn tan như ran bắp. Chúng tôi nghe cũng quen rồi nên ước lượng không đáng ngại vì quá xa, vả lại Họ giựt mình nên bắn hoảng đấy thôi làm sao trúng được; Con đường trước mặt sắp sữa băng qua con suối lắp sắp nước. Nhìn kỹ con đường làm dấu bởi dây rừng song song hai bên nối qua tận bên kia bờ, để làm gì? Thỉnh thoảng mỗi đoạn còn cột một cái gì như miếng vải đỏ để làm điểm chuẩn, rải rác đều nhau qua tận bên kia bờ, dường như để làm dấu cho tài xế khi lái xe qua suối không bị xụp lổ.

Ấy chết! bên kia có chòi tranh, có anh bộ đội vừa trong chòi bước xuống nấc thang. Còn một anh nữa thì đang lom khom dưới suối; Họ không kịp ngó lên huống hồ gì mà kịp đi tìm súng để bắn. Chúng tôi lướt qua êm ái không nghe một phát súng chào mừng nào cả.

Photo


Trên Xa lộ Harriman (đường mòn HCM), chúng tôi đã bay qua hơn 100 cây số từ Vĩ tuyến 17 đến thung lũng Ashau, nơi đây SOG hành quân được thi hành một các bí mật để thám sát hoạt động mức độ thâm nhập của Hà Nội. Thung lũng nằm dọc như một bức tường thành cách bờ biển 60 cây số từ Phú Bài đổ dài lên gần Vĩ tuyến theo trục hướng Ðông-nam về Tây-bắc với chiều dài khoảng 40 cây số, song song biên giới Lào/Việt có thãm cỏ xanh bề ngang 3 cây số lau-sậy khắp nơi. Tuy rằng thung lũng bằng phẳng nhưng vô cùng nguy hiểm cho đủ loại phi cơ bay qua vùng nầy với bất cứ cao độ nào. Khi chúng tôi sẽ bay ngang đây, chúng tôi đều cảnh giác không biết bao nhiêu cặp mắt thù địch đang theo dõi và quyết tâm bắn hạ.

Dưới thềm cỏ của thung lũng nầy, hai phi trường Ma ALuối và AShau vừa phải bị hủy bỏ vì áp lực địch cũng như cùng số phận của Ba Căn Trại Ma trống vắng dật dờ dưới lớp mây Stratus phủ ngập lên đó vào những lúc tờ mờ sáng. Trong khi con đường lớn 548 được nối dài từ Lào bởi hương lộ 922. Bây giờ con đường lớn nầy được cải bổ với vận-tốc xe có thể lên đến 50 cây số một giờ là con đường chạy nhanh duy nhứt trên Xa lộ Harriman với một tốc lực đáng được khích lệ như trên.

Trên những điểm mà chúng tôi vừa bay qua vùng núi Tam-Bôi phía Tây bắc Ashau là những hang động núi đá bao la và cũng là thành trì kiên-cố chống đỡ B-52 một cách hiệu quả, như Tôi vừa mới nêu trên qua Toán Thám Sát SOG của Thượng sĩ Billy Waugh báo cáo.

10 ngày sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu, là ngày 18/2/1971, Sáu Toán thám sát SOG được thả xuống dọc theo đường 548, trên những cao điểm để quan sát đồng thời điều động phi cơ oanh kích yểm trợ cho trục tiến quân của quân lực VNCH qua cuộc hành quân Lam Sơn 719 rút lui trở lại đường tiến sát về phía biên giới Việt Nam.

Như khóa chận các đoàn quân tăng cường và tiếp liệu từ căn cứ 559 chuyển qua. Nhưng việc đó đã không xẩy ra, vì TT Thiệu không muốn quân lực VNCH vướng vào cái bẩy của trục Ma-Quỷ!

Thoạt tiên, Tướng Abrams muốn chuyển một Lữ Đoàn của Sư Đoàn 101 Nhảy Dù xuống nơi đây với bốn Tiểu Đoàn tinh nhuệ của Lữ đoàn. Nhưng giờ chót Tướng Haig cho lệnh hủy bỏ thay vì đem vào 3,000 chiến binh của Sư Đoàn 101 thì thay vào đó bởi một số ít người gồm sáu toán Thám Sát để giảm bớt sự thiệt hại. Phía phản tình báo Mỹ qua Phạm Xuân Ẩn đã cho Tướng Giáp biết trước, nên Tướng Võ Bam liền thành lập 11 đại đội đặc trách về chống Biệt kích thám sát thâm nhập với một Toán Chó Săn chuyên nghiệp tại thung lũng nầy và các Tiểu Đoàn xung kích biệt lập sẵn sàng cơ động đến nơi để tiêu diệt tức khắc Toán Thám Sát.

Nhưng thung lũng Ashau vẫn được yên tịnh vì TT Thiệu dám ra lịnh cho Tướng Lãm thả một đơn vị nhỏ của Sư Ðoàn-1 xuống Tchepone, “đái một bãi rồi về”, ngay sau khi TT Thiệu phát hiện trên phóng đồ hành quân có tên bãi đáp với danh nhân minh tinh màn bạc như LOLO, (Lolobrigida) LIZ, (Liz Taylor) SOPHIA, (Sophialorren) HOPE, (Bob-Hope) cũng như trước đó vài tháng nữ tài tử Jane Fonda ăn nói bố láo với sinh viên Ðại Học Michigan, như là một khổ nhục kế hay chiến tranh Siêu Tình Báo.

Ðứng trên phương diện chiến lược của SCP, TT Thiệu cũng thừa hiểu Hoa Kỳ muốn bẻ gãy cái xương sống của Quân Lực VNCH qua tiêu diệt các Sư Ðoàn thiện chiến nhứt của VNCH như Sư Đoàn Dù, TQLC, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, Lữ Đoàn 1 Thiết Kỵ, Liên Ðoàn BÐQ… Các Tướng lãnh Mỹ như Westmoreland rất đau buồn vì SCP muốn cho quân lực VNCH không còn những sĩ quan ưu tú trung cấp để thay thế cho cuộc chiến.

Ðây cũng nằm trong ý đồ của trục Ma Quỷ biến vùng núi phía Tây dưới quyền kiểm soát của CSBV để năm sau 1972 chuyển qua mà SCP gọi là Easter Offensive, tấn công từ vùng núi (tây) ra vùng đông dân cư, (đông) tam trùng Phạm Xuân Ẩn, điệp-viên CSBV được nhiều huy chương do sự báo cáo chính xác, nhưng lần nầy quá hấp tấp suy diển cho cuộc cưỡng chiếm Miền Nam 1972 qua cuộc Tổng Công Kích, nổi dậy quá sớm, kết quả CSBV phải hy sinh 100.000 quân cho chiến dịch Hậu-vệ (Linebacker) Làm sao điệp viên Ẩn hiểu nổi thế chiến lược 20 thù địch (1975-1995) Eurasian trong Á-châu chiến lược.

Cưỡng chiếm miền Nam 1972 thì quá sớm mà làm sao Ẩn hiểu nổi giữa chiến dịch oanh tạc Rolling Thunder và Linebacker khác nhau như thế nào?

Chúng tôi đang bay ngang một cánh rừng chồi, nằm bên trái con đường, “rừng chồi gì?” nương rẩy của lính bắc Việt đây mà! Những luống Khoai-lang lẫn lộn khoai mì nhánh lá xum xê phủ lấp lên trên ấy, thỉnh thoảng lại có vài cây bắp chêm-châm thêm trên luống, không ảnh làm sao phát hiện và giải đoán cho được! Chỉ có những chuyến bay kỳ quái trong “chiến-sử” Việt-Nam mới phát hiện được huyền thoại nầy. Giữa vườn bắp lại có hình nộm mặt đồ bộ-đội Cộng Sản. Chim rừng đói quá chúng đâu có sợ Việt cộng là gì!

Con đường đất đỏ nầy sắp sửa băng qua một con suối cạn, những hoạt cảnh khác hơn con suối trước một chút. Không có dây rừng làm dấu chuẩn, Họ lấp đá lên cao khỏi mặt nước, mà chả có chòi gác. Chúng tôi lướt qua quá nhanh trong yên tịnh, tôi nghĩ: Hồi nảy là “cầu chìm” bây giờ là “cầu nổi.” Nếu như trời mưa bão ngập nước, tài xế cứ việc chạy giữa những gút vải Ðỏ là an-toàn.

Chúng tôi bắt đầu bay vào thung lũng Aluối chạy dài tới Ashau rồi tới Atep. Thung lũng là một thãm xanh đồng cỏ, chiều ngang 2 cây số, chiều dài 40 cây số, nhưng tôi lại không dám bay giữa thung lũng dù bất cứ vận tốc hoặc bất cứ cao độ nào. Vì hai bên bìa đồi là lính bắc Việt đã thiết lập những ổ phòng không cố định chỉa về phía Ðông nơi các phi cơ thường hay xuất hiện từ hướng đó, tôi căn cứ vào địa lý cũng như quan điểm quân sự thì nổ lực phòng không của bắc Việt chỉ nhắm vào phi cơ chiến thuật oanh kích từ ngoài biển đi vào.

Photo:

Tuy không dữ dội như ở Căn Cứ Tiền phương, sào-huyệt Ðoàn 559, nhưng đây là vị thế rất bất lợi cho trực thăng vì thiếu các chướng ngại vật thiêng liêng như vách núi, đồi cây, sườn núi, rừng già, khe tránh hướng gió tránh âm thanh, không có những cụm mây Stratus thấp lè tè che khuất tầm quan sát của địch.

Nói tóm lại, hai cạnh đồi hai bên của thung lũng, lính bắc Việt chỉ có phối trí cố định súng phòng không ở bên sườn đồi phía Ðông để mở rộng tầm quan sát, làm sao đây! Chúng tôi đang bay về hướng Nam đến đỉnh núi Atep thuộc vùng Tà-Bạt, nhưng bắt buộc phải bay phía Tây của dãy đồi trọc đe dọa, làm sao để tránh tối đa trong tầm đạn phòng không, cánh cửa chính lại nằm ở bên phải mà phi vụ chính là bay chụp “không ảnh” thì làm sao?

Tôi thét lớn trong nón bay:

– “Ê Mai! Mở hai cánh cửa sổ bên trái… mau lên, tạm thời bảo Duncan và Nhả qua bên đó chụp… không thể ở bên nầy chụp… phải đổi chiến thuật vì địa hình thế đất thay đổi đột ngột”.

Phi cơ đang thoáng nhanh trên đồi trọc, bỗng thế đất tuột về hướng Tây quá gắt, không kịp phản ứng nhưng phải chúi mũi xuống thấp ôm sát sườn đồi. Gió đập mạnh phi cơ hụp xuống quá nhanh; Những cảnh hãi hùng đến kinh hoàng đang chui vào mắt chúng tôi. Có lúc bánh xe càng đáp như muốn đụng vào ổ phòng-không, những cột antène và lẫn lộn các cột bằng Tre với dây điện thoại nối dài chằng chịt trên đó. Tôi tin chắc cánh quạt đã vớt đi một vài cộc Tre cùng dây nhợ trên ấy không chừng? Ổ phòng không với hầm miệng Ếch màu đất còn đỏ tươi của đất núi đập vào ngay mắt chúng tôi, thậm chí còn thấy được anh bộ đội mặc áo thung chưa kịp nhìn lên; Hai nòng súng song song chỉa lên đen ngòm, nhưng tại sao chúng không ngụy trang bằng những sợi dây leo có lá như những chỗ khác mà chúng tôi đã bay qua? Tôi chắc rằng sẽ có những tấm hình chụp cách họng súng chưa đầy 20 thước, nhưng tiếc không có xạ thủ trên giàn súng. Rồi thì xa về phía đồi bên kia, giữa cảnh màu xanh của đồi trọc, rải rác biết bao nhiêu cái miệng Ếch màu đất đỏ đã trở nên màu bầm dập như gạch nung, nhiều đến nổi chúng tôi phải rùng mình.

Mong rằng các xạ thủ đừng nhìn thấy những người bạn không mời mà tới; tôi đoán chắc rằng gió biển thổi vào sẽ che lấp âm thanh máy nổ của chúng tôi xuôi sau hướng gió.

Bên trái, dưới thung lũng có nhiều đường mòn cũng hướng trục về Ðông-nam, màu đất của sình lầy không phải màu đất đỏ mà chúng tôi thường bay song song, nhưng lại tôi không dám bay sát gần đường mòn, vì không những hàng trăm mà hàng ngàn con mắt đang theo dõi, và sẽ bị bắn rụng ngay trên đó. “Can đãm nhưng phải có trí-tuệ” đó là câu nhựt tụng mà tôi thường đem ra dạy dỗ các phi công biệt kích; Bất chợt chúng tôi phát hiện hai chiếc xe Trâu, chiếc trước chiếc sau cách nhau vài thước vừa ló dạng sau đám rừng cỏ-lau cao hơn đầu người, làm sao biết chúng chở những gì trong đó vì đang ngụy trang đầy cành lá, đang đến cuối thung lũng Tà-Bạt. Thế đất cao dần, chỉ nhập lại thành một con đường lớn mà chiếc xe đầu đang vào. Tôi tăng tốc lực ôm sát đọt cây trở về bên trái con đường. Tôi báo cho Mai biết để thông báo cho Duncan, Nhã biết để trở lại vị thế bên cửa chính bên phải như thường lệ.

Con đường đang từ từ lên cao, Tôi sợ mất nên bám sát thật kỹ, lá rừng dầy đặt, cây cối mỗi lúc một cao dần; Con đường đất đỏ lúc ẩn lúc hiện chúng tôi càng dỏi mắt theo nó. Lại mất hút nữa rồi; Tôi bấn xúc-xích hỏi ba người ngồi dưới phụ giúp tìm nó ra giùm tôi. Tôi nghe trong nón bay, Hảo nói: “Nó bên trái nè!” Tôi nhìn qua Hảo thấy hắn chỉ ngón tay trái xuống dưới cánh cửa, quẹo gắt qua trái chụp nó ngay không nó sẽ mất. Chúng tôi đang bay lướt trên ngọn cây cách phía Tây Bạch Mả chừng khoảng chục cây số; Con đường đang hiện rõ ràng dưới ánh nắng chan chói của một vùng trống trải. Càng trống trải càng có nguy cơ bị trúng đạn, Tôi bay thật thấp như muốn đụng vào ngọn cây, với vận tốc tối đa, dĩ nhiên trên phi cơ ai ai cũng trống ngực đập thình thịch. Ở nơi đây mọc ra chi chích nhiều đường quá, có người kéo xe thùng mà Việt cộng gọi là xe cải tiến cho oai, không biết chở những gì trong đó. Tôi cố bám theo bên trái con đường lớn vì nó nằm gần rừng hơn. Nơi đây khá trống trải qua một cánh rừng chồi nên hiện rõ lộ ra song song với con đường như có ống cống nổi, chắc là ống dẩn dầu? Ồ, ở trước mặt có một làng nhà tranh to nhỏ đủ loại. Hình như trang trại hoặc nhà kho, hội trường, nhà hát chiếu phim; Ô! Họ đang chơi đấu bóng chuyền, tôi liền tăng thêm vận tốc mặc dù máy đã quay tối đa rồi. Họ ham vui nên không có chuyện gì xảy ra cho chúng tôi.


Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy. Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biển để làm gì? Sao chỗ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy!
Nơi đây toán Thám Sát Biệt Kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hỏa tiễn 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẵng, nhưng toán chỉ được lệnh chụp hình lãnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hỏa tiễn nầy thành quà tặng hãi hùng cho người dân Ðà Nẵng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai Miền, tai-họa từ đâu đến!


Chúng tôi đã qua vùng nguy hiểm, bây giờ Tôi bớt sức máy, tiếp tục ôm sát bên trái như ôm một nhân tình, chẳng lẽ suốt đoạn đường đời? Trước mặt lại xuất hiện nhiều ụ đất, cái gì nơi đó, chẳng lẽ kho đạn lộ thiên! Trên đó lại có nhiều đường cắt ngang giống như cây thánh giá bao quanh trọng điểm một nhà tranh khá lớn, trên nóc lại che một tấm ni-lông màu xanh nước biển để làm gì!? Ðể che mưa vì sợ dột, hay để làm dấu cho chúng tôi khỏi bị bay lạc; Sao chỗ nầy vắng tanh như âm phủ trên trần gian vậy! Chúng đi đến chỗ chúng tôi vừa bay qua để xem đánh bóng chuyền!? Nơi đây toán Thám Sát Biệt Kích người Thượng Yard và Mỹ đã khám phá ra vô số như là một trái núi hỏa tiễn 122 và 107 Katyusha của Liên Xô để pháo vào phi trường Ðà Nẵng, nhưng toán chỉ được lệnh chụp hình lãnh thưởng chớ không được đốt phá nổ. Trò chơi chiến tranh nầy thật vô cùng dã man! Biến những trái hỏa tiễn nầy thành quà tặng hãi hùng cho người dân Ðà Nẵng. Chỉ tội nghiệp gây biết bao thảm trạng cho người dân hai miền, tai-họa từ đâu đến!

Làm sao thế giới hiểu được đây là tấm bi thãm kịch “Eurasian Great Game” mà SCP Mỹ đã cho ra đời từ 1920 cho đến khi kết thúc cuộc chiến Việt Nam, sau 50 năm (2025) khi mà những thế hệ dính líu hai cuộc chiến tranh Việt Nam không còn nữa thì sử gia mới có đủ bằng chứng để dẫn-giải.

Lúc nầy là thời gian bức thiết nhứt, họ buộc phải kéo dài chiến tranh vì số quân Mỹ phải từ từ rút về theo đúng lịch trình để nâng đở các hảng hàng không không bị vỡ nợ và nó cũng là một quyền lợi cấp thiết nhứt cho chương trình CIP. Nhưng nuôi dưỡng đến chừng nào! bao lâu? Cũng tương đương thời gian người Pháp gây chiến; Trong khi quân đội Mỹ mở các cuộc hành quân: “Lùng và Diệt Địch” thì CIA nuôi dưỡng tìm mọi cách che chở bảo vệ địch. Và nhiệm vụ của họ cũng rất rõ rệt: Quân đội lo trau dồi học tập trận chiến, còn CIA chăm lo quyền lợi của Ðảng Công Ty WIB [War Industries Board]

Tôi đưa tay lái cho Hảo, cảm nhận nên ngồi thư giản thần kinh một lát.

– “Hảo… Anh lái đi… bay cách nào mà Duncan và Nhã chụp được tổng quát”

Theo kinh nghiệm dưới con mắt nhà nghề của Tôi, nơi nầy cũng chẳng có những gì để chụp… toàn rừng già, không có sự hoạt động của loài người, Hảo lại cẩn thận bay cao lên đôi chút, nhưng không sao. Nơi đây không có chỉ dấu một sự đe dọa nào, bỗng nhiên, một bầy chim Két xanh mỏ đỏ nghe tiếng động vọng tới, ù bốc bay lên từ những lùm cây cao rậm rạp, có tới cả trăm con. Không kịp né… vài chú đang bị cánh quạt chánh chém vào, máu me lông lá dính vào mặt kính của phòng lái; Bầy Két nầy mà xà xuống vườn Bắp thôi đừng hòng còn dính lại một hột.

- “Hảo ơi… Anh mang tội sát sanh rồi!”

Tôi thét lớn lên không ngoài mục đích để phổi tống ra những ám khí không trong lành mà nảy giờ đang ém nhẹm nơi đó, trong phòng lái qua khung cửa kính, tôi lặng yên kéo hơi thuốc lá đầu ngày, đã được dành sẳn trên túi áo nơi cánh tay, đôi mắt mơ màng ôn lại những câu thỏ thẽ của người đẹp Ni căn dặn phải làm như kinh nhựt tụng của mỗi chuyến bay. Không khác gì phi công làm “tiền-phi” đọc check list, nhưng có bao giờ tôi nhớ đâu. Như tận hưởng những giây phút thoải mái hiếm hoi nầy, tiếng cánh quạt chém gió hòa vào âm thanh động cơ đều đều xen lẩn với tiếng gió ve vuốt nơi cửa kính, thân tàu, đã giúp tôi trong khoảng khắc tạm quên bao khổ ải hiểm nghèo trong đời phi công biệt kích, cũng như những sự chú tâm rình rập của người anh em thù nghịch dưới đây. Chả trách gì có lúc thế nhân cứ thi vị hóa lối sống cũa những người như chúng tôi; Những nhà văn, nhà thơ, những nàng kiều nữ mộng mơ thường tả “mây” là những gì thơ mộng, huyền ảo, nhưng nếu là phi công biệt kích như chúng tôi: “mây” là bức tường thành bảo vệ chúng tôi che cặp mắt người xạ thủ phòng không nhưng chúng tôi cũng dựa vào mây trong những đêm về sáng để chấp nhận những yếu tố bất ngờ. Nhưng có ai hiểu cho chúng tôi đã phải hy sinh mạng sống 100% vì thời tiết, trong khi chúng tôi chưa bao giờ bị thiệt hại do súng đạn của người anh em thù địch.

Có chiếc H-34 đã chịu đựng đến 88 viên đạn AK mà vẩn lết về được nơi an-toàn và cứu sống cả một Toán thám sát. Sự thật mây đâu có phủ phàng mà là kinh hoàng cho chúng tôi! Nhưng đôi khi nó cũng cứu chúng tôi che những cặp mắt thù địch! Tuy nhiên cũng có dăm sự ganh tị nho nhỏ khá dể thương của các cánh chim bạn, sao không được tuyển vào kinh qua lẽ sống ngang dọc của phi hành đoàn Thần Phong-83!

Chúng tôi đang bay ngang bên phải là Bến-hiên, còn bên trái là Bến-Giang, xa về phía biên giới Lào Việt là tiền đồn Poste-6 chỉ cách biên giới vài cây số. Trước mặt là Aro và chệch qua trái là đồn Rô nó nằm ngay trên quốc lộ 14 do thực dân Pháp xây dựng từ khi chế độ thuộc địa được thành lập, nhằm mục đích khai thác các tài nguyên và khống chế các lực lượng nghĩa quân của phong trào Cần Vương ngày xưa. Ngày hôm nay chúng tôi đã có cơ duyên cũng như diểm phúc được bay ngang hai cái ‘nôi’ của Cách mạng Việt Nam. Cái đầu tiên ở phía Ðông Bắc ngọn núi Vôi Coroc, bên kia vĩ-tuyến 17 ngay đèo Lập-Cập, nơi mà Vua Hàm-Nghi mai phục chờ cơ hội lấy lại ngai vàng. Nơi đây cũng là địa điểm phân phối vàng và thuốc phiện từ Lào sang qua ngỏ Poste-6, Bến Giang, Thường Ðức, do những tay tứ chiến giang hồ trong giới trùm buôn lậu quốc tế.

Bây giờ, bắt đầu bay qua vùng đất đầy thử thách, đe dọa, tôi liền chụp tay lái đâm đầu mau xuống thấp theo bên trái con đường mòn ngoằn ngèo như con rắn Ðỏ-cam trườn qua đám cỏ Lau xanh.
Thế đất bắt đầu cao dần báo hiệu sắp đến vùng núi cao hiểm trở; những ngọn đồi thoai-thoai dợn sóng nằm ngang với những luống đất trồng những cây khoai mì, lá phủ xum xuê, lác đác vài cây Bắp vươn lên èo-uột không đủ cho loài Két liên-hoang vào buổi giao mùa. Ở giữa hai luống còn dặm thêm vài bụi cải bẹ xanh, đứng sừng sửng ở giữa lại một hình nộm với áo bộ đội để hù dọa bầy Két.

Kể ra thì người anh em bên kia chiến tuyến cũng có sáng kiến ngụy trang khá khéo léo vì trinh-sát cơ U-2 và RF-101 làm sao giải đoán không ảnh với hình tiệp với lá rừng nhưng duy không thể che cặp mắt soi mói của Duncan và Nhã. Nơi đây khá nhiều sinh hoạt của lính bắc Việt. Cây cầu Khỉ bắt ngang con suối nhỏ với lối mòn hiện rỏ nét biết bao sự qua lại trên đó, cỏ rạp rộng ngã qua hai bên lối mòn, bên kia Suối nhiều mái lá còn mới toanh mọc dọc theo dòng Suối với khoảng cách khá đều. Họ cũng rất tinh khôn không dám đụng đến phần đất của đồng bào Thượng. Rất dễ hiểu vì đồng bào Thượng thường ở chung với nhau trong một Sóc-Làng, nhà sàn cao hơn mặt đất chừng hai thước, nằm trên một chiều hình chữ I. Hoa màu người Thượng chỉ cần trồng một thứ như Bắp, Khoai. Họ không có trồng tạp nhạp để ngụy trang như lính bắc Việt, có nhiều trảng đất bỏ hoang vì đất hết mầu mở, nhưng họ sẽ trở lại trồng trong vài năm sau khi đất tái hấp thụ màu mở thiên nhiên, vì không có phân trồng nên họ phát rẫy, đợi bụi lá vàng khô lâu ngày, rồi lúc đó họ mới đốt để lấy phân tro-muối. Tro tàn lá mục là lớp phân duy nhứt rất cần thiết cho sự sinh tồn đối với họ.

Bắt đầu lại bay vào vùng nguy hiểm, trước mặt là cây rừng bị phá để khai hoang, hai bên đường nhà tranh mọc rải rác xen kẻ như vùng kinh tế mới, lại có xe trâu kéo, xe hủ-lô ống khói chần-dần như ống khói tàu, lại có vài chiếc xe Molotova dường như đang ngừng lại. Con đường đất đỏ bổng đổi qua màu đất sình, nhưng trở nên rộng rãi hơn, dường như đang băng qua vùng lầy lội.

– “À đây rồi...”

Bọn chúng chặt thân cây lót ngang đường nằm lúp xúp dưới lớp sình lầy và bên kia lưng chừng đồi xuất hiện nhiều chiếc Molotova đang từ từ lăn bánh. Vài chiếc đi đầu đang mất hút dưới những tàn cây rậm rạp; chúng tôi bay vèo qua nhanh quá, nên chẳng con ma nào chịu nhìn lên dung nhan tái mét của Nhã và Duncan đang tòn-teng nơi cửa bấm nút liên tục. Nếu lúc nầy chẳng may hết phim hay máy ảnh trục trặc thì thật là quá uổng, dịp may không thể có hai lần.
Trước mặt là vùng mật khu mà ngày xưa ba chiếc H-34 ngụy trang không bản số đã đáp ba đầu nguồn con Suối. Ba Toán Xung Kích (Killer Team) mưu toan bắt sống Tướng Nguyển Ðôn Tư lệnh vùng Khâm Ðức nầy; tôi không nhớ rõ vào năm nào nhưng chắc chắn là thời Ðệ-I Cộng Hòa của T. T. Diệm và Trung Tướng Trần Văn Ðôn, Bộ Tư Lệnh đóng tại Huế. “Làm sao bắt sống một cách dễ dàng Tướng Bắc Việt Nguyển Ðôn”.

Nhưng Ðại Úy Richardson, sỉ quan hành quân Delta Force bắt chúng tôi phải thi hành; Chắc cũng chỉ là thực tập như trực thăng Sikorsky CH-53 cứu tù binh Mỹ ở Sơn Tây 1970 – Tôi còn nhớ rõ, Ðại Úy Richardson bảo chúng tôi, ba chiếc cất cánh khi mặt trời chưa mọc, mỗi chiếc H-34 chở một Toán xung kích 10 người, trang bị tiểu liên xung kích của Tiệp Khắc và phóng lựu, đột kích chớp nhoáng chỉ trong vòng 5 phút ngay khi có tia nắng đầu tiên của mặt trời ló dạng, rồi rút về ngay. Khi đáp xuống sườn đồi thoai thoải nghiêng trái, tôi cũng chẳng cần vội vả cất cánh bay vòng vòng. Nhìn xuống bánh đáp càng bên phải, tôi phát hiện ra một ngôi mộ còn mới không hương khói, xung quanh trồng đủ loại hoa màu làm tôi bở ngở ngạc nhiên trong tằm mắt.
Bảy phút sau, các Toán đều trở về trực thăng, chúng tôi bay trở về hậu cứ. Chả thấy Toán nào báo cáo bắt được, Tướng Nguyễn Ðôn mà chỉ nghe Cơ-phi Vàng nói: “Chỉ tịch thu được một bộ đồ Tướng, một cái quần Jean và một mớ bao cao-su ngừa thai. “khó tin… ở trong rừng mà Tướng CSBV cũng ‘en-doi’ nữa sao?”.

Ðồn Chalang cách đây chừng hơn một cây số đường chim bay, hồi trước rừng già trùng điệp bây giờ quá quang đãng, đồn nằm ngay ngả ba con Suối nhỏ. Những khi trần mây chụp xuống thấp, phủ kín thung lũng, các vận tải cơ C-47 thả dù tiếp tế bó tay. Lại phải nhờ vào các chiếc quan sát cơ L-19 thả gạo như khu trục thả Bom, báo hại các quan sát viên nào yếu sức phải ói mửa tùm lum, vì không có cách nào để thả cho được chính xác, bằng cách chúi mủi phi cơ với gốc độ đáng kể, nhưng một bao như vậy chỉ được 8 kilô gạo để sống lay lất qua ngày chờ trời tốt lại. Xa hơn nữa là tiền đồn Dak-Prau, tiền đồn cao nhứt nằm trên chóp núi gần 4000 bộ, chệch về phía Tây nam một tí là ngọn núi cao nhứt của miền Nam Việt Nam, đó là đỉnh Ngọc Linh cao 6200 bộ. Nơi đây biết bao nhiều huyền thoại xảy ra có lúc được xem như là “Tam Giác Quỷ” của miền Nam hồi đó, không thua gì “Tam Giác Quỷ” của Ðại Tây dương, nhiều phi cơ Việt Nam và Hoa Kỳ đã rớt rải rác nơi đó như những cuộc lể tế thần nhưng không chiếc nào bị phòng không của địch hạ.

- “Hảo, Anh lái… mình về Quảng Ngãi ăn cơm… đói rồi!”.

Tôi đang lim-nhim đôi mắt trong giấc ngủ chập chờn cùng âm thanh đều đều thoảng mát.


219 longma

1. Không ảnh trên đường mòn hcm
http://hoiquanphidung.com/showthread.php?2813-Tr%E1%BB%B1c-Th%C4%83ng-bay-Low-level

.........................................................................................................


The author discusses the three Axioms in the dominant interpretation of the U.S.
■ Vietnam War that were established by the invisible permanent government right after the National Security Council meeting on September 21, 1960. They are:
    ● There was never a legitimate non-communist government in Saigon (dissolution GVN)
    ● The U.S. had no legitimate reason to be involved in Vietnamese affairs (Tonkin-Gulf-Incident)
    ● The U.S. could not have won the war under any circumstances (U.S. troops honorable withdrawal).
There are many reasons why the author decided to write this book, The New Legion. He felt compelled to write it for the longest time; after spending thirteen years in the Communists' so-called "reeducation camp." He escaped from a canal in the Mekong Delta and drifted in a rickety old boat similar to a child's toy from South Vietnam for fourteen days until he reached the nearest Pacific Island, Palawan Islands, Philippines. He knew the pain that all the people who were involved suffered yet he thought that perhaps it might be best to let it become a not-so-distant memory.

Now, he has finally decided to write the truth at last. It is the story of loyalty, duty, honor, and love.

Source: https://www.amazon.com/Vietnam-War-New-Legion-Vol/dp/1426926669