Thursday, November 30, 2023

Trước 1000 năm người Việt bị Trung Quốc cai trị



Trước 1000 năm người Việt bị Trung Quốc cai trị, người Việt Nam đã tồn tại như một quốc gia riêng biệt

Đông Sơn’s drums




Trống Đông Sơn là một nhạc cụ kỳ diệu

Trống Đông Sơn (500 TCN – 100 CN) đã được tìm thấy trên khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á, bao gồm Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Malaysia, Campuchia và Indonesia, cho thấy tộc Việt có có tham dự sinh hoạt thương mại bằng đường biển ban đầu rất xa khoảng thế kỷ thứ Nhất công nguyên.

The Đông Sơn drum is a magical musical instrument.

Bronze Age in Southeast Asia. This is because the Đông Sơn drums (500 B.C.E.–100 C.E.) have been found throughout Southeast Asia, including Laos, Thailand, Burma (Myanmar), Vietnam, Malaysia, Cambodia, and Indonesia, suggesting far ranging early trade networks and interactions.

Trống Đông Sơn (500 TCN – 100 CN) đã được tìm thấy trên khắp Đông Nam Á, bao gồm:
Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Vietnam, Malaysia/Mã Lai Á, Campuchia/Cam Bốt và Indonesia/Nam Dương.

Circulation of bronze drums



Ancient trade routes used by the Bronze Drums

Các tuyến đường thương mại của Việt tộc cổ xưa thường được sử dụng Trống đồng

------------------------

00


10


11


12


13


14


15


16


17


Trước 1000 năm cai trị của Trung Quốc, người Việt Nam đã tồn tại như một quốc gia riêng biệt và là một quốc tịch khác trong vài ngàn năm kể từ năm 2.000 trước Công nguyên.

Đông Á và Đông Nam Á đã từng có nhiều quốc gia và quốc tịch độc lập ở các tỉnh phía bắc đông Á hiện tại của nó: Những quốc gia đó là Tần, Chu, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề và Yan.

Hồi đó, lãnh thổ của Việt Nam bao gồm các tỉnh phía nam sông Trường Giang/Dương Tử hiện tại ở Đông Nam Á. Người Việt cổ đã bắc tiến và lập căn cứ địa đóng đô ở Sơn Đông, dựa lưng vào núi Thái Sơn và sông Nguồn.

Những quốc gia đó là Tần, Chu, Hán, Ngụy, Triệu, Tề và Yan/Yên cũng tương tự như châu Âu với nhiều quốc gia và quốc tịch khác nhau và ranh giới, đã thay đổi theo thời gian khi một quốc gia trong khu vực xâm chiếm các quốc gia khác, giống như ranh giới của các nước châu Âu thay đổi theo thời gian, họ có thể là liên minh du mục của một lãnh tụ nào đó, hay bản xứ, hay chư hầu của một liên minh nước nông nghiệp nào đó, với ngôn ngữ, tiếng nói, phong tục khác nhau chứ họ không phải là người Hán nguyên thủy. Sau này Đại Tần thâu tóm hết những nước này, thì người Chinese Hán Chinhận vơ tất cả đều là Hán.

Năm 221 TCN Tần chinh phục Chu, Hán, Ngụy, Triệu, Tề và Yan/Yên và tạo ra China. Nó tương tự như đức quốc xã chiếm đóng châu Âu trong Thế chiến II. Hãy tưởng tượng nếu Đức Quốc xã đã giành chiến thắng trong Thế chiến II và gọi châu Âu là một quốc gia mới "EuroNazi" với lịch sử của nó bắt đầu từ thời điểm đó cũng như Đại Tần chiếm cứ các nước chung quanh đó thì bắt đẩu thời điểm thâu tóm sáu nước đó, nó mới trở thành nước Đại Tần, nước China, nước Tàu, chứ không phải trước đó nó là nước Tàu, sau khi Tần thâu tóm sáu nước, nó cũng là nước Tàu.

Thế nhưng, lịch sử của các nước châu Âu khác như Pháp và Tây Ban Nha vẫn còn tồn tại trước khi Đức Quốc xã chiếm đóng chúng. Đây là lý do tại sao lịch sử của Trung Quốc là gian lận, nơi họ sử dụng khoảng thời gian chiếm đóng các quốc gia khác như thể các quốc gia đó không tồn tại trước đó, khi bị Trung quốc chiếm đóng, trong khi thực tế thì các quốc gia đó đã hiện hữu, có riêng từ lãnh thổ, phong tục, tiếng nói, chữ viết tuy còn đơn sơ (sau đó bị nhà Tần đốt sạch).

Vì vậy, Việt Nam đã tồn tại trước khi Trung Quốc chinh phục các nước khác và trở thành quốc gia lớn hơn.

Chiến thuật của Trung Quốc cố gắng chiếm lại các quốc gia khác cho dù họ là Việt Nam, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v... là Trung Quốc chỉ đề cập đến thời kỳ chiếm đóng của các quốc gia khác trong lịch sử của mình và bỏ qua hàng ngàn năm mà các quốc gia đó đã tồn tại như các quốc gia độc lập và là các quốc tịch khác nhau * trước khi chiếm đóng.

Việt Nam sau đó bị Trung Quốc cai trị



Trong suốt 1.000 năm đó với nhiều cuộc nổi dậy không ngừng, như:

1. Cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng/ Trung sisters Rebellion(Han - Linnan War) 42 – 43 B.C.

2. Cuộc nổi dậy của Bà Triệu/Trieu rebelled against Đông Ngô( 東吳) 248 - 265 B.C.

Cuộc nổi dậy của Chu Đạt quận Nhật Nam.

3. Cuộc nổi dậy của Lý Bôn, Lý Bí/The war between Van Xuan (VietNam) and Luong (China) 541 - 602 B.C.

4. Cuộc nổi dậy của Triệu Việt Vương/The war between Van Xuan (VietNam) and Luong has been replaced by Tuy dynasty(China) 602 B.C.

5. Cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan/The war between Mai Thuc Loan (VietNam) against Đường 713 – 722 B.C.

6. Cuộc nổi dậy của Phùng Hưng/The war between Phung Hung against Đường 941 - 945 B.C.

7. Cuộc phản công của Khúc Thừa Dụ/ Khuc Thua Du claimed the independence at 905 - 907.

8. Cuộc phản công của Ngô Quyền/Ngo dynasty defeated South Han dynasty at 938 B.C.

9 Cuộc nổi dậy của Đại Cồ Việt/ Dai Co Viet dynasty defeated Song army at 981 B.C.

1st century

Year Date Event
2 Census records for Jiaozhi/Giao Chỉ, JiuzhenCửu Chân, and Rinan/Nhật Nam record 143,643 households and a population of 981,755[6]
40 Trung sisters' rebellion: Yue tribes rebel in Jiaozhi[7]
42 Trung sisters' rebellion: Ma Yuan leads an expedition to Jiaozhi[8]
43 Trung sisters' rebellion: The Trưng Sisters are decapitated[7]

2nd century

Year Date Event
100 A rebellion in Jiaozhi is put down[9]
136 People known as the Qulian from beyond the southern frontier attack Rinan Commandery, causing turmoil and confusion[10]
137 Rinan rebels[9] Nhật Nam (chữ Hán: 日南) là một địa danh cũ ở Việt Nam thời Bắc thuộc.
144 Rinan rebels[9] Rinan (Chinese: 日南; pinyin: Rìnán; Vietnamese: Nhật Nam), also rendered as Jih-nan, was the southernmost commandery of the Chinese Han dynasty. It was located in the central area of modern-day Vietnam between Quảng Bình and Bình Định provinces.
157 Chu Đạt rebels in Jiuzhen Commandery and is defeated[11]
Chu Đạt (chữ Hán: 朱達; 91 - 160) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa tại Cửu Chân chống ách thống trị nhà Đông Hán. Ông là người ở Cư Phong (nay là Thiệu Hóa, Thanh Hóa).
Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhà Hán tăng cường áp bức bóc lột người Việt.
Năm 157, Chu Đạt đứng lên kêu gọi toàn dân nổi dậy giết viên huyện lệnh Cư Phong. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, ông cho đánh huyện Cửu Chân và giết thái thú Nghê Thức, giải phóng huyện Cửu Chân.
Triều đình nhà Hán cho quân từ Giao Chỉ vào đàn áp. Ông lui quân về Nhật Nam (nay là vùng Bình Trị Thiên). Tại đây nghĩa quân tiếp tục lớn mạnh do được sự ủng hộ của nhân dân. Nhà Hán cử thứ sử Hạ Phương sang đàn áp.
Năm 160 nghĩa quân hoàn toàn thất bại, ông bị chết.
160 Shi Ci becomes administrator of Rinan[9]
190 Shi Ci's son Shi Xie appoints his brothers Shi Yi, Shi Wei, and Shi Wu as administrators of Hepu, Jiuzhen, and Nanhai[12]
192 The southernmost district of Rinan Commandery, Xianglin, breaks away and becomes the Kingdom of Lâm Ấp, otherwise known as Champa[13]


3rd century>[edit]

Year Date Event
211 Shi Xie submits to Sun Quan's overlordship[12]
217 Shi Xie sends his son Shi Xin to Sun Quan as hostage[12]
226 Shi Xie dies and Sun Quan's general Lü Dai kills his family;[12] Shi Xie, also called Sĩ Nhiếp in Vietnamese, is remembered today in Vietnam as the father of education and Buddhism - according to Stephen O'Harrow, he was essentially "the first Vietnamese"[14]
248 Lâm Ấp (probably Champa) seizes Rinan while Lady Triệu rebels unsuccessfully against Sun Wu[14]

4th century>[edit]

Year Date Event
347 Lâm Ấp invades Jiaozhi but is repulsed by the Jin dynasty (266–420)[15]
359 Lâm Ấp is defeated[15]
377 Li Xun seizes Jiuzhen[15]
380 Teng Dunzhi becomes governor of Jiaozhi after Du Yuan kills Li Xun[15]
399 Du Yuan becomes governor of Jiaozhi and defeats a Lâm Ấp invasion[15]

5th century [edit]

Year Date Event
405 Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16]
410 Du Yuan dies and is succeeded by Du Huidu[15]
411 A rebel army under Lu Xun attempts to seize control over Jiaozhi but fails[17]
413 Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16]
415 Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16]
423 Du Huidu dies and is succeeded by Du Hongwen[15]
424 Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16]
427 Du Hongwen leaves Jiaozhi for the court after receiving an appointment[15]
443 Tan Hezhi, governor of Jiaozhi, starts recruiting an army[18]
446 Tan Hezhi invades Lâm Ấp and pushes them back to the area around modern Da Nang[18]
468 Two brothers Lý Trường Nhân and Lý Thúc Hiến rebel against the Liu Song dynasty, emperor Emperor Ming of Song de jure recognizes Lý Trường Nhân as Thứ sử (province governor, cishi)[19]
485 Lý Thúc Hiến surrenders to Qi Dynasty[20]

6th century [edit]

Year Date Event
541 Lý Bôn (503–548) rebels and attacks Liang officials[21]
544 February Lý Bôn establishes the Early Lý dynasty (Kingdom of Vạn Xuân) and becomes Lý Nam Đế (Southern Emperor)[22]
545 Chen Baxian drives Lý Nam Đế into the mountains, where he is eventually killed, but resistance continues under Lý Thiên Bảo[22]

7th century []

Year Date Event
602 Sui–Former Lý War: Sui forces under Liu Fang annex the kingdom of Vạn Xuân[23]
618 Transition from Sui to Tang: Sui military leaders in Jiaozhou follow Xiao Xian fight against the new Tang Empire[24]
622 Transition from Sui to Tang: Li Yuan and his forces defeat Xiao Xian, then arrive Tống Bình (Hanoi). Jiaozhou governor Khâu Hòa (552–637) surrenders to Tang dynasty. Jiaozhou is incorporated into Tang Empire[25]
679 Jiaozhi is renamed Annan (An Nam)[26]
687 Lý Tự Tiên and Đinh Kiến revolt at Đại La in response to a raise in harvest tax[27]
691 I-ching's book Commentary about Monks of the Great Tang mentions 6 Vietnamese Buddhist monks who traveled to India

8th century [edit]

Year Date Event
722 Mai Thúc Loan rebels in Annan and is defeated[28]
767 Srivijaya fleets invade Annan and are defeated[28]
785 Phùng Hưng rebels in Annan[29]
791 Tang regains control of Annan[29]

9th century [edit]

Year Date Event
803 Champa seizes southern Annan[30]
846 Nanzhao raids Annan[30]
858 Rebellion breaks out in Annan and is put down[31]
861 Nanzhao attacks Bo Prefecture and Annan but is repulsed.[32]
863 Nanzhao conquers Annan[33]
866 Gao Pian retakes Annan from Nanzhao and establishes the Jinghai Army (Military Command)[33]
874 Tang dynasty launches a campaign against aboriginal forces[34]
877 Troops deployed from Annan rebel in Guangxi[34]
879 Campaign against aboriginal forces ends[34]
880 A Tang garrison at Đại La mutinies, forcing Zeng Gun to withdraw troops from the south and relinquish control over Annan; ending de facto Chinese control over Vietnam[35]

10th century

Year Date Event
904 Zhu Wen's brother Quanyu tries to enter Annan but is immediately dismissed the next year for being "stupid and without ability"[36]
906 Khúc Thừa Dụ of the Khúc clan takes control of Annan and establishes tributary relations with Later Liang[35]
938 Battle of Bạch Đằng River: Ngô Quyền defeated the Southern Han kingdom at the Battle of Bạch Đằng River north of modern Haiphong and ended 1,000 years of Chinese domination dating back to 111 BC under the Han dynasty, founding the Ngô dynasty.
979 Emperor Đinh Bộ Lĩnh of Đại Cồ Việt was assassinated along with his crown prince Đinh Liễn by a minor palace official. His surviving son, the young Đinh Phế Đế, succeeded him under the regency of the commander-in-chief Lê Hoàn.
Lê Hoàn declared himself viceroy of Đại Cồ Việt with the support of the empress dowager Dương Vân Nga.
The nobles Nguyễn Bặc and Đinh Điền attacked the Đại Cồ Việt capital Hoa Lư in response to Lê Hoàn's apparent usurpation.
Nguyễn Bặc and Đinh Điền were executed.
981 Lê Hoàn declared himself emperor at Hoa Lư.
Battle of Bạch Đằng (981): Đại Cồ Việt forces defeated a Song invasion near Lạng Sơn, forcing the Song fleet on the Bạch Đằng River to withdraw.[37]
Nam quốc sơn hà, a poem celebrating the sovereignty of Đại Cồ Việt over its territory, was written.
982 Đại Cồ Việt forces sacked the Champa capital Indrapura.[37]

11th century

Year Date Event
1005 Lê Hoàn died.
1009 The imperial court acclaimed Lý Thái Tổ emperor of Đại Cồ Việt.
1010 Autumn Lý Thái Tổ issued the chiếu dời đô, an edict ordering the transfer of the capital from Hoa Lư to Đại La.
1028 Lý Thái Tổ's son Lý Thái Tông became emperor of Đại Cồ Việt.
1038 The Nùng warlord Nùng Tồn Phúc launched a failed rebellion against Lý Thái Tông.
1054 Lý Thái Tông died. He was succeeded by his son Lý Thánh Tông.
1070 The Temple of Literature, Hanoi, a Confucian temple, was constructed.
1072 January Lý Thánh Tông died. He was succeeded as emperor by his young son Lý Nhân Tông, with the latter's mother Ỷ Lan and the chancellor Lý Đạo Thành acting as regents.
1075 Minor officials were chosen by examination for the first time.[37]
Autumn Lý–Song War: Đại Cồ Việt invaded Song in response to a trade blockade.


Gallery[edit]

 

Mỗi cuộc nổi dậy là một sức mạnh đẩy lùi người Tàu về nước của họ và chấm dứt sự đô hộ người Việt Nam.

Each rebellion pushed back Chinese troops to its land and ruled VietNam in a period of time.

Và cuối cùng Việt Nam đã khôi phục lại nền độc lập như ban đầu thời Hồng Bàng.

Sự thật thì người Tàu chưa thật sự thống trị người Việt trong thời gian 1000 năm đó vì luôn có những cuộc nổi dậy diễn ra liên tục trong thời gian đó, có nghĩa là sự đồng hóa, dùng ngôn ngữ người Hán áp đặt với Việt cổ thiếu liên tục, đứt quảng theo cuộc nổi dậy, có chăng người Tàu thâu thuế thôi, làng xã vẫn sống như một khu tự trị vã lại, lúc đó người Việt còn theo chế độ mẫu hệ, nên phong tục, tên tuổi vẫn là người Giao Chỉ. Người Tàu đã than vãn rằng nơi quận Giao Chỉ người dân cứng đầu, hung tợn, luôn có cuộc xung đột với thái Thú địa phương. Sĩ Nhíp là thái thú hiểu biết nhất, phải xử sự mền dẻo vì đường từ Trung Nguyên tới Giao Chỉ quá xa, không mỗi chút là kêu đến trung ương đem lính tráng tới, có khi thái thú bị mất mạng chờ lính tráng đem về Trung Nguyên chôn. Trong thời gian này quân Hán còn phải đối phó liên với giặc Hung Nô phía bắc, Giặc Khăn Vàng, giặc bà Lữ Hậu tung tác, nước luôn có chiến tranh.

The real thing is China did not rule VietNam continuously over all 1,000 years, because Vietnamese make a rebel constanly.

Nên hỏi tại sao nước Việt Nam nhỏ thế mà không chịu khuất phục, không ngừng đứng lên đòi chủ quyền.

It’s better to ask why VietNam is small country but it does not stop to stand and fight to claim its independence?

Hãy hỏi: Tại sao nước Tàu lại hãnh diện họ là một nước to lớn đến thế mà để cho Mông Cổ, bộ tộc Mãn Châu, và nhà Tống cai trị họ trong nhiều năm đến nổi người Tàu đã bị biến dạng ngôn ngữ, chữ viết và trang phục, họ phải dùng áo Sườn Sám của người Mãn, tiếng nói của người phương Bắc [Bắc Kinh] (mixing up language of Turk, Mongol and Manchurian) và kiểu chữ do người Mãn Châu tái tạo được 100 năm. Vì thế người Tàu bây giờ không đọc được chữ Hán thời trung cổ, và chữ Hán thời thượng cổ. Họ mất tiếng nói, mất văn hóa trên chính quê hương của họ, vì bị nhiều lần ngoại bang chinh phục liên tục và nưũng cuộc chinh phục đó quá lâu, người Tàu phải gọi chữ viết do vua Mãn cải biến là chữ Hán, áo sườn sám do Mãn cũng được gọi là quần áo cổ truyền người Hán, ngay cả tiếng nói cũng là tiếng của tộc du mục phương bắc chính phục họ, tiếng nói bị trộn lẫn như một nồi lẩu tạp ngôn ngữ.

Người Hán đã phải dùng của ngoại bang làm của mình, ngay cả kinh đô Bắc Kinh cũng là do tộc Mông Cổ lập ra mà có.
Rồi đến cũng nhờ Nga và vũ khí Nga mà cộng sản Tàu mới có được chỗ đứng và vững thành khối. Tàu có dám buông Nga ra đứng một mình không?
"cộng sản khối đông Á Trung Nguyên da vàng" dung giăng với khối "cộng sản khối Bắc Á Trung Nguyên da trắng" được "cộng sản khối Đông Á da vàng vùng Nam Trung Nguyên" Quảng Đông, Phúc Kiến" moi tiền Tây Phương nuôi béo cả nước Tàu cộng.

Nay Tàu lại đánh cắp kỹ thuật của Tây Phương, làm nhái làm giả. Nho giáo là cái ruột của người Hán, mà nho giáo nó đã biến mất từ lâu, văn hóa người Hán chỉ toàn ruột rỗng và toàn đồ giả, đồ nhái, ngôn ngữ thì mạnh tiếng thiểu số dân tộc đó nói, ảo tưởng người Hán là "con trời", cái rốn vũ trụ, cũng làm người ta phì cười, trò trẻ con!

Rather ask: Why does China is proud they have big country and they let the Mongol, even small barbaric tribes like ManChu, Dalian ruled China for many hundreds of year?

Tộc người “Việt cổ” ở Indonesia

Các sắx tộc người Batak Toba, Toraja, Minang Kabau, Dayak... là hậu duệ của người Việt cổ di cư đến Indonesia từ hàng nghìn năm trước.

1


2


3


4


5


6


7


8


9


10


Người Dayak có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ thời Hùng Vương như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực, xăm mình...

Một số nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Việt Nam và Indonesia cùng cho rằng tộc người Minangkabau thuộc cao nguyên Minangkabau, tỉnh Tây Sumatra, Indonesia, có nguồn gốc từ người Việt cổ. Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.


------------------------

Kiếm Câu Tiễn


Lịch sử khám phá

Phần chữ cổ: "越王自作" - "Việt vương tự tác".

Năm 1965 trong một cuộc khai quật khảo cổ tiến hành tại công trường xây dựng công dẫn nước thứ hai cho hồ chứa nước sông ChươngKinh Châu, Hồ Bắc, người ta đã phát hiện ra ở Giang Lăng trên năm mươi ngôi mộ cổ có niên đại thời nước Sở. Kéo dài từ giữa tháng 10 năm 1965 tới tháng 1 năm 1966, cuộc khảo cổ đã thu được trên 2000 đồ tạo tác trong đó đáng chú ý nhất là một thanh kiếm bằng đồng. Thanh kiếm này được tìm thấy vào tháng 12 năm 1965 tại một ngôi mộ cách Dĩnh Nam, kinh đô cũ của nước Sở, khoảng 7 km, nó được đặt trong bao kiếm bằng gỗ sơn mài cạnh một bộ xương người. Sau khi rút kiếm ra khỏi bao, người ta thấy rằng thanh kiếm này gần như vẫn còn sắc bén và sáng bóng bất chấp việc nó nằm trong một ngôi mộ ngập bởi nước ngầm đã trên 2000 năm.[1] Khi thử nghiệm độ sắc bén của thanh kiếm, các nhà khảo cổ thấy rằng nó vẫn dễ dàng cắt đứt một chồng chừng hai chục tờ giấy.

Trên một mặt của lưỡi kiếm, người ta tìm thấy hai dòng chữ cổ. Tổng cộng có 8 chữ được viết theo lối "điểu trùng văn" ("鸟虫文") là thứ chữ chuyên dùng để khắc triện thư và rất khó đọc. Ban đầu người ta đã giải mã được 6 chữ là "越王" ("Việt vương" - "Vua nước Việt") và "自作用剑" ("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng"). Hai chữ còn lại được cho là tên của một trong các vua nước Việt, sau trên hai tháng tranh luận gay gắt với sự tham gia của nhiều học giả danh tiếng như Quách Mạt Nhược, người ta đã đi tới kết luận rằng đây chính là tên của Câu Tiễn (496 TCN - 465 TCN), vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử 200 năm của nước Việt. Và như vậy, 8 chữ được khắc trên lưỡi kiếm là "越王勾践 自作用劍" ("Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm").

Mô tả[

Kiếm Câu Tiễn có chiều dài 55,6 cm trong đó phần cán kiếm dài 10 cm, lưỡi kiếm rộng 5 cm có họa tiết là các hình thoi lặp lại trên cả hai mặt. Cuộc phân tích về thành phần của kiếm do Đại học Phục ĐánViện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc thực hiện đã cho kết quả như sau:

Phần phân tích Đồng Thiếc Chì Sắt Lưu huỳnh Asen
Lưỡi kiếm 80,3 18,8 0,4 0,4 - có dấu vết
Mẫu vàng 83,1 15,2 0,8 0,8 - có dấu vết
Mẫu tối 73,9 22,8 1,4 1,8 có dấu vết có dấu vết
Mẫu tối nhất 68,2 29,1 0,9 1,2 0,5 có dấu vết
Cạnh kiếm 57,3 29,6 8,7 3,4 0,9 có dấu vết
Mũi kiếm 41,5 42,6 6,1 3,7 5,9 có dấu vết

Như vậy phần thân của lưỡi kiếm có thành phần chinh là đồng để kiếm có độ mềm dẻo và không bị phá hủy, phần cạnh kiếm có tỉ lệ thiếc cao hơn để bảo đảm độ sắc và cứng, thành phần lưu huỳnh giúp kiếm giữ được độ sáng bóng. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng cho rằng việc thanh kiếm có một bao kiếm tốt, gần như kín khí đã giúp nó giữ được trạng thái bảo quản bền.



Chữ nòng nọc hay chữ Trùng điểu (bird-worm script) của Việt tộc là đời ông cố của chữ Hán.

==============================

Kinh Dương Vương





Kinh Dương Vương


Nước xích Quỷ




Kinh Dương Vương



涇陽王 ---#cbe
Leader of Xích Quỷ ---#e4dcf6
PredecessorĐế Minh
SuccessorHồng Bàng Dynasty started
Hồng Bàng Thị
PredecessorFounder of Hồng Bàng Thị
Successor Lạc Long Quân
BornHunan, Center Plain of North East Asia
DiedThuận Thành, Bắc Ninh Province
Spouse Thần Long
IssueSùng Lãm
Names
Lộc Tục (祿續)
HouseHồng Bàng
FatherĐế Minh
Mother Vụ Tiên Nữ's daughter

Kinh Dương Vương (Hán tự: 涇陽王; "King of Kinh Dương") is an ancient history time ancient Vietnamese figure, mentioned in the 15th-century work Đại Việt sử ký toàn thư by having unified all the tribes within his territory into one state, and as the founder of the Hồng Bàng dynasty. He is considered the first sovereign of the Vietnamese people, and was the father of Lạc Long Quân.[1].[]

Kinh Dương Vương's personal name was Lộc Tục (: 祿續). According to the Đại Việt sử ký toàn thư, he ruled over Xích Quỷ (赤鬼, later renamed Văn Lang) starting in 2879 BC. Kinh Dương Vương's father was Đế Minh (帝明, "Emperor Minh" in Vietnamese prehistory, was the descendant of Thần Nông.[2] His mother was Vụ Tiên Nữ (婺僊女, lit. "Beautiful Immortal Lady, Beautiful Goddess"). Kinh Dương Vương married Thần Long, who was the daughter of Động Đình Quân (Lord of Dongting) and mother of Kinh Dương Vương's successor Lạc Long Quân.[1]

Today Kinh Dương Vương with other history's figures such as Thánh Gióng, Âu Cơ, Sơn Tinh and Thủy Tinh, in elementary school texts.[3] A popular shrine, and presumed tomb of Kinh Dương Vương, is located in the village of An Lữ, Thuận Thành District, Bắc Ninh Province .

pre-history of Viet]

According to Đại Việt sử ký toàn thư, Kinh Dương Vương son of Đế Minh, the great-great-grandson of the Shennong, went on a tour of inspection south of the Nanling Mountains, settled down and married a certain Beautiful Immortal Lady (鶩僊女 Vụ Tiên Nữ), who then gave birth to an intelligent son named Lộc Tục (祿續).

After Emperor Minh passed the throne to his eldest son, Emperor Ly (釐) to be king of the North state of Xích Thần, and Lộc Tục was appointed to be king of the South, his title Kinh Dương Vương (涇陽王). Kinh Duong Vuong was king and ruled from about 2879 BC onwards.[4] The territory of the country under Kinh Dương Vương was claimed to be large, reaching Dongting Lake in the north, the Husunxing (胡猻精; SV: Hồ Tôn Tinh) country (i.e. Champa) in the south, the East Sea (東海, part of the Pacific Ocean) in the east and Ba Shu (巴蜀; now in today Sichuan, China) in the west. Lĩnh Nam chích quái recorded the legend that the king vigorously expelled a murderous god named Xương Cuồng.

He married the daughter of the King of Động Đình (洞庭) Lake, named Thần Long (神龍 "Divine Dragon"), who gave birth to a son named Sùng Lãm (崇纜). Sùng Lãm would later succeed Kinh Dương Vương as ruler, titled Dragon Lord of Lạc (貉龍君; SV: Lạc Long Quân).

Worship[

Worship of Kinh Dương Vương in Vietnam is not as popular as worship of Shennong, the deity who is Hùng Vương's ancestor and a very respected one in Vietnam's agricultural beliefs; Đàn Xã Tắc (壇社稷) was established annually by dynasties to worship.

Thượng Lãng communal house in Minh Hòa commune, Hưng Hà district, Thái Bình province is the oldest relic worshiping Kinh Dương Vương; Legend has it since the Đinh dynasty.

The Kinh Dương Vương Mausoleum and Temple (locally called Lăng và Đền thờ) in Bắc Ninh have long been classified by the Vietnamese feudal dynasties as shrines to worship the emperors, each time the National Ceremony will bring to the army to worship and worship people solemnly.

Now we're examining what was written in the Outer Annals: The year of Nhâm Tuất [the sexagenary cycle's 59th year]? When had been the beginning year of Giáp Tí [the same cycle's 1st year]? [The authors] recorded the taboo names of King of Kinh Dương and Dragon Lord of Lạc, why omitted [those of] Hùng kings? Before the Five Emperors' time, [rulers] had not been called kings [王; standard as king: wáng; SV: vương]

► Xích Thần is a name of state in North (now called Sơn Đông city and Mount. Thái).

► Xích Quỷ a state in South (now called Lĩnh Nam ranges area).

Vu, Hong Lien (2016). Rice and Baguette: A History of Food in Vietnam. ISBN 9781780237046.



Kinh Dương Vương



Con Rồng Cháu Tiên
https://www.youtube.com/embed/2ItOY0q8gtU?si=tpz-Px2cbwS9MjiK



https://www.youtube.com/embed/1W5agiFpz1I?si=qH-67uV2FLB44pSh


HÀO KHÍ VIỆT NAM
https://youtu.be/zVckKs13Qts?si=zLVtB2gCfAwOwqKT


Trống Hội Nam Vương
https://youtu.be/dsrodDHML_w?si=HbghYKmEhtKEDZv-


trống Hội Thăng Long
(Nội Duệ-Tiên Du-Bắc Ninh)
https://youtu.be/HUR5kfTbt5w?si=IY1WcltZrXKcoOlX


Trống Hội Việt Tộc


TRỐNG HỘI Bách Việt - Lân Sư Rồng Liên Hữu.
https://youtu.be/heCkNVRaFik?si=iBPDHI-EihTVj9eg


Tiếng Trống Chào Cờ
- Đoàn Trống La San https://youtu.be/0FaeLgR5piI?si=FfDR6rbs3-89wl5Z


Trống Trận Mê Linh
Trống Hội Mê Linh
https://youtu.be/XhGGZq8qhsk?si=9xEJfpkfBCgPFqGJ


Saturday, November 25, 2023

Đà Lạt Mến Thương


Hình: Sinh Viên sĩ quan Võ Bị Quốc Gia - Đà Lạt (chụp năm? Ai biết xin thông báo vì rừng thông Đà Lạt đã bị chặt đốn, phá nát và đất đã xây bê tông hóa thành những ngôi nhà, đô thị, không còn cảnh quan thơ mộng núi non hùng vĩ, rừng cây bạt ngàn nữa. 100 năm nữa người Tàu chiếm đất cao nguyên trung phần này, sẽ ghi là: Đây là hình thanh niên sĩ quan Tàu ở Tây Nguyên)


Đà Lạt bị bê tông hóa -- vùng thông xanh đồi núi bạt ngàn
https://youtu.be/ufFno543nxg?si=ZySv_I9-ZJDvcYnL




Ai đã phá nát Đà Lạt?
https://www.youtube.com/embed/IicG4HZb0Ks


Mở quạt khi đang ở Đà Lạt
https://www.youtube.com/embed/ohOWLGJzKt8


Phá rừng dẫn đến sạt lở ở Bảo Lộc và Đà Lạt?
https://www.youtube.com/embed/Vmh6C4zPL_A


Hy sinh môi trường để phát triển, bài học Đà Lạt
https://www.youtube.com/embed/aS5JV2EUJGw


Đà Lạt như một bong bóng tài chính
https://www.youtube.com/embed/50xAWSHO34U


Hơn 5 Mẫu Rừng Thông Sắp Bị Đốn Hạ Ở Rừng Tuyền Lâm, Đà Lạt
https://youtu.be/twOmnn5-Pi4




Novaland làm siêu dự án/dự án lớn 10 tỷ USD ở Lâm Đồng
https://www.youtube.com/embed/_WVnvV8Bx74


Ai đã phá nát Đà Lạt?
https://www.youtube.com/embed/IicG4HZb0Ks


Tiếc nuối Đà Lạt, để phá nát một thành phố
https://youtu.be/QvMEJubSMbk?si=d4LSkd7TFURt1Ak-


XỨ SỞ NGÀN HOA "ĐANG CHẾT"!!!
https://youtu.be/cEfKE4QMQMc?si=xOU2QfW_A1VEjRtY


Thursday, November 23, 2023

Làm sao để chôn hai chế độ

 

Làm sao để chôn hai chế độ
- Trần Thiện Phi Hùng

https://youtu.be/fYoxO0MKReI?si=KvKmmTKyhPpUP9wa


Hộ Tống Hạm Ngọc Hồi HQ-12 (Hắt-ku mười hai)


 



Làm sau để chôn hai chế độ

Tác giả: Trần Thiện Phi Hùng

Làm sau để chôn hai chế độ? Là câu hỏi đươc trả lời trong bài viết mới nhất của tác giả, 40 năm sau khi một chế độ đã bị chôn. Trần Thiện Phi Hùng là tác giả có tên trong danh sách nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Thư kèm bài, ông viết “Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. 35 năm chưa về lại Việt Nam. Không biết, không hiểu, nên không dùng được từ ngữ mới sau 75. Hơn nửa thế kỷ mới viết lại, nên sai nhiều chính tả mong ban biên tập sửa cho. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi. Phi Hùng.

* * *

"Tượng nào cao bằng tượng Trần Hưng Đạo Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".

Tôi sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên!

Xứ VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có bốn vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng năm Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn.

Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới hôn nhân. Đời lính biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xác suất nuôi con của thiên hạ rất cao.

Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.

*

Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, hai ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông úy.

Ông bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu bốn tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải cá nhân.


Làm lính chưa đầy sáu năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.

Dù làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi năm ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.

Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi đã chọn đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.

Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building bốn tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"

Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.

Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.

Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.

Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.

Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.

Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời vung vít.

Trong trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.

Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hâm he:

— Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.

Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:

— Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.

Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.

— Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?

À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.

Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung Úy còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý. Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:

- Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!

Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.

Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung úy chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo:
“Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau."
Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi. Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:

— Anh vô đi.

Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.

— Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.

Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:

- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.

A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung úy gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?

— Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?

Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:

— Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.

Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:

- Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.

À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:

— Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?

— Cô... Cán bộ. Cô...

Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:

— Trong trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...

— Năm Căn Cà Mau?

— Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...

...

À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.

Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:

"Các cô có biết bốn dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ 'Sinh Nam Tử Bắc' hay 'Sinh Nam Tử Nam' thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”

Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:

- “Anh nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?

Thấy giọngcô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:

— A... A... Cô có thể cười cho tôi coi không?

— Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.

Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.

— Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.

— Ở đó mà cô bé, cô bé....

Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.

Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.

— Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.

Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:

— Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.

— Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo. Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu của anh đã đi rồi.

— Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.

— Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp lại anh...

Tôi nói:

— Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm.

— Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi đã xóa bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết hay để thẹo gì cả.

Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:

- Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh. Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?

— Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.

— Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người anh thương của anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.

Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin. Tôi nói:

— Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.

— Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.

Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ người cô nào về nhà ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:

— Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽsẽ có ngày liên lụy. Xin cô tha cho tôi.

Cô ta cười to và nói:

— Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được rồi.

Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:

— Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.

Tôi nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.

Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút. Mọi lời lẽ tù nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất? Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số phận.

Tháng Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.

Bất ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có tên chỉ còn anh chỉ còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu úy dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn cuộc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:

— Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?

— Đi tới nơi làm lệnh tha.

— Tha về hả cán bộ?

— Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?

Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?

Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.

Cừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:

— Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại. Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại viên cũ.

Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.

Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:

— Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.

Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.

Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.

Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.

Tôi nói với Má:

— Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!

Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.

*

Là ngườu tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.

Sau khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.

Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi ba hay bốn ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí bí thư trên 12 tuổi đảng.

Cũng có lần cô ta biết tăm luôn ba tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:

— Em sáng mắt ra chưa?

Cô ta lườm và nói:

— Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!

Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:

— Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy và trả lời em.

Tôi cho mẹ biết là -- bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp nơi hải ngoại như bao trường hợp giao liên nằm vùng khác. Có người làm tài xế, hay người giúp việc nhà trung thành tận tâm cả chục năm, nhưng sau Tháng Tư Đen thì mới lòi mặt thật.

Mẹ tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi thì nghĩ không hẳn thế. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.

Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:

— Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.

— Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.

Tôi hỏi cô ta có an toàn không.

— Anh có cần có tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.

Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy cung không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.

Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:

— Anh lái được chứ?

— Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.

Tôi lái suốt năm ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.

Trên bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng va thành vợ chồng thật.

Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông còn ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi! Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết và gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở Việt Nam. Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở Việt Nam!. Tôi từ chối viếtsổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.

Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:

— Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về giành lại Việt Nam. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản Indonesia. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...

Sáu tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào, không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư đảng viên.

Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm '83. Mẹ cô ta mất năm '84. Năm '90 ba tôi và ba của cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức gì.

Mất nước bốn mươ nă, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại quê hương. Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong hai chế đo. Ngày ấy không xa.

Kỷ niệm 40 năm

Trần Thiện Phi Hùng

Bài số 3512-16-29912vb3051215
https://vvnm.vietbao.com/a237688/chon-mot-che-do



 

Hộ Tống Hạm Ngọc Hồi HQ-12 (Hắt-ku mười hai)


 






Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về giành lại Việt Nam. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản Indonesia. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...

(Lời thiếu úy ngành điện khí người nước Indonesia tham chiến ở miền Nam Việt Nam, người phụ tá gác máy điện thoại).







***********************************************************************************************

Hải quân Việt Nam Cộng hòa
Republic of Vietnam Navy


Republic of Vietnam Navy
Hải quân Việt Nam Cộng hòa
Emblem of the South Vietnamese Navy
Founded 1952 (1952)
Disbanded 30 April 1975 (30 April 1975)
Country South Vietnam
BranchNavy
RoleSea control
Size42,000 men, 1,400 ships, boats and other vessels (1973)
Part of Vietnamese National Army (1952-1955)
Republic of Vietnam Military Forces
Garrison/HQSaigon, South Vietnam
Nickname (s) "HQVNCH" ("RVNN" in English)
Motto (s)Tổ quốc — Đại dương ("The Fatherland — The Ocean")
MarchHải quân Việt Nam hành khúc
Anniversaries20 August
EngagementsVietnam War
Cambodian Civil War
Battle of the Paracel Islands
Commanders
Notable
commanders
Trần Văn Chơn
Cao Văn Viên
Lâm Nguơn Tánh
Chung Tấn Cang
Insignia
Flag
Naval ensign
Flag of Saint Trần


*************************************************************

Huy hiệu và cấp bậc Hải Quân VNCH
South Vietnamese military ranks and insignia

Rank group General / flag officers Senior officers Junior officers Officer cadet
  Republic of Vietnam Navy
(1955-1963)[13]
Đô đốc
都督
Phó đô đốc
副都督
Đề đốc
提督
Phó đề đốc
副提督
Đại tá
大佐
Trung tá

中佐
Thiếu tá
少佐
Đại úy
大尉
Trung úy
中尉
Thiếu úy
少尉
Chuẩn úy
准尉
Sinh viên sĩ quan
生員士官
  Republic of Vietnam Navy
(1964-1975)[14]
Thủy sư Đô đốc
水師都督
Đô đốc
都督
Phó đô đốc
副都督
Đề đốc
提督
Phó đề đốc
副提督
Đại tá
大佐
Trung tá

中佐
Thiếu tá
少佐
Đại úy
大尉
Trung úy
中尉
Thiếu úy
少尉
Chuẩn úy
准尉
Sinh viên sĩ quan
生員士官


Other ranks

The rank insignia of non-commissioned officers and enlisted personnel.

Rank group Senior NCOs Junior NCOs Enlisted
  Republic of Vietnam Navy
(1954–1967)[13]
No insignia
Thượng sĩ nhất
上士一
Thượng sĩ
上士
Trung sĩ nhất
中士一
Trung sĩ
中士
Hạ sĩ nhất
下士一
Hạ sĩ
下士
Binh nhất
兵一
Binh nhì
兵二
  Republic of Vietnam Navy
(1967–1975)[14]
No insignia
Thượng sĩ nhất
上士一
Thượng sĩ
上士
Trung sĩ nhất
中士一
Trung sĩ
中士
Hạ sĩ nhất
下士一
Hạ sĩ
下士
Binh nhất
兵一
Binh nhì
兵二




Làm sao để chôn hai chế độ
- Trần Thiện Phi Hùng





Làm sau để chôn hai chế độ? Là câu hỏi đươc trả lời trong bài viết mới nhất của tác giả, 40 năm sau khi một chế độ đã bị chôn. Trần Thiện Phi Hùng là tác giả có tên trong danh sách nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; tự lái tầu vượt biển năm 1982, hiện định cư tại Úc. Thư kèm bài, ông viết “Tôi vào lính năm 18 tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. 35 năm chưa về lại Việt Nam. Không biết, không hiểu, nên không dùng được từ ngữ mới sau 75. Hơn nửa thế kỷ mới viết lại, nên sai nhiều chính tả mong ban biên tập sửa cho. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi. Phi Hùng.

* * *

"Tượng nào cao bằng tượng Trần Hưng Đạo Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".

Tôi sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên!

Xứ VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có bốn vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng năm Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn.

Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới hôn nhân. Đời lính biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xác suất nuôi con của thiên hạ rất cao.

Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.

*

Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, hai ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông úy.

Ông bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu bốn tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải cá nhân.


Làm lính chưa đầy sáu năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.

Dù làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi năm ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.

Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi đã chọn đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.

Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building bốn tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"

Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.

Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.

Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.

Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.

Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.

Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời vung vít.

Trong trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.

Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hâm he:

- Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.

Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:

- Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.

Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.

- Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?

À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.

Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung Úy còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý. Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:

- Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!

Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.

Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung úy chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo “Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau." Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi. Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:

- Anh vô đi.

Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.

- Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.

Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:

- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.

A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung úy gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?

- Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?

Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:

- Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.

Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:

- Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.

À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:

- Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?

- Cô... Cán bộ. Cô...

Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:

- Trong trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...

- Năm Căn Cà Mau?

- Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...

...

À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.

Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:

"Các cô có biết bốn dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ 'Sinh Nam Tử Bắc' hay 'Sinh Nam Tử Nam' thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”

Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:

- “Anh nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?

Thấy giọngcô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:

- A... A... Cô có thể cười cho tôi coi không?

- Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.

Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.

- Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.

- Ở đó mà cô bé, cô bé...

Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.

Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.

- Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.

Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:

- Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.

- Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo. Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu của anh đã đi rồi.

- Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.

- Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp lại anh...

Tôi nói:

- Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm.

- Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi đã xóa bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết hay để thẹo gì cả.

Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:

- Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh. Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?

- Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.

- Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người anh thương của anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.

Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin. Tôi nói:

- Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.

- Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.

Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ người cô nào về nhà ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:

- Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽsẽ có ngày liên lụy. Xin cô tha cho tôi.

Cô ta cười to và nói:

- Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được rồi.

Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:

- Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.

Tôi nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.

Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút. Mọi lời lẽ tù nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất? Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số phận.

Tháng Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.

Bất ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có tên chỉ còn anh chỉ còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu úy dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn cuộc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:

- Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?

- Đi tới nơi làm lệnh tha.

- Tha về hả cán bộ?

- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?

Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?

Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.

Cừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:

- Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại. Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại viên cũ.

Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.

Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:

- Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.

Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.

Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.

Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.

Tôi nói với Má:

- Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!

Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.

*

Là ngườu tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.

Sau khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.

Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi ba hay bốn ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí bí thư trên 12 tuổi đảng.

Cũng có lần cô ta biết tăm luôn ba tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:

- Em sáng mắt ra chưa?

Cô ta lườm và nói:

- Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!

Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:

- Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy và trả lời em.

Tôi cho mẹ biết là -- bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp nơi hải ngoại như bao trường hợp giao liên nằm vùng khác. Có người làm tài xế, hay người giúp việc nhà trung thành tận tâm cả chục năm, nhưng sau Tháng Tư Đen thì mới lòi mặt thật.

Mẹ tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi thì nghĩ không hẳn thế. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao trường hợp giao liên nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.

Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:

- Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.

- Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.

Tôi hỏi cô ta có an toàn không.

- Anh có cần có tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.

Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy cung không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.

Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:

- Anh lái được chứ?

- Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.

Tôi lái suốt năm ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.

Trên bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng va thành vợ chồng thật.

Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông còn ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi! Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết và gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở Việt Nam. Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối viếtsổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.

Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:

- Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về giành lại Việt Nam. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản Indonesia. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...

Sáu tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào, không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư đảng viên.

Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức gì.

Mất nước bốn mươ nă, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại quê hương. Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong hai chế đo. Ngày ấy không xa.

Kỷ niệm 40 năm

Trần Thiện Phi Hùng

Bài số 3512-16-29912vb3051215
https://vvnm.vietbao.com/a237688/chon-mot-che-do


 

Ông hải quân này con nhà giàu, gia thế, chức vụ lớn nên con giao liên nằm vùng này bám sát săn địch thủ. Ai nói Vẹm cái 16 tuổi là con nít, con gái, không hại được ai? Nhớ câu chuyện 'cô Nhíp' chỉ đường cho thiết giáp Việt cộng chạy vào Dinh, cô làm người giúp việc nhà ông đại tá đó,

moi hết thông tin trong quân ngũ VNCH và người thân, họ hàng ông ta rồi báo cáo lên đảng. Một tài xế nằm vùng nào đó cho ông chuẩn tướng nọ cũng vậy, ông tướng này đang bị săn tin, có nguy cơ bị Việt cộng sát hại trong một cuộc hành quân nào đó... Nhiều lắm.

Tại sao con vẹm cái này bám cứng vào ông hải quân này để được chạy ra nước ngoài? Vì nó là đảng viên cộng sản, nếu nó đi ghe thuyền chạy trốn, thì khi nhân viên Liên Hiệp Quốc thẩm vấn sàng lọc, hay thanh lọc để phân biệt có phải nạn nhân cộng sản hay không, thì con vẹm này sẽ bị rớt cuộc thanh lọc ngay, chỉ còn cách bám cứng vào người lính VNCH nào đó làm vợ mới thoát khỏi. Bởi vì...

Sau 1976 thì Việt cộng bắc cần loại bỏ bớt, cho thanh trừng những Việt cộng nam nằm vùng để Việt cộng nam chỉ còn là thiểu số, mất sức mạnh quật lại bắc Việt cộng. Chính vì thế nên còn một cách khác cho đảng viên như bà Tạ Phong Tần vào ông Điếo Cày, Cù Huy Hà Vũ, thằng chó đẻ Tạ Ngọc Phách (bí danh trần độ) hay Tập kết Nguyễn Văn Đài... và giả vờ phản tỉnh, giả vờ là nạn nhân của cộng sản như bà Dương Thu Hương trong đoàn chiến đấu Thanh Niên Xung Phong, kiêm nhà văn Quân Đội Nhân Dân, chạy ra nước ngoài để viết sách, bán sách cộng sản lẫn vì bị thất sủng, bị vắt chanh là -- giả vờ đóng vai kịch "đấu tranh" cho Nhân Quyền rồi bị vào tù, rồi lại ra, rồi lại vào tù, rồi ra... để thành vở kịch "Cái Sai Nói Mãi Thành Đúng" theo chủ trương của cộng sản mà gạt người dân, gạt quốc tế...

Hãy xem lại cách dàn cảnh quay phim của bà Ca Lê Hồng để cho Trúc Hồ Bến Tre (con cháu việt cộng thứ gộc Ca Văn Thỉnh) và người thân của bà Ca Lê Hồng tuồn ra Thái Lan để giống như tị nạn, khi ra ngoài cũng là tay chân nằm vùng và làm gián điệp trong người Việt tại hải ngoại. Họ đem bài hát do Ca Lê Thuần sáng tác nhạc cho Quân Đội Nhân Dân Việt cộng nhân để kỷ niệm ngày thành lập và để vinh danh Quân Đội Việt cộng, rồi cho ca đoàn SBTN / Asia ở hải ngoại hát 'Đáp Lời Sông Núi" một thứ đặt trứng chim tu hú vào trong tổ chim khác ăn ké, núp lùm, thực tế, Quân Đội Việt cộng có dám đánh quân đội Tàu cộng như bài hát hùng hồn không? Ngẫu nhiên ca đoàn Asia / SBTN bị giao trứng cho Ác là Trúc Hồ, Trúc Sinh điều khiển. Mưu mánh này rất cao siêu.

Trúc Hồ và Việt cộng ca Lê Thuần

 

******

Nữ Điệp Viên VC Máu Lạnh
https://youtu.be/PEROMeN8r7o?si=z0fvV8pItv2zXi-J


******

========================

 

Tàu Việt Nam Thương Tín và việt gian Nhữ Văn Úy

Việt Gian Nhữ Văn Úy và chiếc tàu Thương Tín


Bạn kiểm chứng lại với nạn nhân vụ nầy là Lý viên Mãn lật tẩy Nhữ văn Úy là điệp viên CSBV tại Pháp…. xin gởi email Lý Viên Mãn như sau: lyvienman@gmail.com.

Chúng tôi không phải là Lý viên Mãn, nhưng chúng tôi cư ngụ gần Colmar / France nên biết
Nhữ Văn Úy rất rõ…

Ai mà tiếp xúc với
Nhữ Văn Úy mà tỏ thái độ Chống Cộng Sản thì 24 giờ sau sẽ có tên trong Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris lập tức.

Xin coi chừng lão già lùn mập nầy…

……..

Nhắc lại chuyện cũ:


30-4-1975 Dinh Độc Lập bị xe tăng Bắc Việt mang cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam cán bung ra.


Tổng Thống ba ngày Dương Văn Minh tuyên bố trao quyền Tổng Thống VNCH cho CSBV.
.....

Chúng tôi đến đảo Guam vào đầu tháng 5 năm 1975…. Trong trại tị nạn tại ven rìa đảo Guam (Orote Point)… chen chúc với đủ thành phần người Việt.

 
Nghe tin Chiếc tàu Việt Nam Thương Tín có nhiều người đòi về lại Việt Nam thì lấy làm tiếc lắm! Thế nhưng trong khi đó, trại lại có chuyện trái ngước, một đám người họ dùng dao hăm dọa nhiều người trong láng trại đó, cưỡng ép bắt buộc tất cả những người trong láng trại đó phải về Việt Nam cho bằng được.

Sau đó họ đốt thùng rác, cô lập lối ra vào, đám người đó khí thế hung hản khó lường… trong số đó có Nghị Viên Nhữ Văn Úy cũng làm việc hăm dọa đó.


. Việc xin về lại Việt Nam được loan đi. Ngay cả đài phát thanh Sài Gòn loan báo là Tàu Việt Nam Thương Tín bị Mỹ bắt đi qua Mỹ…

Thế là người Mỹ họ dựng hàng rào bảo vệ tất cả những người trong láng trại đó…
Mỗi người lần lượt đi vào hàng lang. Nếu gật đầu muốn ở lại Mỹ thì người Mỹ kéo người nầy sang một bên, và cho đi ra ngỏ khác.

Còn nếu người nào muốn về Việt nam thì họ cho đi thẳng ra nơi tàu Việt Nam Thương Tín.
Một số trên dưới 500 người chịu đi về lại Việt Nam, cầm đầu là Nghị Viên Nhữ văn Úy.


Đoàn xe bus đi mất biệt.
Chỉ trừ đám Như Văn Úy thì bảy ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…

Tất cả đều bị chở đi vào tù hết… Những người đòi về lại Việt nam, tất cả đều chở ra ngoài Bắc. Cô lập riêng, không cho thân nhân đến thăm hỏi, trong đó có 12 người khác (trong đó có bốn người lính hải quân VNCH). Tin tức không lộ ra ngoài. Ngay cả đài BBC theo dõi rất kỹ, vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Và 12 người khác (trong đó có bốn người lính Hải Quân VNCH).
Hoa Kỳ cung cấp lương thực và xăng nhớt đầy đủ cho Tàu Việt nam Thương Tín, cùng 500 đô la cho mỗi người và giấy tờ ghi là tình nguyện trở về lại Việt Nam.

Trên tàu Việt Nam Thương Tín thì Nhữ văn Úy ra sáng kiến: Bắt tất cả những người đòi về Việt Nam, phải nộp hết tất cả tiền bạc hay giấy tờ trong túi ra cho họ giữ.
Thì tại Sài Gòn, lúc đó Sài Gòn chưa đổi tên…

CSBV (Cộng Sản Bắc Việt) tổ chức lễ đón nhận những đứa con nước Việt bị Ngụy quyền và đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản.(?)
Sau đó đoàn tàu Việt Nam Thương Tín đến bến tàu tại Sài Gòn, được tiếp đón trọng thể. Nào kèn trống, hoa pháo và mấy cô gái đến trao tay…. Biểu ngữ giăng đầy hân hoan đón những người trở về lại đất mẹ bị đế quốc Mỹ cưỡng ép di tản. (Như đài phát thanh đã loan tin.)

Nghị Viên Nhữ Văn Úy ra đọc diễn văn, chửi là Mỹ cưỡng ép họ ra khơi, đi sang Mỹ, chớ thật sự họ không muốn… vì hoảng loạn nên khi tới đảo Guam… họ phải làm dữ thì Mỹ nó mới chịu trả họ về lại Việt Nam…. Đả đảo đế quốc Mỹ, Việt Nam thống nhất trường tồn…

Có nhiều xe bus đang đợi sẵn.
Đám chỉ huy đoàn tàu Việt Nam Thương Tín trở về tổ quốc… thì
Nhữ Văn Úy cùng 12 tên hung hãn lên xe bus đầu tiên… các người khác lên lần lượt xe sau.

Đoàn xe bus đi mất biệt, thân nhân đón tại bến tàu chỉ thấy con cái họ vẫy tay tại bến tàu Sài Gòn…. thế thôi!


Tất cả đều bị chở đi vào tù hết….

Chỉ trừ đám Như Văn Úy thì bảy ngày sau được về lại đoàn tụ với gia đình…

Những người đòi về lại Việt Nam, tất cả đều chở ra ngoài Bắc.
Cô lập riêng, không cho thân nhân đến thăm hỏi.
Tin tức không lộ ra ngoài.
Ngay cả đài BBC theo dõi rất kỹ, vụ nầy cũng không biết luôn là họ đi đâu.
Chỉ biết là họ chưa về sum họp lại gia đình.

Sài Gòn đổi tên mất từ lâu thành Thành phố Hồ chí Minh… thì Nhữ Văn Úy 10 năm sau (1985) do sự ưng thuận giữa Hà Nội và Hoa Kỳ ký với nhau (Ngoại Trưởng Hoa Kỳ George P. Shutlz)… Gọi là ODP (Orderly Departure Program) (Trong chương trình H.O. Humanitarian Operation) thì những quân nhân nào ở tù được Việt cộng gọi trá hình là đi học tập, đúng ba năm thì xin đi Mỹ thì được chấp thuận.


Không hiểu lý do gì mà Nhữ Văn Úy được giấy ở tù cải tạo 5 năm (ghi là từ 1975 đến 1980)…

Hồ sơ nộp tại Sài Gòn, chuyển ra Hà Nội…. xong hết 99 %....
Nhưng không dè Hoa Kỳ biết được là Nhữ Văn Úy cầm đầu nhóm đòi về lại Việt Nam và chửi Mỹ sát ván trên đài phát thanh Sài Gòn.

Hoa Kỳ từ chối nhận hồ sơ Nhữ văn Úy
.

Nhữ Văn Úy được Hà Nội cho nộp đơn xin đi Canada…. Canada từ chối… Nhữ Văn Úy được Hà Nội cho đút đơn đi Pháp…. Pháp từ chối.
Sau cùng có một cựu đảng viên lão thành Đảng Cộng sản Pháp, tên Jacques Dupois đứng ra nhận lãnh trách nhiệm hành vi của Nhữ Văn Úy
.
Sau cùng Nhữ Văn Úy được sang Pháp, sống tại tỉnh Colmar/France, gần Alsace (nơi nổi tiếng về rượu vang, sát biên giới Đức….
Nhữ Văn Úy im hơi lặng tiếng thời gian…
Nhữ văn Úy xin cải đạo thành đạo Catholic, mang tên thánh là Mathieu Nhữ Văn Úy…

Thế là Nhữ Văn Úy gột sạch tung tích là điệp viên Hà Nội. Vì với nhãn hiệu nghị viên Nhữ văn Úy nên nhiều đồng bào người Việt hải ngoại tại Paris không biết sự việc Nhữ Văn Úy và tàu Việt nam Thương Tín cùng số tiền 500 độ la Hoa Kỳ x500 người = 250 000 (hai trăm năm chục nghìn đô la USD) cùng tiền bạc quý kim của nhiều người đòi về Việt Nam qua tàu Việt Nam Thương Tín…

Nhữ Văn Úy gột sạch tung tích là điệp viên Hà Nội. Nay tới thời cơ Nhữ Văn Úy ra mặt hoạt động… làm cò mồi chống cộng. Nhữ Văn Úy chủi cộng sản tới tắp. Chửi nhiều và mạnh hơn những người Chống Cộng!
Trong nhà Nhữ Văn Úy treo cờ VNCH rất trang trọng…. Nhiều người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ Văn Úy thì 24 giờ sau Tòa Đại Sứ Việt cộng tại Paris có tên những người nầy...
Nay tới thời cơ Nhữ Văn Úy ra mặt hoạt động… làm cò mồi chống cộng

Nhữ Văn Úy chửi Cộng sản tới tấp, chửi nhiều và mạnh hơn những người Chống Cộng tại Hoa Kỳ và tại Pháp.
Chửi Cộng sản thậm tệ… ngay cả những điều Cộng sản không làm thì được Nhữ Văn Úy dựng lên chửi tuốt.
Nhữ Văn Úy cho là Nguyễn Văn Thiệu nói bốn không, Nhữ Văn Úy nói 5 không…

Ai mà nói đến Hà Nội ngày xưa… thì Nhữ Văn Úy mạt sát là thân cộng, là gián điệp cho Cộng sản Việt Nam.

Trong nhà Nhữ Văn Úy treo cờ VNCH rất trang trọng….

Nhiều người Việt đến nhà ưng thuận theo đường lối chống Cộng của Nhữ Văn Úy thì 24 giờ sau Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Paris có tên những người nầy..

Sau đây mời bạn đọc một người là nạn nhân cũa Nhữ Văn Úy (họ được thả sau 10 năm tại trại tù ngoài Bắc…. họ vượt biên…. và đòi Nhữ Văn Úy trả lại tiền của họ mà Nhữ Văn Úy tịch thu trên tàu Việt Nam Thương Tín ngày xưa…


Đó là nick Lý Viên Mãn ghi trên Yahoogroups vừa qua… (Bạn có thể email cho Lý Viên Mãn hỏi tự sự ra sao...)



Việt Gian Cựu Dân Biểu VNCH
Tàu Việt Nam Thương Tín và Việt gian Nhữ Văn Úy
http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=19777&page=5


____________________
Ghi ra đây để cảnh giác người Việt hải ngoại về tên Việt gian Nhữ Văn Úy



 


Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương Tín và những tàu vượt biên chạy trốn cộng sản để chúng ta hiểu rõ Việt Cộng / Cộng Sản Việt Nam hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:

"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngu địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án Chung Thân hay Tử Hình."

Số phận những người đi tàu Thương Tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...

 




Xin nhắc lại vụ án tàu Việt Nam Thương Tín để chúng ta hiểu rõ Việt Cộng / Cộng Sản Việt Nam hơn. Trên báo Quân Ðội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang ba viết như sau:

"Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/76." Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau: "Tội chạy trốn theo hàng ngu địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án Chung Thân hay Tử Hình."

Số phận những người đi tàu Thương Tín và di tản, nhất là giới trẻ đã bị phát tán đi Lào Cay, Thái Nguyên, Yên Bái...