Monday, April 19, 2021

Nháp/ Pháo Binh - Lính Pháo - Lính Rock! - Những Bài Hát Kích Động Nhạc của Lính

 

 photo explode_zps1srvxrl4.gif

 

 

 

photo Artillery_arvn11_zps7qk6vcb5.jpg

 



 



Pháo Binh
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 



photo phaacuteo binh_zpszkaaxino.jpgBinh chủng pháo binh
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 

 

*

 

Pháo Binh
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 

 

photo Artillery_arvn10s_zpsl9lkedta.gifPháo binh
Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa

 

 

 

 

 

 

 photo explode_zps1srvxrl4.gif

 

 

 

 

 

 

 

 

 photo centre_ville_saigon_24_zpsjha9ialy.jpg
Tôi đứng bên này sông, bên kia vùng lửa khói,
Làng tôi đây, bao năm dài chinh chiến,
Từng lũy tre muộn phiền.
...........................................

Này anh lính chiến, người bạn pháo binh,
Mẹ tôi tóc sương từng đêm nghe đạn pháo rơi thật buồn...
Anh rót cho khéo nhé, kẻo lầm vào nhà tôi.
Nhà tôi ở cuối chân đồi,
Có giàn thiên lý, có người tôi thương.


 photo explode_zps1srvxrl4.gif

 

 

 

 

 

Tại chiến trường Miền Tây thuộc vùng trách nhiệm của Quân Đoàn 4, các tiểu đoàn Pháo binh của Sư đoàn 7, Sư Đoàn 9, Sư Đoàn 21 Bộ Binh đã yểm trợ cho các trung đoàn Bộ Binh chận đứng cuộc tấn công lớn của cộng sản bắc Việt trong hai năm 1971, 1972 và những tháng đầu của năm 1973 tại Định Tường, Kiến Phong, Kiến Tường, Châu Đốc, Hà Tiên, Chương Thiện.
Riêng trong trận chiến tại An Lộc hè 1972, khi Sư Đoàn 21 Bộ Binh được điều động từ Miền Tây lên Bình Long để giải tỏa áp lực của cộng quân trên Quốc Lộ 13, tiếp ứng cho lực lượng tử thủ An Lộc, các tiểu đoàn Pháo Binh Sư Đoàn 21 Bộ Binh đã tham chiến với hỏa lực mạnh mẽ, và trong các trận kịch chiến giữa các đơn vị VNCH và CSBV tại Suối Tàu Ô, một thành phần của Pháo Binh Sư Đoàn 21 đã mở các trận hỏa công yểm trợ cho đơn vị bạn giữ vững trận địa.
Pháo Binh Sư Đoàn 1 Bộ Binh  photo Phaacuteo Binh_zpsvupkwuwn.jpg

 

Pháo Binh của binh chủng Nhảy Dù
 photo phao-binh-nhay-du_zpsxwnv5sf9.jpg

 

Pháo Binh của binh chủng Thủy Quân Lục Chiến
 photo DONG HA 1972 - Troops and Tanks in Action in Vietnam DONG HA 1972 - Troops and Tanks in Action in Vietnam

 

 photo BigExplosion_zpswvlcbjm2.gif


Pháo binh
Lính Pháo...
Lính Rock...
Kích động nhạc



 

 



                    Nghe bài kế tiếp, Scroll down. Kéo thang xuống từ bài số 1 tới số 34.... ở cuối góc bên phải


1- Một Trăm Phần Trăm

2 - Lính Đa Tình

3

4- Làm Quen Với Lính

5- Tôi Nhớ Tên Anh

6

7

8

9

10- Đám Cưới Nhà Binh

11

12

13

14

15

16

17

18

19

20

21

22

23

24

25

26

27

28

29

30

>

31

32

33





 

 



Video 1 - Lính Đa Tình

Video 2 - Một Trăm Phần Trăm

Video 3 - Người yêu lý tưởng

Video 4 - Tôi Nhớ Tên Anh

Video 5 - Thương Anh

Video 6 - gap nhau tren pho

Video 7 - Làm Quen

Video 8 - Hùng Cường – Lính Mà Em

Video 9 - Dam cuoi nha binh

Video 10 - Nàng Tiên Của Lính

Video 11 - Cái Trâm Em Cài

Video 12 - Cưới Em

Video 13 - Không!

Video 14 - Vòng Hoa Yêu Thương_
Hùng Cường Mai L H


 

 



 

Nghe nhạc vui vẻ...



table bgcolor="#330033"

 

Dương Nguyệt Ánh và Bom Áp-Nhiệt (thermobaric)

 

2007 National Security Medal Recipient



Khoa Học Gia về Chất Nổ Dương Nguyệt Ánh

Chuyên gia về chất nổ Dương Nguyệt Ánh chỉ huy một nhóm khoa học gia, chỉ trong 67 ngày đã chế tạo ra trái bom áp-nhiệt (thermobaric)* đầu tiên của Hoa Kỳ, loại bom mà khi nổ sẽ tạo ra một vầng mây hóa chất và một làn sóng chấn động có khả năng hủy diệt tất cả những gì ở trong tầm sát hại của nó. Được gọi là “bom diệt hầm ngầm”, đây là loại vũ khí dùng để hủy diệt các hang động, địa đạo được dùng làm căn cứ chỉ huy của đối phương trong cuộc chiến A Phú Hãn (Afkanistan) sau vụ khủng bố ngày 11 tháng 9. Hiện nay là một khoa học gia cố vấn cho Ngũ Giác Đài, bà Dương Nguyệt Ánh đang đảm nhiệm về việc phát minh ra các phương tiện kỹ thuật dùng vào cuộc chiến chống khủng bố.

 title= Dương Nguyệt Ánh

Bà Dương Nguyệt Ánh đã chạy thoát khỏi Việt Nam năm 1975 cùng với gia đình hồi 15 tuổi hiện là một người khá bận rộn. Bà là nhân vật được đề cao trong cuốn sách vừa mới xuất bản, “Thay Đổi Thế Giới Chúng Ta: Những Chuyện Thật Về Những Người Nữ Kỹ Sư” (American Society of Civil Engineers, 2006), cũng như trong cuốn phim đoạt giải thưởng phim ảnh năm 2005, “Tại Sao Chúng Ta Chiến Đấu”, nói về chính sách ngoại giao và quân sự Hoa Kỳ, trong đó bà đã thảo luận về việc chế tạo bom cũng như những viễn tượng của bà về chiến tranh. Và lúc 10 giờ tối thứ Tư mới đây trong loạt phim tài liệu “Những Vũ Khí Tương Lai”, chương trình truyền hình của đài Discovery đã bật mí về cái thế giới bí mật của những vũ khí kỹ thuật cao và những người sáng tạo ra chúng, trong đó có bà Dương Nguyệt Ánh.

Động cơ nào đã thúc đẩy bà bước vào ngành kỹ sư hóa học và chế tạo vũ khí?

 title= Dương Nguyệt Ánh

Lúc mới đến Mỹ, Anh văn của tôi rất tệ, thế nên tôi nghĩ rằng mình có thể học hành tốt hơn nếu chuyên tâm vào các ngành toán học, vật lý, hay hóa học. Còn tại sao lại đi vào ngành chế tạo vũ khí? Bởi vì tôi muốn phục vụ cho nền an ninh quốc phòng Hoa Kỳ. Là một người tị nạn chiến tranh, tôi không bao giờ quên được những người chiến sĩ Hoa Kỳ và VNCH đã từng bảo vệ cho tôi có một cuộc sống an toàn.

Gia đình của bà đã đào thoát khỏi Việt Nam, xô đẩy chen lấn nhau từ trực thăng nhảy xuống tàu rồi chiến hạm - chắc là phải kinh hoàng lắm?

Bạn không có thì giờ để suy nghĩ gì hết; viên phi công cứ luôn mồm thúc hối: “Di chuyển, di chuyển!” Bạn phải chờ đúng ngay thời điểm để nhảy từ tàu qua chiến hạm hoặc là không bao giờ còn có cơ hội nữa. Người anh em bà con của tôi lúc đó đang hoảng kinh lên… và khi mở mắt ra tôi thấy - anh ta đang bị treo lơ lửng bên sườn chiến hạm, đôi chân gần như dập nát ra.

Nhưng rồi đến lượt bà cũng phải nhảy thôi?

Tôi tê cứng cả người. Nhớ lại lúc đó tôi đã âm thầm tính toán khoảng cách và thời điểm chính xác để nhảy… Bên kia mọi người chạy đến sẵn sàng chụp bắt tôi. Đến lúc trông thấy gia đình biết là mình sống sót, tôi toát mồ hôi và sợ đến điếng người. Nếu chuyện này xảy ra khi tôi đang nhảy thì chắc là tôi đã tiêu rồi.

Bà theo học ngành kỹ sư hóa học tại Đại Học Maryland và sau đó tốt nghiệp cao học về ngành Quản Trị Công Quyền tại American University. Làm thế nào mà bà lại trở thành một chuyên gia về vũ khí?


    "…đối với tôi, việc trước tiên là phải nghĩ đến những phương cách để bảo vệ binh sĩ của chúng ta…”

    Dương Nguyệt Ánh


Khi mới tốt nghiệp, năm 1983, công việc đầu tiên của tôi là chuyên viên bào chế công thức về thuốc đẩy cho Trung Tâm Vũ Khí Điện Địa của Hải Quân Hoa Kỳ tại Indian Head. Tôi đã bào chế loại thuốc đẩy dùng để phóng hỏa tiễn từ nòng súng đi đến mục tiêu. Đây không phải là loại súng cầm tay đâu nhé, mà là những đại bác trên chiến hạm. Năm 1986 tôi trở thành nhà bào chế công thức tạo ra chất liệu cho việc phóng hỏa tiễn từ những dàn phóng trên các chiến hạm và phi cơ – tức là các loại hỏa tiễn không đối không và địa đối không. Chồng tôi đã trêu chọc rằng - tôi đúng là một nhà hỏa tiễn.

Vào năm 1991 thì tôi trở thành một chuyên gia về phát triển chất nổ và hai năm sau đó, tôi điều hành toàn bộ chương trình chất nổ của Hải Quân.

Bà là người đã điều khiển dự án “bom áp nhiệt diệt hầm ngầm”. Đó là công việc gì vậy?

Tháng 8 năm 2001 khi đang làm việc cho Cơ Quan Giảm Trừ Đe Dọa của Bộ Quốc Phòng nghiên cứu về một loại vũ khí có khả năng diệt trừ các hang động thì vụ 9/11 xảy ra, tôi được khuyến khích bảo là nên “thử thời vận” trong việc nghiên cứu về kỹ thuật chất nổ áp nhiệt (thermobaric) và biến nó thành vũ khí ngay lập tức để hỗ trợ cho chiến dịch Operation Enduring Freedom. Nhóm chuyên gia của tôi - gồm khoảng 100 khoa học gia, kỹ sư, và cán sự - chỉ trong vòng 67 ngày đã đi từ ý niệm sơ khởi đến việc chế tạo ra 11 trái bom áp nhiệt (thermobaric) đầu tiên.

Bằng cách nào mà bà đã thúc đẩy nhóm chuyên gia của mình đạt đến thời hạn kỷ lục như thế?

Đâu có đông cơ nào thúc đẩy bạn hơn là vụ 9/11, những hình ảnh của Ngũ Giác Đài, tòa Tháp Đôi và những người vô tội bị giết?

Đây hẳn là một công việc đầy rủi ro nguy hiểm?

Nếu bạn phạm một lỗi lầm khiếm khuyết nào đó, nhiều người sẽ phải mất mạng. Mọi người đều phải được huấn luyện chu đáo và luôn luôn làm việc từng đội. Bào chế chất nổ cũng giống như là bạn làm bánh: Trước hết bạn phải đổ các thành phần chất lỏng pha chế vào một cái bình trộn lớn, rồi thêm vào đó những đặc chất khác… ba cái thanh trộn to tướng không ngừng quay trong khi bạn tiếp tục cho vào các hợp chất pha chế. Pha trộn là một khâu vô cùng nguy hiểm, bạn phải dùng đến hệ thống viễn khiển ở một phòng khác. Rồi thì cái cục nhão này được đổ vào đầu đạn, giữ chặt trong một cái lò hấp khổng lồ để nung lên.

Là một nhà bào chế, công việc thực sự của bà là gì?


"…Về loại bom áp nhiệt (thermobaric) BLU-118/B mà nhóm chuyên gia của chúng tôi đã phát minh để xuyên phá các hang động tại A Phú Hãn.…”

Dương Nguyệt Ánh

Trước tiên là tôi phải nghĩ ra một cái công thức. Sau đó bạn phải ở ngay tại chỗ khi thử nghiệm cái công thức này (bắt đầu bằng một số lượng nhỏ) để đánh giá độ nhạy của chất liệu xem cứ như là nó sẽ nổ tung ra trước mặt bạn. Rồi thì các kỹ sư sẽ thực hiện tiếp tiến trình tinh luyện. Đôi khi nếu chúng tôi sử dụng đến hàng trăm hay hàng ngàn pound (lbs) chất liệu, công thức sẽ phải được thay đổi.

Hiện người ta đang nói về việc trang bị những bom diệt hầm ngầm bằng vũ khí nguyên tử. Bà nghĩ như thế nào về chiến lược này?

Tôi xin được miễn bình luận về chuyện này.

Hiện nay bà đang làm công tác gì?

Từ năm 2006 tôi là một nhà cố vấn khoa học, hiện đang làm nhiệm vụ tham mưu về các vấn đề khoa học kỹ thuật cho Tư Lệnh Phó Hải Quân (đặc trách kế hoạch và chiến lược) đồng thời công tác cho Cơ Quan Điều Tra Tội Phạm (của) Hải Quân, điều tra các tội ác xảy ra trên căn cứ hay trên chiến hạm kể cả công tác phản gián… tức là bắt gián điệp. Chương trình truyền hình “NCIS” đã dựa vào đây để thực hiện chương trình của họ.

Mức độ xác thực của chương trình truyền hình này ra sao?

Với bốn con nhỏ, giữa việc bếp núc và giúp chúng làm bài tập ở nhà, thú thật tôi không có thì giờ rảnh rỗi để xem chương trình này.

Bà phản ứng như thế nào trước những lời chỉ trích?

Người ta sẽ đặt vấn đề là tại sao tôi lại dùng trí thông minh và vốn liếng đào tạo của mình để chế tạo bom… (không dùng vào việc gì khác hơn ngoài tàn phá, hủy diệt), tuy nhiên đối với tôi việc trước tiên là phải nghĩ đến những phương cách để bảo vệ binh sĩ của chúng ta.

Bà đã trình bày những gì qua loạt phim “Vũ Khí Tương Lai” trong chương trình đài truyền hình Discovery?

Về loại bom áp nhiệt (thermobaric) BLU-118/B mà nhóm chuyên gia của chúng tôi đã phát minh để xuyên phá các hang động tại A Phú Hãn. Nhóm truyền hình đã làm việc suốt ngày để thu hình công việc của tôi làm trong phòng thí nghiệm và tại cơ xưởng sản xuất nơi chúng tôi chế tạo loại chất nổ này.

CHÚ THÍCH:

Baric: Chất Barium, ký hiệu hóa học là Ba.

Muốn biết đặc tính của hóa chất này có thể xem: http://en.wikipedia.org/wiki/Barium


 

000000000000000000

 

bgcolor="#330033"





 photo u8twi_zpsrgrz9ozk.png

 


Một Chuyến Ðổ Bộ Vào THANH-HÓA

Hay: Một Chuyến Công Tác Ðặc Biệt

Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thành lập ra mục đích để bảo vệ Tổ Quốc và chống lại sự xâm lăng của bọn cộng sản miền Bắc. Lợi dụng sự tự vệ của QLVNCH bị giới hạn trong phạm vi lãnh thổ theo Hiệp Định Geneve 1954, nên bọn cộng sản miền Bắc được sự yểm trợ của cộng sản Quốc Tế cứ gia tăng liên tục tấn công miền nam Việt Nam. Vì lý do đó mà Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH đã quyết định thành lập những đơn vị đặc biệt để tấn công lại kẻ thù ngay tại hậu phương hay tại các mật khu của chúng.

● Bộ phận thứ: I – Là xâm nhập bằng đường bộ với sự yểm trợ và hợp tác của Không Quân.
● Bộ phận thứ: II – Là xâm nhập bằng đường biển, có tên gọi là Sở Phòng Vệ Duyên Hải.

Trong Sở PVDH gồm có hai Lực Lượng:

■ Hải Tuần và
■ Biệt Hải.

Hải Tuần Tất cả nhân viên Lực Lượng Hải Tuần là do Bộ Tư Lệnh Hải Quân biệt phái qua Sở PVDH đặt dưới quyền Chỉ Huy của Giám Ðốc Nha Kỹ Thuật.

Biệt Hải Lực Lượng Biệt Hải là đơn vị được huấn luyện để xâm nhập, đánh phá đồn bót và bắt cán bộ cộng sản ngay tại miền Bắc để lấy tin tức, hầu ngăn chận kịp thời những sự di chuyển quân của cộng sản Bắc Việt.

Các quân nhân của Lực Lượng Biệt Hải được tuyển chọn từ các quân binh chủng trừ bị: Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân và Người Nhái Hải Quân cùng một số khá đông anh em Dân Sự mà đa số là người Bắc di cư 1954, với điều kiện là tình nguyện.

Sau khi được tuyển chọn kỹ lưỡng về lý lịch cá nhân cũng như sức khỏe, các tân khóa sinh Biệt Hải phải trải qua một khóa huấn luyện hết sức cam go và khắc khổ, khóa học nầy không nằm trong chương trình của Cục Quân Huấn QLVNCH, mà hoàn toàn đều do các cố vấn Mỹ huấn luyện theo chương trình UDT - Seal hầu để thích nghi với chiến tranh ngoại lệ.

Không phải dễ dàng để trở thành người quân nhân Biệt Hải. Để trở thành người quân nhân Biệt Hải đòi hỏi phải có một sự kiên nhẫn chịu đựng trong suốt thời gian thụ huấn, cộng với sức khỏe. Muốn trở thành một quân nhân Biệt Hải phải đi qua hai món ăn chơi đó là:

- Tung mây lướt gió (Nhảy Dù) và
- Xử dụng bình hơi (Người Nhái).

Bởi vậy người Biệt Hải rất đa dạng, lúc cần có thể xử dụng về đường không, đường bộ hay đường biển, nhưng sở trường vẫn là xâm nhập đường biển.

Sau ngày mãn khóa căn bản Biệt Hải, cộng thêm khóa Nhảy Dù và khóa Người Nhái thì lúc đó các khóa sinh mới trở thành người Biệt Hải chuyên nghiệp, với quân phục được cấp phát gồm có hai bộ áo “rằn ri” và một nón đỏ do quân nhu Quân Lực VNCH, hai bộ quần áo Biệt Kích do phía cố vấn Mỹ cấp phát. Nói tóm lại tùy theo từng cá nhân muốn mặc đồ của quân binh chủng gốc hoặc mặc đồ Biệt Kích kể cả một số thích được mặc đồ thường phục sau giờ xuất trại, trong thời gian đầu khi còn ở các trại lẻ tại Mỹ Khê mỗi lần khóa sinh xuất trại bắt buộc tất cả phải có đồ dân sự trưởng toán mới đưa giấy phép bằng không thì phải ở lại trại, vì để bảo mật cho các công tác xâm nhập nên Lực Lượng Biệt Hải không hề có phù hiệu, bởi vậy khi các đơn vị bạn nhìn vào quân phục của Biệt Hải không biết họ là đơn vị nào?

Các quân nhân Biệt Hải được phép mặc thường phục hoặc quân phục và được đi trong giờ giới nghiêm. Giấy phép do Ðại Tá Tỉnh Trưởng Quảng Nam Ðà Nẵng cấp, đối với dân địa phương ở Ðà Nẵng hay bán đảo Sơn Trà thường gọi chúng tôi là Biệt Kích Nhái, những lúc thời tiết miền Bắc biển động các toán thay phiên nhau đi công tác ở các Mật Khu cộng sản tại miền Nam, người dân ở miền đó họ hay gọi chúng tôi là lính Dù. Ðiểm đặc biệt là mỗi lần công tác dù Bắc hay Nam thì đồ ngụy trang được mặc duy nhất vẫn là bộ bà ba đen và đi chân đất hoặc giày bata. Còn người dân miền Bắc thì thường gọi chúng tôi là cán bộ của Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc.

Tôi còn nhớ vào dịp Trung Thu năm 1967, toán Numbus được chỉ định đi công tác xâm nhập vào vùng Thanh Hóa. Ðối với Lực Lượng Biệt Hải bất kỳ chuyến công tác nào cũng là đặc biệt cả, nhưng có lẻ chuyến xâm nhập lần nầy có một vài điểm khác lạ hơn các chuyến khác vì một lúc phải làm hai nhiệm vụ: Ðó là -- bắt cóc cán bộ địa phương đưa về Nam để khai thác tin tức, ngoài ra toán còn được giao thêm phận vụ Tâm Lý Chiến, vì lúc đó sẵn dịp Tết Trung Thu nên chúng tôi phải mang những gói quà biếu tặng của MẶT TRẬN GƯƠM THIÊNG ÁI QUỐC cho các em miền Bắc như lệnh trên giao phó (trong đó hình như là vải vóc, áo quần, bánh kẹo và radio. v. v… Vì những thứ nầy đã được gói sẵn trong bọc nylon rất kín đáo vì sợ thấm nước, chúng tôi chỉ có nhiệm vụ đem đi).

Ðể chuẩn bị cho chuyến công tác được thành công. Toán đã thực tập rất chu đáo, được chỉ dẫn phận vụ của từng người trên mặt sa bàn, và nghiên cứu cẩn thận vào các tấm hình không ảnh, ban ngày thì toàn đội tập vượt sóng, bơi lội, chèo thuyền cao su. Ban đêm thực tập đổ bộ, cứ như thế liên tục suốt trong vòng một tuần. Lần thực tập cuối cùng trước khi ra đi là đổ bộ toán vào vùng cửa Ðại, Hội An (vùng nầy ban đêm hoàn toàn do địch kiểm soát). Vì chương trình huấn luyện bắt buộc phải tìm một địa điểm ở trong Nam tương tự như miền Bắc để cho nhân viên dễ dàng làm quen được với địa thế, nhưng đắng cay làm sao cứ mỗi lần đi thực tập đổ bộ vào quanh vùng cửa Ðại, thì toán đều bị chạm địch hoặc mất tích.

Cũng như những chuyến trước, toán Numbus được các Chiến Đĩnh PTF đưa từ Ðà Nẵng ra đến vùng biển Thanh Hóa, trên đường di chuyển tới mục tiêu. Anh em Hải Tuần có nhiệm vụ điều khiển Chiến - Hạm, riêng anh em toán chúng tôi phải ở dưới khoang hầm nằm ngủ hay nghỉ ngơi để lấy sức chuẩn bị cho chuyến xâm nhập vào bờ trong một vài giờ sắp tới. Nói vậy chứ chẳng có ai chợp mắt được tâm trí lúc bấy giờ rối bời như mớ bòng bong, có cả hằng trăm chuyện để mà lo lắng suy nghĩ, nào là vợ con, cha mẹ, người yêu.v. v… Và rồi không biết chuyến xâm nhập lần nầy còn có cơ may để trở về Nam gặp lại những người mà mình đang suy nghĩ hay không? Hoặc là công tác tối nầy có đạt được thành quả như sự mong muốn của cấp trên và ngay chính cả anh em chúng tôi nữa, chưa nói đến bản tính nóng giận bất thường của trời đất.

Vì trước đây đã có nhiều chuyến khi hành động xong nhiệm vụ toán rút ra bờ biển tìm đường để lội ra xuồng cao su, và từ đó dùng làm phương tiện chở toán ra Chiến Đĩnh PTF đang đậu chờ ngoài khơi, thì đột nhiên dông gió thổi tới bất ngờ những đợt sống cứ liên tục dâng cao trắng xóa cả một vùng như tuyết, tệ hại hơn nữa là có những lần toán đã bại lộ mục tiêu và đang bị chúng bao vây rượt đuổi sau lưng, khi anh em thoát ra được tới bờ biển nỗi vui mừng vừa mới chớm nở, thì lại trông nhìn thảm cảnh sống gió trước mắt mà lòng cảm thấy ngao ngán, lúc đó mạnh ai người nấy cố sức lội ra tới xuồng để tìm con đường sống, sau đó trưởng toán mới gọi ám số hoặc tên thật từng anh em để kiểm soát ai còn ai mất.

Xuồng đổ bộ của ca'c toán Biệt Hải tại Thanh Hóa, trong khi các chiến đĩnh PTF chờ ở ngoài khơi. (Hình)

Vì vùng công tác quá xa xôi, không có phương tiện yểm trợ hơn nữa chỉ hoạt động qua đêm, thời hạn ấn định cho nhiệm vụ phải hoàn tất trong vòng 5 hay hoặc 6 tiếng đồng hồ, và cũng nên biết sự kiểm soát an ninh phường khóm của công an miền Bắc rất kỹ, khác hẳn ở miền Nam nên rất khó trà trộn, toán bắt buộc phải rời khỏi vùng công tác trước khi mặt trời mọc, hoặc nếu trể giờ hẹn có thể Chiến Đĩnh PTF sẽ di chuyển khỏi địa điểm vì vấn đề an toàn, kế đến là lo sợ dân chúng ở địa phương phát giác, và họ sẽ đi báo cho công an hơn nữa vùng hoạt động nằm dọc theo bờ biển, bởi vậy không có địa thế thích hợp để ẩn trốn một khi bị sa cơ, như vậy kể như cuộc đời đã kết thúc, chưa nói đến những chuyện không may có thể xảy ra như trong số anh em có người bị thương chẳng hạn. Những giây phút nguy hiểm đó bốn chữ “sinh Nam, tử Bắc” đều hiện rõ nét trong đầu, nhưng hầu hết tất cả anh em toán vẫn luôn xác quyết với một niềm tin là phải tranh đấu cho sự sống còn ở trong mọi tình huống.

Ðang lúc còn suy nghĩ vẫn vơ thì giấc ngủ bổng đến tự lúc nào không hay, có lẽ vì quá mệt mỏi, 8 anh em chúng tôi chia nhau ngồi dưới hầm tàu chu vi không mấy được rộng, chiến đĩnh PPF vẫn phóng nhanh hết tốc độ thỉnh thoảng những đợt sóng đập vào lườn tàu rất mạnh đôi lúc làm mọi người tung lên khỏi chỗ mình ngồi, hơn nữa mùi dầu máy bốc lên cũng gây rất khó chịu một vài anh em đã phải ói mửa trông thật bơ phờ. Bỗng một tiếng còi vang lên đã làm tĩnh thức mọi người, báo hiệu cho toán mục tiêu đã sắp sửa tới, có lẽ theo sự suy nghĩ của tôi, vì ý Hạm Trưởng muốn cho anh em có chút thì giờ để chuẩn bị kỹ càng hơn, đồng hồ lúc đó đúng gần 9 giờ tối, chúng tôi kiểm soát tất cả đồ trang bị cá nhân lại một lần cuối trước khi rời khỏi hầm tàu đi về phía sau lái PTF, và rồi cùng nhau hợp lực với hai người bạn điều khiển xuồng cao su xem xét lại cẩn thận (xuồng cao su được chia làm thành sáu ngăn, hai ngăn dưới lườn, và bốn ngăn ở trên được bơm bằng hơi, mục đích để giữ cho xuồng an toàn nếu lỡ bị trúng đạn ở ngăn nào hoặc giả thử có xì hơi, các ngăn còn lại vẫn giữ vững thế thăng bằng, và xuồng cao su được xử dụng bằng một loại máy giảm thanh (40 hp Johnson, chạy bằng xăng có pha nhớt) vào lúc đó chiếc chiến đĩnh PTF giảm bớt tốc độ, từ từ tiến vào mục tiêu, và rồi tới điểm dừng lại Hạm Trưởng đứng trên phòng lái phóng thanh ra lệnh cho toán chuẩn bị đổ bộ, hai chiếc xuồng cao su được các anh em Hải Tuần tới trợ giúp thả xuống hai bên mạn tàu ở phía sau chiến đĩnh, tiếp theo đó tất cả anh em toán tuần tự leo xuống ngồi theo vị thế đã được chỉ định trước khi đi nên rất gọn gàng và nhanh chóng.

Phận sự hai tài công phụ trách lái hai xuồng cao su liền cho nổ máy chạy theo sự hướng dẫn bằng radar của tàu mẹ (tức PTF) khi hai xuồng cao su vào đến gần bờ biển Thanh Hóa thì trưởng toán ra lệnh tắt máy và chèo bằng mái chèo nhỏ (dầm) để tránh gây tiếng động, khi khoảng cách bờ biển và xuồng cao su còn trên dưới 1000 thước trước tiên thả hai tiền sát viên lội vào bờ làm nhiệm vụ quan sát ngang, dọc (trên dưới) 100 thước và tìm địa thế an toàn cho toán xâm nhập lội vào sau, khi đã tìm được chỗ như ý lúc đó người tiền sát phụ lội ra nước ngang ngực dùng hồng ngoại tuyến loại nhỏ cầm tay bấm ám hiệu đã cho sẵn ở nhà (thường được xử dụng bằng ám hiệu "Tic- Tè" khoảng cách độ bao nhiêu giây được bấm lại một lần, tất cả quy luật đó chỉ có tiền sát và trưởng toán biết mà thôi, khi trưởng toán ngồi ngoài xuồng cao su nhìn vào phía bờ xác nhận đúng được chỉ thị đã ấn định lúc ra đi thuyết trình thì mới cho toán còn lại tiếp tục lội vào, cũng có một đôi lần hai tiền sát bị bắt, thì lập tức trưởng toán phải quyết định hủy bỏ công tác liền lúc đó lý do vì ám hiệu và giờ giấc không đúng.

Tất cả chúng tôi mang chân nhái áo phao và vũ khí cá nhân AK 47, nhảy xuống biển kẻ trước người sau cùng nhìn nhau lội vào. Còn lại hai xuồng cao su và hai nhân viên bỏ neo tại đó để canh giữ và có nhiệm vụ chờ đón toán khi xong phận sự lội ra, hai chân vừa chạm mặt đất anh em vội tháo gỡ cặp chân nhái móc vào bên hông và theo tiền sát dàn hàng ngang nằm dọc bờ biển, mọi cặp mắt đều đổ dồn hướng lên các bụi cây vì trên đó vẫn còn có một người tiền sát chính đang ngồi chờ. Kế đến trưởng toán lấy phương giác hướng đi đến mục tiêu, trên đường di chuyển mỗi bước đi là một nhịp thở từng tiếng động nhỏ của loài vật cũng đủ làm cho anh em giật mình, vì ban đêm nên sự quan sát ở phía trước mặt rất là giới hạn tâm trí lúc bấy giờ quên hết mọi sự kể cả vợ con, cha mẹ, người yêu .v. v…

Ngược lại thần chết lúc nào cũng ám ảnh, sáu tay súng từng bước một luôn bám sát gần nhau. Chúng tôi di chuyển theo chiến thuật đột kích của Biệt - Hải mà cố vấn Seal Mỹ đã chỉ dẫn, tất cả mọi người đều cùng ý thức trách nhiệm và bảo vệ mức tối đa cho nhau, có ở trong những giây phút thập phần nguy hiểm nầy mới định nghĩa được cái tình đồng đội thật hết sức trân quý và hết sức tuyệt vời, trên đường di chuyển tới mục tiêu, chúng tôi không gặp một trở ngại nào.

Ðúng khoảng 2 giờ sáng cả toán đã tới được mục tiêu chỉ định đó là một xóm nhà thuộc dân chài lưới rất nghèo nàn dưới chế độ của Bác, đồng thời chúng tôi còn tìm cách đến nơi trú ngụ của cán bộ nhưng không thấy. Anh em chỉ gặp toàn những ông già bà lão và một số các em nhỏ. Nhân tiện đó đem phân phát những gói quà Trung Thu cho một số gia đình, tiếp theo đó một vài anh em trong toán còn làm thêm nhiệm vụ cắm cờ của Mặt Trận Gươm Thiêng Ái Quốc tại khu xóm đó, trước khi rút lui ra bờ biển để kịp đúng giờ đã hẹn, một số người tại đó sau khi nhận được quà, họ đã cám ơn rối rít trông thật hết sức thương tâm và còn luôn miệng gọi anh em chúng tôi là cán bộ mặt trận, trong số đó có một vài người trẻ đã tỏ ra rất bạo miệng xin được đi theo với cán bộ (tức chúng tôi). Nhưng chuyến nầy anh em toán không có lệnh đưa dân về Nam khai thác tin tức, nên vội vàng từ chối và nói khéo là sẽ gặp họ lại trong lần tới. Trước những năm 1975 rất ít người ngoài biết đến đơn vị Biệt Hải và LL Hải Tuần, họ là ai? Và cũng không bao giờ biết được sự hoạt động phía trong nội bộ của SPVDDH ra sao, chỉ trừ nhân viên đã có thời gian phục vụ nhưng khi hết giao kèo thì đều được an ninh dặn dò theo như trong tờ bảo mật của Sở.

Ngày 30. 4. 1975, toàn thể QLVNCH bị bức tử bởi các thế lực ngoại bang và bắt buộc phải thua trận, hằng trăm ngàn quân cán chính phải chịu cảnh trả thù khát máu của cộng sản Bắc Việt bằng cách tập trung đưa vào các trại tù khổng lồ đầy khắc nghiệt và ác độc không có lối thoát, vì cuối nẻo đường cùng đầy tuyệt vọng.

Tôi đành phải ra trình diện ở địa phương của tôi tại (Huế) tôi khai là phục vụ ở đơn vị Nhảy Dù, cũng may nhờ lúc còn ở Lực Lượng Biệt Hải tôi đã kín miệng, ngay cả người thân trong gia đình trong những lần có phép về thăm nhà, cũng không hề biết tôi là lính gì và phục vụ ở đâu? Lúc đầu chúng tôi được tụi cộng sản tập trung ở trại Khe sanh, Quảng Trị, một thời gian sau cộng sản di chuyển chúng tôi về trại Cồn Tiên, Ðông Hà.

Tôi được vào đội 7 (đội 7 là đội dành riêng cho cấp bậc Trung-úy) ở trại vẫn thường có những giờ học chính trị tại Hội trường, hôm đó có một chính trị viên cao cấp ở trung ương đến thăm trại và hắn “lên lớp” nói rằng: “Một tên Biệt Kích tội lỗi ngang bằng một viên Ðại Tá” tôi ngồi dưới lớp nghe qua đồng thời mĩm cười, và thầm nghĩ trong bụng: ‘Tao đang ngồi trước mặt chúng mày đây, phải trước năm 75, tao gặp được mầy có lẽ giờ nầy mầy đã đi mò tôm cho Thủy Vương rồi.’ Sau một thời gian vì không chịu nỗi sự nhục nhã và hành hạ thân xác của bọn cai tù, và vốn mang trong người dòng máu Biệt Hải không bao giờ chịu khuất phục bọn răng đen mã tấu. Tôi đã quyết định trốn trại vào năm 1977. Oregon, ngày 8 tháng 10 năm 2001.

Nguyễn Văn Kha

Biệt- Hải Toán Numbus

Trưởng Toán 717,

Ðoàn 71, Sở Công Tác,

Nha Kỹ Thuật, Bộ Tổng Tham Mưu, QLVNCH

Sở Phòng Vệ Duyên Hải (Coastal Security Service)

Sở Phòng Vệ Duyên Hải đóng tại Tiên Sa, Ðà Nẵng gồm:

- Lực Lượng Hải Tuần và

- Lực Lượng Biệt Hải.

1. Lực Lượng Hải Tuần Có nhiệm vụ chính là thi hành những công tác hành quân đặc biệt bằng đường biển trong vùng lãnh hải Bắc Việt từ vĩ tuyến 17 Bắc trở lên, thả và vớt các toán Biệt Hải, các chiến đĩnh thuộc Lực Lượng Hải Tuần. Ngoài ra, còn thực hiện nhiều công tác riêng biệt khác như pháo kích, chận bắt tàu bè, chiến tranh tâm lý v.v... 2. Lực Lượng Biệt Hải có nhiệm vụ dùng người nhái xâm nhập Bắc Việt.

Hải Quân VNCH - lực lượng yểm trợ hùng mạnh





Hải Quân Việt Nam (HQVN) sinh trưởng vào đúng giai đoạn tinh thần dân tộc tự quyết trên toàn Thế giới nói chung và tại Việt Nam nói riêng đang lên cao, và bộ mặt thật cùng tham vọng bá quyền của CSBV đã hiện nguyên hình.

Năm 1950, một số thanh niên VN được tuyển mộ và gửi sang Pháp học ngắn hạn tại trường Sỹ quan HQ Brest. Nhưng không may, thời tiết miền Bắc nước Pháp năm đó lạnh đột ngột, khóa sinh VN không đủ thể lực để chịu đựng các khóa huấn luyện ngoài khơi, không có SVSQ nào tốt nghiệp.



Năm 1951, Dự án về Trung tâm  Huấn luyên Hải Quân (HLHQ) VN được khởi xướng. Năm 1952, 350 thanh niên ViN được HQ tuyển mộ. Phần lớn khóa sinh được thụ huấn tại VN, một số ít được dự trù gửi sang huấn luyện tại trường SQHQ Pháp tại Brest. Ngày 12 tháng 7 năm 1952, Trung tâm HLHQ Nha Trang bắt đầu khóa 1 Thủy Thủ chuyên nghiệp gồm 150 khóa sinh và sau đó 25 khóa sinh ưu tú được lựa chọn để theo khóa 1 Hạ Sỹ quan. Khoảng tháng 10 năm 1952, việc xây dựng TTHL tạm xong. Ngày 01 tháng 11 năm 1952, TTHLHQ Nha Trang khai giảng khóa 2 SQHQ gồm 12 SVSQ ngành chỉ huy, 4SVSQ ngành cơ khí. Đến tháng 7 năm 1953 khai giảng khóa 3. Về phần huấn luyện Hạ Sỹ quan lúc đầu Hải Quân không mở thẳng những cuộc thi tuyển từ ứng viên dân chính. TTHLHQ Nha Trang được ủy thác quyền chọn lựa các thủy thủ học viên xuất sắc nhất để tạo thành các HSQ chuyên nghiệp. Cho tới năm 1953 VN vẫn chưa có tàu, các tân sỹ quan và thủy thủ VN tập sự trên các chiến hạm của Pháp.



Sau nhiều khó khăn, cuối cùng HQVN cũng được chính thức ra đời vào ngày 10 tháng 4 năm 1953. Hải Quân lúc đó rất nhỏ nhoi, quân số chỉ chiếm vào khoảng 1/2 của 1% quân lực, tình trạng không những yếu ớt mà còn bị xé lẻ. Ngày 11 tháng 2 năm 1953 đánh dấu một ngày quan trọng khi Thủ tướng Bửu Lộc tháp tùng bởi Bộ trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát của VN và Bộ tưởng Quốc phòng Pleven của Pháp đến chủ tọa buổi lễ tại bờ sông Sài Gòn thì Quốc kỳ màu vàng ba sọc đỏ được kéo lên trên 3 chiến hạm M655 Aubepine, M656 Belladone và M657 Digitale. Số tàu và tên tàu sau đó được đổi sang HQ111 Hàm Tử, HQ112 Chương Dương, HQ113 Bạch Đằng. Hình ảnh này được trình bày trên tờ báo Documents VN No 70 ngày 1 er Mars 1954 phát hành tại Pháp.



Trong những năm đầu mới thành lập, các Sỹ quan HQVN chỉ mới tốt nghiệp từ quân trường. Vì cấp bậc còn quá thấp, Sỹ quan HQVN không đủ thâm niên để nắm giữ bất cứ một chức vụ quan trọng nào.Khoảng cuối năm 1955, khi HQ Pháp bắt đầu chuyển giao quyền chỉ huy các đơn vị thuộc Giang lực của VN, quân số HQVN rất khiêm tốn. Vào năm 1956, nếu không kể đến Hạm đội Pháp tại Viễn Đông, HQ Đại tá Recher là SQ thâm niên hiện diện tại HQ Pháp trên bờ. Ông đảm nhiệm hai chức vụ Phụ tá HQ cho Tổng Tham mưu trưởng và quyền chỉ huy HQVN. Ngày 1 tháng 7 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm bổ nhiệm Thiếu tướng Trần Văn Đôn vào chức vụ Trưởng ban HQVN thay thế Đại tá Recher. Vào ngày 20 tháng 8 năm 1955 Thủ tướng Ngô Đình Diệm chính thức bổ nhiệm HQ Thiếu tá Lê Quang Mỹ vào chức vụ Trưởng ban HQ cạnh Tổng TMT Quân đội QGVN (thay Tướng Đôn) để chỉ huy HQ và TQLC. Ngày 23 tháng 10 năm 1955 trong cuộc trưng cầu dân ý truất phế Bảo Đại, và bầu ông Ngô Đình Diệm làm Quốc trưởng, 98% cử tri tán thành. Tân Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tuyên bố Hiến ước tạm thời tại Dinh Độc Lập ngày 26 tháng 10 năm 1955: Việt Nam là nước Cộng Hòa, Quốc trưởng lấy danh hiệu là Tổng thống VNCH. HQVN danh xưng mới là Hải Quân VNCH.





Năm 1956 đánh dấu sự chấm dứt lệ thuộc nước Pháp, lực lượng HQ Pháp tại Viễn Đông chính thức giải tán vào ngày 26 tháng 4 năm 1956. Trong khi hai chính phủ Pháp và VN đang đối đầu về chính trị, với tư cách Tư lệnh HQ một quốc gia độc lập, HQ Thiếu tá Lê Quang Mỹ ký ngay lệnh bổ nhiệm các SQ HQVN nắm lấy hết quyền chỉ huy của SQ Pháp trên chiến hạm cũng như tại mọi đơn vị khác kể cả TQLC. Trong năm 1964, HQ VNCH đã tổ chức các cuộc hành quân ra ngoài Bắc vỹ tuyến 17. Các cảm tử quân Biệt Hải đã lập được nhiều chiến tích qua một số cuộc đọt kích xâm nhập vào khu vực Duyên Hải miền Bắc có căn cứ của CSBV. Ngày 3/8/1964 một toán đặc nhiệm Biệt Hải đã tấn công bằng pháo vào đài radar chính của CS tại mũi Vinh Sơn, phía nam thị xã Vinh. Năm 1965 CSBV gia tăng các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Chúng lén lút đưa người và vũ khí xâm nhập miền Nam bằng đường biển. Ngày 19 tháng 2 năm 1965 HQ VNCH đã đánh chìm một tàu của CSBV tại Vũng Rô, tịch thu nhiều chiến lợi phẩm. Tình hình chiến sự ngày càng leo thang bằng các cuộc xâm nhập của CSBV trên khắp 4 vùng chiến thuật. Quân đội chính thức đứng ra lãnh đạo Quốc gia vào ngày 19 tháng 6 năm 1955 và từ đây Quân đội quy định rõ ràng 3 quân chủng: Hải - Lục - Không Quân. Đại tướng Cao Văn Viên tạm thời kiêm nhiệm chức vụ Tư lệnh HQVN trong hai tháng 8 và 9 năm 1966.

Ozzie Nguyen

(bài viết được tổng hợp và phân tích từ nhiều nguồn)

Hải quân VNCH từng đứng hàng thứ 4 thế giới về số lượng tàu thuyền.

Sau đây là các Tàu chiến Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa được viết theo tiếng Anh và chữ tắc cũng theo tiếng Anh theo tiêu chuẩn quân sự của quốc tế:

Khu Trục Hạm/Destroyer Escort and Radar Picket/DER

Tuần Dương Hạm/White High Endurance Cutter/WHEC

Hộ Tống Hạm/Patrol Craft Escort/PCE

Giang Pháo Hạm/Landing Ship Infantry Light/LSIL

Trợ Chiến Hạm/Landing Ship Support Large/LSSL

Tuần Duyên Hạm/Patrol Gunboat Motor/PGM

Dương Vận Hạm/Landing Ship Tank/LST

Yểm Trợ Hạm/Auxiliary General Purpose/AGP

Cơ Xưởng Hạm/Vĩnh Long HQ 802/Landing Craft Repair Ship/LCRS

Hải Vận Hạm/Landing Ship Medium/LSM

Bệnh Viện Hạm/Landing Ship Medium Hospital/LSMH

Hỏa Vận Hạm/Yard Oiler Gunship/YOG

Thực Vận Hạm/Refrigerated Covered Lighter/RCL

Duyên Vận Hạm/Utility Boat 100 Feet/UB 100

Giang Vận Hạm/Landing Craft Utility/LCU

Giang Vận Hạm/Harbor Utility Craft/HUC

Trục Vớt Hạm/Salvage Light Lift Craft/SLLC

Kiểm Báo Hạm/Lights Ship/LS

Tuần Duyên Đỉnh/Patrol Boat/PB

Duyên Tốc Đỉnh/Patrol Craft Fast/PCF

Duyên Kích Đỉnh/Coastal Raider/Ferro Cement/CR/FC

Các tàu của COAST GUARD Mỹ đều mang chữ W ở đầu để dễ phân biệt (WHEC, WBP, WLV etc...)



Nguồn:
http://ngothelinh.tripod.com/ChuyenCongTac_ThanhHoa.html
https://caybut2.blogspot.com/2015/06/so-phong-ve-duyen-hai-i_50.html

 

 photo il_570xN.873243461_dkai_zpsvkdtgsh9.jpg
https://i.etsystatic.com/6305489/r/il/1cab49/2105470664/il_600x600.2105470664_28mw.jpg

No comments:

Post a Comment