Monday, April 19, 2021

tôi nói tiếng Việt cộng

http://www.tvvn.org/forums/xfa-blog-entry/t%C3%B4i-d%E1%BA%A1y-t%C3%B4i-ti%E1%BA%BFng-vi%E1%BB%87t.1538/

- Bập: Lấy. Như trong câu "Bố mày mới bập (lấy) của ông bà già một con dream (còn gọi là dem)"

- Choáng = Choáng váng. Như trong câu "Tôi cũng từng choáng khi vào khách sạn Metropole và thấy ở đây bày bán vô số đồ sang trọng"

- Chảnh: Kênh kiệu. Như trong câu "Con nhỏ đó chảnh dễ sợ!"

- Cực: Rất

- Lễ tân: Tiếp tân. Như trong câu "Tôi được vào ban lễ tân của khách sạn"

- Muỗi: Nhỏ. Như trong câu "Chuyện muỗi!"

- Khủng = Khủng khiếp. Như trong câu "Phim này hay khủng"

- Huệ )kiệt quệ) (phát âm "quệ" mới đúng): Cải lương, sến.

- Vi tính: Làm như hay lắm, ra vẻ ta đây. Vi dụ: Thằng ấy vi tính lắm cơ, lúc nào cũng đệm tiếng Anh khi nói chuyện.

- Tám: Nhiều chuyện

- Tinh vi: Ra vẻ ta đây.

- Trắng phớ: Nói thẳng ra đi

- Vô tư: Thoải mái, tự nhiên. Như trong câu "Ăn uống vô tư nhé!"

- Ứ chịu: Không chịu

- Rước: Mua về

- Oách: Hách, phách, oai

- Hơi bị: Diễn tả mức độ hơn trung bình và dưới mức quá cỡ một chút. Như trong câu "Cái này hơi bị khó hiểu à nghen"

- Xiềng: Khẳng định một sự việc gì mà người nói tin là chắc chắn 100%. Như trong câu "- Mày có chắc là như vậy không? - Xiềng".

- Phơ: Phê

- Bà cố: Nhiều, quá. Như trong câu "Con nhỏ đó đẹp bà cố luôn, thằng đó nói chuyện xạo bà cố"

- Củ chuối: Đểu, đểu giả. Như trong câu "Thằng đó củ chuối lắm (thằng đó đểu lắm)"

- NATO = No action talk only. Như trong câu "Thằng đó nằm trong khối NATO (chỉ biết nói chứ không biết làm)"

- Chuồn chuồn: Đàn ông

- Bươm bướm: Đàn bà.

- Giữa giữa: Đồng tình luyến ái

- Lác: ba xạo

- Vẹo: Mồi chài ai được món đồ gì đó. Như trong câu " Con nhỏ đó mới vẹo được thằng bồ nó chiếc xe Dream

- Nhão: Ỏng ẹo, điệu đàng, làm dáng, không tự nhiên. Như trong câu "Nhỏ đó nói chuyện nhão quá trời"

- Bèo: Rẻ mạt, giá rẻ. Như trong câu " Thằng đó mới mua được cái xe giá thiệt là bèo.

- Không có cửa: Không thể nào. Như trong câu "Thằng đó muốn cua tao hả, không có cửa đâu mày".

- Rối: Không có lối thoát. Như trong câu "tình cảm của tụi nó dạo này hơi bị rối??"

- MBA = Married but available! Như trong câu "Cha nội đó hả, khoái làm MBA!"

- Cháy IC: Chịu không nổi. Như trong câu "Đi xa như vậy "cháy IC sao"?"

- Chất lượng = Phẩm chất

- Điều nghiên = Điều tra nghiên cứu

- Giao lưu = Xã giao, ngoại giao

- Kênh = Đài

- Sự cố = Bất trắc, trở ngại

- Tranh thủ = Sắp xếp thời gian, lợi dụng cơ hội

- Truyện dài hơi = Trường thiên tiểu thuyết

- Truy xuất = Tra cứu

- Thiếu đói = Thiếu ăn, đói khổ. Như trong câu "Đồng bào ta đang "thiếu đói" trầm trọng"

- Xử lý = Giải quyết, đối phó

Hãy Gìn Giữ Tiếng- Việt - Trong - Sáng Của Saigon Cũ

http://www.lyhuong.net/uc/index.php/tiengviet/73-73

Việt cộng/cộng sản luôn luôn cần kẻ thù, cần văn hóa chiến tranh. Nếu không có kẻ thù thì họ thêu dệt ra kẻ thù. Bóng ma của kẻ thù là một cách để vừa tập trung sức mạnh vừa đánh lạc hướng dư luận. Đối diện với cái bóng ma đầy đe dọa ấy.

1946-54 và 1954-75, là quân sự hóa các hoạt động ngôn ngữ trong đời thường.

Văn học nghệ thuật biến thành hoặc “chiến trường” hoặc “mặt trận” hoặc “trận tuyến”; tác phẩm là “vũ khí”; viết lách là “tiến công”; “nhà thơ cũng phải biết xung phong”; “viết bài thơ trên báng súng”; “vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy / bên những dũng sĩ diệt xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”;

giới cầm bút biến thành “đội ngũ”, hình thành nên cái gọi là “đội quân văn nghệ” hay “lực lượng sáng tác”, ở đó mọi người đều là những “chiến sĩ cầm bút” và đều tuân theo một “cương lĩnh chiến đấu” và cùng nhau “hiệp đồng chiến đấu”.

các bài ký sự hôi hổi sức nóng của đời sống thực được xem là một “mũi xung kích” hoặc “mũi nhọn tiến công” của nền văn học mới.

Một nhà thơ hay một nhà văn trung thành với một vùng sáng tác nào đó thì được gọi là “bám trụ”;

đi tiên phong trong một lãnh vực nào đó thì biến thành “ngọn cờ”;

tập trung vào việc đả kích địch thì được ví với việc “nổ súng”;

thường xuyên phê phán địch thì được biểu dương là “nắm thắt lưng địch mà đánh”.

Trong thơ, có những “bài thơ rực lửa chiến đấu”; trong âm nhạc, có “tiếng hát át tiếng bom”.









Nỗi Buồn Tiếng Việt Thời Cộng Sản


Thế hệ của những người xấp xỉ tám mươi ở Nam kỳ lục tỉnh thuộc địa trực trị của Pháp đều bị bó buộc phải học tiếng Pháp như chuyển ngữ (langue véhicule, vehicle language) ở trường công lập. Mãi khi chánh quyền được trao trả lại cho người Việt, lên đại học mới được học chương trình bằng tiếng Việt. Công lao của quí vị giáo sư tiền bối xuất thân từ trường Pháp giúp Việt Nam hóa nền giáo dục phổ thông và chuyên môn thật là vô lượng.

Những danh từ luật học, triết học, khoa học, quân sự, hành chánh, chánh trị, kinh tế, v. v... căn bản dịch ra từ Pháp văn làm nền tảng cho chương trình giáo dục Việt Nam xuất hiện trong giai đoạn này, đa số là do những giáo sư, học giả dịch từ Pháp văn mà ra. Nên văn phạm và chánh tả tiếng Việt của người học chương trình thuộc địa Pháp trước đó có thể nói rất yếu vì chỉ học lóm, chớ trường Việt thời Pháp hầu như không có dạy, mà có thì tiếng Việt bi coi là “sinh ngữ”, một tuần hai giờ là cao ở trung học. Trong khi đó tiếng Pháp trong chương trình Đông Dương (DEPSI, Diplôme d Etudes Primaires Supérieures Indochinoises như bằng Trung Học Đệ Nhứt Cấp chương trình Việt) học sinh nào viết nghị luận luân lý Pháp mà trật ba lỗi chánh tả, văn phạm thì bài bị loại, thầy không chấm bài nữa. Lên đệ nhị cấp chương trình Pháp, học hai năm Seconde và Première thi Bac 1 (Tú Tài 1) và 1 năm Termnale nữa thi Bac 2 (Tú Tài 2), ai mà bị ba lỗi khi viết luận văn học hay triết học thì cũng bị loại, coi như đợi thi kỳ hai hay năm sau thi lại.

Nhừng người của thế hệ 80 bây giờ nhờ tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ, đã nghe từ trong bụng mẹ, nhập tâm suốt cả đời và nhờ mấy năm học đại học tiếng Việt rồi ra làm việc đọc, viết công văn tiếng Việt, tự mò mẫm chánh tả, văn phạm Việt Nam, chánh yếu là tự học mà khá lên. Qua Mỹ mấy chục năm sống với cộng đồng người Việt, đọc viết bằng tiếng Việt, nhờ anh em trong toà soạn hiểu hoàn cảnh, thương tình nên sửa chánh tả, t hay c, v hay d, hỏi hay ngã, v. v... dùm.

Dù trình độ chánh tả, văn phạm tiếng Việt yếu do học lóm nhiều hơn học ở trường, thế mà người viết bài này cũng cảm thấy rất buồn cho tiếng Việt trong thời Việt cộng, có thể nói là quá tệ. Vì nhiệm vụ của một người viết bình luận cho báo nên hàng ngày phải theo dõi tình hình trong nước, phải xem hình ảnh, nghe lời nói của đồng bào trong nước, thấy tiếng Việt trong 50 năm nằm trong gọng kềm cộng sản, sao tàn lụi không thể tưởng tượng nổi.

Sau 50 năm thời cộng sản, tiếng Việt vốn là con thuyền chuyên chở văn minh Việt, nguyên là cái tâm, cái hồn Việt, tiếng Việt còn thì người Việt còn, nay không còn nữa. Cách nói tiếng Việt thời cộng sản trong nước quen nói nhanh như muốn cướp lời người khác. Chữ Việt là đơn âm, chớ không phải đa âm, nên ông bà chúng ta ăn nói chẫm rãi, chỗ, chữ quan trọng ngâm nga ra như ngâm thơ, lên bổng xuống trầm giọng điệu để nhấn mạnh, để diễn cảm nên người Pháp, Mỹ thường nói tiếng Việt phát âm như một bài hát, với các dấu không, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng. Chữ Việt là đơn âm, một vần (monosylabic) chớ không phải đa âm, nhiều vần như chữ Pháp, Anh; nên nếu nói nhanh thì chữ này gần như nuốt chữ kia, như người Tàu nói xí xô xí xào, lắng tai nghe, nín thở nghe mà vẫn không kịp.

Cách nói nhanh nuốt âm của Việt cộng ảnh hưởng cách nói của người Việt một phần do cái loa của xã ấp, khóm phường, mỗi ngày nhồi nhét cách nói dai, nói dài, nói nhanh nuốt chữ một ngày ba lần, một tuần bảy ngày, một năm 365 ngày, thành tiếng Việt mất thanh, sắc, chữ nghĩa của tiếng Việt.

Thêm vào đó CSVN chiếm được Miền Bắc trước Miền Nam cả hai chục năm, nên cán bộ, đảng viên, bộ đội gốc nông thôn tràn vô Hà Nội và các thành phố sau năm 1954. Sau 1975 số ấy từ Miền Bắc tràn vào Miền Nam và chiếm hầu hết các vị trí then chốt khi “tiếp thu” chánh quyền của Miền Nam từ Bến Hải xuống Cà Mau. Nên ảnh hưởng Việt cộng Bắc Việt phủ lắp cả Miền Bắc rồi Miền Nam. Chữ nghĩa địa phương, cách phát âm, cách nói chuyện của những người cộng sản Bắc Việt này theo cán bộ, đảng viên, bộ đội cũng tràn ra khắp nước từ chữ nói đến chữ viết.

Để bên cạnh những “chữ của Việt cộng” do Việt cộng lấy từ chữ Hán, chữ Tàu thay cho tiếng Việt đã có, đã dùng để chứng tỏ Việt cộng làm cách mạng, thay cũ đổi mới để phận biệt người Việt Quốc và ta là người Việt cộng sản và để chữ của người Việt Quốc gia thành tử ngữ. Như chữ bảo đảm đã có và đã dùng quá lâu, quá quen rồi trong tiếng Việt thì Việt cộng đổi thành chữ “đảm bảo”, “đồng ý” thành “đồng tình”. Hay những chữ ăn cắp tiếng Tàu như “hồ hởi, phấn khởi, sự cố, hoành tráng, bức xúc”, Việt cộng Bắc Việt đem vào không bao lâu sau kể cả người Việt cộng Miền Nam cũng không nói vì mắc cỡ miệng.

Còn một số chữ địa phương, hay thổ ngữ ở miền Bắc, đa số là miền thượng du Bắc Việt gần Tàu, theo chân của cán bộ, đảng viên, bộ đội Việt cộng vào Nam cai trị, thành những lỗi chánh tả, văn phạm, phát âm sai biến tiếng Việt không còn là quốc ngữ chuẩn của Việt Nam nữa. Một vài thân hữu công tâm, không kỳ thị bắc nam gì cả, nêu ra một số phát âm sai những phụ âm đầu như CH/TR (huân chương thành huân “trương”, L/N (Hà Nội thành Hà lội), R/GI (Rác / Giác!) X/S (Xảy /Sảy)... là hoàn toàn của đồng bào bên kia kia vĩ tuyến 17 đem vào Nam trong cuộc di cư 1954.

Hai thời kỳ VNCH, và quân đội VNCH, trường học VNCH chuẩn hóa lại hết. Và những thổ ngữ của ngưới Miền Nam Miệt Vườn cũng được chuẩn hóa rất nhiều sau khi số đồng bào Miền Bắc di cư vào Nam. Người Nam dân Miệt Vườn khoái ăn giá sống, mắm và rau như người viết bài nầy cũng bớt hay hết phát âm sai chữ “r” thành chữ “g” với câu chọc cười hồi nhỏ chơi cho “dui dẻ”: bắt con cá “gô” bỏ vô “gổ”, nó nhảy nghe “gột gột.”

Nhưng thời Việt cộng thì khác. Do tinh thần thượng tôn của cộng sản Bắc Viêt, mà những sai phạm địa phương không được chuẩn hóa, mà lại bành trướng, nằm chình ình tại những nơi chữ nghĩa lẽ phải hết sức đúng chuẫn mực quốc gia. Tiêu biểu như cái lỗi chính tả to tổ bố, nó lại nằm trần trụi ngay trên biểu ngữ của Đại Học Sư Phạm Hà Nội. Trường đào tạo ra giáo chức để dạy chữ nghĩa cho lớp trẻ mà lại trương một biểu ngữ là Đại Hoc “Hà Lội”, chữ “chuyên ngành” viết thành chữ “chuyên nghành” (có chữ h giữa vần nga) trong lễ tốt nghiệp, trao bằng cho sinh viên. Trong một cuộc thi hoa hậu, quan trên trông xuống, người dân xem vào, tên Việt Nam lại viết thành “Việt Nem” trên dây băng đeo vắt ngang người đẹp.

Còn những bảng quảng cáo, bảng cấm thì quá nhiều sai.

— Bán “bún chả” viết là “bún TRẢ”;

— "vệ sinh chung” viết “vệ sinh TRUNG”;

— trao “huân chương” viết “huân TRƯƠNG”;

— “hạ giá” viết lại thành "hạ DÁ”;

— “đổ rác” thành "đổ GIÁC”;

— “xẩy ra” thành “SẨY ra”,

— “trước nhà thành” “CHƯỚC nhà”.

Tất cả những sai chánh tả này do phát âm địa phương Miền Bắc vùng xa xôi hẻo lánh mà ra. Tất cả những thí dụ nêu trên đều có hình ảnh đăng lên làm tiêu biểu. Có người làm thơ, phổ biến, gởi đọc cho “dui”, để cười ra nước mắt cho chữ nghĩa Việt Nam sau 50 năm cộng sản! /.

https://vietbao.com/a241473/noi-buon-tieng-viet-thoi-cs

Vi Anh

12/08/2015



 

 





Không dùng ngôn ngữ của Việt cộng


Dù xa quê hương hơn 20 năm, và môi trường tôi đang sống không cần phải dùng tiếng Việt nhiều, nhưng tôi vẫn thường xuyên đọc sách báo tiếng Việt và nói tiếng Việt ở trong gia đình hàng ngày hay với bạn bè vào mỗi cuối tuần và đều đặn nghe đài phát thanh Việt ngữ địa phương.

Tôi nghĩ tiếng Việt của tôi chưa đến nỗi mất mát đi nhiều, nhưng giờ đây sau khi đọc nhiều bài viết, tin tức, thông báo, tài liệu đăng trên báo hay nghe trên đài phát thanh tiếng Việt, tôi cảm thấy rất khó chịu và phải nói là nghe chướng tai gai mắt. Tôi không tài nào hiểu nổi nhiều từ ngữ mới lạ. Bài viết trích sau đây là một ví dụ (xin lỗi là tôi không thể nêu rõ nguồn gốc hay xuất sứ của bài viết).

“Theo dõi những thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng của chúng ta những ngày tháng gần đây, chúng tôi thấy có một vài thông tin vào loại nhạy cảm, nhưng lại được đưa tin có vẻ trái chiều nhau hoặc đang có một sự thật xảy ra trong tác nghiệp của các cơ quan báo chí: cơ quan này đưa tin này nhằm mục đích ngấm ngầm cải chính thông tin mà cơ quan báo chí kia đưa nhằm cầu lợi cho khuynh hướng chính trị nào đó của mình. Đó là một sự thật, mặt trái, mặt sau đời sống của xã hội-thông tin- báo chí.

Khách hàng tiếp nhận thông tin luôn đòi hỏi được cung cấp sản phẩm nguyên chất, nguyên gốc, nguyên bản, tức là chính xác, khách quan…

Cũng giống như đời sống xã hội, xã hội thông tin cũng đòi hỏi sự phong phú đa chiều để khách hàng có quyền được chọn lựa và định đoạt việc mình sẽ chấp nhận thứ, loại hàng hoá thông tin nào?” Phải chăng tiếng Việt của chúng ta đã thay đổi quá nhiều, thay đổi nầy phát xuất từ đâu và từ lúc nào? Sau 30 tháng 4 năm 1975, ngày Việt Cộng xâm chiếm miền Nam Việt Nam, họ đã mang theo hàng loạt những từ ngữ mới lạ thật khó nghe và chát tai. Điển hình như “đảm bảo” thay vì “bảo đảm”. Lạ làm sao là họ dùng cả hai “đảm bảo” và “bảo đảm” cùng một ý mới là lạ chứ! Nếu họ chỉ dùng “đảm bảo” không thì họ cho người miền Nam nói ngược cũng đành. Có lẽ VC hay ăn ngang n ói ngược nên thích nói ngược hơn nói xuôi, hay nói ngược cũng được, nói xuôi cũng được – tùy lúc, tùy sự việc, tùy đối tượng, v.v… Hơn nữa, lúc đầu VC lại cố tránh dùng chữ Hán Việt để tuyên truyền là tranh đấu cho dân tôc Việt Nam được độc lập. Họ sáng chế ra những chữ không thể nào nghe được, như “xưởng đẻ”.

Gần đây VC tự lột mặt giả dối yêu nước và hiện rõ ra là nô lệ Trung cộng qua cách sính dùng chữ Hán Việt theo Trung Cộng và đẻ ra những từ ngữ mới, từ những nhóm bốn năm chữ. Họ bớt đi những chữ phụ, lấy một vài chữ chính, rồi ghép lại thành một từ mới, tung lên báo chí, đài phát thanh, TV, người ta nghe riết rồi cũng quen và trở nên phổ biến cho dù sai bét be.

Ví dụ danh từ “tham quan” nghĩa đúng là chỉ các quan chức Việt Cộng tham nhũng hay tham lam. Trong khi nhóm chữ “tham quan” dùng với nghĩa là “xem” dưới thời Việt Cộng thì là quái thai của câu: “thăm viếng quan sát” thí dụ như phái đoàn nghệ sĩ đi thăm viếng hí viện và quan sát cách dựng cảnh kịch. “Đi tham quan” thật dài dòng, quan liêu, trịch thượng và sai so với nhóm chữ “đi xem” trước giờ người Việt không Việt Cộng vẫn dùng. Cũng trong lối nói cầu kỳ trịch thượng bắt chước Trung Cộng, Việt Cộng dùng chữ “báo cáo” và “khẩn trương” giữa bạn bè hay người thân thay vì chữ “nói” hay “thưa”, thí dụ:
Việt cộng ‘giai’ nói với Việt Cộng gái:
- “anh khẩn trương báo cáo với em hôm nay anh ăn tiểu táo 2.”
Nghe muốn buồn nôn, tưởng Việt Cộng ‘giai’ khoe táo bón nặng với Việt Cộng gái hóa ra là vội khoe được ăn nhiều (tiểu táo) đến nỗi táo bón.

Những từ ngữ mới nầy hầu như được dùng khá phổ biến ở thế hệ trẻ trong nước và nay bắt đầu lan tràn sang hải ngoại trên báo chí, Internet và đài phát thanh. Một nếp sống và ăn nói rởm không thể chấp nhận được. Dưới đây là bài viết của tác giả Đào Văn Bình phân tách các chữ Việt Cộng dùng và các chữ thay thế. Và theo bài viết của Châu Đậu “Nỗi Buồn Tiếng Việt” dưới đây, ông ta khuyên chúng ta nên dùng tiếng Việt cho Việt Nam một chút. Chớ nên dùng tiếng Việt như Việt Cộng nghe buồn cười lắm. Nếu chúng ta tìm không được từ ngoại quốc trong tiếng Việt, thì chúng ta có thể dùng tiếng ngoại quốc cũng được.

Hiện nay chúng ta đang sống trong xã hội văn minh, cuộc sống của chúng ta nay ít nhiều đã gắn liền với xã hội Tây phương. Một xã hội mà những phát minh mới về khoa học kỹ thuật và điện tử hầu như hàng ngày. Song song với những phát minh đó, thì những từ ngữ mới cũng sinh ra. Nếu chúng ta chưa tìm ra chữ mới cho tiếng Việt để dịch cho đúng nghĩa, thì có thể tạm thời dùng chữ ngoại quốc cũng chẳng sao.

Chúng ta không nên miễn cưỡng dịch cho sát nghĩa từ ngữ từ tiếng Anh sang tiếng Việt nghe không hay mà lại kỳ cục nữa. Thí dụ: Quần bò (quần Jean ) Nón nồi (nón bê rê /beret trong quân đội VNCH). Như những từ ngữ chúng ta đã dùng thời Pháp thuộc vậy và đến nay chúng ta vẫn còn dùng và Việt hóa nó, ví dụ: savon = xà bông, salon = ghế xa lông.

Không riêng gì Việt Nam, mà hầu hết các nước trên thế giới, họ cũng dùng từ ngữ ngoại quốc, còn hơn chúng ta cố gắng dịch sang tiếng Việt rồi ghép lại những từ ngữ như VC nghe không mấy văn chương chút nào. Câu hỏi ở đây là tại sao chúng ta không dùng những từ ngữ Việt Nam hay nói rõ hơn là từ VC chế ra? Câu trả lời là: VC thường hay thay đổi bất thường, tùy ý, tùy tiện muốn gì làm nấy, không có căn bản, không có luật lệ gì cả. Hôm nay thì vậy, ngày mai thì kia.
Đây không chỉ nói về văn chương hay từ ngữ, mà ngay cả những luật lệ, chính sách của họ cũng vậy – tùy lúc, tùy thời. Xuôi cũng được, ngược cũng xong. Đó là bản chất của VC. Như vậy thì làm sao chúng ta dùng từ ngữ của VC chế ra được!

Chúng ta nên kỹ lưỡng khi dịch những từ ngữ ngoại quốc sang tiếng Việt. Điều quan trọng là cần phải hiểu rõ và chính xác cái nghĩa gốc của nó trước khi dịch, không thì sẽ sai lệch đi cái ý chính của nó. Trong nhiều ngôn ngữ, một chữ thường có nhiều nghĩa, chưa nói đến nghĩa bóng và nghĩa đen. Do đó, chúng ta nên thận trọng khi dịch từ của một ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác. Ví dụ hai chữ Internet và www (World Wide Web) là hai chữ và ý khác nhau. Internet là hệ thống của những máy điện toán toàn cầu (Networks of networks connected world wide), trong khi đó www gồm những máy điện toán lưu trữ những tài liệu, hình ảnh, thâu thanh, phim, v.v. dùng phương tiên Internet để chúng ta tìm kiếm những tài liệu cần thiết. VC gọi chung (Internet và www) là “mạng” không chính xác khi chỉ cả hai.

Khi nói về điện chữ “positive” dịch là “dương tính”, còn chữ “negative” là “âm tính”. Nhưng khi nói đến một người bịnh khi thử bị “positive” một vi trùng gì, thì chúng ta không nên gọi là người đó có “dương tính” được, nhất là khi một cô gái bị ghi trong hồ sơ là có dương tính. Chúng ta nên nói là họ có triệu chứng, có bịnh, bị lây hay là nhiễm… dễ hiểu hơn hay khi thử một lực sĩ bị “positive” một loại thuốc cấm nào đó, thì chúng ta không thể nói anh hay cô ấy có “dương tính…” được, mà chúng ta nên nói là anh hay cô ta đã có triệu chứng có loại thuốc đó trong người.

Tuy nhiên vấn đề quan trọng nhất với ngôn ngữ là Việt Cộng dùng ngôn ngữ có mục đích tuyên truyền chính trị có lợi cho Việt Cộng và có hại cho người Quốc gia. Người Việt tỵ nạn Cộng Sản nên luôn cảnh giác không dùng các chữ theo lối Việt Cộng dùng. Thí dụ, người tỵ nạn Cộng Sản không thể nói “sau ngày giải phóng” khi nói đến sau ngày 30-4-1975 vì từ ngày đó người miền Nam tự do bị áp bức, kiềm chế, kiểm soát, theo dõi tại nhà, tại phường tại xóm, nghĩa là vào nhà tù nhỏ và lớn của Việt Cộng chứ không được giải phóng gì cả. Nếu người tỵ nạn nói sau 30-4-1975 là sau giải phóng thì họ không có lý do gì xin tỵ nạn ở ngoại quốc vì họ đã công nhận Việt Cộng giải phóng họ cho họ tự do.

Người miền Nam tự do không nên dùng chữ Ngụy để nói về mình như trong các chữ lính Ngụy, dân Ngụy, ngay cả khi nói đùa; thí dụ như “Tụi mình là dân Ngụy với nhau” vì chữ Ngụy có nghĩa là gian dối, chữ nhà Ngụy của Tào Tháo. Dù có một số nhược điểm nào đó nhưng đa số dân chúng miền Nam thật thà và trung thực hơn Việt Cộng gian dối, lừa đảo, sống giả, sống hèn. Việt Cộng dùng chữ Ngụy để chỉ miền Nam là để tuyên truyền rằng VC có chính nghĩa khi đi xâm chiếm một đất nước chúng cho là giả dối xấu xa. Người miền Nam tự do có tự trọng, không tự nhận và chấp nhận chữ 'Ngụy' cho chính mình, như thế, đảo ngược tư cách của mình. Chữ Ngụy phải dành cho chế độ Việt Cộng mới là nói đúng, viết đúng.

Trong chiều hướng mô tả thực tế chúng ta nên gọi chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xếp hàng cả ngày rất chính xác của người dân bình thường dùng. Xin đọc tác phẩm 1984 xuất bản năm 1949 để thấy văn hào George Orwell diễn tả cách Cộng Sản dùng ngôn ngữ đảo ngược thực tế để tuyên truyền tẩy não và nhồi sọ dân chúng, nói đen thành trắng.

Người viết chỉ mong đóng góp những ý kiến để xin mọi người lưu tâm luôn ý thức dùng tiếng Việt cẩn thận để diễn tả thực tế chính xác, gọn gàng, trong sáng và đơn giản. Sau đây là vài từ ngữ Việt cộng hay dùng mà người Quốc gia không cộng sản nên cẩn thận dùng hay tránh. Kèm đó là những chữ tương đương tiếng Việt hay tiếng Anh.

VNCH

Việt cộng

0- 30-4-1975/
1- Quốc Hận (ngày)
2- Việt Nam Cộng Hòa
3- Đi tù
4- Chung
5- Thợ
6- Xin liên lạc (contact)
7- Bực mình, khó chịu
8- Xem, viếng
9- Thưa, trình, nói, kể
10- Phẩm chất
11- thỉnh thoảng
12- Giải quyết, đối phó
13- trang chính, trang nhà
14- khích lệ, khuyến khích

0- 30-4-1975/
1- Giải phóng (ngày)
2- Ngụy
3- Đi học tập
4- chung chung
5- Nghệ nhân
6- Xin liên hệ
7- Bức xúc
8- Tham quan
9- Báo cáo (report)
10- Chất lượng
11- Thi thoảng
12- Xử lý
13- trang chủ
14- động viên


1 Sính: Thích đến mức lạm dụng quá đáng, để tỏ ra hơn người khác.
2 tiểu táo: quy chế ăn uống của cán bộ cao cấp trong quân đôi, phân biệt với trung táo, đại táo (Từ diển tiếng Việt nha xuất bản khoa học xã hội – Hà Nội 1994).

*

Source: http://lyhuong.net/viet/index.php?op…viet&Itemid=67

Người Tỵ Nạn (1982)

Úc Châu, tháng 7 năm 2009



 

 

Đọc thêm

 photo doubledot-5.jpg Chữ Nghĩa Việt Cộng
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

 photo doubledot-5.jpg Tiếng Việt và Tiếng Vẹm
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/tieng-viet-va-tieng-vem-tieng-viet-va.html

 

 photo doubledot-5.jpg Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet.html

 

======================================================

 

Quen mắt nhìn sai, thì quen tay viết sai.
Quen nghe nói sai, thì quen miệng nói sai.

 

 

======================================================

 

 photo CanhHoaHongDoTham_D_142x100_zpszvffqjak.png

 

 photo CanhHoaHongDoTham_D_142x100_zpszvffqjak.png

 

quen mắt nhìn sai, thì quen tay viết sai.

 

viết sai

    giòng nước
    giông tố
    sửa chửa
    ca sỹ, bác sỹ




viết đúng

    dòng nước
    dông tố
    sửa chữa
    ca sĩ, bác sĩ







***************************

 

Chữ Việt cộng

Chữ VNCH

chất lượng

phẩm chất

diễu hành
Diễu võ dương oai

diễn hành
Diễn võ dương oai

phản ánh

phản ảnh
(ảnh => dấu hỏi)=
reflection

neo đơn

đơn chiếc

bức xúc

bực tức, lo lắng,
bức rức, bồn chồn

đồ họa

họa đồ
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
(ca dao)

tiếp cận

tiếp xúc
"Tiếp cận" là chữ dùng trong toán học, trong khi "tiếp xúc" là chữ dùng trong đời sống.

tư vấn

cố vấn

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

   5
***************************

 

Chữ Việt cộng

Chữ VNCH

chất lượng

phẩm chất

diễu hành
Diễu võ dương oai

diễn hành
Diễn võ dương oai

phản ánh

phản ảnh
(ảnh => dấu hỏi)=
reflection

neo đơn

đơn chiếc

bức xúc

bực tức, lo lắng,
bức rức, bồn chồn

đồ họa

họa đồ
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
(ca dao)

tiếp cận

tiếp xúc
"Tiếp cận" là chữ dùng trong toán học, trong khi "tiếp xúc" là chữ dùng trong đời sống.

tư vấn

cố vấn

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

  
***************************
6
***************************
50%

 

Chữ Việt cộng

Chữ VNCH

chất lượng

phẩm chất

diễu hành
Diễu võ dương oai

diễn hành
Diễn võ dương oai

phản ánh

phản ảnh
(ảnh => dấu hỏi)=
reflection

neo đơn

đơn chiếc

bức xúc

bực tức, lo lắng,
bức rức, bồn chồn

đồ họa

họa đồ
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
(ca dao)

tiếp cận

tiếp xúc
"Tiếp cận" là chữ dùng trong toán học, trong khi "tiếp xúc" là chữ dùng trong đời sống.

tư vấn

cố vấn

tư liệu

tài liệu

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

 

  

 

Chữ Việt cộng

Chữ VNCH

chất lượng

phẩm chất

diễu hành
Diễu võ dương oai

diễn hành
Diễn võ dương oai

phản ánh

phản ảnh
(ảnh => dấu hỏi)=
reflection

neo đơn

đơn chiếc

bức xúc

bực tức, lo lắng,
bức rức, bồn chồn

đồ họa

họa đồ
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
(ca dao)

tiếp cận

tiếp xúc
"Tiếp cận" là chữ dùng trong toán học, trong khi "tiếp xúc" là chữ dùng trong đời sống.

tư vấn

cố vấn

tư liệu

tài liệu

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

sai

đúng

 

  
*************
#fee0d2

 

=======****========= p align="center"> 


Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ...

VNCH

Việt cộng

   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
  Trần Văn Giang
   Nguồn: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/tiengviet/77-77

 

888888888888888888888

 


Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ...

VNCH

Việt cộng

   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
  Trần Văn Giang
   Nguồn: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/tiengviet/77-77

 

0000000000000000000000
Trần Văn Giang
Nguồn: http://www.lyhuong.net/uc/index.php/tiengviet/77-77

 

Bảng Đối Chiếu Từ Ngữ...

Tiếng VC Tiếng Việt
Ấn tượng Đáng ghi nhớ, đáng nhớ
Bác sỹ / Ca sỹ Bác sĩ / Ca sĩ
Bang Tiểu bang (State)
Bắc bộ / Trung bộ / Nam bộ Bắc phần / Trung phần / Nam phần
Báo cáo Thưa trình, nói, kể
Bảo quản Che chở, giữ gìn, bảo vệ
Bài nói Diễn văn
Bảo hiểm (mũ) An tòan (mũ)
Bèo Rẻ (tiền)
Bị (đẹp) Không dùng động từ “bị;” chỉ dùng tĩnh từ (đẹp)
Bồi dưỡng Nghỉ ngơi, tẩm bổ, săn sóc, chăm nom, ăn uống đầy đủ
Bóng đá Túc cầu
Bức xúc Dồn nén, bực tức
Bất ngờ Ngạc nhiên (surprised)
Bổ sung Thêm, bổ túc
Cách ly Cô lập
Cảnh báo Báo động, phải chú ý
Cái A-lô Cái điện thọai (telephone receiver)
Cái đài Radio, máy phát thanh
Căn hộ Căn nhà
Căng (lắm) Căng thẳng (intense)
Cầu lông Vũ cầu
Chảnh Kiêu ngạo, làm tàng
Chất lượng Phẩm chất tốt (chỉ đề cập phẩm “quality,” không đề cập lượng “quantity”)
Chất xám Trí tuệ, sự thông minh
Chế độ Quy chế
Chỉ đạo Chỉ thị, ra lệnh
Chỉ tiêu Định suất
Chủ trì Chủ tọa
Chữa cháy Cứu hỏa
Chiêu đãi Thết đãi
Chui Lén lút
Chuyên chở Nói lên, nêu ra
Chuyển ngữ Dịch
Chứng minh nhân dân Thẻ Căn cuớc
Chủ đạo Chính
Co cụm Thu hẹp
Công đoàn Nghiệp đoàn
Công nghiệp Kỹ nghệ
Công trình Công tác
Cơ bản Căn bản
Cơ khí (tĩnh từ!) Cầu kỳ, phức tạp
Cơ sở Căn bản, nguồn gốc
Cửa khẩu Phi cảng, Hải cảng
Cụm từ Nhóm chữ
Cứu hộ Cứu cấp
Diện Thành phần
Dự kiến Phỏng định
Đào tị Tị nạn
Đầu ra / Đầu vào Xuất lượng / Nhập lượng
Đại táo / Tiểu táo Nấu ăn chung, ăn tập thể / Nấu ăn riêng, ăn gia đình
Đại trà Quy mô, cỡ lớn
Đảm bảo Bảo đảm
Đăng ký Ghi danh, ghi tên
Đáp án Kết quả, trả lời
Đề xuất Đề nghị
Đội ngũ Hàng ngũ
Động não Vận dụng trí óc, suy luận, suy nghĩ
Đồng bào dân tộc Đồng bào sắc tộc
Động thái Động lực
Động viên Khuyến khích
Đột xuất- Bất ngờ
Đường băng Phi đạo
Đường cao tốc Xa lộ
Gia công Làm ăn công
Giải phóng Lấy lại, đem đi… (riêng chữ này bị VC lạm dụng rất nhiều)
Giải phóng mặt bằng Ủi cho đất bằng
Giản đơn Đơn giản
Giao lưu Giao thiệp, trao đổi
Hạch toán Kế toán
Hải quan Quan Thuế
Hàng không dân dụng Hàng không dân sự
Hát đôi Song ca
Hát tốp Hợp ca
Hạt nhân (vũ khí) Nguyên tử
Hậu cần Tiếp liệu
Học vị Bằng cấp
Hệ quả Hậu quả
Hiện đại Tối tân
Hộ Nhà Gia đình
Hộ chiếu Sổ Thông hành
Hồ hởi Phấn khởi
Hộ khẩu Tờ khai gia đình
Hội chữ thập đỏ Hội Hồng Thập Tự
Hoành tráng Nguy nga, tráng lệ, đồ sộ
Hưng phấn Kích động, vui sướng
Hữu hảo Tốt đẹp
Hữu nghị Thân hữu
Huyện Quận
Kênh Băng tần (Channel)
Khả năng (có) Có thể xẩy ra (possible)
Khẩn trương Nhanh lên
Khâu Bộ phận, nhóm
Kiều hối Ngoại tệ
Kiệt suất Giỏi, xuất sắc
Kinh qua Trải qua
Làm gái Làm điếm
Làm việc Thẩm vấn, điều tra
Lầu năm góc / Nhà trắng Ngũ Giác Đài / Tòa Bạch Ốc
Liên hoan Đại hội, ăn mừng
Liên hệ Liên lạc (contact)
Linh tinh Vớ vẩn
Lính gái Nữ quân nhân
Lính thủy đánh bộ Thủy quân lục chiến
Lợi nhuận Lợi tức
Lược tóm Tóm lược
Lý giải Giải thích (explain)
Máy bay lên thẳng Trực thăng
Múa đôi Khiêu vũ
Mĩ – Mỹ (Hoa kỳ -USA)
Nắm bắt Nắm vững
Nâng cấp Nâng, hoặc đưa giá trị lên
Năng nổ Siêng năng, tháo vát
Nghệ nhân Thợ, nghệ sĩ
Nghệ danh Tên (nghệ sĩ stage name) dùng ngoài tên thật
Nghĩa vụ quân sự Đi quân dịch
Nghiêm túc Nghiêm chỉnh
Nghiệp dư Đi làm thêm (2nd job / nghề phụ, nghề tay trái)
Nhà khách Khách sạn
Nhất trí Đồng lòng, đồng ý
Nhất quán Luôn luôn, trước sau như một
Người nước ngoài Ngoại kiều
Nỗi niềm (tĩnh từ!) Vẻ suy tư
Phần cứng Cương liệu
Phần mềm Nhu liệu
Phản ánh Phản ảnh
Phản hồi Trả lời, hồi âm
Phát sóng Phát thanh
Phó Tiến Sĩ Cao Học
Phi khẩu Phi trường, phi cảng
Phi vụ Một vụ trao đổi thương mại (a business deal thương vụ)
Phục hồi nhân phẩm Hoàn lương
Phương án Kế hoạch
Quá tải Quá sức, quá mức
Quán triệt Hiểu rõ
Quản lý Quản trị
Quảng trường Công trường
Quân hàm Cấp bực
Quy hoạch Kế hoạch
Quy trình Tiến trình
Sốc (“shocked)” Kinh hoàng, kinh ngạc, ngạc nhiên
Sơ tán Tản cư
Sư đoàn
Sự cố Trở ngại
Tập đòan / Doanh nghiệp Công ty
Tên lửa Hỏa tiễn
Tham gia lưu thông (xe cộ) Lưu hành
Tham quan Thăm viếng
Thanh lý Thanh toán, chứng minh
Thân thương Thân mến
Thị phần Thị trường
Thu nhập Lợi tức
Thư giãn Tỉnh táo, giải trí
Thuyết phục (tính) Có lý (makes sense), hợp lý, tin được
Tiên tiến Xuất sắc
Tiến công Tấn công
Tiếp thu Tiếp nhận, thâu nhận, lãnh hội
Tiêu dùng Tiêu thụ
Tổ lái Phi hành đòan
Tờ rơi Truyền đơn
Tranh thủ Cố gắng
Trí tuệ Kiến thức
Triển khai Khai triển
Tư duy Suy nghĩ
Tư liệu Tài liệu
Từ Tiếng, chữ
Ùn tắc Tắt nghẽn
Vấn nạn Vấn đề
Vận động viên Lực sĩ
Vô tư Tự nhiên
Xác tín Chính xác
Xe con Xe du lịch
Xe khách Xe đò
Xử lý Giải quyết, thi hành

(… còn tiếp)

* Quý vị nào thấy có thêm những chữ lọai này ở đâu đó (?) hoặc thấy sự đối chiếu chưa đúng (!) thì xin vui lòng mách dùm để nhà cháu bổ túc (không phải bồ sung) và sửa đổi cho đúng (không phải là hoàn chỉnh) và cũng để mọi người cùng phấn khởi (không phải là hồ hởi) tham khảo - Đa tạ…

Trần Văn Giang [ghi chép lại]

 

Lời giới thiệu: Có những từ ngữ của miền Nam và miền Bắc trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 viết và cách dùng giống nhau; nhưng đồng thời cũng có rất nhiều chữ viết giống y hệt như nhau nhưng ý nghĩa (hòan tòan khác biệt) dễ dàng gây “hoang mang” (confused) nếu người đọc (hoặc người nghe) không biết trước.

Ở Việt Nam sau 1975, vì nhiều lý do, một số từ ngữ của miền Nam (VNCH) đã bị thay thế hẳn. Tuy nhiên văn hóa và truyền thông của cộng đồng người Việt tị nạn CS ở hải ngọai vẫn tiếp tục duy trì các từ ngữ VNCH.

Tôi cố gắng thu nhặt một số từ ngữ (của VC và VNCH) thuộc lọai “dễ dàng gây hoang mang” này và tạm xếp vào một bảng đối chiếu dưới đây để quí vị rộng đường tham khảo; tùy ý sử dụng; và để may ra giúp quí vị tránh các trường hợp đáng tiếc (bị đồng bào chung quanh hiểu lầm “địa chỉ” của mình).

T.V.G.

 

<p align="center">&nbsp;</p> <table align="center" bgcolor="#804040" border="" cellpadding="0" cellspacing="3" width="690"> <tbody> <tr> <td class="BoxTitle" align="center"><br><font color="#ffffff" font size="5"> <b>Bảng so sánh đối chiếu chữ</b> <br><br></font> </td> </tr> <tr> <td> <table bgcolor="#ffffff" border="1" cellpadding="3" cellspacing="3" width="100%"> <tbody> <tr> <td background="http://i870.photobucket.com/albums/ab261/mayman11/196stf.jpg" border="5" height="53" width="353"><p align="center"> <font color="#ffff00" size="6"> <b>VNCH </b> </font></p> </td><td background="http://i870.photobucket.com/albums/ab261/mayman11/196stf.jpg" border="5" height="53" width="353"><p align="center"> <font color="#ff0000" size="6"> <b>Việt cộng </b> </font></p> </td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <tr> <td class="Box"> <font color="#0000ff" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> <td class="Box"> <font color="#660000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; Thủ Đô Sài Gòn </font></td> </tr> <table bgcolor="#ffffff"border="1" cellpadding="3" cellspacing="3" width="100%"> <tbody> <tr> <td bgcolor="#ffff00" width="650"><font color="#000000" font size="5"> &nbsp;&nbsp; <b>Những blog khác </b> </font> </td> </tr> </tbody> </table> </td> </tr> </tbody> </table><p align="center">&nbsp;</p>

====
1

 photo oegnbsg_zpsvukdcukc.jpg Chữ Nghĩa Việt Cộng
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

*****

 

2


Bảng so sánh đối chiếu chữ

VNCH

Việt cộng

   Thủ Đô Sài Gòn   Hang Pắc Bó
   Thủ Đô Sài Gòn    Hang Pắc Bó
   Thủ Đô Sài Gòn    Hang Pắc Bó
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Thủ Đô Sài Gòn    Thủ Đô Sài Gòn
   Nguồn: Chữ Nghĩa Việt Cộng
   Chữ Nghĩa Việt Cộng https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

 photo 3acc6d5e-00c1-4b51-9ab8-f7e35407d885_zpslpk6tbdi.jpg  photo 2mn2owi_zpsqqhjxkhj.jpg

 

Photo:

https://img-fotki.yandex.ru/get/6302/65387414.960/0_16372f_dbd5c58c_S.jpg

 

Photo:

https://img-fotki.yandex.ru/get/6501/65387414.962/0_16376b_49ed5141_S.jpg

 

 

No comments:

Post a Comment