Monday, December 11, 2023

Tìm Hiểu Về Ban tổ chức Tết ở Cali kêu gọi sự ủng hộ gây Qủy để trang trải cho Tết Ở California
https://www.youtube.com/live/PwMSIJ9B0IM?si=-SgDCN6aSFqaLrJ0


Theo lịch vạn niên, ngày 30 Tết năm 2024 sẽ rơi vào thứ sáu, ngày 09/02/2024 dương lịch và mùng 1 Tết Nguyên đán Giáp Thìn là 10/02 dương lịch, rơi vào thứ bảy.



             
Dưới thời Việt cộng cai trị, tuy người dân nói ngôn ngữ tiếng Việt nhưng cái tâm hồn Hán-Mãn, thì là cái thực chất Hán nô là ở đây, ngay tại trong nước Việt Nam.

Một dân tộc mà đã bị đoạt linh hồn rồi thì dân tộc đó chỉ là con robot/người máy cho một chủng tộc khác điều khiển.
              


VÔ ĐỀ SÁNG CHỦ NHẬT 17/12/2023
https://www.youtube.com/live/5JU3O-eYdJ8?si=RwWbLE_cuq1rOxOR


TÁN GẪU SÁNG THỨ BẢY 16/12/2023
https://youtu.be/jLtwWxrPqGw?si=au1KqR9MgE89YEa1




 

Can Chi

Can Chi, đôi khi gọi dài dòng là Thiên Can Địa Chi hay Thập Can Thập Nhị Chi, là hệ thống đánh số thành chu kỳ được dùng tại các nước có nền văn hóa Á Đông như: Trung Quốc, Việt Nam, Đại Hàn, Nhật Bản và một số quốc gia khác. Nó được áp dụng với tổ hợp chu kỳ sáu mươi (60) trong âm lịch nói chung để xác định tên gọi của thời gian (ngày, giờ, năm, tháng) cũng như trong chiêm tinh học. Người ta cho rằng nó có xuất xứ từ thời nhà ThươngTrung Quốc[1].

 

Ý nghĩa

Can được gọi là Thiên Can (tiếng Hán: 天干; pinyin: tiāngān) hay Thập Can (tiếng Hán: 十干; pinyin: shígān) do có đúng mười (10) can khác nhau. Can cũng còn được phối hợp với Âm-DươngNgũ hành.

 

Danh sách 10 can

Số

Can

Việt

Hoa

Nhật

Âm-Dương

Hành

1

giáp

jiǎ

kinoe

Dương

Mộc

2

ất

kinoto

Âm

Mộc

3

bính

bǐng

hinoe

Dương

Hỏa

4

đinh

dīng

hinoto

Âm

Hỏa

5

mậu

tsuchinoe

Dương

Thổ

6

kỷ

tsuchinoto

Âm

Thổ

7

canh

gēng

kanoe

Dương

Kim

8

tân

xīn

kanoto

Âm

kim

9

nhâm

rén

mizunoe

Dương

Thủy

10

quý

guǐ

mizunoto

Âm

Thủy

 

Ý nghĩa

 

Chi hay Địa Chi (Hán: 地支 ; pinyin: dìzhī) hay Thập Nhị Chi (Hán: 十二支, shíèrzhī) do có đúng thập nhị (mười hai) chi. Đây là mười hai từ chỉ 12 con vật của hoàng đạo Trung Quốc dùng như để chỉ phương hướng, bốn mùa, ngày, tháng, năm và giờ ngày xưa (gọi là canh gấp đôi giờ hiện đại). Việc liên kết các yếu tố liên quan đến cuộc sống con người với Chi là rất phổ biến ở khu vực Đông Á Đông Nam Á.

 

....................................................

Danh sách 12 Chi

Số

Chi

Việt

Hoa

Nhật

Hàn

Hoàng đạo¹

Hướng

Mùa

Tháng âm lịch

Giờ²

1

ne

chuột

0° (bắc)

đông

11 (đông chí)

12 (nửa đêm)

2

sửu

chǒu

ushi

bò (trâu)

30°

đông

12

2 giờ đêm

3

dần

yín

tora

hổ

60°

xuân

1

4 giờ sáng

4

mão

mǎo

u

mèo (thỏ)

90° (đông)

xuân

2 (xuân phân)

6 giờ sáng

5

thìn

chén

tatsu

rồng

120°

xuân

3

8 giờ sáng

6

tỵ

mi

rắn

150°

4

10 giờ sáng

7

ngọ

uma

ngựa

180° (nam)

5 (hạ chí)

12 (giữa trưa)

8

mùi

wèi

hitsuji

cừu(dê)

210°

6

2 giờ trưa

9

thân

shēn

saru

khỉ

240°

thu

7

4 giờ chiều

10

dậu

yǒu

tori

270° (tây)

thu

8 (thu phân)

6 giờ chiều

11

tuất

inu

chó

300°

thu

9

8 giờ tối

12

hợi

hài

i

lợn

330°

đông

10

10 giờ tối

 

Giờ Âm Lịch - Dương Lịch

 

Tương truyền ngày xưa có một người tên Đại Nhiêu đã lập ra Thập Can và Thập Nhị Chi để giúp người ta tính toán thời gian. Việc tính giờ cũng có liên quan đến tập tính của 12 loài vật:

Tý (23-1 giờ): Lúc chuột đang hoạt động mạnh.

Sửu (1-3 giờ): Lúc trâu chuẩn bị đi cày.

Dần (3-5 giờ): Lúc hổ hung hãn nhất.

Mão (5-7 giờ): Lúc trăng vẫn còn chiếu sáng.

Thìn (7-9 giờ): Lúc đàn rồng quây mưa (quần long hành vũ).

Tỵ (9-11 giờ): Lúc rắn không hại người.

Ngọ (11-13 giờ): Ngựa có dương tính cao nên được xếp vào giữa trưa.

Mùi (13-15 giờ): Lúc dê ăn cỏ không ảnh hưởng tới việc cây cỏ mọc lại.

Thân (15-17 giờ): Lúc khỉ thích hú.

Dậu (17-19 giờ): Lúc gà bắt đầu vào chuồng.

Tuất (19-21 giờ): Lúc chó phải trông nhà.

Hợi (21-23 giờ): Lúc lợn ngủ say nhất.

 

 

60 tổ hợp Can Chi

 

Người ta ghép một can với một chi để tạo thành tên gọi chính thức của những cái cần đặt tên (ngày, giờ, tháng, năm v.v...) bắt đầu từ can Giáp và chi Tý tạo ra Giáp Tý, sau đó đến can Ất và chi Sửu tạo ra Ất Sửu và cứ như vậy cho đến hết (Bính,..., Quý) và (Dần ..., Hợi). Hết can (hoặc chi) cuối cùng thì nó tự động quay trở lại cho đến tổ hợp cuối cùng là Quý Hợi. Có tổng cộng 60 (bằng bội số chung nhỏ nhất của 1012) tổ hợp khác nhau của 10 can và 12 chi. Một chi có thể ghép với năm can và một can là sáu chi. 60 tổ hợp can chi là:

Bản Chu Kỳ 60 Năm

 

 

 

Bảng "Chu kỳ 60 năm"

Bảng tra nhanh: Chu kỳ Can Chi 60 năm


Giáp  

Ất      

Bính 

Đinh  

Mậu   

Kỷ      

Canh

Tân    

Nhâm

Quý   

1


13


25


37


49


Sửu


2


14


26


38


50

Dần

51


3


15


27


39


Mão


52


4


16


28


40

Thìn

41


53


5


17


29


Tỵ


42


54


6


18


30

Ngọ

31


43


55


7


19


Mùi


32


44


56


8


20

Thân

21


33


45


57


9


Dậu


22


34


46


58


10

Tuất

11


23


35


47


59


Hợi


12


24


36


48


60

 

八卦 Bát Quái

八卦

操作
本页使用了标题或全文手工转换
维基百科,自由的百科全书
Bát quái là khái niệm căn bản của "I Ching", có thể đại diện cho trạng thái động và tĩnh của tất cả các hiện tượng tự nhiên, và mỗi hình lục giác bao gồm ba Soạn. "Hexagram" có nghĩa là "treo", cũng có nghĩa là các hiện tượng khác nhau được đánh dấu và dựng lên từng cái một trong tám hình lục giác để dễ quan sát; Một hình lục giác có thể được treo trong nhiều, rất nhiều hiện tượng, nhưng nó không phải là tùy ý, và có những quy tắc cụ thể. Mọi hiện tượng đều có thể tìm thấy một hình lục giác để treo, và nó không phải là tùy tiện. Đầu tiên là hình ảnh, sau đó là hình lục giác. Viêng Chăn được đưa vào tin đồn, và tin đồn treo ở Viêng Chăn. Sử dụng bát quái làm hình mẫu cho Viêng Chăn và nghiên cứu và hiểu Bát quái sẽ giúp hiểu Viêng Chăn.

Thế hệ của I Ching Bagua có thể bắt nguồn từ Hetu và Luoshu, cũng như Tai Chi. Taiji sinh ra hai nghi lễ, hai nghi lễ sinh ra bốn con voi, bốn con voi sinh ra tin đồn, tin đồn quyết định thiện và ác, và may mắn và xấu xa sinh ra những nguyên nhân lớn.

Sự kết hợp của các vật phẩm trong Bát quái có thể

đại diện cho các hiện tượng hoặc động lực tự nhiên khác nhau, cụ thể là "trời, đất, nước, lửa, sấm sét, gió, núi và Ze" (có thể được gọi là tám con voi đầu tiên, vì Bát quái có thể được gọi là hình lục giác đầu tiên trong tám hiện tượng dễ nhìn thấy nhất này), và tên hình lục giác được gọi là "Qian, Kun, Kan, Li, Zhen, Xun (ㄒ ㄩ ㄣˋ), Gen, Dui". Bát quái I Ching đại diện cho các ý tưởng văn hóa Trung Quốc cổ đại như thiên văn học, địa lý, triết học, v.v., và các lý thuyết của nó cũng có liên quan

單卦(經卦)Hình lục giác đơn (Sutra Hexagram)[编辑 biên tập]

由三可組成一單卦經卦)Một hình lục giác duy nhất (kinh hexagram)。

八卦,意謂八單卦(八經卦)。Bát quái, có nghĩa là Ba Đan Hexagram (Ba Jing Hexagram)

伏羲八卦次序圖 ản đồ trình tự tin đồn Fuxi
八卦
四象 太陰 少陽 少陰 太陽
兩儀
太極 太極


八「單卦」(經卦)
符號 卦名 自然象徵
1 qián
2 duì
3
4 zhèn
5 xùn
6 kǎn
7 gèn
8 kūn

每一卦代表一種狀態或過程。Mỗi hình lục giác đại diện cho một trạng thái hoặc quá trình.

宋代朱熹在《周易本义》中寫了一首《八卦取象歌》幫助人記住八卦的卦象:

  • 乾三连(),坤六断(☷);
  • 震仰盂(☳),艮覆碗(☶);
  • 離中虚(☲),坎中满(☵);
  • 兌上缺(☱),巽下断(☴)。

背誦時可與「先天八卦圖」對應:由(乾)上而下,由(坤)左至右而上。Khi trì tụng, nó có thể tương ứng với sơ đồ bát quái bẩm sinh: từ (Qian) lên trên, từ (Kun) trái sang phải lên trên.

卦辭
  • 為天:元亨,利貞。
  • 為地:元亨,利牝馬之貞。君子有攸往,先迷後得主,利西南得朋,東北喪朋。安貞,吉。
  • 為水:習坎,有孚,維心亨,行有尚。
  • 為火:利貞,亨。畜牝牛,吉。
  • 為雷:亨。震來虩虩,笑言啞啞。震驚百里,不喪匕鬯。
  • 為山:艮其背,不獲其身,行其庭,不見其人,无咎。
  • 為風:小亨,利攸往,利見大人。
  • 為澤:亨,利貞。

重卦(別卦)[编辑]

伏羲先天八卦[编辑]

伏羲先天八卦
伏羲先天八卦圖








000000000000 "I Ching" (Tiểu sử lục giác): "Trời và đất được định vị, núi và sông được thông gió, sấm sét và gió mỏng, nước và lửa không bắn vào nhau. 」[2]。 " Định vị trời đất ☰ (Khô) Tam Diêu Tuyền Dương, có nghĩa là chuyển động đầy đủ, là hình ảnh của thiên thể. ☷ (Kun) Tam Diêu là tất cả âm, có nghĩa là hoàn toàn yên tĩnh, và là hình ảnh của trái đất. Vũ trụ học của tổ tiên là "trời đang di chuyển và trái đất yên tĩnh", và bầu trời ở trên và trái đất ở dưới, nghĩa là "trời và đất được định vị". Hệ thống thông gió Yamasawa ☶ Đường trên là đường dương, và đường giữa và dưới là đường âm. Phần trên đang di chuyển, và phần dưới chủ yếu là yên tĩnh, đó là hình ảnh của một "ngọn núi". ☱ (Với) đường trên là đường âm, và đường giữa và đường dưới là đường dương. Phần trên yên tĩnh, và phần dưới chủ yếu di chuyển, đó là dấu hiệu của "mưa". Khí núi tăng lên và mưa rơi, nghĩa là "thông gió núi". Ze là mưa [3], mưa rơi trên bầu trời, và những ngọn núi ra khỏi trái đất, vì vậy ☱ (dui) ngay ☰ sau (khô), (gen) bên cạnh ☷ (☶ kun). Giông bão mỏng ☳ (Sốc) đường dưới là đường dương, và đường giữa và đường trên là đường âm. Hầu hết phía trên đều yên tĩnh, và phía dưới hơi di chuyển, đó là hình ảnh của "sấm sét". Người xưa tin rằng sấm sét mọc lên từ mặt đất, vì vậy ☳ (động đất) cũng được xếp bên ☷ cạnh (kun). ☴ (Xun) đường dưới là đường âm, và đường giữa và đường trên là đường dương. Hầu hết phía trên đang di chuyển, và một phần nhỏ của phía dưới yên tĩnh, đó là hình ảnh của "gió". Người xưa tin rằng gió nổi lên trên bầu trời, vì vậy ☴ (Xun) cũng được xếp hàng ☰ bên cạnh (khô). Sấm sét nổi lên giữa lòng đất, và có không khí chảy (gió) dưới bầu trời, đó là "sấm sét và gió mỏng". Lửa và nước không bắn vào nhau ☵ (Kan) đường giữa là đường dương, và đường trên và đường dưới là đường âm. Ngoại vi tĩnh lặng và chuyển động, đó là hình ảnh của "nước". ☲ (Tắt) đường giữa là đường âm, và đường trên và dưới là đường dương. Ngoại vi đang di chuyển và cơ thể yên tĩnh, đó là hình ảnh của "lửa". Đó cũng là hình ảnh của "mặt trời". Người ta thường tin rằng sự tương ứng của sự sắp xếp Bát quái này (trời và đất, núi, giông bão, nước và lửa) là hài hòa với các hiện tượng thiên nhiên [4].
(後天)八卦/文王八卦(the Manifested , "Later Heaven," or "King Wen" bagua.)[1]
------------------- -------
Bản đồ của Chu Văn








trật tự
Sau triều đại nhà Tống, có hai loại thứ tự buôn chuyện: "Qian, 兌, Li, Zhen, Xun, Kan, Gen, Kun" và "Qian, Kan, Gen, Zhen, Xun, Li, Kun, 兌", loại thứ nhất được gọi là "Fuxi
Bagua Order", và loại thứ hai được gọi là "Wenwang Bagua Order".
Giải thích hình lục giác
Bát quái và 64 quẻ
Bát quái và 64 quẻ

Bát quái (: 八卦) là 8 quẻ[1] được áp dụng trong vũ trụ học theo quan niệm trong Đạo giáo như là đại diện cho các yếu tố căn bản của vũ trụ, được xem như là một chuỗi tám khái niệm có liên quan với nhau. Mỗi quẻ gồm ba hàng, mỗi hàng là nét rời (hào âm) hoặc nét liền (hào dương), tương ứng đại diện cho âm hoặc dương.

Bát quái có liên quan đến triết học thái cựcngũ hành và cả ba đều của Kinh Dịch.[2] Các mối quan hệ giữa các quẻ được thể hiện trong hai đồ hình là Tiên Thiên Bát Quái (先天 八卦)[3] hay còn gọi là Phục Hy bát quái (伏羲 八卦), và Hậu Thiên Bát Quái (後天 八卦)[3] hay còn gọi là Văn Vương bát quái. Bát quái được ứng dụng trong thiên văn học, chiêm tinh học, địa lý, phong thủy, giải phẫu học, gia đình, và những lĩnh vực khác.[4][5]

Kinh Dịch của thời cổ đại ở Đông Á có 64 quẻ được tạo ra từ cách bắt cặp 8 quẻ của bát quái, và có những lời bình giải cho từng quẻ này.

八卦 Bát Quái
乾 Càn
兌 Đoài
離 Ly
震 Chấn
巽 Tốn
坎 Khảm
艮 Cấn
坤 Khôn
Thiên/Trời Trạch/Đầm/Hồ Hỏa/Lửa Lôi/Sấm Phong/Gió Thủy/Nước Sơn/Núi Địa/Đất
天 Tiān 澤(泽) Zé 火 Huǒ 雷 Léi 風(风) Fēng 水 Shuǐ 山 Shān 地 Dì

Nguồn gốc

Sơ đồ hình thành bát quái.

Bát quái có thể hình thành từ hai nguồn. Đầu tiên là từ triết lý âm dương. Những mối tương quan trong triết lý này được cho là của Phục Hy, như sau:


Vô cực sanh hữu cực, hữu cực thị thái cực;
Thái Cực sanh lưỡng nghi, tức âm dương;
Lưỡng nghi sanh tứ tượng: tức thiếu âm, thái âm, thiếu dương, thái dương;
Tứ tượng diễn bát quái, bát bát lục thập tứ quái.

Nguồn thứ hai là từ Văn Vương nhà Chu: "Khi thế giới bắt đầu, đã có trời và đất. Trời phối hợp với đất sinh ra tất cả mọi thứ trong thế giới. Trời là quẻ Càn và đất là Khôn. Sáu quẻ còn lại là con trai và con gái của họ."

Bát quái có liên quan đến ngũ hành, được các nhà phong thủy và y học cổ truyền Việt cổ sử dụng. Ngũ hành gồm kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Quái khảm (nước) và quái ly (lửa) tương ứng trực tiếp với hành thủy và hành hỏa. Hành thổ tương ứng với quái Khôn (địa) và Cấn (núi). Hành mộc tương ứng với quái Tốn (gió) và Chấn (sấm). Hành kim tương ứng với quái càn (trời) và đoài (đầm).

Có tất cả tám bát quái (八卦):

Hình bát quái Giá trị nhị phân Tên Ý nghĩa: Wilhelm[6] Hình ảnh trong thiên nhiên (pp.l-li) Phương hướng(p. 269) Mối quan hệ gia đình (p. 274) Bộ phận cơ thể (p. 274) Tính chất (p. 273) Giai đoạn/Trạng thái (pp.l-li) Linh vật (p. 273)
1 111
Càn
sáng tạo thiên (trời)
tây bắc cha đầu cứng, mạnh, khỏe sáng tạo
mã (ngựa)
2 110
Đoài
vui sướng trạch (đầm, hồ)
tây con gái út miệng dễ chịu thanh bình
dương (con dê)
3 101
Ly
bám lấy hỏa (lửa)
nam con gái thứ mắt soi sáng, sự phụ thuộc bám lấy, sự rõ ràng, thích nghi
trĩ (con chim trĩ)
4 100
Chấn
khơi dậy lôi (sấm sét)
đông con trai trưởng chân dịch chuyển có tác động khởi đầu
Long (rồng)
5 011
Tốn
dịu dàng phong (gió)
đông nam con gái trưởng bắp đùi thông suốt (hiểu rõ) sự len vào một cách dễ chịu
kê (con gà)
6 010
Khảm
không đáy thủy (nước)
bắc con trai thứ tai nguy hiểm đang chuyển động
thỉ (con heo)
7 001
Cấn
vững chắc sơn (núi)
đông bắc con trai út tay thư giãn, đứng vững hoàn thành
cẩu (con chó)
8 000
Khôn
tiếp thu địa (đất)
tây nam mẹ bụng hết lòng (tận tụy), dễ tính dễ tiếp thu
ngưu (con trâu)

Bát quái đồ

Tiên Thiên Bát Quái Ngũ Hành

Tiên Thiên Bát Quái đồ.
卦名
Tên quẻ
自然
Thiên nhiên
季节
Mùa
性情
Tính tình
家族
Gia đình
方位
Phương hướng
意義
Ý nghĩa
Càn 天 Thiên/Trời Hạ Sáng tạo 父 Cha 南 Nam Năng lượng mở rộng, bầu trời. Xem thêm, thiên.
Tốn 風 Phong/Gió Hạ Dịu dàng 長女 Trưởng nữ/Con gái đầu 西南 Tây Nam Nhẹ nhàng xuyên qua, lùa qua, thấm qua - tính linh hoạt.
Khảm 水 Thủy/Nước Thu Sâu sắc 中男 Thứ nam/Con trai thứ 西 Tây Nguy hiểm, sông chảy cuồn cuộn, vực thẳm, Mặt Trăng.
Cấn 山 Sơn/Núi Thu Tĩnh lặng 少男 Thiếu nam/Con trai út 西北 Tây Bắc Sự tĩnh lặng, không thay đổi.
Khôn 地 Địa/Đất Đông Nhường nhịn 母 Mẹ 北 Bắc Năng lượng tiếp thu, có tính khuất phục. Xem thêm, địa.
Chấn 雷 Lôi/Sấm Đông Kích động 長男 Trưởng nam/Con trai đầu 東北 Đông Bắc Kích thích, cách mạng, bất hòa.
Ly 火 Hỏa/Lửa Xuân Trung thành 中女 Thứ nữ/Con gái thứ 東 Đông Chuyển động nhanh, rạng rỡ, mặt trời.
Đoài 澤 Trạch/Đầm/Hồ Xuân Hân hoan 少女 Thiếu nữ/Con gái út 東南 Đông Nam Niềm vui, sự hài lòng, trì trệ, ứ đọng, tù hãm.

Bát Nhân Đại Gia: Một gia đình có tám người;Bố Mẹ, ba con gái ba con trai xen kẽ nhau, đó là một gia đình đặc biệt.

Hậu Thiên Bát Quái

Hậu Thiên Bát Quái Đồ
卦名
Tên quẻ
自然
Thiên nhiên
季节
Mùa
性情
Nhân cách
家族
Gia đình
方位
Phương hướng
意義
Ý nghĩa
 Ly 火 Hỏa Hạ Đeo bám Thứ nữ 中女 南 Nam Chuyển động nhanh, rạng rỡ, mặt trời.
 Khôn 地 Địa Hạ Dễ tiếp thu Mẹ 母 西南 Đông Nam Năng lượng tiếp thu, thứ mà sinh ra.
 Đoài 澤 Trạch/Đầm/Hồ Thu Vui sướng Con gái út 少女 西 Tây Niềm vui, sự thỏa mãn, sự trì trệ.
 Càn 天 Thiên/Trời Thu Sáng tạo Cha 父 西北 Tây Bắc Năng lượng mở rộng, bầu trời.
 Khảm 水 Thủy/Nước Đông Không thăm dò được Thứ nam/con trai thứ 中男 北 Bắc Nguy hiểm, sông chảy cuồn cuộn, vực thẳm, Mặt Trăng.
 Cấn 山 Sơn/Núi Đông Làm thinh Con trai út 少男 東北 Đông Bắc Sự tĩnh lặng, không thay đổi (bất biến).
 Chấn 雷 Lôi/Sấm Xuân Khiêu khích Trưởng nam/con trai tưởng 長男 東 Đông Sự kích thích, cách mạng, chia rẽ (phân ly).
 Tốn 風 Phong/Gió Xuân Hiền lành, dịu dàng Trưởng nữ/Con gái đầu 長女 東南 Tây Nam Sự thâm nhập nhẹ nhàng, sự linh hoạt.

Bát quái, có nghĩa là Ba Đan Hexagram (Ba Jing Hexagram)



伏羲八卦次序圖
ản đồ trình tự Fuxi
八卦 / 坤 /
四象 太陰 少陽 少陰 太陽
兩儀
太極 太極


八「單卦」(經卦)
符號 卦名 自然象徵
1 qián
2 duì
3
4 zhèn
5 xùn
6 kǎn
7 gèn
8 kūn

每一卦代表一種狀態或過程。

宋代朱熹在《周易本义》中寫了一首《八卦取象歌》幫助人記住八卦的卦象:

  • 乾三连(),坤六断(☷);
  • 震仰盂(☳),艮覆碗(☶);
  • 離中虚(☲),坎中满(☵);
  • 兌上缺(☱),巽下断(☴)。

 




Kinh Dịch

Kinh Dịch
Kinh Dịch
Thông tin sách
Quốc gia Đông Á
Yi Ching
易經
Trang tiêu đề của một ấn bản triều đại nhà Tống của sách Kinh Dịch
Thông tin sách
Quốc giaNhà Chu
Thể loạiBói toán, vũ trụ học
I Ching
Phồn thể易經
Giản thể易经
Bính âm Hán ngữYìjīng

Kinh Dịch (giản thể: 易经; phồn thể: 易經, bính âm: Yì Jīng; IPA Quảng Đông: jɪk gɪŋ; Việt bính Quảng Đông: jik ging; các kiểu Latinh hóa khác: Yi Jing, I Ching, Yi King) là bộ sách kinh điển của nước Trung Hoavăn hóa của quốc gia này, là một trong "Ngũ Kinh" của Trung Hoa, là một hệ thống tư tưởng triết học của người Trung Quốc cổ đại. Tư tưởng triết học cơ bản dựa trên cơ sở của sự cân bằng thông qua đối kháng và thay đổi (chuyển dịch). Ban đầu, Kinh Dịch được coi là một hệ thống để bói toán, nhưng sau đó được phát triển dần lên bởi các nhà triết học Trung Hoa. Cho tới nay, Kinh Dịch đã được bổ sung các nội dung nhằm diễn giải ý nghĩa cũng như truyền đạt các tư tưởng triết học cổ Á Đông và được coi là một tinh hoa của cổ học Trung Hoa. Nó được vận dụng vào rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống như thiên văn, địa lý, quân sự, nhân mệnh..

Lịch sử ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Kinh Dịch được cho là có nguồn gốc từ huyền thoại Phục Hy (伏羲 Fú Xī). Theo nghĩa này thì ông là một nhà văn hóa, một trong Tam Hoàng của Trung Hoa thời thượng cổ (khoảng 2852-2738 TCN, theo huyền thoại), được cho người sáng tạo ra bát quái (八卦 bā gùa) là tổ hợp của ba hào. Dưới triều vua Vũ (禹 ) nhà Hạ, bát quái đã phát triển thành quẻ, có tất cả sáu mươi tư quẻ (六十四卦 lìu shí­ sì gùa), được ghi chép lại trong kinh Liên Sơn (連山 Lián Shān) còn gọi là Liên Sơn Dịch. Liên Sơn, có nghĩa là "các dãy núi liên tiếp" trong tiếng Hoa, bắt đầu bằng quẻ Thuần Cấn (艮 gèn) (núi), với nội quáingoại quái đều là Cấn (tức hai ngọn núi liên tiếp nhau) hay là Tiên Thiên Bát Quái.

Sau khi nhà Hạ bị nhà Thương thay thế, các quẻ sáu hào được suy diễn ra để tạo thành Quy Tàng (歸藏 Gūi Cáng; còn gọi là Quy Tàng Dịch), và quẻ Thuần Khôn (坤 kūn) trở thành quẻ đầu tiên. Trong Quy Tàng, đất (Khôn) được coi như là quẻ đầu tiên. Vào thời kỳ cuối của nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu diễn giải quẻ (gọi là thoán hay soán) và khám phá ra là quẻ Thuần Càn (乾 qián) (trời) biểu lộ sự ra đời của nhà Chu. Sau đó ông miêu tả lại các quẻ theo bản chất tự nhiên của chúng trong Thoán Từ (卦辭 guà cí) và quẻ Thuần Càn trở thành quẻ đầu tiên. Hậu Thiên Bát Quái ra đời.

Khi vua Chu Vũ Vương (con vua Văn Vương) tiêu diệt nhà Thương, em ông là Chu Công Đán tạo ra Hào Từ (爻辭 yáo cí), để giải thích dễ hiểu hơn ý nghĩa của mỗi hào trong mỗi quẻ. Tính triết học của nó ảnh hưởng mạnh đến chính quyền và văn học thời nhà Chu (khoảng 1122-256 TCN).

Muộn hơn, trong thời kỳ Xuân Thu (khoảng 722-481 TCN), Khổng Tử đã viết Thập Dực (十翼 shí yì), để chú giải Kinh Dịch. Ông nói "Nếu trời để cho ta sống thêm mươi năm nữa thì ta sẽ đọc thông Kinh Dịch. Năm mươi tuổi mới học Kinh Dịch cũng có thể không mắc phải sai lầm lớn.".[1] Vào thời Hán Vũ Đế (漢武帝 Hàn Wǔ Dì) của nhà Tây Hán (khoảng 200 TCN), Thập Dực được gọi là Dịch truyện (易傳 yì zhùan), và cùng với Kinh Dịch nó tạo thành Chu Dịch (周易 zhōu yì).

Trong hơn 50 năm qua, lịch sử "hiện đại" của Kinh Dịch đã trỗi dậy, dựa trên cơ sở các phê phán và tìm kiếm bản khắc mai rùa thời Thương và Chu cũng như bản khắc trên đồ đồng thời Chu và các nguồn khác (xem dưới đây). Việc xây dựng lại nguồn gốc của Kinh Dịch này có quan hệ với một loạt các cuốn sách như The Mandate of Heaven: Hidden History in the I Ching của tác giả: S. J. Marshall và Zhouyi: The Book of Changes của Richard Rutt, (xem Tham khảo dưới đây). Các nghiên cứu khoa học có liên quan đến cách hiểu mới về Kinh Dịch bao gồm các luận án tiến sĩ của Richard Kunst và Edward Shaughnessy. Các công trình khoa học này được giúp đỡ rất nhiều bởi phát hiện trong những năm 1970 của các nhà khảo cổ học Trung Quốc về các ngôi mộ cổ còn gần như nguyên vẹn từ thời nhà HánMã Vương Đôi (馬王堆) gần Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Một trong các ngôi mộ chứa bản Kinh Dịch gần như còn hoàn hảo vào khoảng thế kỷ II TCN, Đạo Đức Kinh và các tác phẩm khác, nói chung rất giống với những bản còn tồn tại đến ngày nay tuy có một số sai biệt nhỏ.

Văn bản trong ngôi mộ cổ bao gồm cả những chú giải bổ sung của Kinh Dịch mà trước đây người ta không được biết và có vẻ như được viết ra (như người ta vẫn gán cho) bởi Khổng Tử. Mọi văn bản trong ngôi mộ ở Mã Vương Đôi là sớm hơn vài thế kỷ so với các bản sớm nhất được công nhận. Khi nói về sự tiến hóa của Kinh Dịch các nhà khoa học nghiêng về xu hướng hiện đại cho rằng đây là điều quan trọng để phân biệt giữa văn bản của Kinh Dịch truyền thống và văn bản giống như Kinh Dịch (mà theo họ là sai niên đại), nằm trong những chú giải được thần thánh hóa suốt hàng thế kỷ cùng với chủ thể của chúng, và các nghiên cứu lịch sử gần đây nhất còn nhận được hỗ trợ bởi các phê phán của các nhà ngôn ngữ học hiện đại và khảo cổ học. Nhiều người cho rằng các văn bản này không nhất thiết phải loại trừ lẫn nhau.

Tuy đa phần các văn bản và học giả xưa nay đều cho rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn hóa Hoa Hạ tại Trung Quốc, gần đây một số tác giả Việt Nam như Kim Định, Nguyễn Thiếu Dũng và Thích Viên Như[2] lại cho rằng Kinh Dịch do người Việt cổ sáng chế, dựa trên việc có một số khái niệm giống như Kinh Dịch được mã hóa trên các họa tiết trống đồngtranh Đông Hồ. Tuy nhiên, những giả thuyết này mang tính suy diễn chủ quan, vẫn chưa thoát khỏi sự ràng buộc của truyền thuyết và cũng chưa tìm được các bằng chứng khảo cổ để chứng minh, nên chưa đủ sức thuyết phục ngay cả đối với giới học giả trong nước Việt Nam. Mặt khác, đối chiếu niên đại thì các giả thuyết này thể hiện sự vô lý: trống đồng của người Việt có niên đại cổ nhất là khoảng gần 2.800 năm trước, tranh Đông Hồ thì chỉ mới xuất hiện vài trăm năm trước, trong khi các yếu tố của Kinh Dịch đã được người Trung Quốc ghi lại trên giáp cốt văn từ thời nhà Thương cách đây 3.500 năm rồi, nên càng không có căn cứ để nói rằng Kinh Dịch là sáng tạo của người Việt.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tứ thư, Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội, 2003, trang 242
  2. ^ Thích Viên Như (ngày 16 tháng 10 năm 2014). “Sách khẳng định người Việt sáng tạo ra kinh Dịch”. VnExpress. Hồng Đức. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2020.

Tiếng Việt[sửa | sửa mã nguồn]

  • Kinh Dịch, Ngô Tất Tố dịch và chú giải, Nhà xuất bản Văn học, 2003
  • Nguyễn Hiến Lê, Kinh Dịch - Đạo của người quân tử, Nhà xuất bản Văn học 1992.
  • Khổng Tử, Kinh thư, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, 2002]
  • Nguyễn Vũ Tuấn Anh, Tìm về cội nguồn Kinh Dịch, Nhà xuất bản ĐH Quốc gia, 2001
  • Phan Bội Châu, Quốc Văn Chu Dịch Diễn Giải, Nhà xuất bản văn học, 2010
  • Kim Định, Dịch Kinh Linh Thể, Nhà xuất bản Ra Khơi, 1970

(tiếng Việt)

(tiếng Anh)



Outlining



Outlining is dividing a topic into major sections and supporting those with details.

outline is not perfectly balanced; some sections are usually longer than other. If you have only one subpoint, integrate it with the main item above it or reorganize. Use details, illustrations, and evidence to support subpoints. but not to put a single topic under a major component.

outline is not part of the final report, it is a valuable tool of the writer.



Bách Việt và Trung Hoa quan hệ như thế nào?

Bách Việt không phải là một nền văn minh hay văn hóa đồng nhất, tại vì trong các khu vực này từng có bốn nên văn minh cổ đại và bốn nên văn minh này không có tổ tiên giống nhau. Theo ký lục của sử ký, văn minh cổ đại nhất là Sở.

Sở tổ tiên là Chuyên Húc 4000 BC.

Ngô tổ tiên là Chu thái Vương 2,500 BC.

Việt tổ tiên là Vũ 4000 BC.

Âu Lạc tổ tiên là Thần Nông.

Nguồn gốc của văn minh Trung Hoa là do Hai thị tộc tạo nên Hiên Viên và Thần Nông.
Nhưng thời đại của hai vị này không bằng nhau.

Hiên Viên tức là Hoàng Đế.

Sau đó Hoàng Đế sinh ra Chuyên Húc.

Chuyên Húc sinh ra Cổn.

Cổn sinh ra vũ. Vũ sáng lập triều Hạ.

Sau triều Hạ là triều Thương.

Sau triều Thương là triều Chu.

Vũ sinh ra Khải

Nguồn gốc của tên “Bách Việt”.

Sự có mặt sớm nhất của tên Bách Việt là trong sách sử ký “Lã Thị Xuân Thu”:

Giang Hán Chi Nam, Bách Việt Chi Tế.

Ở phía nam sông Trường Giang và Hán Thủy, ở giữa bên Bách Việt.

Tại sao tôi phiên dịch là “ở giữa bên Bách Việt”?
Tại vì Bách Việt thực sự mang ý nghĩa là “Trăm Việt”, tức là “các Việt”.

Bách Việt là chỉ nhiều khu vực chia cách ở phía nam sông Trường Giang và Hán Thủy, có nhiều dân cư sống, ví dụ:

Ngô Việt, đây là Đông Việt, đây là Mân Việt, đây là Dương Việt, đây là Nam Việt, đây là Tây Việt, và cuối cùng là Âu Việt và Lạc Việt.
Âu Lạc

Thứ nhất: Tổ tiên là Thần Nông. Thần Nông sớm hơn thị tộc của Hoàng Đế (Hiên Viên Hoàng Đế) 520 năm, vì thời đại trước của Hoàng Đế là do Thần Nông thống trị.

Thứ hai: Tổ tiên của văn minh Sở và Việt là Hoàng Đế, tại vì Hoàng Đế là cha ông của Chuyên Húc và Vũ.

Thứ ba: Ngô, tổ tiên là Chu Thái Vương.

Tổ tiên triều Chu là Khí, không biết bố của Khí là ai. Tức là một trong các nhà của triều Chu.

Còn tổ tiên của triều Chu không phải là Hoàng Đế. Tổ tiên của triều Chu có tên là Khí. Mẹ của khí là vợ của Cao Tân, Cao Tân là cháu của Hoàng Đế, nhưng bố của Khí không phải là Cao Tân. Mẹ Khí sinh ra Khí (Thánh Gióng?) không biết bố Khí là ai.

Nơi mà càng cách xa Trung Nguyên thì thời đại tổ tiên của nó càng cổ xưa.

Âu Lạc cách xa nhất, tổ tiên là xưa nhất, tức là Thần Nông.

1. Âu Lạc

~ Thần Nông

2. Sở và Việt

~ Hoàng Đế

3. Ngô

~ Triều Chu

Theo sự khám phá của các nhà khảo cổ học ở Trung Quốc đã chỉ ra một cách rõ ràng là: Nền văn minh của Trung quốc bắt đầu ở phương Nam, không phải ở phương bắc. Nguyên do là khi so sánh các di tích 3,000 năm trước các di tích dọc bên sông Trường Giang có tỷ lệ sử dụng đất nhiều hơn và có lịch sử lâu dài hơn các di tích dọc bên sông Hoàng Hà. Thế thì có một điều kỳ lạ, đó là vì tương truyền Hoàng Đế là thị tộc ở bên Hoàng Hà, bởi vì trước khi Hoàng Đế, còn có Thần Nông cho nên chúng ta còn có giả định rằng -- Thần Nông chính là thị tộc của các di tích dọc trên sông Trường Giang, giả định này cũng có thể được củng cố bởi các lý do sau đây:

- Dấu vết nghề nô sớm nhất được phát giác ở bên sông Trường Giang.

- Kỹ thuật trồng lúa là từ Trường Giang lưu truyền đến khu vực Bách Việt, bao gồm Âu Lạc.

Tương truyền Thần Nông là người sáng tạo kỹ thuật trồng trọt. Cho nên chúng ta cũng có thể giả định rằng

-- Nguồn gốc của văn minh Việt Nam ít nhất về kỹ thuật trồng lúa là từ văn minh của thị tộc Thần Nông ở bên Trường Giang nó là một văn minh sớm hơn Hoàng Đế.

Trước hết, tuy nghề nông bắt nguồn tư khu vực Trường Giang, nhưng đồ đồng lại được khai quật ở khu vực Hoàng Hà nhiều hơn và phát triển hơn, Nên lưu ý một điều – theo xu hướng nghiên cứu chủ đạo của phương Tây kỹ thuật luyện kim của Trung Quốc là ngoại lai từ Tây Á, mà khu vực Hoàng Hà chính là con đường liên kết Tây Á và Đông Á, tức là kỹ thuật luyện kim chắc chắn du nhập vào văn minh ở bên Hoàng Hà trước tiên sau đó mới lưu truyền đến khu vực Trường Giang.

Theo ký lục của sử liệu, Hoàng Đế là thị tộc ở bên Hoàng Hà, vì vậy, chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết – Hoàng Đế là thị tộc đầu tiên ở Trung quốc đem vào kỹ thuật luyện kim từ Tây Á cho nên họ có ưu thế trong chiến tranh vì có thể chế tạo vũ khí bằng đồng còn thị tộc khác mới chỉ có thể chế tạo vũ khí bằng đá, điều đó có thể giải thích được ‘tại sao Hoàng Đế có thể thay thế Thần Nông, để trở thành bá vương của các thị tộc’. Và sau đó, con cháu của Hoàng Đế trở thành tổ tiên của văn minh Sở và Việt và người thừa kế của Thần Nông chỉ còn văn minh Âu Lạc.

Vẫn chưa hết, con cháu của Hoàng Đế sáng lập triều Hạ, triều Hạ bị triều Thương thay vị.

Triều Thương bị triều Chu thay vị.

Chú ý:

Triều Chu - Tổ tiên của cả triều Thương và Chu không phải là Hoàng Đế. Tổ tiên của triều Chu là Khí, mẹ Khí giẫm dấu chân lạ mới sinh ra Khí, không biết bố khí là ai.

Triều Thương - - Tổ tiên của triều Thương là Khế, tương tự như Khí, không biết bố Khế là ai, vì mẹ Khế nuốt một vật lạ mới sinh ra Khế, nhưng dựa vào sự khám phá của khảo cổ học thì người Thương và người Chu thực ra là một thị tộc giống nhau vì họ cùng nhau tham gia nghi lễ thờ cúng, nói chung tổ tiên của họ là giống nhau.

Theo khảo cổ học, chúng ta thấy rằng, trước khi triều Thương không có dấu vết sử dụng chiến xa và chiến mã, và theo nghiên cứu của phương Tây, kỹ thuật chiến xa và chiến mã là bắt đầu tư Trung Á. Ý là -- người Thương và người Chu là dân tộc gốc du mục, họ là người đầu tiên hấp thu kỹ thuật sử dụng chiến xa và chiến mã từ Trung Á, cho nên họ mới có khả năng thay thế con cháu Hoàng Đế, tức là Triều Hạ. Trong đó, con cháu của triều Chu trở thành tổ tiên của văn minh Ngô.

Tại sao ở khu vực Bách Việt, nơi mà càng cách xa với Trung Nguyên thì thời đại tổ tiên của nó càng cổ xưa? Nơi mà càng gần với Trung Nguyên thì thời đại tổ tiên của nó càng gần?

>> Triều đại càng xa Trung Nguyên thì triều đại đó có ít nhiều khả năng bị thay thế.

>> Triều đại càng gần Trung Nguyên thì triều đại đó có nhiều khả năng bị thay thế.

• Vì từ cổ xưa. Trung nguyên là một vị trí luôn bị ngoại tộc xâm nhập và chiếm lĩnh, do đó văn minh ở vị trí mà càng gần với trung nguyên thì càng có nhiều khả năng bị ngoại tộc thay thế, ngược lại, những văn minh ở vị trí mà càng cách xa với trung nguyên thì càng ít khả năng bị ngoại tộc thay thế.

So sánh với văn minh Việt, Sở và Ngô… Việt Nam là chỗ cách xa nhất với trung nguyên, cho nên văn minh Âu Lạc mới có thể gìn giữ được những ký ức xa xưa nhất về tổ tiên, vẫn ghi nhớ được nguồn gốc của mình.

nguốn gốc của văn hóa Việt Nam là Thần Nông, nhưng bây giờ bị Trung Quốc cũng tự xưng nguồn gốc của mình ngoài Hoàng Đế ra, còn bao gồm Thần Nông nữa. Việt Nam là nền văn minh rực rỡ thừa kế Thần Nông duy nhất. Trung quốc tự xưng tổ tiên của mình là bao gồm Thần Nông là một hành vi ăn cắp văn hóa Việt Nam.

Sở tổ tiên của Sở là Chuyên Húc 4000 BC.

Ngô tổ tiên là Chu Thái Vương 2,500 BC.

Việt tổ tiên là Vũ 4000 BC.

Âu Lạc tổ tiên là Thần Nông.

Nguồn gốc của văn minh Trung Hoa là do Hai thị tộc tạo nên Hiên Viên và Thần Nông.

Nhưng thời đại của hai vị này không bằng nhau.

Thời Hiên Viên, thống trị của Thần Nông đã suy yếu, chư hầu đánh nhau phải nhờ vào thế lực của Hiên Viên, cho nên Hiên Viên thay thế Thần Nông trở thành bá Vương lớn nhất của thiên hạ.

Nhà vua của Hiên Viên tức là Hoàng Đế.

Sau đó Hoàng Đế sinh ra Chuyên Húc.

Chuyên Húc sinh ra Cổn.

Cổn sinh ra vũ. Vũ sáng lập triều Hạ.

Sau triều Hạ là triều Thương.

Sau triều Thương là triều Chu.



 



No comments:

Post a Comment