Sunday, December 26, 2021

Đài Loan Độc Lập



Người Đài Loan muốn độc lập là sao?


Đài Loan Và Cội Nguồn Bách Việt


Tác Giả: Nguyễn Đức Hiệp Ph. D

Hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. 

Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng  người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán,
mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.







Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế Vận Hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến ít người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn của thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó chính là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan bé nhỏ. Ứng cử viên Trần Thủy Biển (Chen Shui-Bian) của đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc Dân Đảng và trở thành Tổng Thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử Trung Quốc?

Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là thành phần của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung quốc, nó không còn dính dán gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 năm trước đây đã cắt lìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh của mình.

Phản ứng của Trung Quốc that dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy đối với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hóa đối với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cử, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn hỏa tiễn ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung Quốc dàn hỏa tiễn hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cho cử tri run sợ chiến tranh mà phải bầu cho ứng cử viên Quốc Dân Đảng! Oái ăm thay, Quốc Dân Đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc, nhưng lúc này cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng 'trung ương tập quyền Đại Hán' truyền thống lâu đời.

Điều gì đã gây ra sự việc động trời như vậy? Ngoài sự kiện ông Trần Thủy Biển là một người Đài Loan bản xứ chính cống, không phải từ lục địa di đến khi Quốc Dân Đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bão của ông, đại diện cho hoài bão của đa số người Đài Loan bản xứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hãi hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hóa, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua.

Tôi đặc biệt lưu ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bão của người dân khi tôi viếng Đài Loan trong một dịp dự Hội Nghị Khoa Học về môi trường khí quyển ở thành phố Đài Trung (Taitung), do hai Viện Hàn Lâm Khoa Học Đài Loan và Hàn Lâm Khoa Học Úc tổ chức vào tháng 6/2000.

Trước đây tôi chỉ để ý và nghiên cứu chút ít về người bản xứ thổ dân sống ở Đài Loan trước khi người Tàu từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hóa và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trải qua cách đây hơn 1.000 năm.

Cách Mạng Văn Hóa Hay Tuyên Ngôn Độc Lập?

...
Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, quan khách trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng Hòa Trung Quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản xứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là phần trình diễn của các bộ laic bản xứ Austronesian khác, tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Khách trú) và dân ca người Hoklo. Chỉ khi Tổng Thống Trần Thủy Biển và Phó Tổng Thống, bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng Thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung Quốc) Cheng Hui-Mei (Amei), gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. ...

Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thủy Biển, Trung Quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sau khi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng Hòa Trung Hoa) ở lễ nhậm chức của Tổng Thống Trần Thủy Biển, chính phủ Trung Quốc ra lệnh tẩy chay Amei.

Đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí bị cấm đề cập đến cô, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo cũng không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei.

Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola bị bôi xóa đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó lùng kiếm.

Wu Bai, một nam ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan và Trung Quốc, cũng chịu chung số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thủy Biển.

Các Dân Tộc ở Đài Loan.

Vì đâu mà ông Trần Thủy Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy?
Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý. Sau khi công bố kết quả trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ những người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Mân Nam  (Minnan) và Hakka. Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ chức hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. 

Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.

Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải ngiên cứu của bà đã gây chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa ‘Hán Trung Tâm’ cho rằng 'người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả', do đó đã gây nên cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung Quốc.

Bà trả lời là bà đã biết trước kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động cuộc tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là điều gì mới lạ, vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả nghiên cứu của bà chỉ
chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi.

Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of Chine”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of Yeuh coastal Neolithic: A microcosm of cultural change on the mainland of 
East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã có cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt.

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi châu lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không thể nói được “Chúng tôi là người Mân Việt cổ xưa”.

Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải là Hán từ bắc Trung Quốc. Bà nói: “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”.

Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau...



http://hohyhung.blogspot.com/2011/09/ai-loan-va-coi-nguon-bach-viet.html

- Người vùng miền bắc đại lục nước Tàu
- Người vùng miền nam đại lục nước Tàu
- Toàn miền đại lục nước Tàu

==========================================

Người Việt là nhóm Bách Việt (Yue) đầu tiên hay cuối cùng?

This entry was posted on Tháng Mười Hai 31, 2014, in Lịch sử Việt Nam and tagged Bách Việt, Hà Hữu Nga, Le Minh Khai, việt, Việt Nam, yue.

Bookmark the permalink. 6 bình luận

Ảnh: Trần Việt Bắc (phỏng theo sử liệu)

Le Minh Khai
Người dịch: Hà Hữu Nga

Vài tháng trước một bạn đọc đề nghị tôi đáp lại một bài viết [1] có một luận điểm đã được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, cho rằng -- "Người Việt là nhóm người cuối cùng của “Bách Việt” và họ đã thoát khỏi bị Hán hóa bằng cách di chuyển về phương nam và giữ vững độc lập của mình."

Tác giả của bài viết cho rằng -- "...Người Việt luôn ý thức mình là Việt qua nhiều thế kỷ và họ duy trì được di sản văn hóa Bách Việt," mặc dù tác giả không hề giải thích rõ ràng cái gì tạo dựng nên di sản văn hóa đó.

Bách Việt - nguồn Ảnh

Tôi đã bắt đầu viết một bài trả lời [2] bằng cách chỉ ra rằng... Chúng ta không có bằng chứng về việc là bất cứ nhóm người nào mà người “Trung Quốc” dán nhãn Bách Việt/Yue trong thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên, cũng thực sự tự coi mình là “Việt/Yue” (có lẽ với một trường hợp ngoại lệ là nhóm tinh hoa Nam Việt).

Cái mà chúng ta có bằng chứng là trong nhiều thế kỷ từ cuối giai đoạn Trước Công Nguyên đến khoảng 1.000 năm Sau Công Nguyên, có những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà*, Lý Bí**, Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], Phùng Áng [馮盎]…v. v...) đã sử dụng khái niệm Việt/Yue để gọi tên các chính thể mà họ thành lập.

Có phải điều đó có nghĩa là -- họ đặt tên vương quốc của mình theo tên nhóm người sống ở đó?
Chúng ta không có bằng chứng về điều này. Có vẻ như họ chỉ đơn giản sử dụng một cái tên có tính văn chương gắn liền với vùng đó của thế giới.

Một trong những nguyên do tại sao cái tên Việt hình như không thuộc về một nhóm người hoặc một “ý thức”, một “di sản văn hóa” trong thiên niên kỷ đầu tiên Sau Công Nguyên là ở chỗ -- chúng ta không có bằng chứng về một văn hóa mà cả những người bình dân và nhóm tinh hoa đều chia sẻ.

Từ cái mà các nhà nghiên cứu đã phát giác về văn hóa Bách Việt/Yue, nó tương tự như cái thế giới mà tôi gọi là “những người săn đầu người Đông Sơn” [3] hơn là thế giới của Triệu Đà hoặc Lý Công Uẩn. Thế giới đó rõ ràng là đã biến mất.

Đây là vấn đề mà nhiều sử gia đã thừa nhận. Chẳng hạn, trong những năm 1960, sử gia Nguyễn Phương đã cho rằng:
Việt là Hán di cư đến vùng châu thổ sông Hồng vào thiên niên kỷ đầu Sau CN [4] và đã thế chỗ các cư dân sớm hơn ở đó.
Đây không phải là ý tưởng gốc của ông. Thay vào đó là quan điểm cho rằng -- các nhà nghiên cứu Việt Nam đã bắt đầu nói về điều này ngay từ đầu thế kỷ XX khi lần đầu tiên họ bộc lộ về quan điểm chủng tộc.

Ý tưởng cho rằng có một số lớn di dân đã làm thay đổi căn bản văn hóa châu thổ sông Hồng đã không được các bằng chứng sử học và khảo cổ học ủng hộ. Tuy nhiên, trong thực tế không cần phải có một dân số lớn mới làm thay đổi đáng kể văn hóa và ngôn ngữ.

Để hiểu được điều này, chúng ta cần suy nghĩ về hai bài viết mà tôi đã đề cập trong blog này: Một bài viết về bài của Richard A. O’Conner [5], và bài khác viết về bài của John Phan [6]

Như tôi đã viết trước đây, John Phan cho rằng:
Ngôn ngữ Việt Nam được tạo ra khi một số người nói phương ngữ Trung Quốc chuyển sang nói một ngôn ngữ địa phương (giống như người Normans ở Anh vậy) ở một nơi nào đó vào thế kỷ IX – X.
Còn Richard O’Conner thì cho rằng:
Những người như người “Việt” hình thành thông qua sự tham gia vào nền nông nghiệp lúa nước.
Đặc biệt ông còn cho rằng -- những người thuộc các tộc người khác nhau dần dần hình thành một “nhóm tộc người” riêng biệt khi họ bắt đầu theo cùng các loại nghi lễ và giao tiếp với các quan chức. (Khi sử dụng ngôn ngữ “mới” mà John Phan đã xác định) là những người điều hành nguồn nước, thu thuế, …v.v.

Điều mà tôi thấy là đây. Thay vì có một nhóm “Bách Việt” “sống sót”, thì điều có vẻ đã xảy ra là trong giai đoạn cuối đời nhà Đường, có các thành viên của nhóm tinh hoa thuộc khu vực mà ngày nay gọi là nam Trung Quốc và bắc Việt Nam bắt đầu tạo thành các quyển ảnh hưởng riêng của họ và bắt đầu tạo ra một ý thức địa phương cho bản thân họ (điều này trên thực tế đã xảy ra trên toàn bộ đế quốc Đường vào thời gian đó).

Họ không thực hiện điều đó bằng cách đồng nhất hóa với những người địa phương. Thực ra họ có ý định coi nhiều nhóm người xung quanh là “man di”. Thay vào đó, họ sử dụng một số thông tin tồn tại trong các văn liệu (chẳng hạn các ghi chép về nước Nam Việt của Triệu Đà) để tạo ra các tước vị cho các chính thể địa phương và để kết nối các lĩnh địa mới của họ với nguồn thông tin trong các văn bản cổ.

Trong một môi trường như vậy, nó tạo ra một ý thức mà những người như Lý Công Uẩn có thể đã đem đến từ các vùng của cái gọi là Phúc Kiến ngày nay và kết thúc sự thống trị trên một vương quốc thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Họ có thể làm được như vậy vì nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung một văn hóa tinh hoa.

Ngày nay nhiều người có tham vọng phân biệt về phương diện tộc thuộc một số nhóm người sống trong thời kỳ đó. Có những người muốn coi Nùng Trí Cao là “Tày Thái”, trong khi đó lại có người cho Phùng Áng là “Hán”, v. v...

Trong thực tế thì "nhóm tinh hoa" (được hiểu là nhóm quý tộc hoặc nhóm quyền thế lãnh đạo) trên khắp vùng này đều có chung các tương đồng văn hóa với nhau hơn là với những người mà họ cai trị. Không có lý do gì cho bất cứ một chính thể nhỏ bé nào trong thời gian đó phải bị thống trị bởi những người đồng nhất về phương diện tộc thuộc, vì họ đã được thống nhất bởi một văn hóa tinh hoa, và có lẽ không phải là nhóm tinh hoa ở bất cứ nơi nào thuộc các vùng này cũng đều đồng nhất về phương diện tộc thuộc.

Nếu Lý Công Uẩn thực sự là người Phúc Kiến, thì có lẽ không phải là tất cả mọi người trong cung đình của ông đều giống ông về phương diện tộc thuộc. Cái đã thống nhất nhóm tinh hoa thống trị lại chính là -- họ có chung một văn hóa, và họ giao tiếp bằng một ngôn ngữ chung (rõ ràng là một ngôn ngữ thứ hai đối với một số người).

Và nếu John Phan đúng thì ngôn ngữ được 'nhóm tinh hoa' vùng châu thổ sông Hồng sử dụng trong thời Lý Công Uẩn nắm quyền vẫn còn là một ngôn ngữ hoàn toàn mới. Hơn nữa, nếu ngôn ngữ này được hình thành khi những người nói một phương ngữ Trung Quốc “chuyển hướng” sang nói một ngôn ngữ địa phương và trong quá trình đó đã đem đến nhiều ngữ vựng mới thì có lẽ đã không có gì quá khó khăn đối với những người đã Hán hóa từ Phúc Kiến đến để học ngôn ngữ đó, khi nó có lẽ có nhiều chữ chung với ngôn ngữ riêng của ông ta.

Cùng với thời gian, toàn bộ những điều đó đều thay đổi khi văn hóa tinh hoa này dần dần phổ biến đến người bình dân. Điều đó đã diễn ra như thế nào? Một phần thông qua các quá trình mà O’Connor đã đề cập. Bằng việc tuân thủ trật tự của giới tinh hoa trong việc cam kết với nghề nông làm lúa nước, bằng việc thực hành các lễ thức mà nhóm tinh hoa đã thiết lập, bằng việc lắng nghe các tích truyện về các thần linh địa phương mà nhóm tinh hoa tạo ra nhằm đưa các thần này (mà bản thân người địa phương cũng tin tưởng) vào hệ thống quyền uy của mình, và bằng việc giao tiếp với nhóm tinh hoa bằng ngôn ngữ mà nhóm tinh hoa sử dụng, những người bình dân dần dần thay đổi (tất nhiên quá trình đó không hoàn toàn là con đường một chiều, nhưng tôi lại cho rằng ảnh hướng của nhóm tinh hoa đối với các nhóm không phải tinh hoa là rất lớn – như các trường hợp đã xảy ra mọi nơi trên toàn thế giới.

Quá trình này diễn ra trong nhiều thế kỷ, và trong thực tế nó vẫn còn đang tiếp diễn. Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn những người đang tiếp tục trở thành người Việt.

Vì vậy điều mà tôi muốn nói là không phải người Việt là những “người cuối cùng của Bách Việt”, mà thay vào đó họ là những “người đầu tiên của Bách Việt”, vì cái văn hóa và ngôn ngữ ngày nay được thừa nhận là “Việt” chỉ bắt đầu hình thành vào gần cuối thiên niên kỷ I Sau CN, và thông qua quá trình này mà một nhóm người bắt đầu tự coi mình là “Việt” (chứ không phải là được dán nhãn bởi người bên ngoài bằng cái tên đó, như trường hợp thiên niên kỷ I Trước CN Bách Việt được đề cập đến trong các nguồn sử liệu thời gian đó), và tự hình dung mình là một nhóm hậu duệ của “Bách Việt”.

Khi tạo ra văn hóa này, nhóm tinh hoa đã sử dụng nguồn thông tin được ghi lại về vùng đó của thế giới trong quá khứ (đó là nguồn của một số thông tin trong các văn bản như Lĩnh Nam Chích quái chẳng hạn) và việc sử dụng tên gọi “Việt”, mãi sau này mới biết, là một trong những mẩu thông tin quan trọng nhất của quá khứ mà họ đã khai thác.

Nhưng đó chính là một tên gọi mà họ đã phát hiện, chứ không phải là tên gọi mà họ đã được thừa hưởng. Vì những người mà “người Hán” coi là “Việt/Yue” thì lại không hề biết rằng họ là “Việt/Yue”. Chúng ta không hề biết họ tự coi mình là ai, đối với trường hợp những người săn đầu người Đông Sơn và toàn bộ những nhóm người khác nhau sống trên toàn bộ khu vực ngày nay được gọi là nam Trung Quốc – và di sản văn hóa của họ đã biến mất từ lâu trước khi Lý Công Uẩn xuất hiện trên chính trường.

Nguồn: The Last or First of the Hundred Việt/Yue?
leminhkhai.wordpress.com/2013/01/13/

Ghi chú của người dịch: *,** “…những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà, Lý Bí)” Tôi không rõ ý của Le Minh Khai trong các trường hợp này? Mong anh ấy giải thích kỹ hơn; nếu có thể, thì cả trường hợp Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], và Phùng Áng [馮盎]…v.v) nữa.

Tài liệu dẫn

1. Nguyễn Xuân Phước, Bách Việt Trong Lòng Đại Việt, Bài viết được đăng trên trang http://www.anviettoancau.net/anviettc/

2. Le Minh Khai, The Problem of the Term “Việt” In a National History, bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/06Sep12

3. Le Minh Khai, Đông Sơn Headhunters, leminhkhai.wordpress.com/27Nov12

4. Le Minh Khai, Nguyễn Phương on the Origins of the Vietnamese Nation, Bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/ 08Mar12

5. Richard A. O’Conner 1995. Agricultural Change and Ethnic Succession in Southeast Asian States: A Case for Regional Anthropology, Journal of Asian Studies54.4 (1995): 968-996.

6. John Phan 2010. Re-Imagining ‘Annam’: A New Analysis of Sino-Viet-Muong Linguistic Contact. Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010 [南方華裔研究雑志第四卷 Nam Phương Hoa duệ Nghiên cứu Tạp chí đệ tứ quyển].

Nguồn bài đăng

............................................................

Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt
Tháng Mười Hai 12, 2016
Trong "Lịch sử Việt Nam"

Việt Nam và đại nạn Trung quốc
Tháng Sáu 13, 2015
Trong "Lịch sử Việt Nam"

Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và Mân ngữ
Tháng Mười Hai 14, 2016
Trong "Lịch sử Việt Nam"

*********************************

6 thoughts on “Người Việt là nhóm Bách Việt (Yue) đầu tiên hay cuối cùng?”
Ngoc Anh nói:
Tháng Mười Một 22, 2015 lúc 7:56 sáng

Bài này viết bậy bạ quá, thiếu sức thuyết phục.

Trả lời
Tong nói:
Tháng Bảy 17, 2019 lúc 10:45 chiều

Totally wrong! Is there any fact or proof?

Trả lời
Ngoc Anh nói:
Tháng Một 18, 2021 lúc 7:47 sáng

all links of References articles are died.

Thái A Trần nói:
Tháng Chín 17, 2016 lúc 12:36 chiều

Bài viết toàn suy diễn vu vơ, chẳng có dẫn liệu nào cụ thể. Ngay đến Lý Công Uẩn.

Lý Công Uẩn vốn là đứa trẻ đẻ rơi, vô thừa nhận, được sư Lý Khánh Văn mang về nuôi trong chùa ở Bắc Ninh ngày nay. Sử ghi rõ ràng như vậy mà tác giả không biết lấy tài liệu nào mà bảo ô. là người Hán ở Phúc Kiến(!?). Về ngôn ngữ cũng suy luận bừa bãi, là bắt nguồn từ tiếng Hán.

Theo tôi thì, tiếng Hán tiếp nhận tiếng Bách Việt thì có lý hơn. Bằng chứng là tiếng Việt có tới 6 thanh, mà tiếng Hán cho đến ngày nay phát triển cao mà cũng chỉ đạt tới được 4 thanh, độ cao thấp lại rất mơ hồ không rõ ràng dứt khoát như tiếng Việt.

Do ít “thanh” hơn tiếng Việt, nên chữ đồng âm trong tiếng Hán rất nhiều, ảnh hưởng đến giao tiếp. Điều này chứng tỏ tiếng Hán từ xa xưa đã chịu ảnh hưởng của tiếng Việt. Một điều nữa chứng tỏ điều này là ngày nay người Việt đọc thơ Đường luật bằng ngữ âm Việt (mà ta gọi là âm Hán-Việt), vừa du dương vừa khớp vần hơn hẳn đọc theo Hán âm!

Trả lời
ngu75yen nói:
Tháng Mười 4, 2016 lúc 5:07 sáng

Bài này có vẻ bị hiểu lầm bởi một số độc giả. Tác giả chỉ muốn nói là cái 'Đại Việt độc lập từ thế kỷ X đã được tạo dựng từ một ý thức độc lập của giới tinh hoa' vào cuối đời Đường do sự kết hợp của văn hóa tinh hoa có hán hóa và các văn hóa địa phương. Và đó là văn hóa Việt do chính họ tự xưng.

Còn cái văn hóa gọi là Bách Việt do người Hán đặt tên khi xâm lăng vùng đất nay là nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam thì tên thật của nó là gì không ai biết vì nó đã bị xóa (gần như) hết ở lãnh thổ này, có lẽ là cái mà chúng ta gọi là Văn Minh Đông Sơn. (Tôi xin nói thêm: tương đương với văn hóa, ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số vùng cao còn sót ở Việt Nam ngày nay và các dân tộc khác thuộc ngôn ngữ Nam Đảo như tộc Lê ở Hải Nam, và các giống dân của Micronésie / Đại Dương ĐDảo ngày nay.

Trả lời paracels nói:
Tháng Mười Một 9, 2019 lúc 9:27 sáng

Chẳng hiểu tác giả muốn nói tới điều gì, các dẫn chứng rất mơ hồ vì viện dẫn từ những giả thuyến nghiên cứu mơ hồ.

Trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết:
“Dương/giang Hán chi nam,
Bách Việt chi tế”. (2241 năm trước)

nghĩa là:
Phía nam sông Hán là đất Bách Việt.

Các nhà sử học cho rằng -- dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc.

Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời, như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ trong truyền thuyết chính là tiền thân dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu.





Ancient Việt Dynasty

" ...Within five miles from Giao Chỉ to Cối Kê (within the region south of the Yangtze river), the people of Bách Việt can be found everywhere, each group with its own individual regional customs." [1]

By the time The Trưng Sisters had begun rallying the people of Bách Việt, the remaining kingdom states looked like this.

The loss of Giang Nam (Ư Việt and Mân Việt) was heartbreaking for my people. We wrote songs and poems, documenting this loss, one of which is a famous folk song called Lý Giang Nam.

This song, although simple in format and contains only a few words, is actually very important for various reasons. I will detail these reasons in my next posting about Lý Giang Nam

Lý Giang Nam


girlWriting

If anyone told you that they had a firm grasp of history because they went through years of university, studying through historical books on the subjects, don’t walk—run away from them.

Run far, far away.

They only have the officially sanctioned, creative-writing version of what actually happened. This version is fine if all we want to do is pass our college exams and get our degrees, but if we really want the other half of the truth (or as close to it as we are ever going to get), simple regurgitation of facts presented within these approved history books are not going to get us there.

From what I have been able to piece together, history is written by the victors, who also happen to be the elite upper-class–those who have the necessary level of literacy, not to mention free time—to do nothing for years but read and write the history that has been creatively written to allow for the smooth facilitation and unmitigated growth of the Powers That Be.

All we ever read about is how sexually indulgent the kings were to all his hundreds of concubines, or how many soldiers died out in the battlefields to defend some general’s thirst for revenge. But this is what history zeroes its myopic lenses on–the happenings of the rich and famous.

Since historians are of the elite, their worldview is going to be skewed towards that of the upper echelon’s experiences of what happened. They won’t have the same mindset of the farmer in the field who must deal with pests and uncontrollable weather patterns, or the weaver at her loom whose entire caterpillar population has perished due to sudden temperature fluctuations.

They won’t know what happened at the market stalls and the merchants who have to deal with the day-to-day difficulties of getting enough food and merchandise to feed and take care of an entire city, even as they must kowtow to the government officials who place heavy tax burdens on them.

They have no clue of the hardships of the supply runners who push themselves every day to the limit to get food and supplies from farms and factories to the people who need them, even as they fight off bandits and greedy soldiers who use their weapons to legally plunder and pillage.

Everyone is too busy struggling with day-to-day labor to worry about writing down the commoner’s history, assuming they even knew how to write. But just because they are lacking in formal literacy does not mean they don’t know how to maintain their history. There are a few methods that they have at their disposal.

They embed the crucial parts of their experiences of the history that impacted them, as they uniquely saw it, into their oral traditions, folk songs, wall paintings and cave drawings, poetry, myths, legends, ancient sayings,

One of these songs has a strange name, but the name has nothing to do with the body of the song. The name is, in fact, a region of present-day China named Jiang Nan, the Chinese phonetic pronunciation of the Việt word for Giang Nam ( 江南 ).

Giang Nam

Giang Nam

Giang Nam (Jiang Nan) is a geographic area in China referring to lands immediately to the south of the lower reaches of the Yangtze River, including the southern part of the Yangtze Delta. The region encompasses the Shanghai Municipality, the southern part of Jiangsu Province, the southern part of Anhui Province, the northern part of Jiangxi Province, and the northern part of Zhejiang Province.

Giang Nam has long been regarded as one of the most prosperous regions in China due to its wealth in natural resources and very high human development. Back in the days when Giang Nam was still Giang Nam, it was not as large as modern-day Jiang Nan due to a river that cuts through two-thirds of the region. That river was a natural demarcation line for two separate nations, the Han Chinese, and the Bách Việt. After Giang Name was overtaken, the city was enlarged, and is now much larger than the border city that it was, long long ago.

Lý Giang Nam

giangnam

We have an ancient folk song about this beautiful land of ours. It is called Lý Giang Nam.

Lý Giang Nam (the song) is ancient–thousands of years ancient. We don’t even know who wrote the song, it’s that old. It has been classified as a traditional folk song that has been handed down to us from time immemorial.

The song talks about cranes, caterpillars, and kites. At first glance, it makes no sense. What does cranes and caterpillars and kites have to do with Giang Nam? The answer is fairly obvious, once I dug into the history of Giang Nam.

Here is the song.

Here is the translation of the song.

Pull back the bow and shoot
Shoot, shoot, shoot. Shoot the crane, Shoot the crane,
The cranes scatter, the cranes scatter
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the crane

Pull back the bow and shoot
Shoot, shoot, shoot. Shoot the caterpillar, shoot the caterpillar
The sad caterpillar, the sad caterpillar
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the caterpillar

Pull back the bow and shoot,
Shoot, shoot, shoot. Shoot the kite, shoot the kite
The high-flying kite, kite fly high
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the kite

Within the translation, the bow and arrow, along with the crane, caterpillar, and the kite are the various regions that, due to war, have been lost.

The Crane (Lạc)

crane

One of the first things we Viet kids learn is the symbol that is used for the emperor of Vietnam. It is the crane. Not just any old crane, mind you, it’s the HUGE crane that comes from our region of the world.

The shooting of the cranes, in this song, symbolizes the death and ultimate scattering of the kings and royal families of Ư Việt and Mân Việt, the two states that make up roughly, the area of Giang Nam,

The Caterpillar (silk worm)

silk

The caterpillar represents the silk industry, Silk is mainly produced in the southern regions of the Yangtze River Delta, which is exactly where Giang Nam is presently located. Silk was something that we Vietnamese cultivated for a very long time. We still do. There are many famous silk producing villages in Vietnam, but none more famous than Giang Nam silk.

The Kite

dieusao

The kite was an invention of the Giang Nam region, and played a role in providing military intelligence. It was made of bamboo and silk grown and harvested from the Giang Nam region. Knowledge of kite making were exclusive to Giang Nam for many years until the region was lost to China.

Now, we make kites for fun. We also add flutes onto the kites and when flown, they make a very unique and beautiful sound. Here is a modern-day kite, equipped with flutes and blinking led lights.

 


Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay, là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
Đỗ Thành - ngày 09 /09 /2009

 

girlWriting



 photo 434518xlbzh5vtds.gif
 photo 3400217718665160062.gif

 



Các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Lĩnh Nam trước khi bị Tần và Hán xâm lược, dân Việt là chủ nhân ông nền văn hóa thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Lĩnh Nam trước khi Tần và Hán chiếm, đó là của văn minh Việt, chứ không phải là của Hán tộc.

Người Bách Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hóa của mình.

 photo 5khpm4nsgt.png

 photo 5khpm4nsgt.png
Hình 1: Cây kiếm của Việt Vương Câu Tiễn/Original Bird-Bug script on sword.
Hình 2: Chữ chạm bằng vàng trên một thẻ thông hành bằng đồng do Sở Hoài Vương cấp cho vua chư hầu nước Ngạc, năm 323 TCN
Cả hai lối chữ được khắc bằng loại chữ 'trùng điểu', chữ của Việt tộc thời phôi thai, sau chuyển dạng thành lối chữ viết "vuông tự/văn tự".


 


Chữ Việt chính là vũ khí mạnh nhứt, đã gìn giữ cho cả dân không bị diệt vong.

 

 

Việt Ngữ – Nhã Ngữ


Nhã ngữ là Việt ngữ 雅語 hoặc Việt ngữ được gọi là nhã ngữ 雅語 dùng làm tiếng nói giữa các quốc gia nhỏ ở Trung Nguyên, chữ viết đi từ phôi thai chữ Khoa đẩu/nòng nọc/tadpole đến chữ trùng điểu/bird-bug. Những cổ văn từ thời trước thời nhà Hán, Tần… thì không phải là tiếng “Phổ Thông” Cantonese hay tiếng “Quan Thoại” Mandarin mà là Việt Ngữ – Nhã Ngữ.

Tiếng “quan – thoại” đã được hình thành dần dần, nhưng chỉ đến đời Nhà Tùy và Đường thì tiếng quan – thoại mới được đầy mạnh và phát triển mạnh thêm một lần nữa, bởi vì Nhà Tùy và Đường đều là gốc Hung Nô ở Siberia, nhưng vì, thời đó tiếng Phổ thông chưa đủ để thay thế nổi cho Việt Ngữ, nên Đường Thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ… thì mới đúng theo vần đã gieo trong Đường Thi (Chú ý: Thơ văn từ Tống Đường trở về trước là Việt, phải đọc theo giọng Việt, nhưng cũng có một số ít dùng theo tiếng “Quan Thoại” do những người “mới” đã viết ra… vi họ là những Nhà làm quan cha truyền con nối nên đã chỉ rành và chỉ biết “quan thoại” hoặc họ chính là dòng người Hung – Nô, Siberi… ví dụ như điển hình là Nhà thơ Lý Bạch / lý Bạch gốc Hung Nô – Siberia).

Hoa Hạ là người lai giống giữa Xianbei có lối sống du mục chăn nuôi gia súc và người Việt cổ có văn hóa định cư nông nghiệp. Nhưng vì người Việt cổ bản địa đông hơn, văn minh hơn, nên vài ba thế hệ sau, người Hoa Hạ/Hua Xia cũng chuyển hóa thành người Việt có lối sống định cư, định canh như người Việt. Họ bị đồng hóa thành người Việt (The proto-Vietic peoples).
Quan thần trong triều dưới cấp “Tướng” là “tá”… Ví dụ như:

“Thượng đại 大 phu 夫” là Thượng “tá”,

“Trung Đại Phu” là Trung “Tá”.

Chữ “Đại 大 Phu 夫” ngày xưa vùng nầy đọc là “Tài Phá”, Tài-Phá là chữ đa âm của “Tá”.

Chuyện Thái Tử “Đan 丹” của nước “Yến 燕” nhờ “Kinh 荆 Kha 轲” thích sát Tần Thủy Hoàng, chuyện rất nổi tiếng. Thái Tử tên “Đen 丹” thì đúng hơn, “Kinh-Kha / 荆轲” tên là “Cả” đúng hơn…

Nước Yến có nhiều dân Siberia nhập cư và làm vua, nhưng vẫn giữ tên Yến 燕). Trong sách "thuyết văn” của Hứa Thận thời nhà Hán có viết:

“Chữ Nôm có trước chữ Hán rất lâu, lâu đến đỗi người ta quên đi.
Dân Hán tộc ăn cắp văn minh văn hóa Lúa - Nước của tộc Bách Việt, nhưng họ viết sách thì lại nói là Hán tộc đồng hóa Bách Việt.”


Các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Lĩnh Nam trước khi bị Tần và Hán xâm lược, dân Việt là chủ nhân ông nền văn hóa thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Lĩnh Nam trước khi Tần và Hán chiếm, đó là của văn minh Việt, chứ không phải là của Hán tộc.
Người Bách Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hóa của mình.

“Chữ Nôm có trước chữ Hán rất lâu, lâu đến đỗi người ta quên đi.

Dân Hán tộc ăn cắp văn minh văn hóa Lúa-Nước của tộc Bách Việt, nhưng họ viết sách thì lại nói là Hán tộc đồng hóa Bách Việt.”


Nhà Hạ 夏朝; Hán-Việt: Hạ triều

Khoảng thế kỷ 21 TCN - khoảng thế kỷ 16 TCN

Nhà Hạ là một chính sách liên minh các bộ lạc vùng Trung Nguyên. Chưa có tổ chức chặt chễ, vẫn còn là các bộ lạc bát nháo, không để lại dấu vết của triều đại vua chúa.

Giống người tạp chủng du mục Mông/Xianbei, Hun/Hung Nô khi vào chiếm vùng đất Trong Nguồn [Trung Nguyên], hòa huyết trong hôn nhân cùng dòng máu với người Việt bản địa, tạo ra giống người Hoa Hạ. Hoa Hạ là người lai giống giữa Xianbei có lối sống du mục chăn nuôi gia súc và người Việt cổ có văn hóa định cư nông nghiệp. Nhưng vì người Việt cổ bản địa đông hơn, văn minh hơn, nên vài ba thế hệ sau, người Hoa Hạ cũng chuyển hóa thành người Việt có lối sống định cư, định canh như người Việt, điển hình là vua Vũ nhà Hạ lên ngôi rồi lập ra Việt Quốc, hậu duệ của vua Vũ là Việt Vương Câu Tiễn, và bây giờ Mân Việt là hậu duệ của vua Việt Câu Tiễn...

Rốt cuộc, Hiên Viên Hoàng Đế gốc du mục tuy có chiếm đất Trung Nguyên của người Việt bản địa, nhưng không giữ được đất. Người Hoa Hạ học được một bài học: Một triều đại dị tộc không thể cai trị một đất nước rộng lớn, đông người và văn minh hơn trong một thời gian dài.

Vì thế, sau nay triều đại của du mục của Tần Thủy Hoàng, có chính sách di dân, đưa người của họ sang nước bị chiếm. (Điển hình là Triệu Đà xin nhà Tần đưa 500,000 người Tần vào nước Nam Việt sau khi chiếm nước Nam Việt).

Đường Thi là đa số phải đọc theo Việt ngữ… Tiếng “quan – thoại” đã được hình thành dần dần, nhưng chỉ đến đời Nhà Tùy và Đường thì tiếng quan – thoại mới được đầy mạnh và phát triển mạnh thêm một lần nữa, cho đến khi nhà Nguyên cai trị Trung Quốc, thì tiếng Quan Thoại thay thế tiếng Việt Ngữ – Nhã Ngữ. Vì thế tiếng Quan Thoại không đọc được Đường thi.

Tại sao nước ta có cái tên Việt Nam?

Nước Nam Việt (trong đó có Việt Nam) trước khi Triệu Đà nhà Tần chiếm lĩnh. Quảng Đông và Quảng Tây và Lạc Việt là nước Nam Việt hay Việt Nam của chúng ta.

Ngày xưa lãnh thổ Quảng Đông và Quảng Tây nằm trong lãnh thổ của bắc Việt chúng ta, cả hai vị vua là vua Quang Trung Nguyễn Huệ và vua Gia Long Nguyễn Ánh đều có khát vọng lấy lại mảnh đất đó, nhưng mà cuối cùng lấy không được.

Ngày hôm nay cái tên Việt Nam của chúng ta cũng bắt nguồn từ cái khát vọng lấy lại từ haì miếng đất này. Đó là lúc Quang Trung Đại Đế đánh thắng nhà Thanh.

Vua Quang Trung muốn lấy lại hai mảnh đất Quảng Đông Quảng Tây này khi Càn Long trị vì. Vua Càn Long có người em gái mới mười mấy tuổi, thì vua Quang Trung đã cầu hôn cô em gái của vua Càn Long, mà của hồi môn là hai mảnh đất Quảng Đông Quảng Tây, vua Càn Long nhà Thanh đã đồng ý. Chuyện đang tiến hành thì vua Quang Trung bị mất nên kế hoạch đó hoàn toàn tan rã. Sau đó nội tình trong nước ta có cuộc thay vua đổi chúa, tranh đoạt quyền lực.

Khi Nguyễn Ánh lên ngôi là vua Gia Long cũng muốn lấy lại hai mảnh đất Quảng Đông Quảng Tây đó, do đó vua Gia Long đặt tên nước là Nam Việt, vì dưới thời nhà Thanh lúc đó Quảng Đông và Quảng Tây có cái tên là Đông Việt và Tây Việt. Vì vậy, vua Gia Long đặt tên là Nam Việt là để tạo căn bản có cơ sở để đòi lại hai miếng đất này. Nhưng khi sắc phong tới tay vua Càn Long thì vua nhà Thanh hiểu được cái ý của vua Gia Long nhà Nguyễn, cho nên vua Càn Long mới đổi chữ "Nam Việt" thành "Việt Nam". Đó là câu chuyện lịch sử cho chúng ta thấy là hai miếng đất Quảng Đông và Quảng Tây là của người Việt mình thời xa xưa, và cái tên "Việt Nam" từ đâu mà có.

Nên nhớ: Thời Triệu Đà, Vua Triệu Đà chiếm đất Bách Việt và đặt tên vùng đất Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Lạc việt là nước Nam Việt = Nan Yue".

40:18 Hồi xưa Quảng Đông là của Việt Nam phải không?

Đúng! Ngày xưa lãnh thổ Quảng Đông và Quảng Tây nằm trong lãnh thổ của bắc Việt chúng ta.


 



Sông Trường Giang là ranh giới của hai dân tộc.

Phía bắc là người Hán.

Phía nam là người Bách Việt.

Trong quá trình phát triển người Hán dần thôn tính và đẩy lùi người Bách Việt về Nam.

Người Hán du mục đã chiếm vùng đất trung nguyên của Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi là nước Xích Thần.
Lạc Long Quân và Âu Cơ vượt sông Trường Giang, tại đất vùng Nam Lĩnh, mở triều đại mới đó là Hồng Bàng.
Tên gọi đầu tiên của quốc gia của người Bách Việt gọi là nước Xích Quỷ.

Triều Đại Hồng Bàng Hùng Vương của Lạc Việt



Sông Trường Giang là ranh giới của hai dân tộc.

Phía bắc là người Hán.

Phía nam là người Bách Việt.

Người Hán du mục đã chiếm vùng đất trung nguyên của Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi là nước Xích Thần.
Lạc Long Quân và Âu Cơ vượt sông Trường Giang, tại đất vùng Nam Lĩnh, mở triều đại mới đó là Hồng Bàng.

Tên gọi đầu tiên của quốc gia của người Bách Việt gọi là nước Xích Quỷ.

“Giang Hán chi nam,
Bách Việt chi tế”.

(2241 năm trước)
nghĩa là:
Phía nam sông Hán là đất Bách Việt.

" ...Within five miles from Giao Chỉ to Cối Kê (within the region south of the Yangtze river), the people of Bách Việt can be found everywhere, each group with its own individual regional customs."

By the time The Trưng Sisters had begun rallying the people of Bách Việt.

The loss of Giang Nam (Ư Việt and Mân Việt) was heartbreaking for my people.

Trong quá trình phát triển người Hán dần thôn tính và đẩy lùi người Bách Việt về Nam.






Đây là phần sử rất quan trọng trong cội nguồn lịch sử của người Việt Nam thể hiện rõ sự khác biệt về nguồn gốc của ta (Bách Việt) và Trung quốc.
Thế nên, lịch sử Việt Nam hiện tại phải nhấn mạnh điều này để cho thế hệ sau hiểu rõ.

Việt Nam hiện nay là quốc gia kế thừa của nước Xích Quỷ và lãnh thổ xưa, trước kia là của Việt Nam ta Bách Việt kéo dài đến miền nam sông Trường Giang.

.........................


Hoa Hạ là người lai giống giữa Xianbei có lối sống du mục chăn nuôi gia súc và người Việt cổ có văn hóa định cư nông nghiệp.
Nhưng vì người Việt cổ bản địa đông hơn, văn minh hơn, nên vài ba thế hệ sau, người Hoa Hạ/HuaXia cũng chuyển hóa thành người Việt có lối sống định cư, định canh như người Việt. Họ bị đồng hóa thành người Việt (proto-Vietic).




Culture been stolen? Should the Vietnamese (or Baiyue) claim for?

Has the Vietnamese culture been stolen?
Tùng Tùng Soong
https://youtu.be/r64AXAM3_DE




Cây Kiếm của Việt Vương Câu Tiễn là một minh chứng cho di sản của văn minh Bách Việt



Vào năm 1965 tại Hồ Bắc. Trên một mặt của lưỡi kiếm, người ta tìm thấy hai dòng chữ cổ. Tổng cộng có tám chữ được viết theo lối "điểu trùng văn"

("鸟虫文") "越王" "Việt vương".
- "Vua nước Việt") và "自作用剑" ("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng").

"越王自作" - Việt vương Câu Tiễn
("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng").

Việt Vương Câu Tiễn (496 TCN - 465 TCN)

Tại vùng Lưỡng Quảng loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧.

Thêm bài "Việt Nhân Ca 越" nữa.


https://youtu.be/QOk1y5lVa1Q

Việt Nhân Ca 越人歌

Hò... ... hớ...
Năm nầy bảo với năm xưa,
Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa.
Sớm chiều em hận tương tư,
Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

越人歌
Việt Nhân Ca
Bài Dân Ca Việt


今夕何夕兮, 搴舟中流。
Kim tịch hà tịch hề?Khiên chu trung lưu.
Đêm nay đêm nào chừ, chèo thuyền giữa sông,

今日何日兮, 得与王子同舟。
Kim nhật hà nhật hề?Đắc dữ vương tử đồng chu!
Ngày này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi dòng.

蒙羞被好兮, 不訾诟 耻。
Mông tu bị hảo hề, bất hiềm cấu sỉ.
Thẹn được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong,

心几烦而不绝兮,得知王 子。
Tâm kỷ phiền nhi bất tuyệt hề, đắc tri vương tử.
Lòng rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông.

山有木兮木有枝, 心悦君兮君不知!
Sơn hữu mộc hề mộc hữu chi, tâm thuyết quân hề quân bất tri!
Non có cây chừ, cây có cành chừ; lòng yêu chàng chừ, chàng biết không?

...........................

Ngày này ngày nào, cùng vương tử xuôi dòng.
Thẹn được chàng mến yêu nào chê phận thiếp long đong,
Lòng rối ren mà chẳng dứt, được gặp chàng vương tông.
Non có cây cây có cành; lòng yêu chàng, chàng có biết chăng?


Việt Có Trước Hán

Why do many Vietnamese believe that Vietnam has a longer history than China?

Because it is the truth. The next question is why many Chinese people have not been proud of their Huaxia roots to realize they are brainwashed by the fact of the Han dynasty as their limitation for historical understanding. Please note that the notion of Han is only from 200 BCE.

While comparing Huaxia roots to Viet roots, anyone could realize that the first king of Huaxia, Huangdi (2700–2600 BCE; 軒轅黃帝 or Hiên Viên Hoàng Đế) was not yet born when Kinh Dương Vương (3000–2900 BCE; 涇陽王; or "King of Kinh Dương") was leading the country of Xích Quỷ (赤鬼), all the area south of Yangtze River, the larger portion of the land we call China nowadays.

Many Viet scholars and researchers can show the proofs that the Yin Yang theory came from the south of the Yangtze River, for example, Laotze used to ride a buffalo, only found in the south.

That is why the culture of the Southern regions of China is similar to Vietnam. Even dynasties from Han to Song, about 1000 years, did success to destroy the handwriting system for the attempt of cultural assimilation, the Viet, as the creator of the older culture, the mother, could not be assimilated but always stood at the position of dispelling the dark forces and build the peace. Hope the fact of 1000 years of choosing peace and development had some meaning for cruel minds.

Being able to read some research outside the brainwashed information, hopefully the young Chinese could respect other peaceful cultures from Huaxi cultures.

Các dân tộc Bách Việt đã sinh sống ở miền Lĩnh Nam trước khi bị Tần và Hán xâm lược, dân Việt là chủ nhân ông nền văn hóa thời bấy giờ. Các khám phá khảo cổ về văn minh Lĩnh Nam trước khi Tần và Hán chiếm, đó là của văn minh Việt, chứ không phải là của Hán tộc.
Người Bách Việt cần phải coi đó là di sản của Việt tộc và phải mạnh dạn giành lại chủ quyền văn hóa của mình.

 

 






Bách Việt làm chủ trọn vẹn nước Trung Nguyên trước người Tàu

image Hán tộc là nhánh chủng tộc du mục có gốc Thổ (Turk), Hung Nô và Mông Cổ (Mongolia),[1] xuất phát từ những vùng cao nguyên ở miền Trung Á và xianbei đến. Họ chỉ mới có mặt ở vùng trung lưu Hoàng Hà, sớm nhất là thời Hoàng Đế (theo truyền thuyết được Sử Ký Tư Mã Thiên đề cập), tức sau thời kỳ Phục Hy và Thần Nông.[2]

 photo han move_1.jpg  photo HongH_DngT.jpg

Sông Lạc cũng là nơi vua Đại Vũ nhà Hạ đã gặp rùa và nhận “Lạc thư” chỉ giáo về cách cai trị thiên hạ. Vua Đại Vũ là người Cối Kê - nay gọi là Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử.[3] mà vùng này trong thời kỳ ấy đang còn là đất của các tộc Bách Việt.

Yue Những vua Vũ nhà Hạ, cả Phục Hy, Thần Nông, Nữ Oa, Đế Nghiêu, Đế Thuấn…[4] Tất cả các nhân vật này đều phản ảnh từ nguồn gốc văn hóa lúa nước của các tộc nông nghiệp Bách Việt.[5]

“Bách Việt làm chủ trọn vẹn Trung Nguyên (nước Tàu) trước người Tàu/Hán.”


---------------------------------
    Chú thích/Endnotes

    [1]Hán tộc là giống lai giống giữa hai nhánh chủng tộc du mục gốc Thổ (Turk) và Mông Cổ (Monolia). Trên 3000 năm trước) không có nước Tàu. Chỉ sau thời Ðông Chu Liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong sáu nước cuối cùng, nên mới có nước Tàu.

    [2]Thần Nông sống cách đây khoảng 5.000 năm và là người đã dạy dân nghề làm ruộng, chế ra cày bừa và là người đầu tiên đã làm lễ Tịch Điền (còn gọi là lễ Thượng Điền, tổ chức sau khi gặt hái, thu hoạch mùa màng) hoặc Hạ Điền - lễ tổ chức trước khi gieo trồng.

    Vua Phục Hy là người đầu tiên trong Tam Hoàng Ngũ Đế của Bách Việt cổ đại.
    Ông đứng đầu danh sách Tam Hoàng, bên cạnh Thần Nông và Nữ Oa. Ông cùng với Nữ Oa được coi là thủy tổ của loài người.

    [3]Kế Châu, tỉnh Giang Tô, thuộc vùng hạ lưu sông Dương Tử. Giang Tô (江苏) là một tỉnh ven biển ở phía đông.

    [4] Vua Đại Vũ nhà Hạ là Tự Văn Mệnh (姒文命), ông là cháu 5 đời của Hiên Viên Hoàng Đế; cha Vũ là Cổn di chuyển người dân về phía đông Trung Nguyên. Vua Nghiêu phong cho Cổn làm người đứng đầu ở địa điểm thường được xác định là gần núi Tung Sơn.


    Đại Vũ cai trị nhà Hạ trong 45 năm và theo Việt Tuyệt Thư (越絕書), ông qua đời vì bệnh. Ông được tin là mất ở Cối Kê (會稽山) (hay Hội Kê) ở phía nam Thiệu Hưng hiện nay trong đi săn bắn và hội họp chư hầu ở Giang Nam. Theo giải thích của Sử ký, Cối (hay Hội) và Kê là việc hội họp chư hầu và khảo sát thành tích.

    Lăng Đại Vũ (大禹陵) ngày nay được biết đến là lần đầu tiên được xây dựng trong thế kỷ 6 vào thời Nam triều để vinh danh ông nằm cách thành phố Thiệu Hưng khoảng 4 km về phía đông nam.

    -------------------------------------------

    Sở Dục Hùng 楚鬻熊, còn đọc là Chúc Hùng, hay Huyệt Hùng. Sở Dục Hùng /Yuxiong's clan name was Mi (芈).

    Yuxiong (Sở Dục Hùng) that was later known as Chu as Yuzi or Master Yu. Yuxiong (Sở Dục Hùng was teacher of King Wen of Zhou (Chu văn Vương) and an ally of Zhou (reigned 1099–1050 BC).

    Yuxiong known as Yuzi or Master Yuzi reigned Zhou in 11th century BC), also he was an early ruler of the ancient Shang state.

    Sở Dục Hùng 楚鬻熊, còn đọc là Chúc Hùng, hay Huyệt Hùng. Sở Dục Hùng / Yuxiong tên thị tộc là Mi (芈). Yuxiong (Sở Dục Hùng) mà sau này được gọi là Chu là Yuzi hoặc Master Yu. Dư Hùng (Sở Dục Hùng là thầy của Ôn vương nước Sở (Chu Văn Vương) và là đồng minh của nước Chu (trị vì 1099–1050 TCN).

    Yuxiong được gọi là Yuzi hoặc Master Yuzi trị vì thời Chu vào thế kỷ 11 trước Công nguyên), ông cũng là một người cai trị đầu tiên của nhà Thương cổ đại. Chu Văn Vương được tiếp nhận văn hóa và ngôn ngữ nhà Thương, vị vua đầu tiên của triều đại nhà Chu Văn Vương thực hiện nghiên cứu từ nhà Thương.

    Chu văn Vương was adopted Shang culture and language, the first king of the Zhou dynasty Chu Văn Vương carried out study from Shang.

[5]Nông nghiệp Bách Việt có khắc trên Trống Đồng Ngọc Lũ.




 

No comments:

Post a Comment