Tuesday, December 5, 2017

Tiếng Việt Vỡ Lòng: Âm và Chữ

Âm và Chữ

Tiếng Việt Vỡ Lòng: Âm và Chữ

 






Tiếng Việt Vỡ Lòng: Âm và Chữ

Học trò ở Việt Nam ngày nay có lối phát âm lạ lùng. Có thể nói như vậy vì đang phổ biến một kiểu phát âm kỳ lạ nhan nhản trên ra-đi-ô, Ti Vi, và đầy ngoài đường hay trong trường học... Các nhân vật trong chương trình và chính các em phát thanh viên của các chương trình thiếu nhi trên ra-điô hay truyền hình (thường ở tuổi học sinh Cấp Hai và Ba (Tiểu Học và Trung Học) đang luôn luôn sửa âm [a] thành âm [e] mặc dù rõ ràng các em không nói giọng Quảng.

Thực ra cái âm [e] này của các em không hoàn toàn giống với âm của chữ “e”, nhưng nó cũng hoàn toàn không phải là [a]. Các em nói “chào các bạn” nghe cứ như “chèo kéc beẹng”. Người nghe có cảm tường là các em nói mà không mở miệng (có lẽ do các em mặc cảm hàm răng mình xấu quá hay lưỡi mình... màu vàng chăng?), thành ra âm [a] rộng lại biến thành âm hẹp [e]. Và những khán thính giả có kinh nghiệm về phiên âm quốc tế thì liên tưởng đến ký hiệu “æ” thường dùng để phiên âm chữ “a” trong tiếng Anh, hay liên tưởng đến việc tổ tiên người Mỹ cũng đã từng làm là bẻ miệng đọc [a] thành [e] trong các chữ như: “bath, glass, class, can’t” chẳng hạn.


Chuyện này có từ cả chục năm nay mà không thấy ai lên tiếng hay có biện pháp gì để cải sửa thì những nhà giáo “ưu tú”, nhà ngôn ngữ “hết lòng vì thế hệ trẻ”, và các giáo sư “ngữ âm học” Việt Nam quả tình chỉ biết làm việc trên giấy tờ hay trên máy điện toán (nói theo kiểu “cách mạng” là “làm việc quan liêu”), chỉ biết đợi đến khi cả xã hội hình thành một cách phát âm sai thì lại mày mò tìm cách giải thích rồi lại sáng tạo ra quy tắc này nọ, chẳng hạn trường hợp này sẽ được giải thích là do “âm vị” của “a” khi đi trước các phụ âm nào đó thì hóa thành “e” hay [æ] gì đó rồi bảo đó là quy luật cách phát âm của người Việt. Rồi những người lập trình điện toán (computer programmer) sẽ đòi sửa tất cả chữ “a” thành chữ “e” cho tiện việc “số hóa” gì đó. Cuối cùng hóa ra tiền nhân sai khi viết chữ “a” trong từ “các”, “bạn”...

A. Đặc điểm của chữ Việt và các quy ước về âm của chúng:

Phần 1: Nguyên âm

Cách nay 50 năm (năm 1957) giáo sư Lê Ngọc Trụ đã định được vị trí âm trong miệng với bảng sau.

 

Trước

Giữa

Sau

   Hẹp

i/y

ư

u

   Trung

ê

ơ     â

ô

   Rộng

e

ă     a

o

 

Chú thích:

  • Trước, Giữa, Sau là ba vị trí cao nhất của lưỡi khi phát âm.
  • Hẹp, Trung, Rộng hoặc Hẹp Vừa, Rộng Vừa là độ rộng của khoang miệng khi phát âm.

(Với âm sau thì hình môi sẽ tròn hơn trong khi với âm trước thì hình môi bẹt. Khoang miệng càng rộng thì môi sẽ mở càng nhiều. Hình môi lệ thuộc vào âm chứ không phải dùng môi để tạo âm, nên không cần xét.)

So với bảng của nữ giáo sư Han, người Mỹ gốc Hàn, lập năm 1966 sau khi nghiên cứu âm tiếng Việt bằng các phương tiện hiện đại (lúc đó), trích từ Wikipedia:

 

Trước

Giữa

Sau

Hẹp

i/y

ư

u

Hẹp vừa

ê

ơ

ô

Rộng vừa

e

â

o

Rộng

ă     a

 

Vài ghi chú trong trang web Wikipedia nói trên tỏ ra những nhận định của giáo sư Lê Ngọc Trụ trước giáo sư Han 9 năm đã tỏ ra đúng đắn. Đó là:



  • Ông không cần phân biệt hình môi ở những âm có cùng vị trí lưỡi và độ rộng vòm miệng vì ở mỗi vị trí với mỗi độ rộng nhất định thì tiếng Việt chỉ có một kiểu môi thôi. Thế nên bảng của ông chỉ có 3 cột, còn bảng vị trí âm của IPA có đến 6 cột (vì phải phân biệt âm tròn và âm không tròn môi). Trang Wikipedia viết (lược dịch): “Tất cả các nguyên âm đều không phải âm tròn ngoại trừ 3 nguyên âm ở vị trí sau (là tròn): u, ô, o.”
  • Nhận định khác của Lê Ngọc Trụ là “ă là a ngắn và â là ơ ngắn” cũng được trang web này viết như sau:

    “â và ă được phát âm ngắn – ngắn hơn các nguyên âm khác


    • “ă với a: hai nguyên âm a ngắn (ă) và a dài (a) có âm vị khác nhau, phân biệt chỉ ở độ dài mà thôi (chứ không phải ở chất âm).

    • “â với ơ: Giáo sư Han (năm 1966) nêu nhận xét rằng â và ơ khác nhau cả về độ dài lẫn độ cao của lưỡi, nhưng sự khác biệt về độ dài có lẽ là sự phân biệt là chính yếu.”

Nếu bảo ơ ngắn là â (không phân biệt độ cao lưỡi) thì hệ thống nguyên âm của tiếng Việt rút lại chỉ có 9 kiểu phân biệt rạch ròi, không thể lẫn lộn âm này với âm kia.

 

Trước

Giữa

Sau

Hẹp

i/y

ư

u

Hơi hẹp

ê

ơ       â

ô

Hơi rộng

e

o

Rộng

ă     a

 

Tức là chỉ có chín kiểu vị trí âm, thêm yếu tố gắt vào thì được hai âm nữa là ă và â.


Xét bảng vị trí nguyên âm của IPA dưới đây với 28 âm tất cả (màu đỏ là âm Việt, viết lại thành chữ), thì khả năng phân biệt 9 nguyên âm Việt là quá dễ. Có thể nói “độ phân giải” của tiếng Việt rất thấp, tức là rất dễ giải quyết, không hề cần phải tinh tế chính xác cao. Thế mà ngày nay đa số dân ta vẫn không làm được! Mà ngày trước nếu cha ông ta không làm được thì tại sao những người tạo ra chữ quốc ngữ lại thấy có khác biệt mà ghi sự khác biệt đó ra. Vậy có thể nói sự đọc trại âm ở những người có học chỉ thể hiện một lối sống lười biếng. Ngày càng có nhiều âm đọc trại chứng tỏ dân ta ngày càng lười biếng. Cứ cái đà này, mai kia chỉ còn có một nguyên âm “ơ” thôi. Vậy nên không được nại bất cứ lý do gì mà lơ đi và chấp nhận cách phát âm sai trong môi trường học thuật rồi bảo rằng đó là cách phát âm địa phương.




Một khi phát âm “rượu” thành “riệu” hay “rựu” hay “rụ” thì phải bảo là các cách phát âm này sai chứ không thể xuê xoa bảo rằng đó là đặc trưng phát âm của từng vùng. Trong thực tế tiếng “rượu” là một tiếng có thể phát âm được đúng với phiên âm của nó là [rượu] hay gì gì đó mà IPA ghi ra. Tương tự, “cừu” không thể được phát âm thành “kìu” hay “cù”; “thầy” không thể đọc thành “thày” hay “cằm” thành “cầm” hoặc “càm”, “ướp” thành “ớp”. Mặc dù vẫn biết khi nói một câu mà phát âm sai vài từ thì người nghe vẫn hiểu đúng ý cả câu. Nhưng việc luyện tập để có được cách phát âm đúng không khó, và một khi đã phát âm đúng được thì vấn đề chính tả sẽ trở nên dễ dàng.


B. Nhận xét và phương pháp sửa chữa


  • Phát âm phân biệt được chín âm căn bản vẫn là tương đối khó với một số người. Một số địa phương người ta phát âm lẫn lộn những âm tương cận (có vị trí kế nhau trong biểu đồ trên). Thí dụ lẫn lộn giữa o và ô của người Nam, “con cóc” nói thành “côông cốc”. Ngày nay lại có khuynh hướng bẻ âm [a] thành âm [e], “các bạn” nói thành “kéc bẹng” như đã đề cập. (Có lẽ để bắt chước giọng Mỹ cho nó sang chăng. Người Mỹ nói “glass” thành [gles], “can’t” thành [kent]...) Cũng vì [a] và [e]  liền nhau trong biểu đồ. Người Bắc không thể nói được “ưu” do họ đã sửa âm [ư] là âm giữa thành âm trước hóa ra: “cừu” nói thành “kìu”, “rượu” thành “riệu”. “ă” và “â” cũng hay bị lẫn lộn: “cái cằm” bị nói thành “cái cầm”, thậm chí thành “cái càm”. Hai âm này cùng là âm giữa nhưng có độ rộng khác nhau.

Về phương pháp đọc đúng âm, dễ nhất là yêu cầu người học phát âm lần lượt các cặp âm hay lẫn lộn, trong khi cố phân biệt chúng với nhau:


Đối với nguyên âm đơn:


  • O – Ô: “cô co cổ”, “ cái rổ rỏ nước”, “bố bó tay”...

  • A – E: “nón cát-két”, “cái bát bể nát bét”, “hát chứ đừng hét”, “đi len trong đám lan”... vân vân.

Việc nghĩ ra các ví dụ để thực hành tương đối dễ, bất kỳ giáo viên nào cũng có thể làm được và ra bài tập phát âm cho học sinh của mình tùy theo đặc thù của mỗi lớp. Với những người không có điều kiện đến lớp cũng có thể tự rèn cách phát âm của mình bằng cách áp dụng phương pháp này. Trong khi luyện tập thanh nhạc, ca sĩ cũng luôn phải xướng các âm nguyên của ngôn ngữ mình để khi hát mới “tròn vành rõ chữ”. (Có điều buồn cười là đa số ca sĩ Việt Nam lại luyện toàn những âm của tiếng Ý, họ chỉ tập có 5 âm: “i, o, a, ô, u”, có khi thêm âm “ê”. Thế nên ngày nay thiếu niên mê ca nhạc Việt Nam cũng chỉ thích dùng có sáu nguyên âm thôi??)

Đối với nguyên âm kép:


  • Vần “au” thường bị người Nam nói thành “ao” không phải do “o” và “u” kế nhau mà thực ra họ đã đọc đúng phiên âm: hãy để ý cách đọc tên nhạc sĩ “Strauss”, nếu phiên qua chữ Việt hiện tại thì phải là “straos”. Ghi âm [au] bằng “ao” là một nhầm lẫn của tổ tiên ta: “lao xao mặt nước ao” đúng ra đã phải được ghi là “lau xau mặt nước au”. Còn “cây cau sau hè” lẽ ra phải viết là “cây cău său hè” mới đúng. Tức là tiếng Việt hoàn toàn không có vần “ao”. Nhưng một khi đã qui ước thành cách viết hiện nay rồi thì lỗi phát âm của người Nam trong vần “au” là do họ đã không đọc nhanh, gắt âm [a] của vần này.

  • Vần “ay” bị đọc thành “ai”: đây cũng là vấn đề về âm gắt. “a” của “ay” chính ra là “ă” tức là a ngắn.

  • Vần “ưu” bị đọc thành “u”: âm “ư” bị gắt quá, mất luôn. Và “ưu” bị đọc thành “iu”: do biến âm giữa “ư” thành âm ngoài “i”. Để giải quyết cần đọc chậm lại, nối từng âm vào với nhau.

Nói chung các lỗi phát âm kép chỉ có thể sửa bằng cách cho phát âm từ từ từng âm của vần. Không bao giờ nên đọc vần mẫu và cho lặp lại. Dù người đọc mẫu có chính xác đến đâu đi nữa thì người học cũng chỉ nghe được theo cái tai đã sai của họ thôi. Nó cũng giống như việc một ca sĩ cải lương, không luyện xướng âm tân nhạc mà khi nghe một bài hát tây phương thích quá đòi hát theo vậy. Cung điệu tây phương sẽ biến mất, chỉ còn những cao độ lơ lớ mà thôi.


Âm gắt

“Cằm” đọc thành “càm” cũng cùng nguyên nhân không gắt đủ. Mới đây tôi cũng nghe một em sinh viên Việt hải ngoại đọc “vun đắp” thành “vun đáp” cũng vì em không biết cách làm gắt âm “ă”. Cũng có khi làm gắt sai thì “cằm” lại hóa thành “cầm”, miệng không rộng đủ, biến ă thành â dù cho đã gắt đủ và giữ đúng vị trí lưỡi là âm giữa.

Muốn sửa chỉ cần đọc liên tiếp các âm gắt cùng phụ âm cuối, như “Ân ăn gian”, “Lân lăn lộn”, “Thất thắt nơ”, “nhạc réo rắt rất hay”, “thần thằn lằn”... Hoặc đơn giản hơn chỉ cần tập “áp, ắp, ấp”, “an, ăn, ân”, “ác, ắc, ấc”...


Phần 2: Phụ Âm

Phụ âm đầu

Lỗi phát âm phụ âm không quan trọng trong tiếng Việt vì dấu giọng và nguyên âm đã đảm trách gần hết việc tạo nghĩa cho một chữ. Hơn nữa, khi nói hai chữ một lúc thì dù phụ âm có sai tới mức nào đi nữa người nghe cũng vẫn nhận ra đúng ý người nói. Đó là trong thực tế đàm thoại thông thường, nhưng trong môi trường học tập khoa bảng, người ta bảo rằng phát âm lẫn lộn phụ âm là nói ngọng, “Ngọng níu ngọng no”.


(Còn tiếp ...>



 

 




Phần 2: Phụ Âm

Phụ âm đầu

Lỗi phát âm phụ âm không quan trọng trong tiếng Việt vì dấu giọng và nguyên âm đã đảm trách gần hết việc tạo nghĩa cho một chữ. Hơn nữa, khi nói hai chữ một lúc thì dù phụ âm có sai tới mức nào đi nữa người nghe cũng vẫn nhận ra đúng ý người nói. Đó là trong thực tế đàm thoại thông thường, nhưng trong môi trường học tập khoa bảng, người ta bảo rằng phát âm lẫn lộn phụ âm là nói ngọng, “Ngọng níu ngọng no”.


Sau năm 1975, người miền Nam nào cũng phải bật cười khi nghe người miền Bắc ào ạt “tiến về Sài Gòn” và “lói lăng” “giất” ngộ nghĩnh. Hầu như tất cả, tất cả người Bắc đó đều “nẫn nộn” “nờ thấp” (n) với “nờ cao” (l), tất cả âm [r] bị biến thành [z], cả 2 chữ “d” và “gi” cũng đều đọc bằng [z]. Người miền Nam không chỉ bật cười thôi, cái cười này là cái cười ngô nghê “chẳng hiểu gì sất” một khi nghe người Bắc “lỏi”, vì họ “lỏi” sai cả “dẩu giong”. Mà như đã biết, dấu giọng là yếu tố quan trọng bậc nhất trong ngôn ngữ Việt. Thế nên người Nam ngớ người ra không hiểu là phải.


Dần dần, cái văn minh của Sài Gòn đã làm cho những người “đi giải phóng” họ phải học theo và phần nào đã tự sửa được những cách phát âm sai của mình. Việc này đúng với qui luật lịch sử về đồng hóa: khi chinh phục được một dân tộc có văn hóa cao hơn mình, chính kẻ đi chinh phục mới là kẻ sẽ bị đồng hóa.


Nói chung, đến nay việc phân biệt phụ âm của người Việt ta là khá chính xác, ngoại trừ một số cặp hay lẫn lộn sau.


  • |b| và |p|: gần như không có từ bắt đầu bằng “p” nên đa số người Việt phát âm |p| thành |b| (cùng là âm môi môi) tuy chỉ có vài từ mang âm |p| như số pi, Pi-ta-go, Sa-pa, cục pin... Âm |p| thực ra chỉ là âm cứng của |b| nên vẫn có thể tập phát âm đúng được, làm giàu thêm cho tiếng Việt.

  • Chữ phụ âm kép “tr” thường được phát âm thành [ts] là âm của “ch” và đây là điều không thể chấp nhận. Một số người khác lại đọc thành [tS ] của tiếng Anh, điều này cũng chấp nhận được theo nguyên tắc “có phân biệt là đủ”.

  • Chữ “v” được người Nam phát âm bằng môi-môi, trong khi người Bắc dùng răng-môi. Đây đích thực là địa phương tính của âm và hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng một khi đọc “v” thành [j], không dùng tới môi nữa, chữ “về” nói thành [jề] chẳng hạn, là sai, vì đây là âm của chữ “dề”. Những người Nam thời cựu trào luôn có cách phát âm rất đúng là [bjề]. Không hiểu sao lối đọc này ngày nay không còn thấy nữa. Nếu người miền Nam nay không thích cách phát âm cũ của ông bà nữa thì có thể đọc bằng răng-môi (răng của hàm trên và môi của hàm dưới) như người Bắc chứ đừng dung dị đọc giống âm của chữ “d”.

  • Tương tự như trên và cũng là địa phương tính, âm [f] được người miền Nam phát bằng môi-môi (là cách phát âm [p]), tuy môi không khép chặt vì còn phải thổi gió (gió là âm của [h]). Thế nên tiền nhân mới ký hiệu bằng “ph”. (Điều này góp thêm phần vào giả thiết chữ quốc ngữ được tạo dựng đầu tiên ở miền Nam.) Cũng giống trường hợp “v”, người miền Bắc đọc trúng âm [f] bằng răng-môi i hệt cách phát âm của các dân tộc Âu châu, do thế nên xưa nay đã có nhiều người đòi đưa âm [f] này về với ký hiệu hiện đại của nó là “f”, nhưng không được. Cách viết thuần “ph” đã trở thành đặc trưng của chữ Việt. Có thể do người Việt quá tôn trọng các giá trị truyền thống, chỉ chấp nhận cải cách nếu cái cũ thực sự có hại hoặc hoàn toàn không đúng, mà “ph” thì vẫn tương thích với cộng đồng la-tinh, ví dụ “phone, phantom, phases, phenomena...”

Hai trường hợp răng-môi biến thành môi-môi ở Nam Bộ đã làm vài người giải thích rằng do người miền Nam thường mất răng cửa nên đã phải thay răng bằng môi. Và khi học nói với người móm dĩ nhiên con trẻ sẽ không dùng tới răng.

  • Có sách nói “d” và “gi” là tuyệt đối bằng nhau, thậm chí bằng cả “r” (ở miền Bắc) và cùng đọc là [z]. Nếu thực vậy thì rõ ràng về mặt luận lý không cần phải tạo ra đến 3 chữ như vậy. Nhất là phải chịu cái nguy hiểm khi “d” Việt lại có cách phát âm lỏi ra khỏi hệ thống la-tinh. Cứ để “d” mang âm “đ” rồi “gi” thay luôn cho nó có phải tiện hơn không? Càng khỏi phải mất công lấy một ký tự cổ của la-tinh là chữ eth (D) làm âm [đ]. Các cụ người Bắc có học luôn luôn uốn lưỡi hơn một chút khi đọc “gi” (thành [Z]) và khi đọc “d” thì thẳng lưỡi (thành [z]). Còn các cụ người Nam thì đọc “d” bằng âm [j] và “gi” bằng âm [z]. Dù ở đâu thì hai chữ này đều được đọc phân biệt. Còn trong dân gian, những người ít học thường có thói quen rút bớt, làm nhẹ, hay đơn giản hóa vấn đề, họ đánh đồng hai âm này là chuyện “bình dân học vụ” của họ, không thể vin vào số đông sai để bảo rằng cái sai đó đúng.

  • “l” và “n”:
  • “Chiếc xe nam neo nên nề, nật.” Do lưỡi đã cong không đủ, có thể do lưỡi cứng quá hoặc ngắn quá. Cũng có thể do việc đơn giản hóa hoạt động của lưỡi. Tuy nhiên không thấy các dân tộc tây phương mắc lỗi này, tức là do di truyền, lưỡi người Việt có khuyết tật?
  • “Cái lày la lá cái kia”: theo cách giải thích trên thì lại do lưỡi dài quá hoặc mềm oặt. Và chắc cũng do di truyền khuyết tật của lưỡi, các Hoa kiều ở Chợ Lớn luôn mắc lỗi phát âm này, thậm chí họ còn lộn âm [đ] thành âm [l], thế nên mới có giai thoại “cho ngộ lái”. Cũng cần biết thêm rằng [n] và [đ] của tiếng Việt được phát ra bằng hoạt động hất vào của lưỡi. Đây là một đặc thù của tiếng Việt nên Hoa kiều không học được cũng phải.

Hai trường hợp trên thì còn có thể sửa chữa được bằng luyện tập công phu, cho người học đọc phân biệt từng cặp.

    • Nhưng trường hợp “Nẫn nộn cái lày thành cái lọ” thì là một khủng hoảng không thể giải thích được và cũng vô phương sửa chữa. Kiểu sai này làm người nghe hoàn toàn không hiểu. Tôi đã từng làm việc cho một người chủ có kiểu phát âm này. Anh ta biết khuyết điểm của mình, đã cố sửa và có tiến bộ tuy rất chậm. Nhưng thực ra, trong mỗi câu nói anh ta chỉ sai theo một kiểu. Cái ví dụ ở đầu đoạn này là một ví dụ tiếu lâm mang tính áp đặt mà thôi.

    • “Giưng mà”, “ở già” (nhưng mà, ở nhà). Cách phát âm địa phương, gặp ở Huế và cả một số vùng ở miền Bắc. Âm [nh] được đọc thành [gi].

    Có người đã dùng hiện tượng này để giải thích chữ “Giời” chẳng qua là chữ “Nhời” mà chữ “Nhời” lại là trại âm của chữ “Lời”, cho nên “Đức Chúa Lời (Word)” biến thành “Đức Chúa Nhời” rồi thành “Đức Chúa Giời”. Nhưng có thực câu than “Ối giời ôi” chỉ xuất hiện sau khi có quốc ngữ và sau khi đạo Công Giáo đã được truyền đến thôn quê miền Bắc? Cũng khó xác định vì trước chữ quốc ngữ ta chỉ có chữ nôm mà chữ “trời” nôm viết bằng chữ “thiên” ở trên để lấy nghĩa và chữ “viết” ở dưới để lấy âm, chữ “viết” có nghĩa Việt là “lời”, vậy suy ra ngày xưa cha ông ta gọi trời là “lời” thực sao, hay các cụ nói “giời nói” chứ không phải “lời nói”? Và giải thích lại, chữ “viết” có nghĩa Việt là “giời” (lời) nên cái chữ nôm có “thiên” ở trên và “viết” ở dưới sẽ đọc là “giời”. Và ngày đó không có tiếng “trời”. Vậy phiên âm câu đầu của “Chinh Phụ Ngâm” là “Thủa trời đất nổi cơn gió bụi” là sai, phải phiên là “Thủa giời đất nổi con gió bụi”... Lại nữa, trong bản Kiều nôm “trăm năm trong cõi...” có chữ “trăm” nôm viết bằng “bách” ở trên và “lâm” (lấy âm) ở dưới. Suy ra ngày xưa các cụ nói “trăm” là “lăm”. Hay là quả thật có liên hệ giữa “tr” với “l”?

    • Không biết “tr” có liên hệ gì về âm với “l” không, chỉ biết “tr” đã bị ngọng thành một âm rất giống âm của chữ “t” và câu pha tiếng “con tâu tắng nằm ở gốc cây te tụi, nó tòn tùng tục như cái tống teo” đã trở nên nổi tiếng cách nay nửa thế kỷ.

    • Câu pha tiếng trên tuy nổi tiếng nhưng hiện tại lại không phổ thông bằng câu “con cá gô ở trong cái gổ, nó kêu gột gột.” Đây là hiện tượng ngọng âm [r] thành âm [g] ở một số vùng Nam bộ. Đối với thanh niên hiện nay thì kiểu ngọng này dễ thương và đa số đã tập để có được cách nói ngọng dễ thương này. Họ đem cả vào trong trường đại học và thậm chí còn giảng dạy bằng cái kiểu ngọng này nữa. Mai kia các nhà ngữ âm học Việt Nam sẽ đòi sửa “run rẩy” thành “gun gẩy”, và sẽ có “Việt Nam là một con gồng châu Á không thua kém Kô-ghia”, “viện Găng Hàm Mặt”, bài dân ca “Gu Con Nam Bộ”, nước cộng hòa “An-giê-ghi” vân vân...

    • Nói vậy chứ hiện nay chưa thấy ai dám viết như vậy, kể cả trong các web-log (blog). Khi lướt qua các blog của thanh niên Việt Nam, ta chỉ thấy rặt các chữ “w” thay cho “qu”. Chắc là thanh niên ta bây giờ xác tín rằng chữ “nhà quê” phải đọc là [nhà wê] mà không biết rằng mình đang tự “nhà-quê-hóa”.[1] Dù đây chỉ là một cách biểu hiện tâm lý phản kháng của giới trẻ, cũng nên cẩn thận kẻo có ngày mọi người đều sai thì cái đúng sẽ bị đào thải. Nó sẽ không khởi đi từ các chữ “w” trong blog mà bắt đầu từ quan niệm phát âm tiếng Việt của con em chúng ta. Hiển nhiên chúng không cho rằng phát âm rõ ràng là một biểu hiện của văn minh cao cấp.

    • “s” và “x”: “s” là một âm đục, gần giống [S], khi phát âm lưỡi cong hơn âm của “x”. Người miền Nam phân biệt hai âm này rất rõ còn người miền Bắc không phân biệt hai âm này.

    Phụ âm cuối

    Người miền Nam hay bị phê bình là nói không đúng phụ âm cuối. Tuy nhiên, nếu xét trên quan điểm phát âm đúng là phát âm phân biệt thì không có nhiều lỗi phát âm của người miền Nam. Có một số lỗi điển hình sau:


    • “t” biến thành “c” hay “ch”: “sát” thành “sác”, “nhứt” thành “nhức”... Nhưng trong chữ “ít”, họ vẫn đọc đúng phụ âm cuối “t”, cái khác biệt là họ làm âm “i” trở nên quá ngắn, chứ không đọc thành “ích”.

    • “n” biến thành “ng”: Người miền Nam đọc tiếng “anh” là [a-nh] trong khi người Bắc đọc là [AN] trong đó [A] hơi gắt: về điểm này, đã xuất hiện một âm không ký hiệu trong chữ Việt, âm [A], tuy nhiên chỉ ngoại lệ ở vần “anh” và vần “ach” mà thôi. Không có trường hợp đọc khác nên ký hiệu vẫn dùng được: dù đọc [a-nh] hay [AN] người nghe cũng hiểu một nghĩa “anh”

    Tuy nhiên, về mặt hiệu quả của ngôn ngữ, không nhất thiết phải phát đúng âm mà điều quan trọng là sự phân biệt rạch ròi giữa các âm. Nếu “Ôi thôi! Tôi toi rồi” nói thành “Oi thoi! Toi toi ròi” hay “Ôi thôi! Tôi tôi rồi” thì quả thật không chịu được. Hay “anh An ăn cơm” nói thành “an An an cơm”, “chú chim Khướu khiếu nại với ông Bồ Nông” nói thành “chú chim Khiếu khiếu nại...” vân vân...

    HỒNG ĐỨC

    23/11/2007
    California, USA



    [1] Cần phân biệt ý nghĩa chữ “nhà quê” ở đây. Ở đây nó mang nghĩa xấu, tuy rằng trong các trường hợp khác chữ “nhà quê” hay “thôn quê” luôn mang một ý nghĩa cao quí nào đó.





 

 

 






Âm và Chữ
Trong Tiếng Việt
(Trước và Sau 1975)

Học trò ở Việt Nam ngày nay có lối phát âm lạ lùng. Có thể nói như vậy vì đang phổ biến một kiểu phát âm kỳ lạ nhan nhản trên ra-đi-ô, Ti Vi, và đầy ngoài đường hay trong trường học... Các nhân vật trong chương trình và chính các em phát thanh viên của các chương trình thiếu nhi trên ra-điô hay truyền hình (thường ở tuổi học sinh Cấp Hai và Ba (Tiểu Học và Trung Học) đang luôn luôn sửa âm [a] thành âm [e] mặc dù rõ ràng các em không nói giọng Quảng.

Thực ra cái âm [e] này của các em không hoàn toàn giống với âm của chữ “e”, nhưng nó cũng hoàn toàn không phải là [a]. Các em nói “chào các bạn” nghe cứ như “chèo kéc beẹng”. Người nghe có cảm tường là các em nói mà không mở miệng (có lẽ do các em mặc cảm hàm răng mình xấu quá hay lưỡi mình... màu vàng chăng?), thành ra âm [a] rộng lại biến thành âm hẹp [e]. Và những khán thính giả có kinh nghiệm về phiên âm quốc tế thì liên tưởng đến ký hiệu “æ” thường dùng để phiên âm chữ “a” trong tiếng Anh, hay liên tưởng đến việc tổ tiên người Mỹ cũng đã từng làm là bẻ miệng đọc [a] thành [e] trong các chữ như: “bath, glass, class, can’t” chẳng hạn.


Chuyện này có từ cả chục năm nay mà không thấy ai lên tiếng hay có biện pháp gì để cải sửa thì những nhà giáo “ưu tú”, nhà ngôn ngữ “hết lòng vì thế hệ trẻ”, và các giáo sư “ngữ âm học” Việt Nam quả tình chỉ biết làm việc trên giấy tờ hay trên máy điện toán (nói theo kiểu “cách mạng” là “làm việc quan liêu”), chỉ biết đợi đến khi cả xã hội hình thành một cách phát âm sai thì lại mày mò tìm cách giải thích rồi lại sáng tạo ra quy tắc này nọ, chẳng hạn trường hợp này sẽ được giải thích là do “âm vị” của “a” khi đi trước các phụ âm nào đó thì hóa thành “e” hay [æ] gì đó rồi bảo đó là quy luật cách phát âm của người Việt. Rồi những người lập trình điện toán (computer programmer) sẽ đòi sửa tất cả chữ “a” thành chữ “e” cho tiện việc “số hóa” gì đó. Cuối cùng hóa ra tiền nhân sai khi viết chữ “a” trong từ “các”, “bạn”...

A. Đặc điểm của chữ Việt và các quy ước về âm của chúng:

Phần 1: Nguyên âm

Cách nay 50 năm (năm 1957) giáo sư Lê Ngọc Trụ đã định được vị trí âm trong miệng với bảng sau.

 

Trước

Giữa

Sau

   Hẹp

i/y

ư

u

   Trung

ê

ơ     â

ô

   Rộng

e

ă     a

o

 

Chú thích:

  • Trước, Giữa, Sau là ba vị trí cao nhất của lưỡi khi phát âm.
  • Hẹp, Trung, Rộng hoặc Hẹp Vừa, Rộng Vừa là độ rộng của khoang miệng khi phát âm.

(Với âm sau thì hình môi sẽ tròn hơn trong khi với âm trước thì hình môi bẹt. Khoang miệng càng rộng thì môi sẽ mở càng nhiều. Hình môi lệ thuộc vào âm chứ không phải dùng môi để tạo âm, nên không cần xét.)

So với bảng của nữ giáo sư Han, người Mỹ gốc Hàn, lập năm 1966 sau khi nghiên cứu âm tiếng Việt bằng các phương tiện hiện đại (lúc đó), trích từ Wikipedia:

 

Trước

Giữa

Sau

Hẹp

i/y

ư

u

Hẹp vừa

ê

ơ

ô

Rộng vừa

e

â

o

Rộng

ă     a

 

Vài ghi chú trong trang web Wikipedia nói trên tỏ ra những nhận định của giáo sư Lê Ngọc Trụ trước giáo sư Han 9 năm đã tỏ ra đúng đắn. Đó là:



  • Ông không cần phân biệt hình môi ở những âm có cùng vị trí lưỡi và độ rộng vòm miệng vì ở mỗi vị trí với mỗi độ rộng nhất định thì tiếng Việt chỉ có một kiểu môi thôi. Thế nên bảng của ông chỉ có 3 cột, còn bảng vị trí âm của IPA có đến 6 cột (vì phải phân biệt âm tròn và âm không tròn môi). Trang Wikipedia viết (lược dịch): “Tất cả các nguyên âm đều không phải âm tròn ngoại trừ 3 nguyên âm ở vị trí sau (là tròn): u, ô, o.”
  • Nhận định khác của Lê Ngọc Trụ là “ă là a ngắn và â là ơ ngắn” cũng được trang web này viết như sau:

    “â và ă được phát âm ngắn – ngắn hơn các nguyên âm khác


  • “ă với a: hai nguyên âm a ngắn (ă) và a dài (a) có âm vị khác nhau, phân biệt chỉ ở độ dài mà thôi (chứ không phải ở chất âm).

  • “â với ơ: Giáo sư Han (năm 1966) nêu nhận xét rằng â và ơ khác nhau cả về độ dài lẫn độ cao của lưỡi, nhưng sự khác biệt về độ dài có lẽ là sự phân biệt là chính yếu.”
  • Nếu bảo ơ ngắn là â (không phân biệt độ cao lưỡi) thì hệ thống nguyên âm của tiếng Việt rút lại chỉ có 9 kiểu phân biệt rạch ròi, không thể lẫn lộn âm này với âm kia.

     

    Trước

    Giữa

    Sau

    Hẹp

    i/y

    ư

    u

    Hơi hẹp

    ê

    ơ       â

    ô

    Hơi rộng

    e

    o

    Rộng

    ă     a

     

    Tức là chỉ có chín kiểu vị trí âm, thêm yếu tố gắt vào thì được hai âm nữa là ă và â.


    Xét bảng vị trí nguyên âm của IPA dưới đây với 28 âm tất cả (màu đỏ là âm Việt, viết lại thành chữ), thì khả năng phân biệt 9 nguyên âm Việt là quá dễ. Có thể nói “độ phân giải” của tiếng Việt rất thấp, tức là rất dễ giải quyết, không hề cần phải tinh tế chính xác cao. Thế mà ngày nay đa số dân ta vẫn không làm được! Mà ngày trước nếu cha ông ta không làm được thì tại sao những người tạo ra chữ quốc ngữ lại thấy có khác biệt mà ghi sự khác biệt đó ra. Vậy có thể nói sự đọc trại âm ở những người có học chỉ thể hiện một lối sống lười biếng. Ngày càng có nhiều âm đọc trại chứng tỏ dân ta ngày càng lười biếng. Cứ cái đà này, mai kia chỉ còn có một nguyên âm “ơ” thôi. Vậy nên không được nại bất cứ lý do gì mà lơ đi và chấp nhận cách phát âm sai trong môi trường học thuật rồi bảo rằng đó là cách phát âm địa phương.




    Một khi phát âm “rượu” thành “riệu” hay “rựu” hay “rụ” thì phải bảo là các cách phát âm này sai chứ không thể xuề xòa bảo rằng đó là đặc trưng phát âm của từng vùng. Trong thực tế tiếng “rượu” là một tiếng có thể phát âm được đúng với phiên âm của nó là [rượu] hay gì gì đó mà IPA ghi ra. Tương tự, “cừu” không thể được phát âm thành “kìu” hay “cù”; “thầy” không thể đọc thành “thày” hay “cằm” thành “cầm” hoặc “càm”, “ướp” thành “ớp”. Mặc dù vẫn biết khi nói một câu mà phát âm sai vài chữ thì người nghe vẫn hiểu đúng ý cả câu. Nhưng việc luyện tập để có được cách phát âm đúng không khó, và một khi đã phát âm đúng được thì vấn đề chính tả sẽ trở nên dễ dàng.


    B. Nhận xét và phương pháp sửa chữa


    • Phát âm phân biệt được chín âm căn bản vẫn là tương đối khó với một số người. Một số địa phương người ta phát âm lẫn lộn những âm tương cận (có vị trí kế nhau trong biểu đồ trên). Thí dụ lẫn lộn giữa o và ô của người Nam, “con cóc” nói thành “côông cốc”. Ngày nay lại có khuynh hướng bẻ âm [a] thành âm [e], “các bạn” nói thành “kéc bẹng” như đã đề cập. (Có lẽ để bắt chước giọng Mỹ cho nó sang chăng. Người Mỹ nói “glass” thành [gles], “can’t” thành [kent]...) Cũng vì [a] và [e]  liền nhau trong biểu đồ. Người Bắc không thể nói được “ưu” do họ đã sửa âm [ư] là âm giữa thành âm trước hóa ra: “cừu” nói thành “kìu”, “rượu” thành “riệu”. “ă” và “â” cũng hay bị lẫn lộn: “cái cằm” bị nói thành “cái cầm”, thậm chí thành “cái càm”. Hai âm này cùng là âm giữa nhưng có độ rộng khác nhau.

    Về phương pháp đọc đúng âm, dễ nhất là yêu cầu người học phát âm lần lượt các cặp âm hay lẫn lộn, trong khi cố phân biệt chúng với nhau:


    Đối với nguyên âm đơn:


    • O – Ô: “cô co cổ”, “ cái rổ rỏ nước”, “bố bó tay”...

    • A – E: “nón cát-két”, “cái bát bể nát bét”, “hát chứ đừng hét”, “đi len trong đám lan”... vân vân.

    Việc nghĩ ra các ví dụ để thực hành tương đối dễ, bất kỳ giáo viên nào cũng có thể làm được và ra bài tập phát âm cho học sinh của mình tùy theo đặc thù của mỗi lớp. Với những người không có điều kiện đến lớp cũng có thể tự rèn cách phát âm của mình bằng cách áp dụng phương pháp này. Trong khi luyện tập thanh nhạc, ca sĩ cũng luôn phải xướng các âm nguyên của ngôn ngữ mình để khi hát mới “tròn vành rõ chữ”. (Có điều buồn cười là đa số ca sĩ Việt Nam lại luyện toàn những âm của tiếng Ý, họ chỉ tập có 5 âm: “i, o, a, ô, u”, có khi thêm âm “ê”. Thế nên ngày nay thiếu niên mê ca nhạc Việt Nam cũng chỉ thích dùng có sáu nguyên âm thôi??)

    Đối với nguyên âm kép:


    • Vần “au” thường bị người Nam nói thành “ao” không phải do “o” và “u” kế nhau mà thực ra họ đã đọc đúng phiên âm: hãy để ý cách đọc tên nhạc sĩ “Strauss”, nếu phiên qua chữ Việt hiện tại thì phải là “straos”. Ghi âm [au] bằng “ao” là một nhầm lẫn của tổ tiên ta: “lao xao mặt nước ao” đúng ra đã phải được ghi là “lau xau mặt nước au”. Còn “cây cau sau hè” lẽ ra phải viết là “cây cău său hè” mới đúng. Tức là tiếng Việt hoàn toàn không có vần “ao”. Nhưng một khi đã qui ước thành cách viết hiện nay rồi thì lỗi phát âm của người Nam trong vần “au” là do họ đã không đọc nhanh, gắt âm [a] của vần này.

    • Vần “ay” bị đọc thành “ai”: đây cũng là vấn đề về âm gắt. “a” của “ay” chính ra là “ă” tức là a ngắn.

    • Vần “ưu” bị đọc thành “u”: âm “ư” bị gắt quá, mất luôn. Và “ưu” bị đọc thành “iu”: do biến âm giữa “ư” thành âm ngoài “i”. Để giải quyết cần đọc chậm lại, nối từng âm vào với nhau.

    Nói chung các lỗi phát âm kép chỉ có thể sửa bằng cách cho phát âm từ từ từng âm của vần. Không bao giờ nên đọc vần mẫu và cho lặp lại. Dù người đọc mẫu có chính xác đến đâu đi nữa thì người học cũng chỉ nghe được theo cái tai đã sai của họ thôi. Nó cũng giống như việc một ca sĩ cải lương, không luyện xướng âm tân nhạc mà khi nghe một bài hát tây phương thích quá đòi hát theo vậy. Cung điệu tây phương sẽ biến mất, chỉ còn những cao độ lơ lớ mà thôi.


    Âm gắt

    “Cằm” đọc thành “càm” cũng cùng nguyên nhân không gắt đủ. Mới đây tôi cũng nghe một em sinh viên Việt hải ngoại đọc “vun đắp” thành “vun đáp” cũng vì em không biết cách làm gắt âm “ă”. Cũng có khi làm gắt sai thì “cằm” lại hóa thành “cầm”, miệng không rộng đủ, biến ă thành â dù cho đã gắt đủ và giữ đúng vị trí lưỡi là âm giữa.

    Muốn sửa chỉ cần đọc liên tiếp các âm gắt cùng phụ âm cuối, như “Ân ăn gian”, “Lân lăn lộn”, “Thất thắt nơ”, “nhạc réo rắt rất hay”, “thần thằn lằn”... Hoặc đơn giản hơn chỉ cần tập “áp, ắp, ấp”, “an, ăn, ân”, “ác, ắc, ấc”...


    Phần 2: Phụ Âm

    Phụ âm đầu

    Lỗi phát âm phụ âm không quan trọng trong tiếng Việt vì dấu giọng và nguyên âm đã đảm trách gần hết việc tạo nghĩa cho một chữ. Hơn nữa, khi nói hai chữ một lúc thì dù phụ âm có sai tới mức nào đi nữa người nghe cũng vẫn nhận ra đúng ý người nói. Đó là trong thực tế đàm thoại thông thường, nhưng trong môi trường học tập khoa bảng, người ta bảo rằng phát âm lẫn lộn phụ âm là nói ngọng, “Ngọng níu ngọng no”.


    Phần 2: Phụ Âm

    Phụ âm đầu

    Lỗi phát âm phụ âm không quan trọng trong tiếng Việt vì dấu giọng và nguyên âm đã đảm trách gần hết việc tạo nghĩa cho một chữ. Hơn nữa, khi nói hai chữ một lúc thì dù phụ âm có sai tới mức nào đi nữa người nghe cũng vẫn nhận ra đúng ý người nói. Đó là trong thực tế đàm thoại thông thường, nhưng trong môi trường học tập khoa bảng, người ta bảo rằng phát âm lẫn lộn phụ âm là nói ngọng, “Ngọng níu ngọng no”.


    Sau năm 1975, người miền Nam nào cũng phải bật cười khi nghe người miền Bắc ào ạt “tiến về Sài Gòn” và “lói lăng” “giất” ngộ nghĩnh. Hầu như tất cả, tất cả người Bắc đó đều “nẫn nộn” “nờ thấp” (n) với “nờ cao” (l), tất cả âm [r] bị biến thành [z], cả 2 chữ “d” và “gi” cũng đều đọc bằng [z]. Người miền Nam không chỉ bật cười thôi, cái cười này là cái cười ngô nghê “chẳng hiểu gì sất” một khi nghe người Bắc “lỏi”, vì họ “lỏi” sai cả “dẩu giong”. Mà như đã biết, dấu giọng là yếu tố quan trọng bậc nhất trong ngôn ngữ Việt. Thế nên người Nam ngớ người ra không hiểu là phải.


    Dần dần, cái văn minh của Sài Gòn đã làm cho những người “đi giải phóng” họ phải học theo và phần nào đã tự sửa được những cách phát âm sai của mình. Việc này đúng với qui luật lịch sử về đồng hóa: khi chinh phục được một dân tộc có văn hóa cao hơn mình, chính kẻ đi chinh phục mới là kẻ sẽ bị đồng hóa.


    Nói chung, đến nay việc phân biệt phụ âm của người Việt ta là khá chính xác, ngoại trừ một số cặp hay lẫn lộn sau.


    • |b| và |p|: gần như không có từ bắt đầu bằng “p” nên đa số người Việt phát âm |p| thành |b| (cùng là âm môi môi) tuy chỉ có vài từ mang âm |p| như số pi, Pi-ta-go, Sa-pa, cục pin... Âm |p| thực ra chỉ là âm cứng của |b| nên vẫn có thể tập phát âm đúng được, làm giàu thêm cho tiếng Việt.

    • Chữ phụ âm kép “tr” thường được phát âm thành [ts] là âm của “ch” và đây là điều không thể chấp nhận. Một số người khác lại đọc thành [tS ] của tiếng Anh, điều này cũng chấp nhận được theo nguyên tắc “có phân biệt là đủ”.

    • Chữ “v” được người Nam phát âm bằng môi-môi, trong khi người Bắc dùng răng-môi. Đây đích thực là địa phương tính của âm và hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng một khi đọc “v” thành [j], không dùng tới môi nữa, chữ “về” nói thành [jề] chẳng hạn, là sai, vì đây là âm của chữ “dề”. Những người Nam thời cựu trào luôn có cách phát âm rất đúng là [bjề]. Không hiểu sao lối đọc này ngày nay không còn thấy nữa. Nếu người miền Nam nay không thích cách phát âm cũ của ông bà nữa thì có thể đọc bằng răng-môi (răng của hàm trên và môi của hàm dưới) như người Bắc chứ đừng dung dị đọc giống âm của chữ “d”.

    • Tương tự như trên và cũng là địa phương tính, âm [f] được người miền Nam phát bằng môi-môi (là cách phát âm [p]), tuy môi không khép chặt vì còn phải thổi gió (gió là âm của [h]). Thế nên tiền nhân mới ký hiệu bằng “ph”. (Điều này góp thêm phần vào giả thiết chữ quốc ngữ được tạo dựng đầu tiên ở miền Nam.) Cũng giống trường hợp “v”, người miền Bắc đọc trúng âm [f] bằng răng-môi i hệt cách phát âm của các dân tộc Âu châu, do thế nên xưa nay đã có nhiều người đòi đưa âm [f] này về với ký hiệu hiện đại của nó là “f”, nhưng không được. Cách viết thuần “ph” đã trở thành đặc trưng của chữ Việt. Có thể do người Việt quá tôn trọng các giá trị truyền thống, chỉ chấp nhận cải cách nếu cái cũ thực sự có hại hoặc hoàn toàn không đúng, mà “ph” thì vẫn tương thích với cộng đồng la-tinh, ví dụ “phone, phantom, phases, phenomena...”

    Hai trường hợp răng-môi biến thành môi-môi ở Nam Bộ đã làm vài người giải thích rằng do người miền Nam thường mất răng cửa nên đã phải thay răng bằng môi. Và khi học nói với người móm dĩ nhiên con trẻ sẽ không dùng tới răng.

    • Có sách nói “d” và “gi” là tuyệt đối bằng nhau, thậm chí bằng cả “r” (ở miền Bắc) và cùng đọc là [z]. Nếu thực vậy thì rõ ràng về mặt luận lý không cần phải tạo ra đến 3 chữ như vậy. Nhất là phải chịu cái nguy hiểm khi “d” Việt lại có cách phát âm lỏi ra khỏi hệ thống la-tinh. Cứ để “d” mang âm “đ” rồi “gi” thay luôn cho nó có phải tiện hơn không? Càng khỏi phải mất công lấy một ký tự cổ của la-tinh là chữ eth (D) làm âm [đ]. Các cụ người Bắc có học luôn luôn uốn lưỡi hơn một chút khi đọc “gi” (thành [Z]) và khi đọc “d” thì thẳng lưỡi (thành [z]). Còn các cụ người Nam thì đọc “d” bằng âm [j] và “gi” bằng âm [z]. Dù ở đâu thì hai chữ này đều được đọc phân biệt. Còn trong dân gian, những người ít học thường có thói quen rút bớt, làm nhẹ, hay đơn giản hóa vấn đề, họ đánh đồng hai âm này là chuyện “bình dân học vụ” của họ, không thể vin vào số đông sai để bảo rằng cái sai đó đúng.

    • “l” và “n”:
    • “Chiếc xe nam neo nên nề, nật.” Do lưỡi đã cong không đủ, có thể do lưỡi cứng quá hoặc ngắn quá. Cũng có thể do việc đơn giản hóa hoạt động của lưỡi. Tuy nhiên không thấy các dân tộc tây phương mắc lỗi này, tức là do di truyền, lưỡi người Việt có khuyết tật?
    • “Cái lày la lá cái kia”: theo cách giải thích trên thì lại do lưỡi dài quá hoặc mềm oặt. Và chắc cũng do di truyền khuyết tật của lưỡi, các Hoa kiều ở Chợ Lớn luôn mắc lỗi phát âm này, thậm chí họ còn lộn âm [đ] thành âm [l], thế nên mới có giai thoại “cho ngộ lái”. Cũng cần biết thêm rằng [n] và [đ] của tiếng Việt được phát ra bằng hoạt động hất vào của lưỡi. Đây là một đặc thù của tiếng Việt nên Hoa kiều không học được cũng phải.

    Hai trường hợp trên thì còn có thể sửa chữa được bằng luyện tập công phu, cho người học đọc phân biệt từng cặp.

    • Nhưng trường hợp “Nẫn nộn cái lày thành cái lọ” thì là một khủng hoảng không thể giải thích được và cũng vô phương sửa chữa. Kiểu sai này làm người nghe hoàn toàn không hiểu. Tôi đã từng làm việc cho một người chủ có kiểu phát âm này. Anh ta biết khuyết điểm của mình, đã cố sửa và có tiến bộ tuy rất chậm. Nhưng thực ra, trong mỗi câu nói anh ta chỉ sai theo một kiểu. Cái ví dụ ở đầu đoạn này là một ví dụ tiếu lâm mang tính áp đặt mà thôi.

    • “Giưng mà”, “ở già” (nhưng mà, ở nhà). Cách phát âm địa phương, gặp ở Huế và cả một số vùng ở miền Bắc. Âm [nh] được đọc thành [gi].

    • Có người đã dùng hiện tượng này để giải thích chữ “Giời” chẳng qua là chữ “Nhời” mà chữ “Nhời” lại là trại âm của chữ “Lời”, cho nên “Đức Chúa Lời (Word)” biến thành “Đức Chúa Nhời” rồi thành “Đức Chúa Giời”. Nhưng có thực câu than “Ối giời ôi” chỉ xuất hiện sau khi có quốc ngữ và sau khi đạo Công Giáo đã được truyền đến thôn quê miền Bắc? Cũng khó xác định vì trước chữ quốc ngữ ta chỉ có chữ nôm mà chữ “trời” nôm viết bằng chữ “thiên” ở trên để lấy nghĩa và chữ “viết” ở dưới để lấy âm, chữ “viết” có nghĩa Việt là “lời”, vậy suy ra ngày xưa cha ông ta gọi trời là “lời” thực sao, hay các cụ nói “giời nói” chứ không phải “lời nói”? Và giải thích lại, chữ “viết” có nghĩa Việt là “giời” (lời) nên cái chữ nôm có “thiên” ở trên và “viết” ở dưới sẽ đọc là “giời”. Và ngày đó không có tiếng “trời”. Vậy phiên âm câu đầu của “Chinh Phụ Ngâm” là “Thủa trời đất nổi cơn gió bụi” là sai, phải phiên là “Thủa giời đất nổi con gió bụi”... Lại nữa, trong bản Kiều nôm “trăm năm trong cõi...” có chữ “trăm” nôm viết bằng “bách” ở trên và “lâm” (lấy âm) ở dưới. Suy ra ngày xưa các cụ nói “trăm” là “lăm”. Hay là quả thật có liên hệ giữa “tr” với “l”?

    • Không biết “tr” có liên hệ gì về âm với “l” không, chỉ biết “tr” đã bị ngọng thành một âm rất giống âm của chữ “t” và câu pha tiếng “con tâu tắng nằm ở gốc cây te tụi, nó tòn tùng tục như cái tống teo” đã trở nên nổi tiếng cách nay nửa thế kỷ.

    • Câu pha tiếng trên tuy nổi tiếng nhưng hiện tại lại không phổ thông bằng câu “con cá gô ở trong cái gổ, nó kêu gột gột.” Đây là hiện tượng ngọng âm [r] thành âm [g] ở một số vùng Nam bộ. Đối với thanh niên hiện nay thì kiểu ngọng này dễ thương và đa số đã tập để có được cách nói ngọng dễ thương này. Họ đem cả vào trong trường đại học và thậm chí còn giảng dạy bằng cái kiểu ngọng này nữa. Mai kia các nhà ngữ âm học Việt Nam sẽ đòi sửa “run rẩy” thành “gun gẩy”, và sẽ có “Việt Nam là một con gồng châu Á không thua kém Kô-ghia”, “viện Găng Hàm Mặt”, bài dân ca “Gu Con Nam Bộ”, nước cộng hòa “An-giê-ghi” vân vân...

    • Nói vậy chứ hiện nay chưa thấy ai dám viết như vậy, kể cả trong các web-log (blog). Khi lướt qua các blog của thanh niên Việt Nam, ta chỉ thấy rặt các chữ “w” thay cho “qu”. Chắc là thanh niên ta bây giờ xác tín rằng chữ “nhà quê” phải đọc là [nhà wê] mà không biết rằng mình đang tự “nhà-quê-hóa”.[1] Dù đây chỉ là một cách biểu hiện tâm lý phản kháng của giới trẻ, cũng nên cẩn thận kẻo có ngày mọi người đều sai thì cái đúng sẽ bị đào thải. Nó sẽ không khởi đi từ các chữ “w” trong blog mà bắt đầu từ quan niệm phát âm tiếng Việt của con em chúng ta. Hiển nhiên chúng không cho rằng phát âm rõ ràng là một biểu hiện của văn minh cao cấp.

    • “s” và “x”: “s” là một âm đục, gần giống [S], khi phát âm lưỡi cong hơn âm của “x”. Người miền Nam phân biệt hai âm này rất rõ còn người miền Bắc không phân biệt hai âm này.

    Phụ âm cuối

    Người miền Nam hay bị phê bình là nói không đúng phụ âm cuối. Tuy nhiên, nếu xét trên quan điểm phát âm đúng là phát âm phân biệt thì không có nhiều lỗi phát âm của người miền Nam. Có một số lỗi điển hình sau:


    • “t” biến thành “c” hay “ch”: “sát” thành “sác”, “nhứt” thành “nhức”... Nhưng trong chữ “ít”, họ vẫn đọc đúng phụ âm cuối “t”, cái khác biệt là họ làm âm “i” trở nên quá ngắn, chứ không đọc thành “ích”.

    • “n” biến thành “ng”: Người miền Nam đọc tiếng “anh” là [a-nh] trong khi người Bắc đọc là [AN] trong đó [A] hơi gắt: về điểm này, đã xuất hiện một âm không ký hiệu trong chữ Việt, âm [A], tuy nhiên chỉ ngoại lệ ở vần “anh” và vần “ach” mà thôi. Không có trường hợp đọc khác nên ký hiệu vẫn dùng được: dù đọc [a-nh] hay [AN] người nghe cũng hiểu một nghĩa “anh”

    Tuy nhiên, về mặt hiệu quả của ngôn ngữ, không nhất thiết phải phát đúng âm mà điều quan trọng là sự phân biệt rạch ròi giữa các âm. Nếu “Ôi thôi! Tôi toi rồi” nói thành “Oi thoi! Toi toi ròi” hay “Ôi thôi! Tôi tôi rồi” thì quả thật không chịu được. Hay “anh An ăn cơm” nói thành “an An an cơm”, “chú chim Khướu khiếu nại với ông Bồ Nông” nói thành “chú chim Khiếu khiếu nại...” vân vân...

    HỒNG ĐỨC

    23/11/2007
    California, USA



    [1] Cần phân biệt ý nghĩa chữ “nhà quê” ở đây. Ở đây nó mang nghĩa xấu, tuy rằng trong các trường hợp khác chữ “nhà quê” hay “thôn quê” luôn mang một ý nghĩa cao quí nào đó.





 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

 

■ Ráp vần và đánh vần sau khi bị Việt cộng đem ra "cải cách tiếng Việt"

 





Cách bỏ dấu, hay đánh dấu thanh của dấu giọng trong tiếng Việt

Cách bỏ dấu truyền thống, thì dấu giọng được bỏ trên mẫu tự nguyên âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên, kể cả “y” với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy.”
Cách đánh dấu theo truyền thống viết:
“hóa, xòe, súy”
.......................................
Sau 1975, Tiếng Việt bị Việt cộng đem ra làm "cải cách tiếng Việt" sửa đổi như sau:
Quy tắc 4. (quy tắc độc đoán) -- Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh đặt vào chữ nguyên âm chót.
Ví dụ: Cải cách tiếng Việt của Việt cộng sau 1975 viết:
ho, hoè, hu, loà xoà, loé, suý, thu

Sau một thời gian,
Cuộc cải cách tiếng Việt của mấy trự Việt cộng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới”

Nay người ta có khuynh hướng trở lại bỏ dấu theo cách truyền thống là bỏ trên mẫu tự nguyên âm áp chót:
.......................................
ha, hòa, hóa, ha, hòe, hy, ty, ly, thùy, thúy, th th lòa xòa, lòe, xòe, lóe, súy, y, úy.
.......................................

 

 

Đọc thêm



►► Cách Bỏ Dấu Tiếng Việt -- Trước và Sau 1975
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/04/cach-bo-dau-tieng-viet-tren-trang-web.html

"

►► Âm và Chữ --- Trong Tiếng Việt (Trước và Sau 1975)
https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/06/am-va-chu-trong-tieng-viet-truoc-va-sau.html





►► Tên Mẫu Tự - Tiếng Việt (Trước và Sau 1975)
https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/04/tieng-viet-ten-mau-tu-xin-ke-hau-qui-vi.html





►► Đánh Vần Tiếng Việt - Trước và sau 1975
https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/06/anh-van-tieng-viet-truoc-va-sau-1975.html



►► I và Y / i Ngắn và y Dài - Trước và Sau 1975
https://vuonlenmai.blogspot.com/2020/06/tieng-viet-i-va-y-hong-uc-ngay-sau-ngay.html



 

No comments:

Post a Comment