Saturday, December 2, 2017

- so sánh tổng sản lượng của miền nam Việt Nam
1960 - so sánh tổng sản lượng của miền nam VN, miền bắc VN, Nam Hàn và Trung cộng Lúc này Mỹ chưa đưa quân vào miền nam. 1965 quân đội Hoa Kỳ và đồng minh mới đem quân vào miền nam tham chiến vi cường độ du kích VC luồn theo đường mòn HCM xâm nhâm vào miền nam gia tăng.


 photo 1908293_800334336643714_663549150224856297_n.jpg












Hồi 1951, Việt cộng "đánh Mỹ", mà hồi đó có Mỹ nào tại Việt Nam? Sau khi phát động chiến tranh, Việt cộng đánh rát khắp vùng ven Sài Gòn, kéo dài ròng rã mãi đến 1965, thì quân đội Mỹ và đồng minh mới vào giúp, giống như quân đội đồng minh vào giúp Nam Hàn chống Bắc Hàn xâm lăng nam Hàn trước đó.

“Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “dùng vũ trang bạo lực phát động chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền Diệm - Thiệu ác ôn".

 photo M-46-beyt-hatotchan-1.jpg

Pháo M-46 130 mm là loại lựu pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Liên Xô thiết kế và chế tạo vào thập niên 1950. NATO nhận được thông tin về loại vũ khí này vào năm 1954, nên đặt tên mã cho nó là M1954. Năm 1959, Trung Quốc được cấp phép chế tạo thứ vũ khí này và đặt tên là Kiểu 59-1. Chiều dài nòng pháo bằng 52 lần cỡ nòng (caliber) - dài lạ thường so với các loại pháo đương thời, pháo bắn rất xa, xấp xỉ 27,5 km đối với đạn thường.
Không có đại bác 130 ly vào Việt Nam bắn phá khắp nước Việt Nam Cộng Hòa TRƯỚC HÀNG CHỤC NĂM, thì làm gì có quân Mỹ vào?
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1o_130mm_M46

Sài Gòn - Những hình ảnh thời 1960 - 1964

1954 chia đôi hai miền đất nước theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội, bên quốc gia Việt Nam không ký, nhưng đành chấp nhận sự yêu cầu từ phía công sản bắc Việt.

1954 tới năm 1964 trong 10 năm, miền nam xây dựng kinh tế, đặt thủ đô tại Sài Gòn.
Miền nam vừa xây dựng kinh tế đất nước vừa phải chống trả những cuộc vượt Vĩ Tuyến 17 xâm lăng của công sản bắc Việt càng lúc càng gia tăng và khốc liệt.

Khi miền nam có nguy cơ bị tiêu diệt, quân đội Hoa Kỳ và quân đội đồng minh trong SEATO mới vào cứu nguy cho miền nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 mới có những bước chân đầu tiên của quân đội Mỹ đặt lên miền nam Việt Nam.

Dưới đây là những hình ảnh miền nam trong 10 năm xây dựng kinh tế 1960 - 1964 trước khi quân đội Hoa kỳ đổ bộ trên miền nam.

 photo 1100agraveitruy1EC1nhigravenhSagraveiGograventh1EADpniecircn1960.jpg
Đài truyền hình Sài Gòn vào năm 1960


 photo 6894524398_8a6cb3285a_z.jpg
Tòa Đô Chánh Sài Gòn / Saigon 1964 - City Hall


 photo Saigon1964-11001EA1il1ED9Th1ED1ngNh1EA5t.jpg
Sài Gòn 1964 - Đại Lộ Thống Nhất


 photo Saigon1964-CaravelleHotel-VIP-goodrestarauntattop.jpg
Saigon 1964 - Caravelle Hotel - VIP - good restaraunt at top


 photo Saigon1964-RexMovieTheatre-onlyescalatorinVietnam.jpg
Saigon 1964 - Rex Movie Theatre - only escalator in Vietnam


 photo Saigon1964-ParkingLot.jpg
Saigon 1964 - Parking Lot


 photo Saigon1964-CaravelleHotelTop-SaigonRiverView.jpg
Saigon 1964 - Caravelle Hotel Top - Saigon River View


 photo Saigon1964-ARVNGeneralJointChiefofStaff.jpg
Saigon 1964 - ARVN General Joint Chief of Staff


 photo Saigon1964-TanSonNhut.jpg
Saigon 1964 - Tan Son Nhut


 photo Saigon1964-TanSonNhut-helicopterswitharmament.jpg
Saigon 1964 - Tan Son Nhut - helicopters with armament


 photo Saigon1964-BritishEmbassyEmbassy.jpg
Saigon 1964 - British Embassy Embassy


 photo LoNguyenTuDalat-danlambao.jpg
Lò Nguyên tử ở Đà Lạt


 photo avn1.jpg
Chiêu Đãi Viên Hàng Không Sài Gòn 1960


 photo avn3r.jpg


 photo avn.jpg


 photo 5385718025_ffcb202af4_b.jpg
Thiếu nữ Sài Gòn 1960


 photo n1EEFsinh.jpg


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet37.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet25.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet23.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo Thi1EBFun1EEFSG1960.jpg
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960


 photo thieu-nu-sai-gon-giaoducnet31.jpg
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960


 photo Ph1EE5n1EEFSagraveiGogravenn1030m60.jpg
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960


http://namrom64.blogspot.com/2013/06/hinh-xua-ngay-phu-nu-3031960-tai-sai.html
http://honngocviendong.vn/hinh-anh/ngay-phu-nu-viet-nam-nam-1960
Ngày lễ Hai Bà Trưng / Ngày phụ nữ Việt Nam năm 1960




1
 photo sagraveigograven.jpg
2
 photo Saigon_Old22-1.jpg
3
 photo SagraveiGogravenTown.jpg
4

 photo 834d07c6-2bd1-4589-851d-70f85a394e6c.jpg



Sài Gòn những năm 1960 - Hòn Ngọc Viễn Đông

http://youtu.be/IlmGVeAeMQc



Saigon 1961





Saigon 1950



Sài Gòn Xưa Đón Tết Canh Dần, 1950




Công Binh đường sắt Trung Cộng giả dạng bộ đội Việt Nam

Hồ Tập Chương trở thành Hồ Chí Minh, đúng vào mùa Xuân, ngày 28/1/1941 Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) chính thức tuyên bố chiến khu Pác Bó. Hồ Chí Minh thật đã chết trong tù vào năm 1932, tại Hương Cảng, chính quyền bảo hộ Anh còn lưu trữ giấy khai tử của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh thật bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông năm 1931, rồi Hồ bị bịnh lao phổi trong nhà tù vào 1932. Vào thời điểm này, bịnh lao phổi là bịnh nan y do vi trùng Koch gây ra, không ai có thể thoát chết được vì chưa có thuốc Streptomycine. Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ



(Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN)






(Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)










(Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN)




(Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN )







(Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng)



(Hoặc do Phạm Văn Đồng ban thưởng)




(Năm 1968, hai bác Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN)




"Nam man! Ta cho ngươi cơm ăn, áo mặc, ta cho ngươi súng đạn, nhưng chính ngươi đã lấy súng đạn bắn vào da thịt ta!” (người anh em đồng chí TC nói!)




Hoa Kiều tại Việt Nam bị cưỡng chế hồi hương năm 1978




Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.

Dấu đạn giao tranh Trung-Việt trên khắp tường thành "Hữu Nghị Quan"






Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái. Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973.

…Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm.
Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua...
Chung Tử Bửu

Trong những ngày phải đi rừng đốn gỗ, chặt nứa, chặt chổm, của hai năm 73 và 74, biết bao ký ức của thời quân trường, thời du học các trường bay ở Mỹ cuồn cuộn kéo về trong tâm khảm. Mỗi đêm nhìn thấy đèn xóm nhà dân dài theo chân núi bên kia ruộng, nhớ sao hàng đèn phi đạo của những chuyến bay đêm. Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua. Ôi quê hương ra sao bây giờ? Trên đất Bắc dong chân qua những miền đất lạ, người xử người dã man nghiệt ngã. Bọn cáo chồn lộ nguyên hình tàn độc, bỉ ổi, và man trá. Quyển Thánh Kinh, cái gai trong mắt tụi coi trại, là nguồn an ủi vô biên của người tù binh trong những ngày gian khổ.

MỘT CHUYẾN BAY ĐÊM
http://youtu.be/bx1wYg3kf_4
Khoảng gần cuối năm 1973, nhóm tù binh 7 người chúng tôi bị chia cách khỏi đám đông ngày nào đi lao động hái trà cũng phải đi ngang qua cái nhà của tụi chỉ huy trại. Chúng trương lên một tấm bảng đen giữa sân, mỗi ngày lấy phấn trắng vẽ mặt trận tiến quân của Ai Cập đánh Do Thái. Ðài phát thanh thì oăng oẳng hí hửng từng giờ loan tin chiến thắng của Ai Cập. Ðược đâu vài bữa huênh hoang, bỗng cái bảng đen biến mất, và bản tin về chiến sự vùng Trung Đông cũng đột ngột im re. Chắc là “phe ta” thua to rồi!

Một ngày Tháng Sáu 1974, chúng tôi được tin 4 anh trong đám đông đã vượt ngục. Ôi! Vui chi kể xiết, dù chúng tôi bị gò bó nhiều hơn. Tụi Việt Cộng gửi tới Yên Bái một sư đoàn tập trận để lùng bắt cho bằng được những người tù binh đã bỏ trốn. Ba tuần trôi qua, bóng các anh vẫn biệt mù tăm cá, tôi hứng chí làm bài thơ “Tiếng Rừng Xôn Xao” (với bút hiệu Phù Vân) tặng các bạn mình. Nói làm sao hết nỗi tự hào của các chiến sĩ Cộng Hòa hiên ngang bất khuất. Niềm tin càng ngày càng vững trong gian lao, dù ngày về quê hương vẫn còn xa mờ mịt.

Lưu Đày - Lê Tâm
http://youtu.be/K4e9R4JUfcE
Từ ngày được tin Phước Long, rồi Ban Mê Thuột thất thủ, tôi xem những lời tiên tri trong Thánh Kinh Cựu Ước và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh. Ngày 11 tháng 4, 1975, tôi bị đưa về tạm giam tại nhà tù Hỏa Lò. Ngày 25 tháng 4 bị đưa trở lại Ðông Khê, Cao Bằng. Trại giam năm xưa bây giờ trở thành trại kỷ luật. Tôi gặp lại 4 anh vượt ngục đã bị bắt lại và bị đưa lên đây trừng trị từ nhiều tháng trước. Bốn chục thằng Việt Cộng lo trông coi và hành hạ chỉ có 11 người tù binh. Ôi! Buồn không chi tả xiết! Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa. Tôi tưởng chừng lòng mình đã thành chai đá. Nước mắt không còn để khóc. Quyển Thánh Kinh bị tịch thu vì là trại kỷ luật. Bị giam riêng một mình ở tòa nhà đá trên đầu dốc, tôi chỉ còn là cái xác không hồn.


… và biết rằng miền Nam sẽ sụp đổ, mấy tháng liền nước mắt khóc quê hương cứ ràn rụa thâu canh.

… Rồi Sài Gòn thất thủ, niềm hy vọng lâu nay bám víu cũng trôi xa…
Chung Tử Bửu

Cuối năm 1975, chúng tôi được cho phép viết thư về nhà lần đầu tiên. Tôi quyết định không viết. Có lẽ gia đình tôi chẳng còn ai. Còn vợ tôi, nếu nàng đã đi bước nữa mà nhận thư tôi chỉ khiến nàng thêm bẽ bàng. Thôi, tôi tự xem mình như đã chết. Và tôi cũng muốn gia đình tôi đừng biết tin tôi còn sống. Tôi sẽ ở tù không có ngày ra. Bọn Việt Cộng đã tuyên bố vậy. Báo tin tôi còn sống chỉ làm người thân đau khổ thêm một lần nữa, ích lợi gì! Nhưng Thiếu Úy Chờ, người bạn cưa xẻ với tôi, theo tôi năn nỉ khuyên nhủ suốt mấy ngày. Ðể làm vừa lòng bạn, tôi viết qua quít một thư cho mẹ tôi, mà tôi nghĩ sẽ chẳng bao giờ tới, vì có lẽ mẹ và các em tôi đã được đưa đi Mỹ rồi.

Mùa Ðông năm ấy rét chưa từng thấy. Ban ngày nhiệt độ trung bình là 2 độ C. Ban đêm 5, 6 độ âm. Vẫn phải lao động, cưa gỗ, đẵn củi, đập đá, đắp đường. Bụng lúc nào cũng đói, cái đói triền miên hành hạ không nguôi. Nếu không có bãi cỏ hắc âu làm thuốc, có lẽ, tất cả chúng tôi đã gục ngã vì bệnh thấp khớp sưng đầu gối. Rau dấp cá mọc hoang trở thành nguồn lương thực cứu đói chánh yếu của chúng tôi. Cỏ gì xực được là bứt. Tôi lại vận dụng trí não làm một bài thơ tựa đề là "Mùa Ðông Thạch An" thuộc nằm lòng chứ không bao giờ ngu viết ra giấy. Khoảng ba tháng sau, nhằm mùa Xuân, một buổi trưa rất bất ngờ, thằng cai tù tên là Tòng đem đưa cho tôi thư nhà gửi ra, thật dày. Tôi rất bình thản mở thư ra xem. Trong thư có rất nhiều ảnh chụp. Tấm hình màu nằm trên cùng là ảnh hai đứa con gái của tôi khoảng 4, 5 tuổi. Ôi! Chúng xinh đẹp và dễ thương làm sao. Tôi chợt òa khóc không thể nào ngưng. Bao nhiêu nước mắt và nỗi lòng thương nhớ bị đè nén từ lâu đầy ngập trong linh hồn, nay tràn ra như nước vỡ bờ. Một mình giữa xà lim vắng lặng, tôi nghe tiếng khóc hu hu của mình trộn lẫn tiếng nấc. Khi thấy lại hình ảnh của những người thân yêu nhất, mọi cảm xúc bỗng bừng sống dậy, dạt dào... Từng lời thư yêu thương của vợ làm tôi quá hối hận vì đã nghi ngờ lòng chung thủy của nàng. Ôi em! Ôi hai con! Vâng, sẽ có ngày... sẽ có ngày tôi được gặp lại người xưa.

Tháng 6 năm 1976, tôi được trả lại quyển Thánh Kinh, được ra khỏi trại kỷ luật và bị đưa đi trại Sơn La vùng Tây Bắc. Chẳng phải vì chúng tôi đã mãn hạn, nhưng vì bọn Việt Cộng dùng trại Ðông Khê để trừng trị những người chiêu hồi bị chúng tóm lại được. Ở Sơn La, tù nhân lao động quần quật hai năm rưỡi, lội khắp các cánh rừng của bản Mường Thải rồi về trại Ba Sao Nam Hà ở ba năm rưỡi nữa. Sau đó chuyển về trại Z30C Hàm Tân thêm hai năm 7 tháng. Suốt thời gian ấy, tôi được báo trước trong những giấc mơ đủ thứ chuyện sẽ xảy ra, thì đều diễn ra y như tôi đã thuật lại cho các bạn cùng phòng. Trong gần 14 năm trôi nổi gian truân và cả sau nầy, bàn tay bảo vệ và gìn giữ của Thiên Chúa vẫn theo tôi không bao giờ rời xa. Ôi, Thiên Chúa đầy yêu thương đã đoái đến một con chiên ghẻ bướng bỉnh.

Không món quà nào trong thời khổ đau quý hơn món quà quyền phép giúp tôi biết mình luôn được bảo hộ, được chỉ dẫn cho biết con đường chân lý. Suy gẫm về những ngày gian khổ đó, tôi luôn biết ơn Ðấng đã che chở bảo vệ tôi, thậm chí một cái tát cũng đã không xảy ra, mặc dù tôi là người tù bị bọn Việt Cộng ghét nhất trại. Có lẽ tôi là người duy nhất thuộc khóa 65 Không Quân Việt Nam Cộng Hòa đã trải qua những kinh nghiệm như đã kể. Có người bạn như vậy kể cũng “hãnh riện” lắm chứ, phải không các bạn!

Chung Tử Bửu

LTS: Chung Tử Bửu là học sinh Trung Học Lê Lợi Di Linh gần Đà Lạt, hiện làm Mục Sư tại Texas

Nguồn: http://www.anhdao.org/D_1-2_2-66_4-328_5-4_6-2_17-80_14-2_15-2/#nl_list_bookmark


-----------------------------------------------------------
 photo khongquanvnch_zpsb3a521ed.jpg
-----------------------------------------------------------
Chuyến Bay Tử Thần Vào Đồi 31 Hạ Lào

Chuyện về Cuộc Hành Quân Lam Sơn 719 đánh sang Hạ Lào nhằm cắt đứt đường mòn HCM đã được nhiều người viết ra. Ðầu tiên là nhà văn Phạm Huấn với quyển “Trận Hạ Lào năm 1971″, rồi nhà văn Nhảy Dù - Lê Ðình Châu đại úy đại đội trưởng. Đại đội công vụ nằm vòng đai bảo vệ cho Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù trên đồi 31 cũng ra mắt quyển “Ðôi Mắt Người Tù Binh”, và anh Nguyễn Văn Long, thiếu úy sĩ quan phụ tá ban 2 Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù vẫn thường xuyên viết về Hạ Lào cho Ðặc San Nhảy Dù ở Úc Châu. Ở đây, tôi (Bùi Tá Khánh) chỉ ghi lại câu chuyện như là một mẩu hồi ức dưới mắt nhìn của một người lính Không Quân.
Kingbee Bùi Tá Khánh



Binh sĩ VNCH tại Khe Sanh đang chờ để được trực thăng bốc vào
đất Lào lúc mở đầu cuộc hành quân Lam Sơn 719, ngày 8-2-1971

Tôi là một hoa tiêu phục vụ trong Phi Đoàn 219, thuộc Không Ðoàn 51, Sư Ðoàn I Không Quân trú đóng tại Ðà Nẵng. Phi đoàn 219 là hậu thân của Biệt Đoàn 83 với nhiệm vụ tiến hành cuộc chiến tranh thầm lặng trong bóng tối nhằm gây rối, phá hoại hậu phương của địch. Vì thế, tất cả phi cơ của Phi Đoàn 219 chỉ sơn toàn bệt màu đen và xanh lá cây xẫm bên trên phần bụng trắng và không mang phù hiệu hay cờ gì cả ngoài số serial number mà thôi.

Là một phi đoàn chỉ thi hành những phi vụ đặc biệt ngoài lãnh thổ và ngoài những cuộc hành quân bình thường, nhưng trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, nằm trong kế hoạch được mệnh danh là Việt Hóa chiến tranh, một cuộc hành quân quan trọng lần đầu tiên hoàn toàn do QLVNCH đảm nhiệm với sự yểm trợ tối thiểu của Không Lực Hoa Kỳ trong những ngày đầu với những loại trực thăng khổng lồ chuyên chở những xe cơ giới hạng nặng như xe ủi đất, lô cốt tiền chế, đại pháo 105 và 155 ly để QLVNCH dọn bãi thiết lập những căn cứ hỏa lực đầu cầu trên đất Lào. Vì thế nên Quân Ðoàn I đã phải trưng dụng tất cả những đơn vị Không Quân trực thuộc Sư Ðoàn I Không Quân trong đó có Phi Đoàn Long Mã 219.

Như vậy phi đoàn chúng tôi, ngoài những phi vụ đặc biệt thường lệ, lại phải đảm nhiệm thêm việc yểm trợ cho Sư Ðoàn Dù, một trong ba lực lượng nòng cốt trong cuộc hành quân Lam Sơn 719. Mỗi ngày phi đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm hai hoặc ba chiếc H-34 nằm trực chiến tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh Bộ Chỉ Huy tiền phương Sư Ðoàn Dù. Từ đây chúng tôi xuất phát những phi vụ tiếp tế lương thực, đạn dược cho các căn cứ hỏa lực 29, 30, 31 và các đơn vị hành quân lục soát bên ngoài căn cứ. Những phi vụ này thường là rất “hot”, nhưng “sôi nổi” nhất vẫn là những phi vụ tải thương cho binh sĩ nhảy Dù khi có đụng độ với quân cộng sản Bắc Việt. Và chuyện này xảy ra như cơm bữa hàng ngày nên chúng tôi coi như pha. Chúng tôi cứ luân phiên nhau mỗi phi đội trực chiến cho Sư Ðoàn Dù bốn ngày rồi trở về Ðà Nẵng tiếp tục những phi vụ thường nhật.


Đồi 31 - Lam Sơn 719 - Hạ Lào

Hôm nay đến phiên trực của chúng tôi. Phi đội gồm có hai phi cơ do anh Chung Tử Bửu lead, tôi co-pilot và Nguyễn văn Em là mê-vô, chiếc thứ hai tôi chỉ nhớ hoa tiêu chánh là anh Yên. Chúng tôi vào phi đoàn nhận lệnh vào lúc 8 giờ sáng rồi chia tay nhau về nhà sửa soạn hành trang, hẹn gặp nhau lúc 10 giờ ngoài phi đạo 219.

Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt, xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng tôi quyết định phải vào ngay đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương Sư Ðoàn Dù để đặt kế hoạch cho chuyến bay thì tôi và mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình trước, dư sức bay không cần phải refuel.

Một lát sau từ phòng briefing ra, anh Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở theo một tiểu đội Tác Chiến Điện Tử Dù cùng với 18 chiếc máy “sensor” vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn anh Nguyễn thanh Giang về. 15 phút trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình hình lúc này rất gây cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm đủ loại từ 37 mm, 12 ly 7 và lần đầu tiên còn nghe có cả SA-7 nữa.

Về không trợ thì có hai chiếc Gunship của Phi Đoàn 213 do Trung Úy Thục bay trước mở đường.


Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật “lá vàng rơi”, từ trên cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot là Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây M-60 trên cửa máy bay nữa. Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ số 9 tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù bắn rất chính xác và hiệu quả. Gần đến Landing Zone anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship của Trung Úy Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy “Bửu coi chừng phòng không ở hướng Tây”. Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.

Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn phòng không, phi cơ phát hỏa, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, mêvô Em la lên khẩn cấp trong máy “Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy”.

Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing “Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa” trong khi vẫn bình tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ Đại Úy An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ nhất của đại đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước. Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy “sensor” vẫn còn nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp vớ lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù “trên đây nè thiếu úy, tụi tôi bắn yểm trợ cho”. Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.

Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn con tàu xụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.

Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông hào lần về đến ban chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On, Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là đại tá Thọ lữ đoàn trưởng Lữ Ðoàn 3, Thiếu Tá Ðức trưởng ban 3, Đại Úy Trụ phụ tá ban 3, Đại Úy Nghĩa sĩ quan liên lạc Không Quân, Trung Úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Thiếu Úy Long phụ tá ban 2. Về phía pháo binh thì có Trung Tá Châu tiểu đoàn trưởng và Đại Úy Thương trưởng ban 3 thuộc tiểu đoàn 3 pháo binh Dù. Ðại Tá Thọ mừng anh em “mới đến” mỗi người một điếu Havatampa và một ly Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy “ông” nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống rượu Mỹ như máy! Quả các anh ăn chơi cũng dữ mà đánh giặc cũng chì thật.

Buổi chiều vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù. Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Trung Úy Nguyễn Hải Hoàn, một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng hơn vì đối với cộng sản bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.

Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến Không Quân Việt Nam và Không Quân Hoa Kỳ không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có hai phi tuần F-4 đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một đợt B-52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng điệp. Ngược lại, quân bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù.

Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, chúng tôi nhận được lệnh và khởi sự di chuyển ra các hầm cứu thương sát bãi đáp chờ đến trưa đích thân phi đoàn với ba chiếc H-34 sẽ vào tải thương binh Dù đồng thời bốc hai phi hành đoàn ra. Tôi và anh Bửu cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ quen thuộc xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận “tiền pháo” dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành quân “Trời kêu ai nấy dạ!”.


Binh sĩ VNCH bị quân Bắc Việt bắt trong trận đánh Lam Sơn 719

Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là những pháo thủ pháo đội C trên căn cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được hai chiếc T-54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này nhiều binh sĩ Dù đã nằm xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ, trong số này có cả pháo đội trưởng Nguyễn Văn Ðương, người đã là niềm hứng khởi cho một nhạc phẩm nổi tiếng sau đó. Chúng tôi vui sướng reo mừng trong hầm bên này. Không ngờ, chỉ mỗt lúc sau hai xe tăng khác ở phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần hai chiếc F-4 xuất hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm hai xe tăng nữa. Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những chiếc H-34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình. Cho đến khoảng 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng xục từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.

Về phía Không Quân, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và bị dẫn giải ra bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các sĩ quan và binh sĩ Dù trên đường đi. Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi cộng quân kêu các ra đầu hàng. Ðến lần thứ ba các anh vẫn không chịu ra nên chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên chúng bắt theo còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả hai chân không đi được nên bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ hai tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn Em gục chết ở bên đường.

Thế là 219 ghi thêm vào quân sử của mình một thiệt hại hai phi hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của hai phi hành đoàn đó là Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định, biết còn có ngày về hay không?

Viết để nhớ đến tất cả những chiến sĩ anh hùng đã thành danh hay vô danh, vẫn còn sống hay đã hy sinh cho quê hương đất nước. Sau 33 năm ít ra tên tuổi các anh vẫn còn được nhắc đến một lần.

Kingbee Bùi Tá Khánh
hung-viet.org


http://www.vietlandnews.net/forum/showthread.php?t=8828
Tác giả/Nhân vật: Bùi Tá Khánh |13-07-2011|




Chỉ có VNCH mới có chính danh thưa kiện và vì thế VNCH phải được thừa kế chính phủ sau này nếu muốn lấy lại Hoàng Sa.

 photo 10547583_807754132570631_1579498698215541646_n_zpsf7775060.jpg ><br><br><font size="Các Ông Chỉ Có Một ĐƯỜNG BINH…”

Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được Hiệp Ước Liên Minh Quân Sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ Mỹ, đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho Cảnh Sát Biển.

Hôm trước khi ra sân bay về nước, đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia. Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều tổng thống Mỹ ghé qua ăn và chụp hình lưu niệm.

Vừa bước vô cửa người đại điện Mỹ nói chào một cách dí dỏm:

- Ông cũng khéo chọn lựa chứ? Mỹ gặp Việt trong nhà hàng Trung Quốc?

Đại diện CSVN cười và giải thích:

- Nhà hàng này có chủ là người Đài Loan. Cứ xem như kẻ thù của kẻ thù là bạn.

Đại diện Mỹ buột miệng ra một câu tiếng Việt:

- Thế ra là nhà hàng của “Thế lực THÙ (của) ĐỊCH” à?

Đại diện CSVN phá lên cười:

- Gớm. Ông cũng rành tiếng Việt đấy chứ?

- Tôi học tiếng Việt ở Mỹ, học tiếng lóng tiếng láy ở Sài Gòn khi còn làm tùy viên văn hóa bên đó trước năm 1975.

Sau này vẫn theo dõi thời sự và trao đổi trên Facebook. Chúng ta có thể thảo luận bằng tiếng Việt để khỏi mất thì giờ. Ông muốn gặp tôi lần cuối chắc là có câu hỏi gì cho tôi?

Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:

- Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở.

Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi. Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng đưa Trung Quốc ra Tòa Án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi không?

- Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.

- Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?

- Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ.

Bây giờ các ông tham gia với BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.

- Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam đã có xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao ông lại nói BẤT LỢI?

- Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.



- Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?

- Đúng! Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!

Đại diện CSVN cười sặc sụa:

- Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi.

Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là “giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Quốc” thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO KHÔN NGOAN của chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa. Chờ cho người đại diện CSVN cười xong, uống một ngụm nước, thì đại diện Mỹ mới từ tốn lên tiếng:

- Đối với luật pháp Tây Phương chúng tôi thì chúng tôi phân biệt rất rõ sự tách biệt giữa “khế ước buôn bán” và “chủ quyền”.

- Ý ông nói là các ông có thể bán những gì các không có cơ à. Thật là HOANG ĐƯỜNG và TRẺ CON.

- Chuyện có thật ông à. Khế ước buôn bán là giao kết giữa hai hay nhiều bên về chuyển nhượng một cái gì đó nó có thể trong hiện tại hay trong tương lai để đổi lấy giá trị tiền bạc hay vật chất có thể giao hôm nay hay giao vào một thời điểm trong tương lai.

Như vậy vào năm 1958 các ông hứa bán một cái gì đó các ông không có ngay lúc đó, và lời hứa sẽ giao hàng ngay khi các ông có. Vấn đề là phía Trung Quốc tin như vậy và ủng hộ các ông biến điều đó thành hiện thực. Đổi lại họ cung cấp viện trợ cho các ông gần cả tỉ đô la về vật chất và con người để tiến hành chiến tranh chống chúng tôi. Năm 1958 các ông không có CHỦ QUYỀN nhưng các ông đã làm KHẾ ƯƠC, thì khi các ông có chủ quyền các ông phải thực hiện khế ước buôn bán đó.

- Thế các ông có trường hợp buôn bán kiểu đó trong thực tế không?

- Có chứ ông. Trong sở hữu chứng khoán, thị trường thế giới có cái gọi là “future options”. Ông không dám mua chứng khoán đó vì ông sợ thua lổ, ông có thể trả tiền với LỜI HỨA sẽ mua và công ty đó phải giao “chủ quyền” chứng khoán đó cho ông trước thời điểm nào đó, dù nó lên hay xuống thấp hơn giá trị ông trả. Rồi ông cần tiền ông vẫn có thể bán LỜI HỨA đó cho người khác và cứ thế cho đến khi thời điểm hứa đó đến thì người cuối cùng phải THỰC HIỆN. Cái đó là buôn bán thứ ông không có chủ quyền.

Đại diện CSVN nghiêm mặt lại biện hộ:

- Nhưng ông không đọc thấy trong ngôn từ Thủ Tướng Phạm văn Đồng rất KHÔN NGOAN không hề đề cập đển chuyện “giao chủ quyền” như cái ví dụ mà ông nêu. Ông ta chỉ nói: “Có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt biển”.

Đại diện Mỹ cười rồi nói:

- Các ông đã có lịch sử CÔNG NHẬN công hàm này. Đó là vào năm 1974 khi Trung Quốc tấn công Hoàng Sa thuộc chủ quyền VNCH. Các ông đã “tôn trọng hải phận của Trung Quốc trong mọi quan hệ trên mặt biển” nên các ông hoàn toàn để mặc cho Trung Quốc hành động chiếm chủ quyền… TƯƠNG LAI của các ông. Thế thì sao các ông có thể biện minh trước tòa rằng một văn bản không hiệu lực lại được tôn trọng?

- Chúng tôi cũng như các ông thôi. Hạm đội 7 các ông nằm đó đâu có động tĩnh gì!

- Hoa Kỳ bị ràng buộc bởi Thông cáo chung Thượng Hải với Trung Quốc và Hiệp định Paris, phải rút quân và trả lại quyền tự quyết cho VNCH. Đại diện Mỹ ngừng một lát rồi nói tiếp:

- Tôi xem công hàm Phạm văn Đồng nhiều lần và phải công nhận vào thời điểm năm 1958, ông Đồng hay ai đó soạn cho ông Đồng ký công hàm này là “khôn liền” ngay lúc đó mà không có “khôn lâu”.

- Ý ông là?

- Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món hàng tương lai không biết có chiếm được hay không.

Ví như một người muốn đi cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác: “Khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau”. Khi cướp được thì phải thực hiện lời hứa đó.

Đại diện CSVN mỉa mai:

- Nếu “khôn lâu” như ông trong trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?

- Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện trợ thì tôi vẫn viết như thế…

- Huề tiền!

- Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị Paris năm 1973 để nó phải rút quân…

Đại diện CSVN phá liên cười:

- Ông khôi hài quá, thế mà lại dạy “ngoại luộc trứng” Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:

- CSVN ký công hàm Phạm Văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958, nhưng ai đó quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là ĐẠI NGU để Trung Quốc nó ị trước. Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ. Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.

Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:

- Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không? Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:

- Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không? Rồi, ông nói tiếp:

- Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm Văn Đồng, vì 1974 các ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.

- Không còn cách nào hết sao?

- Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.

- Cách gì ông nhắc lại đi.

- Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.

- Làm cách nào?

- Ngay ngày mai… Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa. Lấy lại tên Sài Gòn và dời thủ đô về đó. Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ. Có như thế thì trước diễn đàn thế giới, VNCH chỉ VẮNG MẶT 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ là tờ “giấy lộn” vì tên cướp có vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra. Trời Việt lại… HỪNG ĐÔNG.

Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:

- Chỉ đơn giản thế thôi sao?

Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó. Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:

- All road lead to Rome (Đường nào cũng về La Mã). Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. Các ông chỉ có một ĐƯỜNG BINH. Cầm bài chi lâu cho nó… ƯỚT.

Sưu tầm

--------------------------------

Học giả Trung Quốc phản biện những lập luận của Việt Nam về Công Hàm Phạm Văn Đồng?

Nguyên văn bài phản luận của thằng "học giả" TC.

1. Luận điểm 1 của phía Việt Nam: Công hàm Phạm Văn Đồng chỉ thừa nhận chủ quyền 12 hải lý của Trung Quốc, mà không hề thừa nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bời vậy, về căn bản, công hàm không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, không đề cập đền quần đảo Tây Sa và Nam Sa.

Phản luận của Ngô: Đoạn thứ nhất trong “Tuyên bố lãnh hải”, mà chính phủ Trung Quốc đã công bố vào tháng 9 năm 1958, đã nói rất rõ rằng, phạm vi bao quát trong 12 hải lý của lãnh hải Trung Quốc là thích dụng cho tất cả lãnh thổ của Trung Quốc, trong đó, bao gồm cả quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

Công hàm Phạm Văn Đồng đã rất rõ ràng “ghi nhận và tán thành” với tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, thì trước hết chính là thừa nhận và tán thành chủ trương về lãnh thổ của Trung Quốc, bởi vì chủ trương về lãnh hải có gốc là chủ quyền lãnh thổ, lãnh thổ không tồn tại thì lãnh hải cũng không có căn cứ.

Công hàm Phạm Văn Đồng không đưa ra bất cứ quan điểm bất đồng hay ý kiến bảo lưu nào về Tuyên Bố Lãnh Hải của chính phủ Trung Quốc, thì theo lô-gich (t ính hợp lý), là cho thấy chính phủ Việt nam tán thành với toàn bộ nội dung của Tuyên Bố Lãnh hHải do chính phủ Trung Quốc đưa ra, trong đó, có bao gồm cả chủ trương “quần đảo Tây Sa, quần đảo Nam Sa thuộc vào lãnh thổ Trung Quốc”

2. Luận điểm 2 của phía Việt Nam: Vào thập niên 1950, quan hệ giữa Trung Quốc và nước Mỹ là xấu, hạm đội 7 của hải quân Mỹ đóng giữ tại eo biển Đài Loan, uy hiếp sự an toàn của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc tuyên bố lãnh hải là để cảnh cáo nước Mỹ không được xâm phạm đến lãnh hải Trung Quốc. Công Hàm Phạm Văn Đồng là nghĩa cử của chính phủ Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc dựa trên tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp, ý nguyện đó không có liên quan đến lãnh thổ.

Phản luận của Ngô: Vào thời gian này, tình hữu nghị Việt – Trung tốt đẹp là sự thực, nước Mỹ lại là kẻ thù chung của hai nước Việt – Trung, Việt Nam lên tiếng ủng hộ Trung Quốc trên trường quốc tế chính là lý do tình cảm đó. Thế nhưng, trong vấn đề không thể hàm hồ là giao thiệp về chủ quyền lãnh thế như thế, cứ tự nói “ý nguyện” là thế này thế kia, để mà lật lại câu “ghi nhận và tán thành” rành rành trên giấy trắng mực đen, thì trong quan hệ quốc tế vốn trọng chứng cớ văn bản, sẽ không được người ta tin tưởng và công nhận đâu!

3. Luận điểm 3 của phía Việt Nam: Lúc đó, Việt Nam đang ở vào giai đoạn chiến tranh, Trung Quốc là nước viện trợ chính cho Việt Nam, để có được chiến thắng, Việt Nam không thể không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc.

Phản luận của Ngô: Cách biện luận này có ngầm ý sau: nếu không ở vào hoàn cảnh chiến tranh, nếu không cần sự viện trợ của Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ không thừa nhận Tuyên Bố Lãnh Hải của Trung Quốc, không phát sinh (sự kiện) công hàm Phạm Văn Đồng. Thế nhưng, loại biện luận như thế này chỉ là miêu tả lại một sự thực đã xảy ra, không thể, dù một chút xíu, phủ định được hiệu lực của công hàm Phạm Văn Đồng. Thêm nữa, không có bất cứ chứng cớ nào chứng minh việc Trung Quốc đã lợi dụng Việt Nam ở vào hoàn cảnh khó khăn đang cần sự giúp đỡ của Trung Quốc để dồn ép chính quyền Việt Nam phải nuốt bồ hòn làm ngọt mà thừa nhận chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Bản thân công hàm đã gửi cho chính phủ Trung Quốc và nội dung của nó cho thấy: tất cả đều là quyết định tự chủ tự nguyện của chính phủ Việt Nam.

Nói ngược lại, giả như ở vào thời điểm đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Việt Nam, thì từ lập trường dân tộc chủ nghĩa vững chắc và nhất quán của người Việt Nam, chính phủ Phạm Văn Đồng sẽ không gửi công hàm đó cho Trung Quốc, hoặc chí ít thì trong công hàm sẽ bỏ quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa ra bên ngoài. Lại thêm nữa, cộng với chứng cớ là việc trước năm 1975, trong nhiều trường hợp (nói chuyện giữa nhân viên ngoại giao với nhau, bản đồ, sách giáo khoa), Việt Nam đều chủ trương rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc, thì có thể chứng minh rằng, việc thừa nhận trong công hàm Phạm Văn Đồng rằng quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa thuộc lãnh thổ vốn có của Trung Quốc chính là cách suy nghĩ thực sự của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

4. Luận điểm 4 của phía Việt Nam: Ở thời điểm đó (1954-1958), căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ thì, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đều thuộc phạm vi quản lý của nước Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam Việt Nam), tranh chấp lãnh thổ là giữa Trung Quốc và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, chính quyền miền Bắc là bên thứ ba ở ngoài không liên quan đến tranh chấp, chính quyền miền Bắc không có quyền xử lý đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa, vì vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Trước năm 1975, tức là trước khi chính quyền miền Bắc giành chiến thắng để thống nhất hai miền Nam Bắc, miền Bắc một mực tuyên bố mình là chính thống, là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt nam, và gọi chính quyền miền Nam là “bù nhìn”, là “chính quyền ngụy” phi pháp, cần phải tiêu diệt. Ở thời điểm đó, trên trường quốc tế, một số quốc gia có quan hệ tốt với miền Bắc, trong đó có Trung Quốc, đều thừa nhận miền Bắc là đại diện hợp pháp duy nhất cho Việt Nam; và phía Trung Quốc, vào ngày 18 tháng 1 năm 1950, thể theo đề nghị của chính quyền miền Bắc, đã thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với miền Bắc, hai bên cùng cử đại sứ (tới Hà Nội và Bắc Kinh). Trung Quốc là nước đầu tiên trên thế giới chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Từ những sự thực lịch sử không thể chối cãi đó, chính phủ Việt Nam hiện nay chính là nhà nước kế tục của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa trước đây, sau khi chiến thắng và thống nhất hai miền Nam Bắc, lẽ ra phải giữ vững chuẩn nguyên tắc căn bản trong quan hệ quốc tế, cũng tức là tín nghĩa cho nền chính trị của quốc gia, giữ vững lập trường quốc gia trước sau như một, đằng này, tại sao lại vì lợi ích vốn không nên có, mà “qua cầu rút ván”, bội tín phản nghĩa? ! Nếu theo quan điểm đã nhắc đến ở trên của các học giả Việt Nam thì, miền Bắc là “bên thứ ba ở ngoài không liên quan”, như vậy, sẽ có nghĩa là thừa nhận địa vị hợp pháp của chính quyền miền Nam, và thế thì, những cái gọi là “bù nhìn” hay “chính quyền ngụy” chỉ là cách gọi càn, và việc “giải phóng miền Nam” của chính quyền miền Bắc chính là hành động xâm lược. Theo nguyên tắc của luật quốc tế, bên xâm lược không có quyền “kế thừa” lãnh thổ và tất cả các quyền lợi của bên bị xâm lược, thế thì, chính quyền Việt Nam hiện nay, vốn là kế tục của chính quyền miền Bắc trước đây, sẽ không có quyền lấy tư cách người kế thừa của chính quyền miền Nam để mà đưa yêu cầu về lãnh thổ đối với quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa.

5. Luận điểm 5 của phía Việt Nam: Căn cứ theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều là chính quyền lâm thời, cần phải có cuộc tổng tuyển cử trên toàn quốc mới có thể đưa đến một chính quyền hợp pháp. Trong tình trạng chưa có được chính phủ hợp pháp thông qua tổng tuyển cử trên toàn quốc, chính quyền lâm thời không có quyền quyết định vấn đề chủ quyền lãnh thổ quốc gia. Bởi vậy, công hàm Phạm Văn Đồng không có giá trị.

Phản luận của Ngô: Tháng 7 năm 1954, các nước tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ đã ký Hiệp định đình chiến cho Việt Nam, trong Hiệp định có qui định rằng “thông qua bầu cử phổ thông tự do, thực hiện việc thống nhất hai miền Nam Bắc”. Thế nhưng, chính quyền miền Bắc lấy lý do rằng hiệp định này được ký kết dưới sự dàn xếp của chính phủ Trung Quốc, đã làm tổn hại đến lợi ích của Việt Nam, không đại diện cho lập trường của miền Bắc, cho nên ngay từ đầu đã không muốn tuân thủ hiệp định.

Tiến triển lịch sử về sau này cũng cho thấy cả chính quyền miền Bắc và chính quyền miền Nam đều không hề có ý tiến hành cuộc tổng tuyển cứ phổ thông tự do trên toàn quốc thông qua các cuộc tiếp xúc, cũng không đạt được bến bất cứ thỏa thuận làm việc nào, mà cả hai chỉ tự mình tuyên bố mình là “chính thống”, qua đó cho mình trở thành chính quyền “mang tính vĩnh cửu” mà không phải là lâm thời. Cả hai đều xây dựng cơ cấu chính quyền quốc gia hoàn chỉnh, như có quốc hội, chính phủ và các cơ quan bộ. Luận điểm số 5 ở trên đã bị sự thực lịch sử phủ định, không còn sức thuyết phục nữa.

6. Luận điểm 6 của phía Việt Nam: Theo nguyên tắc của hiến pháp, tất cả tuyên bố về với chủ quyền lãnh thổ mà chính phủ đưa ra đều phải có được phê chuẩn của quốc hội thì mới có hiệu lực. Công Hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội để được phê chuẩn, cho nên không có hiệu lực về pháp luật.

Phản luận của Ngô: Có học giả Việt Nam cho rằng đây là chỗ quan yếu nhất để chứng minh công Hàm Phạm Văn Đồng vô hiệu, do đó, đây cũng là lý do không thể bác bỏ. Thế nhưng, ở bài này, tôi cho rằng, sự việc thảy đều không chắc như đinh đóng cột như họ nói đâu, có thể phản luận từ hai phương diện: lô-gich (hợp lý) pháp luật, sự thực lịch sử. Thứ nhất, công hàm Phạm Văn Đồng không phải là điều ước ngoại giao, cũng không phải là tuyên bố đơn phương từ bỏ chủ quyền lãnh thổ, nên không cần sự phê chuẩn của quốc hội. Năm 1958, chính phủ Trung Quốc công bố Tuyên bố Lãnh hải, mục đích của nó không phải là tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chỉ riêng cho một mình Việt Nam. Chính phủ Việt Nam và ông Phạm Văn Đồng đã giao công hàm này cho phía Trung Quốc, cũng không phải là từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của nước mình, mà là, từ xác tín trong nội tâm, đã “ghi nhận và tán thành” chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Trung Quốc. Bởi vì nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ngay từ đầu đã thừa nhận “quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa từ xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc”, về căn bản, không có vấn đề Việt Nam từ bỏ chủ quyền lãnh thổ của mình. Vào thời điểm đó, giữa Trung Quốc và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa không có tranh chấp lãnh thổ, công hàm Phạm Văn Đồng là xác nhận sự thực của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, là xác nhận ngoại giao về văn bản mà Trung Quốc đã đưa ra, là thuộc phạm vi quyền hạn ngoại giao của chính phủ Việt Nam, không cần có sự phê chuẩn của quốc hội.

Thứ hai, Việt Nam lúc đó không có quốc hội chính thức, cũng không có hiến pháp chính thức. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành bầu cử toàn dân tại vùng mà mình quản lý được, đưa tới sự ra đời của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời, soạn ra hiến pháp. Thế nhưng, do quân xâm lược Pháp đang từ Hải Phòng tiến về uy hiếp Hà Nội, thời gian ngắn của hòa bình tạm thời đã bị phá bỏ, lại bắt đầu chiến tranh kháng Pháp, dự thảo hiến pháp tuy đã được thông qua nhưng chưa được đem ra công bố. Sau khi sứ mệnh soạn hiến pháp của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” đã hoàn thành, nếu quốc hội chính thức được sinh ra một cách trái luật, thì hoạt động bình thường của quốc hội ấy sẽ càng không có gì để nói đến nữa. Do đó mới có “Quốc hội giao quyền cho chính phủ căn cứ theo nguyên tắc đã xác định của hiến pháp mà thực thi quyền lập pháp”. Tình trạng này kéo dài đến năm 1960. Sau này, phía Việt Nam xác định nhiệm kỳ của Quốc hội khóa I là từ năm 1946 đến năm 1960, với độ dài nhất là 14 năm, đủ để chứng minh là thời kì bất thường: (quốc hội) tồn tại tương đối khó khăn, chính quyền chưa thể thực hiện được các hoạt động một cách bình thường. Hiến pháp chính thức đầu tiên của Việt Nam là Hiếp pháp năm 1959.

Thông qua khảo sát về lịch sử hiến pháp và quốc hội của Việt Nam, có thể nghiêm túc nói rằng, trước và sau năm 1958, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa chưa có hiến pháp, cũng chưa có quốc hội. Chính phủ căn cứ vào qui định của “quốc hội soạn thảo hiến pháp” mang tính lâm thời mà có được quyền lập pháp, điều đó có nghĩa, trên thực tế, chính phủ có cả quyền lực của quốc hội. Việc chính phủ của ông Phạm Văn Đồng gửi công hàm đó cho chính phủ Trung Quốc là hoàn toàn nằm trong phạm vi quyền hạn hợp pháp của chính phủ.

Ngô Viễn Phú

http://dannews.info

Nào, "mời các học giả Việt cộng, các sử gia XHCN của nước Việt cộng", các nhà nghiên cứu tư tưởng của tên đảng cướp HCM, tham gia phản biện.

Đây là lý do chính mà CHXHCNVN không hề dám kiện vì... ngọng miệng, léo lưỡi rồi! Chỉ có VNCH mới có đủ quyền & tư cách đòi lại các vùng đất, biển đã mất vào tay TC mà thôi.

http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=7672&page=1955

Cái kẹt là, VN thống nhất nên công hàm tặng không của Phạm Văn Đồng mới có giá trị, chứ nếu còn VNCH như là một quốc gia như Trung Quốc đã phân tích thì công hàm lập tức vô giá trị vì - anh không thể cho không ai đó một tài sản mà anh không phải là sở hữu chủ!



 photo hs-tsa_zpsc45d5698.gif



No comments:

Post a Comment