Hồi 1951, Việt cộng "đánh Mỹ", mà hồi đó có Mỹ nào tại Việt Nam? Sau khi phát động chiến tranh, Việt cộng đánh rát khắp vùng ven Sài Gòn, kéo dài ròng rã mãi đến 1965, thì quân đội Mỹ và đồng minh mới vào giúp, giống như quân đội đồng minh vào giúp Nam Hàn chống Bắc Hàn xâm lăng nam Hàn trước đó.
“Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam” thành lập ngày 20/12/1960 với mục tiêu “dùng vũ trang bạo lực phát động chiến tranh chống quân xâm lược Mỹ và chính quyền Diệm - Thiệu ác ôn".
Pháo M-46 130 mm là loại lựu pháo dã chiến nòng dài (dã pháo hạng nặng) do Liên Xô thiết kế và chế tạo vào thập niên 1950. NATO nhận được thông tin về loại vũ khí này vào năm 1954, nên đặt tên mã cho nó là M1954. Năm 1959, Trung Quốc được cấp phép chế tạo thứ vũ khí này và đặt tên là Kiểu 59-1. Chiều dài nòng pháo bằng 52 lần cỡ nòng (caliber) - dài lạ thường so với các loại pháo đương thời, pháo bắn rất xa, xấp xỉ 27,5 km đối với đạn thường.
Không có đại bác 130 ly vào Việt Nam bắn phá khắp nước Việt Nam Cộng Hòa TRƯỚC HÀNG CHỤC NĂM, thì làm gì có quân Mỹ vào?
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1o_130mm_M46
Sài Gòn - Những hình ảnh thời 1960 - 1964
1954 chia đôi hai miền đất nước theo yêu cầu của cộng sản Hà Nội, bên quốc gia Việt Nam không ký, nhưng đành chấp nhận sự yêu cầu từ phía công sản bắc Việt.
1954 tới năm 1964 trong 10 năm, miền nam xây dựng kinh tế, đặt thủ đô tại Sài Gòn.
Miền nam vừa xây dựng kinh tế đất nước vừa phải chống trả những cuộc vượt Vĩ Tuyến 17 xâm lăng của công sản bắc Việt càng lúc càng gia tăng và khốc liệt.
Khi miền nam có nguy cơ bị tiêu diệt, quân đội Hoa Kỳ và quân đội đồng minh trong SEATO mới vào cứu nguy cho miền nam. Ngày 8 tháng 3 năm 1965 mới có những bước chân đầu tiên của quân đội Mỹ đặt lên miền nam Việt Nam.
Dưới đây là những hình ảnh miền nam trong 10 năm xây dựng kinh tế 1960 - 1964 trước khi quân đội Hoa kỳ đổ bộ trên miền nam.
Đài truyền hình Sài Gòn vào năm 1960
Tòa Đô Chánh Sài Gòn / Saigon 1964 - City Hall
Sài Gòn 1964 - Đại Lộ Thống Nhất
Saigon 1964 - Caravelle Hotel - VIP - good restaraunt at top
Saigon 1964 - Rex Movie Theatre - only escalator in Vietnam
Saigon 1964 - Parking Lot
Saigon 1964 - Caravelle Hotel Top - Saigon River View
Saigon 1964 - ARVN General Joint Chief of Staff
Saigon 1964 - Tan Son Nhut
Saigon 1964 - Tan Son Nhut - helicopters with armament
Saigon 1964 - British Embassy Embassy
Lò Nguyên tử ở Đà Lạt
Chiêu Đãi Viên Hàng Không Sài Gòn 1960
Thiếu nữ Sài Gòn 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
thiếu nữ Sài Gòn những năm 1960
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960
Nam thanh nữ tú Sài Gòn những năm 1960
http://namrom64.blogspot.com/2013/06/hinh-xua-ngay-phu-nu-3031960-tai-sai.html
http://honngocviendong.vn/hinh-anh/ngay-phu-nu-viet-nam-nam-1960
Ngày lễ Hai Bà Trưng / Ngày phụ nữ Việt Nam năm 1960
1
2
3
4
Công Binh đường sắt Trung Cộng giả dạng bộ đội Việt Nam
Hồ Tập Chương trở thành Hồ Chí Minh, đúng vào mùa Xuân, ngày 28/1/1941 Hồ Chí Minh (Hồ Tập Chương) chính thức tuyên bố chiến khu Pác Bó. Hồ Chí Minh thật đã chết trong tù vào năm 1932, tại Hương Cảng, chính quyền bảo hộ Anh còn lưu trữ giấy khai tử của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh thật bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Kông năm 1931, rồi Hồ bị bịnh lao phổi trong nhà tù vào 1932. Vào thời điểm này, bịnh lao phổi là bịnh nan y do vi trùng Koch gây ra, không ai có thể thoát chết được vì chưa có thuốc Streptomycine. Năm 1966. Công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan tuyên thệ trước khi vào VN làm nhiệm vụ
(Thiết đạo binh: công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN)
(Năm 1966. Quân chính qui TC giả dạng bộ đội VN tuyên thệ tại Hữu Nghị Quan. Hướng về TC đồng thanh hô lớn: "Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Nguyện mang vinh quang trở về!". Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ TC)
(Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN)
(Tham gia bắt sống phi công Mỹ tại VN. Người cầm ảnh là cựu chiến binh TC tham chiến tại VN )
(Huy chương "Đoàn Kết Chiến Thắng Giặc Mỹ" do chính HCM ký tặng)
(Hoặc do Phạm Văn Đồng ban thưởng)
(Năm 1968, hai bác Hồ - Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN)
"Nam man! Ta cho ngươi cơm ăn, áo mặc, ta cho ngươi súng đạn, nhưng chính ngươi đã lấy súng đạn bắn vào da thịt ta!” (người anh em đồng chí TC nói!)
Hoa Kiều tại Việt Nam bị cưỡng chế hồi hương năm 1978
Ngày 25.08.1978, khoảng trên 200 quân Việt Nam dùng vũ lực bắt buộc Hoa kiều phải hồi hương đi vào khu vực Hữu Nghị Quan. Lúc 17g30 cùng ngày, ngay trước cổng Hữu Nghị Quan, quân Việt Nam đánh chết 6 người, 82 người bị thương, 15 người chạy thoát. Công tác viên phía Trung Cộng lên tiếng cảnh cáo và xung đột đã xảy ra giữa hai bên cán bộ Trung-Việt. Ba ngày sau, quân Việt Nam tiếp tục tràn lên vùng biên giới tìm kiếm những Hoa kiều đang bỏ trốn… Chiến tranh biên giới Trung-Việt bắt đầu từ đây, cuộc chiến mà Trung Cộng lấy cớ “tự hào” là “Tự Vệ Phản Kích”. Ải Nam Quan thêm một lần nữa chứng kiến xung đột Trung-Việt. Nhưng từ sau cuộc chiến này, Trung Cộng đã đẩy lui lãnh thổ Việt Nam ra khỏi Ải Nam Quan và bỗng xuất hiện cột mốc có tên gọi “Km0” thần thoại, nằm cách xa cổng Nam Quan hàng trăm thước.
Dấu đạn giao tranh Trung-Việt trên khắp tường thành "Hữu Nghị Quan"
Ký kết biên bản thỏa thuận xây dựng kè bảo vệ cột mốc 631 với huyện Nà Po (Trung Quốc) (23/05/2012 03:14 PM) Đoàn đại biểu UBND huyện Thông Nông vừa hội đàm với Đoàn đại biểu huyện Nà Po (Trung Quốc) về xây dựng kè bảo vệ cột mốc 631 tại xã Vị Quang (Thông Nông). Sau khi tiến hành khảo sát thực địa, hai bên dã hội đàm và đi đến thống nhất: Việt Nam đồng ý cho Trung Quốc xây dựng kè bảo vệ cột mốc 631 và Trung Quốc trao cho Việt Nam hồ sơ thiết kế mốc 631 tại buổi hội đàm; Báo cáo kết quả hội đàm lên Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền Việt Nam-Trung Quốc phê chuẩn; Trước khi thi công xây dựng kè, Trung Quốc phải thông báo cho Việt Nam trước 10 ngày. Hai bên nhất trí thành lập tổ công tác liên hợp để giám sát quá trình thi công xây dựng kè bảo vệ cột mốc; trong quá trình thi công hai bên cần chấp hành nghiêm 3 văn kiện pháp lý về biên giới trên đất liền Việt Nam –Trung Quốc. Tại buổi hội đàm, hai bên ký kết biên bản thỏa thuận xây dựng kè bảo vệ cột mốc 631 và trao đổi biên bản thỏa thuận của Ủy ban Liên hợp biên giới trên đất liền Việt Nam – Trung Quốc. TH-BCB Nguồn: www.caobang.gov.vn
Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Đảng CS Việt Nam
- Giai đoạn 1938-1945, Hồ Chí Minh hoạt động “cách mạng” tại Quảng Tây. HCM là người trùm khăn đứng thứ hai bên phải hình. Việc qua lại giữa hai Đảng CS Trung-Việt liên tục diễn ra tại cổng Nam Quan. Tháng 10 năm 1953, Chánh Vụ Viện Trung Cộng đổi tên cổng Nam Quan thành “Mục Nam Quan” (chữ “Mục” có nghĩa là: hòa thuận, hòa hợp, thân mật, thân thiết…), đồng thời cả hai chính phủ Trung-Việt thành lập Ủy Ban Cửa Khẩu Mục Nam Quan. Cùng năm, thỏa thuận theo Chánh Vụ Viện Trung Cộng, Việt Nam mở cửa tự do cho hai cửa khẩu Bình Nhi – Nam Quan. Năm 1953 đã có 276.000 lượt qua lại cổng Nam Quan giữa hai bên. - Tháng 2 năm 1954, hai bên chính phủ Hà Nội-Bắc Kinh soạn ra “Hiệp Định Mậu Dịch Biên Giới”.
- Ngày 10.11.1954, Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao VN là Phạm Văn Đồng đi từ cổng Nam Quan sang Bằng Tường tiếp tục đi Bắc Kinh ra mắt Chu Ân Lai.
Trung cộng tiếp tục “chi viện” cho HCM trong cuộc xâm lược miền Nam
- Ngày 26.02.1955, khánh thành tuyến đường sắt Hà Nội-Trấn Nam Quan.
Hồ Chí Minh đọc diễn văn chúc mừng tại cổng Nam Quan. - Tháng 12.1958, hai huyện Ninh Minh, Long Tân kết hợp với Bằng Tường (Trấn Bằng Tường) thành lập huyện Mục Nam.
- Ngày 09.04.1961, Chu Ân Lai và Hồ Chí Minh “hội đàm” tại lầu 2 của cổ thành Mục Nam Quan. “Hội đàm” về nội dung gì thì cả hai bên đều không công bố. Chỉ biết rằng cuộc “hội đàm” mờ ám tại Mục Nam Quan của hai lãnh đạo cộng sản Trung-Việt được viết trong sách giáo khoa của bọn Trung Cộng là “mở ra một trang sử mới cho quan hệ Trung-Việt”.
Lầu 2 tại Mục Nam Quan với nguyên trạng cuộc “hội đàm” giữa CÂL và HCM
Bảng vàng ghi lại sự kiện
Ngày 05.03.1965, Quốc Vụ Viện Trung Cộng và chính phủ CSVN cử hành lễ đổi tên “Mục Nam Quan” thành “Hữu Nghị Quan”. Tham dự phía bên Việt Nam có Tổng lãnh sự VN trú tại Nam Ninh và đoàn chính phủ VN đến từ Lạng Sơn.
Hữu Nghị Quan năm 1965.
So sánh với hình ảnh Mục Nam Quan năm 1959.
Năm 1966,công binh xây dựng đường sắt Trung-Việt tại Hữu Nghị Quan làm nhiệm vụ và Thiết đạo binh:
Công binh đường sắt TC giả dạng bộ đội VN
Trong ảnh là Sư đoàn 62 Cao Xạ Trung cộng
Tham gia tra tấn tù binh Mỹ tại VN
Năm 1968, Hồ và Mao đi từ Ải Nam Quan cùng mang vũ khí vào gây tang tóc cho dân miền Nam VN
Máu và Nước Mắt Trên Lưng Trường Sơn
“CƯƠNG QUYẾT TẬN DIỆT TRUNG CỘNG KẺ THÙ TRUYỀN KIẾP CỦA DÂN TỘC”
“Xẻ dọc Trường Sơn, em vào Nam
Xẻ dọc Trường Sơn giải phóng ai?
Mãi cho đến hôm nay Đảng Cộng sản dối trá vẫn tiếp xô đẩy tuổi thơ vào ló sát sinh
……………………………………….
Trên 80% quân đội nhân dân TQ đánh chiếm cao nguyên VNCH , đưa tới mất Miền Nam là lính Trung Quốc ngụy trang đưa vào Việt Nam ; Tại Sao ??? Chúng tôi phỏng vấn anh Nguyễn Hoàng Việt về sự kiện nầy . Thu Hiền: Anh cho biết thêm về sự việc lính Trung Quốc cải trang lính Quân Đội Bắc Việt để đánh chiếm Miền Nam ? Hoàng Việt: Tôi biết được chuyện nầy qua những tài liệu và các nhân chứng cả hai phía VNCH và CSVN . Lính Trung Quốc đánh vào Miền Nam VN bắt đầu trận chiến chiếm cao nguyên, chú tôi hiện đang ở VN là lính Biệt Động Quân trong quân đội VNCH , ông ta chỉ là lính tác chiến Binh Nhất, không phải là sĩ quan, ông cho biết là trong những cuộc đụng độ “Lính Bắc Việt” vào năm 1975, ông nghe họ nói, hò hét bằng tiếng Tàu và bạn của ông cũng nói như vậy . Tôi đang chờ những người lính VNCH có biết chuyện nầy hãy nói lên cho mọi người biết . Đây là một sự sắp xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc nếu họ không nói thì khó có tài liệu chứng minh, tuy nhiên mình có thể viết lại trang sử qua những nhân chứng sống . Phía những người mà tôi biết được từng là lính thuộc Quân Đội Nhân Dân họ cũng tiết lộ như vậy . Những nhân chứng nầy chỉ là cấp nhỏ nên dầu họ có đứng làm nhân chứng thì cũng không đủ điều kiện nhưng nếu chúng ta may mắn khi có được Hồ Sơ Mỹ được giải mã thì nó sẽ ảnh hưởng rất lớn . Tôi đang gom góp nhiều tài liệu để chứng minh cho sự kiện CSVN dùng quân Trung Quốc để đánh chiếm Miền nam Việt Nam , những sự kiện nầy phải cần những người lính VNCH trong trận chiến 1975 họ đã nghe được lính “Bắc Việt” nói tiếng Tàu thì hãy đứng ra làm nhân chứng cho sự kiện nầy . Càng nhiều người đứng ra thì sự kiện càng dễ thuyết phục người khác nhất là thế hệ trẻ, chúng ta phải cho họ biết về sự kiện quan trọng nầy . Rất nhiều tài liệu cho biết là sau sự công kích thất bại năm 1968, toàn bộ lính chính qui và chủ lực của CSVN đã bị tiêu diệt hơn nữa trận Lam Sơn 719 đường 9 Nam Lào năm 1971 , các căn cứ chiến lược của CSVN tại Trường Sơn cũng đã bị tiêu diệt hoàn toàn kể cả Cục R của họ thì không thể nào còn quân để thắng được quân đội hùng mạnh và thiện chiến của VNCH trong năm 1975 được . Đây là điều mà đứa trẻ con cũng hiểu, điều khó là chúng ta phải cùng nhau viết lại lịch sử nầy . Rất may là cho tới ngày nay chúng ta có ông Ted Gunderson từng là nhân viên cao cấp của ngành nội an Hoa Kỳ cho biết sự kiện đáng kể nêu trên . Thu Hiền: Cám ơn anh Hoàng Việt về những sự kiện mà người Việt Nam cần nên biết …………………………………..
HCM có làm tay sai cho ngoại bang không ? Chứng minh dưới đây bằng những văn kiện chính thức của đảng CSVN và bằng sách vở báo chí tài liệu lưu trữ: - Tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) của Nguyễn Ái Quốc năm 1931 viết: Tổ quốc không nhất thiết phải bao gồm những người cùng một màu da hoặc cùng một ngôn ngữ. Tổ quốc là sức mạnh chính trị của giai cấp. Vô sản Đông Dương không có tổ quốc. Như thế HCM tự xác nhận mình là người vô tổ quốc. Một người không có tổ quốc mà bảo rằng hắn tranh đấu cho độc lập của dân tộc là nói láo, hoàn toàn láo. - Sau đây là một đoạn trích trong lá thư xin việc của HCM viết ngày 6-6-1938, sau gần 7 năm không được Quốc Tế Cộng Sản giao công tác (HCM Toàn Tập- Tập 3 trang 90): Đồng chí hãy phân tôi đi đâu đó. Hoặc là giữ tôi ở lại đây. Hãy giao cho tôi làm một việc gì mà theo đồng chí là có ích. Điều tôi muốn đề nghị với đồng chí là đừng để tôi sống quá lâu trong tình trạng không hoạt động và giống như là sống ở bên cạnh, ở bên ngoài của Đảng. Tôi sẽ rất biết ơn đồng chí, thưa đồng chí thân mến, cho phép tôi được hội kiến. Tôi tin rằng như vậy sẽ tốt hơn. Đã từ lâu rồi đồng chí không gặp tôi. Một người đi xin việc với một chính quyền ngoại bang thì rõ ràng là công bộc của ngoại bang chứ còn là gì nữa. Nói khó nghe một tí là đầy tớ hay là tay sai của ngoại bang thì cũng thế thôi. - Tờ báo cáo dưới đây (trích trong HCM Toàn tập- Tập 2) HCM gởi cho ban Phương Đông, Quốc Tế Cộng Sản yêu cầu gởi tiền cho hắn hoạt động để thực hiện các công tác bành trướng chủ nghĩa cộng sản tại Đông Nam Á. Hồ đã được điện Cẩm Linh trả lương để thực hiện ý đồ xâm lược VN của Liên Xô: BÁO CÁO GỬI BAN PHƯƠNG ĐÔNG QUỐC TẾ CỘNG SẢN (6-1927) 1) Từ tháng 11-1924, tôi được Ban phương Đông và Đảng Cộng sản Pháp phái đến Quảng Châu để làm việc cho Đông Dương. Tôi tiếp tục đi Mátxcơva để trình bày yêu cầu của tôi. 4) Yêu cầu của tôi : Ngay bây giờ tôi không thể lập một dự trù ngân sách chi tiết cho công tác của tôi ở Đông Dương (đi qua Xiêm). Vì vậy, tôi chỉ có thể lập dự trù theo cách áng chừng với những con số phù hợp với hoàn cảnh. Biết sự khó khăn về liên lạc từ Đông Dương đi Mátxcơva, và định thời gian cư trú ở thuộc địa này khoảng chừng 2 năm, tôi trình bày với các đồng chí một yêu cầu về ngân sách tính theo Mỹ kim như sau: Lương tháng 150 đôla trong 2 năm (cho tôi và những người giúp việc) 3.600 $ Quỹ để công tác trong 2 năm (mỗi tháng 200 đôla) 4.800 $ Tiền chi bất thường 1.100 $ Tổng cộng 9.500 $ Tất nhiên, ở đây tiền lương chỉ là tượng trưng vì ngoài phần trợ giúp tối cần thiết cho chúng tôi, phần còn lại sẽ chuyển sang quỹ công tác. Và nếu các đồng chí vui lòng chấp thuận thì ngân sách này chỉ được thực hiện từ ngày tôi đến Băng Cốc. Trong khi chờ đợi quyết định của các đồng chí, xin các đồng chí vui lòng: 1) đưa tôi vào bệnh viện, 2) khi tôi ra bệnh viện cho phép tôi được học vài kinh nghiệm cần thiết cho công tác của tôi 3) và cho tôi lên đường càng sớm càng tốt. Gửi các đồng chí lời chào cộng sản. Làm việc do lòng tốt muốn giúp đỡ người khác thì tốt đấy. Nhưng làm việc được trả lương thì lại khác. Đây mới là bằng chứng xác thực nhất HCM là tay sai của Liên Sô. - Dưới đây nữa là bức thư đề ngày 31-10-1952 của HCM viết cho Stalin để xin chỉ thị về đề án Cải Cách Ruộng Đất phác họa cho Việt Nam : Đồng chí Stalin kính mến ! Tôi gửi cho đồng chí đề án cải cách ruộng đất của Đảng Lao Động Việt Nam . Đề án này tôi đã hoàn thành với sự giúp đỡ của 2 đồng chí Liu Shaoshi và Van Szia-Sian. Đề nghị đồng chí tìm hiểu và đưa ra chỉ thị về đề án này. Kính gởi tới đồng chí lời chào cộng sản. Chỉ một phần nhỏ trích dẫn trên trong kho tài liệu về HCM cho thấy Hồ là một tên vô tổ quốc (đúng hơn tổ quốc của hắn là Đế Quốc CS Nga), tự nguyện làm đầy tớ cho Liên Sô, lãnh lương của Liên Sô, và nhận chỉ thị của điện Cẩm Linh thi hành các chánh sách của đế quốc Liên Sô về Việt Nam. Như thế tưởng đã đủ để đi đến kết luận rằng HCM là tên Việt gian tay sai của của đế quốc đỏ Liên Sô. Từ là một tên tay sai ngoại bang cai trị đất nước ta, HCM bán đất nước ta cho ngoại bang là chuyện không có gì là lạ. Chúng tôi xin nêu ít nhất 2 bằng chứng cụ thể trên giấy trắng mực đen sau đây: - Thứ nhất, hồi tháng 6 năm 1956, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm dưới quyền của HCM nói với Li Zhimin, Xử lý Thường vụ Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng: theo những dữ kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là môt bô phận lịch sử của lãnh thổ Trung quốc. Saigon – Hanoi – Paracels Islands Dispute – 1974 Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994) - Thứ hai, ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ Trung Quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm cả Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa. Mười ngày sau đó tức là ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng, thủ tướng dưới quyền HCM, gởi một công hàm ngoại giao cho Chu Ân Lai ủng hộ lời tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc nguyên văn như sau: Thưa Đồng chí Tổng lý, Chúng tôi xin trân trọng báo tin để Đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố , ngày 4 tháng 9 năm 1958, của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của Trung-quốc. Chính phủ nước Việt-nam Dân Chủ Cộng Hoà trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc, trong mọi quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng. Trung Quốc cho xây dựng “Nhà trưng bày Hồ Chí Minh” phân chia ra 2 khu vực. “Khu vực 1 trưng bày Hồ Chí Minh là người Tàu” là nơi trưng bày hình ảnh, âm thanh, phim tài liệu và các hiện vật chứng tích xác nhận quá trình hoạt động của Hồ Chí Minh Tàu tại Việt Nam. Nơi này dành cho các cán bộ Trung Quốc đến tham quan và học tập kinh nghiệm của Hồ Tàu. “Khu vực 2 trưng bày Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Hoa” Là nơi trưng bày những bằng chứng về tình hữu nghị Trung – Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ vĩ đại của Việt Nam và là bằng hữu của Nhân dân Trung Hoa, những ký kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc. Ngoài văn bản ký kết của Phạm Văn Đồng công nhận lãnh hải của Trung Quốc năm 1958, còn quan trọng nhất là : Văn kiện Hồ Chí Minh xác nhận Việt Nam chính là 1/2 tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc, sẽ được Lê Duẩn kế thừa Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu giao trả dần Bắc phần đến Trung phần cho Trung Quốc kể từ ngày 19/05/2005 ngày kỷ niệm 115 năm sinh nhật Hồ. Văn kiện này được Hồ Chí Minh Bí mật ký kết tại Quảng Tây, Trung Quốc. Cái huyền thoại Hồ là người yêu nước, có công thống nhất đất nước, đem lại độc lập cho Tổ Quốc chỉ là một huyền thoại ảo, Ngược lại Hồ Chí Minh là một tội đồ của Dân Tộc Việt Nam đã đưa đất nước ,dân tộc bế tắc bên bờ vực thẳm,dọn đường cho Trung cộng lập lại trang sử 1000 năm đô hộ quê hương ta hôm nay.!!! Anh Hùng Lĩnh Nam - Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sĩ ********************* Những người bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách, đau xót và hàm oan… Dương Quảng Hàm (1898-1946), hiệu là Hải Lượng, là nhà nghiên cứu văn học, nhà giáo dục Việt Nam. Tác phẩm Việt Nam văn học sử yếu, do ông dày công biên soạn, được xem là cuốn văn học sử phổ thông bằng chữ quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam Dương Quảng Hàm sinh trong một gia đình có truyền thống nho học tại làng Phú Thị, xã Mễ Sở, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Cụ nội là Dương Duy Thanh (1804-1861), từng làm Đốc học Hà Nội. Thân phụ là Dương Trọng Phổ, anh cả là Dương Bá Trạc, một trong những người sáng lập Đông Kinh Nghĩa Thục, trường học cách mạng đầu tiên của thành phố Hà Nội, em là Dương Tụ Quán, đều là những danh sĩ có tiếng đương thời. Thuở nhỏ ông học chữ Nho, sau ra Hà Nội học chữ Quốc ngữ. Năm 1920, tốt nghiệp thủ khoa trường cao đẳng Sư phạm Đông Dương, làm giáo viên trường Bưởi. Năm 1945, ông được bổ nhiệm làm thanh tra Trung học vụ, rồi làm Hiệu trưởng của trường Bưởi. Trong hơn 20 năm (1920-1945), Dương Quảng Hàm đã làm việc không mệt mỏi, vừa giảng dạy, vừa viết sách giáo khoa văn học và sử học cho nhà trường, từ bậc tiểu học đến bậc trung học, vừa bằng tiếng Pháp vừa bằng tiếng Việt. Hai cuốn sách có giá trị nghiên cứu nhất của ông là Việt Nam văn học sử yếu (1941), Việt Nam thi văn hợp tuyển (1942). Dương Quảng Hàm chết khi còn đang tại chức vào đêm ngày 19 tháng 12 năm 1946, tại Hà Nội, ở tuổi 48. Dương Quảng Hàm mất tích bởi ông là đảng viên Quốc dân đảng. Khái Hưng (1896-1947) là một nhà văn Việt Nam nổi tiếng. Cùng với Nhất Linh, ông là cây bút chính của Tự Lực Văn Đoàn. Ông sinh năm 1896, xuất thân trong một gia đình quan lại ở xã Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng. Khái Hưng học ở trường Albert Sarraut. Sau khi đỗ tú tài I, vì không muốn làm công chức, ông về Ninh Giang mở đại lý bán dầu hỏa. Được một thời gian Khái Hưng lên Hà Nội dạy ở trường Tư thục Thăng Long. Trong khoảng thời gian 1930 đến 1932, Nhất Linh từ Pháp về nước và cũng dạy tại trường này. Khái Hưng đã quen Nhất Linh ở đó và họ trở thành một cặp tác giả nổi tiếng. Khái Hưng tham gia Tự Lực Văn Đoàn do Nhất Linh thành lập. Văn đoàn này bắt đầu xuất hiện công khai từ 1932, và đến đầu năm1933 thì tuyên bố chính thức thành lập với ba thành viên trụ cột là Nhất Linh, Khái Hưng và Hoàng Đạo… … Là một trong những cây bút chính của nhóm, tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng, Hồn bướm mơ tiên (1933), là tiểu thuyết đầu tiên của Tự Lực Văn Đoàn. Tiểu thuyết cuối cùng của ông là Thanh Đức (1943) và cũng là tiểu thuyết cuối cùng của nhóm. Khái Hưng cũng viết chung với Nhất Linh hai tiểu thuyết là Gánh hàng hoa và Đời mưa gió và ra đời chung tập truyện ngắn Anh phải sống cùng năm1934. … Trong thời gian Đệ nhị Thế chiến, giống như Nhất Linh, Khái Hưng cũng tham gia hoạt động chính trị. Do tham gia Đảng Đại Việt dân chính thân Nhật nên Khái Hưng từng bị chính quyền thực dân Pháp bắt giam. Sau ngày Nhật đảo chính Pháp tháng 3 năm 1945, Khái Hưng được trả tự do. Khái Hưng mất năm 1947. Một số tài liệu cho rằng Khái Hưng bị Việt Minh bắt giam tại Liên Khu 3 (Lạc Quần, Trực Ninh) rồi đem xử tử hình ở bến đò Cựa Gà, phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Theo ông Nguyễn Tường Triệu, con nuôi Khái Hưng, thì Khái Hưng mất tích sau Tết Ðinh Hợi (22/1/1947). Hồi còn dạy học ở thị trấn Vĩnh Bảo, Hải Phòng năm 1973, tôi đã nghe chính miệng những du kích Thái Bình – những kẻ thừa hành bản án – kể rằng họ được lệnh bỏ rọ trắm xuống sông nhà văn Khái Hưng – chủ soái của Tự lực Văn đoàn. Kẻ hành quyết kể lại thái độ của Khái Hưng rất bình thản, ung dung chui vào rọ nứa cho những kẻ chân đất đầu trần buộc dây, gài đá, vần xuống sông. Ở dưới đáy sông sặc nước, chắc nghẹt thở lắm… Khái Hưng chết chỉ vì ông là đảng viên đảng Đại Việt! Phạm Quỳnh (1892-1945) là một nhà văn hóa, nhà báo, nhà văn và quan đại thần triều Nguyễn. Ông là người đi tiên phong trong việc quảng bá chữ Quốc ngữ và dùng tiếng Việt – thay vì chữ Nho hay tiếng Pháp – để viết lý luận, nghiên cứu. Ông được xem là người chiến đấu bất bạo động nhưng không khoan nhượng cho chủ quyền độc lập, tự trị của Việt Nam, cho việc khôi phục quyền hành của Triều đình Huế trên cả ba kỳ (Bắc, Trung, Nam), chống lại sự bảo hộ của Pháp và kiên trì chủ trương chủ nghĩa quốc gia với thuyết Quân chủ lập hiến. Phạm Quỳnh sinh tại số 17 phố Hàng Trống, Hà Nội; quê quán ở làng Lương Ngọc (nay thuộc xã Thúc Kháng), phủ Bình Giang, tỉnh Hải Dương, một làng khoa bảng, có truyền thống hiếu học. Mồ côi mẹ từ 9 tháng tuổi, mồ côi cha từ khi lên 9 tuổi; Phạm Quỳnh côi cút được bà nội nuôi ăn học. Phạm Quỳnh học giỏi, có học bổng, đỗ đầu bằng Thành chung (tốt nghiệp) Trường trung học Bảo hộ (tức trường Bưởi, còn gọi là trường Thông ngôn). Năm 1908, Phạm Quỳnh làm việc ở Trường Viễn Đông Bác cổ tại Hà Nội lúc vừa tuổi 16. Từ năm 1916, ông tham gia viết báo cho một số tờ có uy tín đương thời; làm chủ bút kỳ cựu của Nam Phong tạp chí từ ngày 1 tháng 7 năm 1917 cho đến năm 1932; tuyên truyền cho tư tưởng “Pháp Việt đề huề”. … Năm 1930, Phạm Quỳnh đề xướng thuyết lập hiến, đòi hỏi người Pháp phải thành lập hiến pháp, để quy định rõ ràng quyền căn bản của nhân dân Việt Nam, vua quan Việt Nam và chính quyền bảo hộ. Năm 1931, ông được giao chức Phó Hội trưởng Hội Địa dư Hà Nội. Năm 1932, giữ chức Tổng Thư ký Ủy ban Cứu trợ xã hội Bắc Kỳ. Ngày 11 tháng 11 năm 1932, sau khi Bảo Đại lên làm vua thay Khải Định, ông được triều đình nhà Nguyễn triệu vào Huế tham gia chính quyền Bảo Đại. Tại Huế thời gian đầu ông làm việc tại Ngự tiền Văn phòng, sau đó làm Thượng thư Bộ Học và cuối cùng giữ chức vụ Thượng thư Bộ Lại (1944-1945). Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Chính phủ Trần Trọng Kim được thành lập. Ông về sống ẩn dật ở biệt thự Hoa Đường bên bờ sông đào Phú Cam, Huế. Ông bị Việt Minh bắt giam ngày 23 tháng 8 năm 1945 và giam ở lao Thừa Phủ, Huế. Ông bị xử bắn sau đó cùng với nguyên Tổng đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi (anh ruột Ngô Đình Diệm) và Ngô Đình Huân (con trai của Ngô Đình Khôi). Người thừa hành lệnh này là Đặng Văn Việt (về sau trở thành con hùm xám đường 4 – tiểu tướng Napoleông). Chuyện này do Tố Hữu – Chủ tịch lâm thời thành phố Huế kể cho Trần Huy Liệu nghe. Di hài ông được tìm thấy năm 1956 trong khu rừng Hắc Thú, và được cải táng ngày 9 tháng 2 năm 1956 tại Huế, trong khuôn viên chùa Vạn Phước. Thông tin về ai đã ra lệnh giết ông được lý giải theo nhiều giả thuyết khác nhau. Cuốn Tác gia văn học Thăng Long Hà Nội từ thế kỷ XI đến giữa thế kỷ XX, mục về Phạm Quỳnh (1892-1945) cũng có một dòng: Đến Cách mạng Tháng Tám 1945 chính quyền nhân dân khép án tử hình. Có lệnh cấp tốc di dời Ngô Đình Khôi và Phạm Quỳnh ra khỏi cố đô đề phòng những chuyện bất trắc không hay sau này. Nhóm du kích áp tải đến một quãng rừng cách xa Huế thì nghe tiếng tàu bay Pháp ầm ì trên đầu tưởng đâu như tiếng máy bay thả biệt kích. Sợ không hoàn thành trách nhiệm di dời nên nhóm áp tải đã tự động thủ tiêu cả ba người mà không chờ chỉ thị của cấp trên. Giả thuyết này không đề cập đến cấp trên là ai hay cơ quan nào ra lệnh. Có người cho rằng trong số người đi áp tải đó có người nhà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, người có mối hiềm từ lâu với Phạm Quỳnh nên đã lợi dụng việc này mà giải quyết ân oán. Nhà văn Thái Vũ lý giải: “Mà lúc ấy trong dân chúng, buổi đầu cách mạng, cũng là trong ngày đầu chính quyền mới do dân làm chủ thì mấy tiếng Việt gian, diệt Việt gian kèm theo hành động lan truyền… khắp mọi nơi, nhất là đối với những người có “thành tích” thân Pháp. Mà hai cụ họ Phạm và Ngô thì rõ ràng quá, tránh sao lúc trong dân, chỉ mới hưởng 1 ngày đầu chính quyền cách mạng, còn căm thù bọn thống trị Pháp và đám tay chân người bản xứ của chúng, có hành động manh động. Đó hẳn là “nỗi uẩn khúc” cuối cùng của ông chủ báo Nam Phong”. Tạ Thu Thâu (1906-1945) là một nhà cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, một lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ thời sơ khai của các phong trào cộng sản tại Đông Dương, theo chủ nghĩa Trốtskít. Nhà nghiên cứu Thiếu Sơn đánh giá “Không ai phủ nhận được tấm lòng yêu nước của ông, chẳng những yêu nước mà còn dám xả thân hy sinh cho nước. Chỉ có điều khác là nói tới nước, ông liền nghĩ tới dân, thứ nhất là dân vô sản”. Thiều Chửu (1902-1954) là nhà văn hóa, dịch giả và cư sĩ. Ông là tác giả 93 tác phẩm viết và dịch. Ngoài bộ Hán Việt tự điển có giá trị vượt thời gian, ông còn dịch 14 bộ kinh căn bản của đạo Phật như Kinh Di Đà, Thủy Sám, Địa Tạng, Kim Cương Bát Nhã, Viên Giác, Pháp Hoa, Dược Sư, Phả Môn, Di Giáo, Tứ Thập Nhị Chương, Kinh Lễ Sáu Phương, Lục Tổ Đàn Kinh, Khóa Hư. Các sách dịch khác của ông có thể kể: Vì sao tôi tin Phật giáo, Phật học cương yếu, Tây du ký… Thái Doãn Hiểu "Sương trắng miền quê Ngoại"Tóm lược: "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bài hát chứa chan tình yêu thương mẹ của một anh lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) trong lúc đi hành quân. Tác giả diễn tả tình yêu thương mẹ đó với những hình ảnh sâu sắc và thơ mộng trong phần đầu. Cách dùng chữ và kỹ thuật viết rất có hiệu quả và gây cảm xúc mạnh. Phần sau không được hay bằng, nhưng vì khía cạnh nhạc (giai điệu, hòa âm, và nhịp điệu) và phần đầu quá sáng chói nên người nghe quên đi hoặc bỏ qua vài khuyết điểm ở phần sau. Bài hát là một thí dụ cho thấy sức sáng tạo kỳ diệu và sức mạnh của âm nhạc miền Nam trước năm 1975. *** Năm 1970, Duy Khánh, ca sĩ nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam, trình bày bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" lần đầu. Bài hát làm rúng động nền âm nhạc bấy giờ vì giai điệu tuyệt vời và lời nhạc tha thiết, nói về lòng thương nhớ của một người lính về quê ngoại. Một điểm kỳ lạ là nhạc sĩ của bài hát là một người hầu như không ai biết đến lúc bấy giờ. Tên nhạc sĩ là Đinh Miên Vũ. Một điểm kỳ lạ hơn thế nữa là trong suốt cả thời gian sau đó cho tới năm 1975 khi miền Nam bị rơi vào ách đô hộ của cộng sản, Đinh Miên Vũ không hề sáng tác thêm một bài nào. (Bài hát "Xin Em Đừng Khóc Vu Quy" mà hiện nay nhiều nơi ghi tên tác giả là Đinh Miên Vũ - Linh Phương thật ra tác giả chính xác là Minh Phương.) Thông thường, khi tác giả một bài hát đạt thành công rực rỡ với tác phẩm đầu tay, người đó sẽ viết các tác phẩm kế tiếp, nhất là trong thời gian đó, nền âm nhạc ở miền Nam đang ở tột đỉnh với hàng trăm bài hát trên radio và sau này là truyền hình. Sự kỳ lạ đó chưa chấm hết. Cho đến nay, năm 2014, tác giả thực sự của bài hát vẫn chưa được xác định hoàn toàn. Câu chuyện bí ẩn ai là Đinh Miên Vũ được Nguyễn Ngọc Ngạn, MC của chương trình âm nhạc Thúy Nga, thuật lại trong bài "Kỷ Niệm Sân Khấu" (Nguyễn Ngọc Ngạn). Đại khái, khi ca sĩ Quang Lê trình bày bài tại San Jose, một người đến gặp anh và cho biết ông ta là Đinh Miên Vũ, tên thật là Đinh Miên, đang cư ngụ ở Bắc California, và là tác giả bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại." Sau đó, Đinh Miên viết bài "Hai Quê" và bài đó được Quang Lê trình bày tại Korea. Năm 2008, một người tên là Vũ (hay Võ) Hữu Bình, cư ngụ tại Miami, Florida, viết thư cho Nguyễn Ngọc Ngạn cho biết ông ta là một trong ba người tác giả của bài hát. Hai người bạn kia của ông tên là Đinh Trụ và Miên Thành. Tên Đinh Miên Vũ là tên ghép từ họ của ba người. Ba người cùng sáng tác bài hát lúc đóng quân ở phi trường Đồng Hới, Đông Hà, Quảng Trị. Võ Hữu Bình chỉ muốn nhờ Thúy Nga loan báo để tìm lại hai người bạn đồng đội đó vì sau khi cùng nhau sáng tác và gởi cho Duy Khánh, họ mất liên lạc. Nguyễn Ngọc Ngạn móc nối để Võ Hữu Bình liên lạc với Đinh Miên để xem Đinh Miên có phải là một trong hai người Đinh Trụ và Miên Thành không. Kết quả là Đinh Miên không phải là Đinh Trụ và Miên Thành, và cả hai đều duy trì là họ là tác giả của bài hát, Đinh Miên là tác giả duy nhất và Võ Hữu Bình là đồng tác giả với Đinh Trụ và Miên Thành. Cả hai người, Đinh Miên và Võ Hữu Bình, đều không nhận tiền tác quyền. Do đó, tiền bạc không phải là lý do họ nhận là tác giả. Tiếng tăm chắc cũng không phải là lý do, vì cả hai đều có vẻ muốn sống cuộc đời ẩn dật. Người duy nhất có thể biết sự thật là ca sĩ Duy Khánh, người đã mua tác quyền của bài hát lúc ở Việt Nam. Nhưng Duy Khánh đã mất năm 2003; và do đó, chuyện ai là tác giả bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" sẽ vĩnh viễn là một bí mật trừ phi có thêm chứng cớ mới đáng tin cậy. Vì tác giả thực sự của bài hát chưa được xác định rõ rệt, tôi sẽ không viết thêm về tiểu sử tác giả. Bạn đọc có thể đọc tiểu sử Đinh Miên trên mạng (Wikipedia 2014). Tuy nhiên, cái tên Đinh Miên Vũ là danh xưng không ai phủ nhận. Do đó, tôi sẽ dùng Đinh Miên Vũ là tên tác giả, cho dù đó là Đinh Miên hoặc ba người Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình. Với vỏn vẹn một bài hát và tác giả chưa được xác định, rất khó viết về ý tưởng và các nhận xét khác về bài hát. May thay, như đa số các bài hát khác của miền Nam Việt Nam trước 1975, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" tự nó có đầy đủ chứng cớ cho một bài hay với nội dung đầy tình cảm và cách diễn tả tuyệt vời tuy có vài khuyết điểm, mà không cần tra cứu gì thêm về tác giả. Tôi đã viết về bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" (Cao-Đắc 2014a) và "Một Mai Giã Từ Vũ Khí" (Cao-Đắc 2014b). Trong bài này tôi sẽ không lập lại những gì đã viết về hai bài đó. Phẩm chất hoặc giá trị của một bài hát thường dựa vào hai khía cạnh: nhạc (music) và lời (lyric). Khía cạnh nhạc thường gồm có ba yếu tố: giai điệu (melody), hòa âm (harmony), và nhịp điệu (rhythm). Khía cạnh lời gồm có nội dung câu chuyện, ý nghĩa câu ca, từ ngữ, cách dùng chữ, cú pháp, cách hành văn. Ngoài hai khía cạnh trên, còn có các khía cạnh khác như nhạc cụ, ca sĩ, nhạc cảnh, phụ diễn (vũ công, người mẫu, v.v.). Tôi tin rằng những bài hát hay cần phải hay cả nhạc lẫn lời. Có những bài hay vì khía cạnh nhạc, nhưng lời không xuất sắc lắm. Một thí dụ điển hình là bài "Những bước chân âm thầm" của Y Vân. Có rất ít bài hay chỉ vì lời. Lý do đơn giản là âm nhạc dựa vào âm thanh, và âm thanh chỉ có thể cảm nhận bằng nghe, chứ không thể bằng đọc hoặc nhìn được. Nếu ai chỉ muốn thưởng thức lời thì họ có thể tìm được ở một bài văn hoặc một bài thơ. Tuy nhiên, lời nhạc đóng góp một phần quan trọng trong giá trị của bài nhạc. Nhiều khi chỉ một câu trong bài nhạc cũng đủ làm cho người nghe xao xuyến. Thí dụ như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" như tôi phân tích trước đây. Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" hay cả nhạc lẫn lời, tuy lời chỉ xuất sắc ở phần đầu như sẽ được phân tích sau. Như trong hai bài trước, tôi sẽ chỉ chú trọng về khía cạnh văn chương của lời nhạc. Nguyên văn lời bài hát như sau. Lội bùn dơ băng lau lách xuyên đêm Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau Nào những khi ôm thép súng tê tay Đăm mắt theo bao hư ảo thở dài Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ, gió hẹn mưa thề Một khi con về quê ngoại xưa, để mẹ nhắn lời thăm Đường làng cũ năm nào, khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường Giờ đây con đường xưa còn đó Tóc liễu vờn gió ru buồn... Bận hành quân nên chắc khó thăm nhau Nhưng có nhau như hơi thở vào đời Tóc em còn có thơm hương cỏ may Để anh nói chuyện ngày mai Bạn bè anh theo lớp tuổi ra đi Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về Xin có em nguyện cầu cho đời anh Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai... Như đa số nhiều bài hát khác, lời nhạc thường bị ghi chép sai lầm, hoặc ca sĩ sửa đổi lời nhạc, vô tình hay cố ý. Có những sửa đổi vô hại, nhưng có những sửa đổi làm mất ý nghĩa của câu. Trong bài, có vài chỗ lời bị thay đổi. Thí dụ như "buốt" thay vì "ướt" trong câu "Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," "cuộc đời" thay vì "buồn thương" và "quẳng" thay vì "quàng" trong câu "Nơi chốn xa buồn thương mẹ quàng gánh," "phố" thay vì "hố" trong câu "Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ," "liều" thay vì "liễu" và "hoài" thay vì "buồn" trong câu "Tóc liễu vờn gió ru buồn," "đôi khi" thay vì "nghe tin" trong câu "Dăm đứa thân nghe tin chẳng trở về." Tất cả những sửa lời này làm mất, và có khi còn làm trái ngược, ý nghĩa của bài hát. Thí dụ như "quẳng gánh" là vất gánh xuống, trong khi "quàng gánh" là vác gánh lên vai. Câu ca đang nói về ban mai, khi người mẹ gánh hàng ra chợ bán, cô em còn "khêu sáng ánh đèn từ sương mai" thì làm sao mà quẳng gánh được? Tình yêu thương mẹ được thể hiện tuyệt vời với lối diễn tả đơn giản nhưng táo bạo và độc đáo Nội dung bài hát là lời nói của anh lính xa nhà. Trong lúc đi hành quân trong vùng núi rừng, anh nhớ đến mẹ anh và hồi tưởng ngày thơ ấu đi theo mẹ đến trường. Anh có người yêu, và anh muốn người yêu cầu nguyện cho anh để anh hoàn thành sứ mạng. Bài hát không chú trọng vào cốt chuyện duy nhất về người mẹ. Anh lính đề cập đến cuộc sống lính tráng của anh, chuyện tình, và bạn bè của anh. Vì vậy, người nghe có thể bị phân tán, và có cảm tưởng tình tiết không được chặt chẽ. Tác giả cố móc nối chuyện tình anh với mẹ anh bằng câu chót, nhưng ý nghĩa câu chót mơ hồ và sự móc nối lỏng lẻo nên không tạo được tính chất mạch lạc chặt chẽ của các ý tưởng. Tuy nhiên, với kỹ thuật diễn tả điêu luyện và cách dùng chữ tài tình, tác giả đã làm nổi bật lòng thương yêu mẹ và tình quê ngoại của anh lính. Mở đầu, anh lính nói đến cuộc hành quân của anh. Anh phải "lội bùn dơ" và đi ngang qua đám lau sậy trong nước chằng chịt khiến anh phải cố lách qua và phải đi như vậy suốt cả đêm. Nơi anh đi chắc phải là vùng rừng núi. Sương rơi trên vai làm ướt áo anh. Chắc là anh không đi một mình và có các bạn đồng đội đi theo. Nhưng anh và đồng đội anh phải đi qua lạch đầy bùn và lau sậy một cách yên tịnh, có thể vì sợ quân địch khám phá, vì anh có thể thấy đàn chim bay và nghe tiếng khỉ vượn hú. Nơi anh đi hành quân ở đâu? Dựa vào nhan đề bài hát "Sương trắng miền quê ngoại" và "sương trắng rơi vai" anh "ướt lạnh mềm", ta có thể hiểu được là anh đang đi hành quân ở miền quê ngoại. Vì vậy anh nhớ đến mẹ và em anh. Mẹ và em anh đang ở "nơi chốn xa" và không ở miền quê ngoại. Trong lúc hành quân, anh phải ngồi chờ, có thể chờ quân địch hoặc chờ chỉ thị hoặc tiếp viện. Ngồi trong "hố nhỏ" trong cơn mưa gió, anh nhìn về phía xa xa và tưởng tượng hình ảnh gia đình anh lúc đó. Bấy giờ là sáng sớm, mẹ anh đang vác gánh lên vai để mang hàng ra chợ bán. Em của anh đang khêu đèn để có ánh sáng vì mặt trời chưa mọc. Chắc anh cũng thường xuyên liên lạc thư từ với mẹ anh, nên mẹ anh biết anh đang "ngồi hố nhỏ" trong cơn mưa gió trong khung cảnh hoang vu của rừng núi ("Mẹ biết bây giờ con ngồi hố nhỏ"). Với chi tiết anh biết mẹ anh đang quàng gánh lúc sáng sớm mai, và mẹ anh biết anh đang ngồi hố nhỏ trong chuyến hành quân, tác giả cho thấy mối liên hệ mẹ con của anh lính rất mật thiết, kể lể tâm sự với nhau nhiều lần. (Để ý là "mẹ biết" có thể là một câu hỏi: "Mẹ có biết... không?" Cho dù đó là câu hỏi, ta vẫn thấy anh lính kể lể mọi chuyện về anh cho mẹ anh nghe.) Mẹ anh còn nhắn lời thăm họ hàng quyến thuộc vẫn còn ở quê ngoại khi anh có dịp đi qua quê ngoại. Anh chợt nhớ đến ngày thơ còn bé. Mẹ anh dắt anh đi trên con đường làng tới mái trường xưa. Bây giờ con đường đó vẫn còn, nhưng hình ảnh mẹ anh đi trên con đường đó lúc mẹ còn trẻ không còn nữa, vì mẹ anh hiện đang ở xa. Đây có lẽ là đoạn cao đỉnh của bài hát. Tác giả dùng lời lẽ thật bình thường nhưng vẽ ra một hình ảnh có tác dụng mãnh liệt: "Đường làng cũ năm nào khi con còn bé nhỏ theo mẹ đến trường." Chỉ với nhóm chữ/ cụm từ "theo mẹ đến trường," tác giả cho thấy hình ảnh thơ ngây của cậu bé, lẽo đẽo đi theo mẹ trên con đường làng. Hình ảnh đó cho thấy cái nhỏ bé, ngơ ngác, sợ sệt, dè dặt của một cậu bé phải dựa vào sự chăm sóc, lo lắng của mẹ. Một hình ảnh chứa chan tình cảm tràn trề, có tác dụng trên tất cả mọi người thương yêu mẹ. Cho dù bạn không đi theo mẹ đến trường lúc còn bé, hoặc không đi trên đường làng, bạn vẫn có thể hình dung ra được và có nỗi cảm xúc bồi hồi. Có những nhóm chữ/ cụm từ rất đơn sơ, nhưng rất tượng hình, tượng thanh, và gây xúc động mạnh. Thí dụ như "con níu chân cha" trong "Trộm Nhìn Nhau" của Trầm Tử Thiêng, "mẹ lần mò" và "nắm áo người xưa" trong "Ngày trở về" của Phạm Duy, và "lá ngủ thật mê say" trong Hoa Trinh Nữ của Trần Thiện Thanh. Anh nhớ gì về mẹ anh nhất trong khoảng thời gian đó? Một cách bất ngờ và độc đáo, tác giả vẽ ra một hình ảnh kỳ diệu: "tóc liễu vờn gió ru buồn." Ít có người con trai nào nghĩ đến mẹ mình qua những sợi tóc rũ dài bay theo làn gió nhẹ thoảng. Cậu bé còn cắp sách tới trường đó đã là một thi sĩ! Ta có thể hình dung hình ảnh người mẹ dắt cậu bé đi học trên con đường làng tới trường. Mẹ cậu bé, có lẽ có lúc đi nhanh hơn cậu bé, và cậu bé đi sau mẹ nên mới có dịp ngắm tóc mẹ rũ dài bay theo làn gió. Cậu bé không biết cách diễn tả ra sao, nhưng chỉ ghi nhận hình ảnh đó mãi mãi trong đầu óc, để cho đến khi cậu bé trưởng thành, trở thành một thi sĩ, nhạc sĩ và có đủ ngôn từ diễn tả, anh mới bật ra "tóc liễu vờn gió ru buồn." Để hiểu cái độc đáo của tình yêu thương anh lính dành cho mẹ anh, bạn hãy tự hỏi bạn có giữ hình ảnh gì của mẹ bạn từ lúc bạn còn bé. Tác giả rất táo bạo khi dùng câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" để tả những sợi tóc mẹ. Sự táo bạo đó có thể khiến người nghe không hiểu. Vì hình ảnh đó thật đột ngột, và "tóc liễu" thường dùng để tả một cô gái, ít ai có thể hiểu được anh đang tả mẹ anh lúc bà còn trẻ. Do đó, rất nhiều người hơi ngỡ ngàng khi nghe câu này. Ngoài ra, với lối tả như thể đó là hình ảnh trong hiện tại, người nghe không nhận ra được ý anh muốn nói là "Giờ đây con đường xưa còn đó" nhưng "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" của mẹ không còn nữa, vì mẹ anh không còn ở quê ngoại, hoặc vì mẹ anh đã trở thành người đàn bà trung niên làm việc lam lũ và không còn tóc liễu nữa. Tuy nhiên, vì "theo mẹ đến trường" và "tóc liễu vờn gió (ru buồn)" quá mạnh, tạo ấn tượng sâu đậm trên người nghe, sự mơ hồ này không có ảnh hưởng lắm và người nghe dễ dàng bỏ qua. Quả thật vậy, theo tôi nghĩ, cả toàn bài, hình ảnh cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng và tóc liễu bà mẹ vờn gió là hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng nhất. Cái ý tưởng cậu bé ghi nhận hình ảnh tóc mẹ bay trong gió từ lúc còn bé ngây thơ theo mẹ đến trường cho đến lúc anh trưởng thành, trở thành một chiến sĩ xông pha trận mạc, lội bùn lách lau sậy trên đường hành quân, tay ôm súng thép, bảo vệ non sông, là một ý tưởng không những thơ mộng, hồn nhiên, mà còn gây xúc động mãnh liệt. Chính cái hình ảnh này khiến người nghe muốn nghe đi nghe lại bài hát, đưa hồn vào giọng ngân cao dài của ca sĩ diễn tả. Chỉ đoạn đó thôi làm người nghe quên hết tất cả những lỗi nhỏ nhặt khác. Rồi ý nghĩ anh lính miên man tiếp tục. Anh nhớ tới người yêu anh. Tác giả đổi cảnh một cách đột ngột. Từ hình ảnh người mẹ, anh chuyển sang người yêu. Tuy chuyện đó rất là bình thường cho một người lính ngồi trong hố nhỏ miên man nghĩ đến những người thương yêu, tác giả khiến người nghe ngỡ ngàng, hơi bị "chưng hửng" vỉ đang bị cảm xúc mạnh sau hình ảnh đẹp đẽ và thơ mộng còn đang vương vấn. Sau khi được nốt nhạc đưa lên cao với "tóc liễu vờn gió ru buồn", người nghe mong mỏi một chuyển tiếp nhẹ nhàng, có thể là một hình ảnh khác, một cảm tưởng khác về bà mẹ. Tiếc thay, anh lính đổi cách xưng hô vì anh chuyển sang nói với người yêu anh. Đang từ "mẹ con" biến thành "anh em." Chưng hửng là còn nhẹ. Người nghe có thể thất vọng. Có thể tác giả cố tình, có thể tác giả thiếu kinh nghiệm. Dù do lý do gì, tác giả không giữ được sự liên tục của các hình ảnh cho người nghe. Với người yêu, anh không mô tả nàng. Anh chỉ cảm thấy ấm cúng vì "có nhau như hơi thở vào đời." Nhưng anh không rõ người yêu anh còn trông chờ anh hay không. Ở đây, tác giả dùng "thơm hương cỏ may" để ám chỉ sự trung thành, trang tiết của cô gái chờ đợi người yêu. Cỏ may thường được kết hợp với câu chuyện một cô gái đi tìm người yêu nhưng sau đó chết vì mòn mỏi kiếm mãi không thấy anh khắp nơi (Xem, thí dụ như, Dân 2007). Ý nghĩa của câu chuyện đó thường liên kết với tình yêu mạnh mẽ và trung thành. Trong bài hát này, anh lính mong là người yêu anh vẫn còn trông đợi anh và anh sẽ "nói chuyện ngày mai" về tương lai hai đứa. Rồi anh lính nhắc đến các bạn học đã đi lính như anh. Vài đứa bạn thân đã "nghe tin chẳng trở về." Anh nhờ người yêu anh cầu nguyện cho anh, không phải vì anh sợ chết mà anh muốn sống để hoàn thành nhiệm vụ "đá mềm chân cứng" để mẹ có tương lai. Tác giả dùng sự ra đi biệt tin của những người bạn thân anh để dẫn đến chuyện anh mong người yêu cầu nguyện cho anh. Cách chuyển đổi hơi gượng ép và khiến người nghe hơi bị "chưng hửng" lần nữa vì sự móc nối không được tự nhiên. Tác giả không cần phải dùng sự ra đi biền biệt của mấy người bạn anh, vì chuyện anh ta là lính đủ cho biết anh sống chết ngày nào không biết. Câu chót "Đá mềm chân cứng để mẹ còn tương lai" có nhiều vấn đề. Trước hết, "đá mềm chân cứng" có ý nghĩa lạ lùng. Ý nghĩa dễ hiểu nhất là anh lính tiếp tục đi hành quân, bước trên những con đường sỏi đá nhiều đến độ chân anh trở nên chai cứng và đá sỏi phải mềm đi vì bước chân của anh. Nhóm chữ/ cụm từ này cũng xuất hiện trong bài "Một lòng đợi bạn" (Anh ra đi đá mềm chân cứng/ Em ở nhà hãy vững như đồng). Nó cũng có thể ám chỉ sự kiên tâm trì chí. Nhưng trong bối cảnh anh lính đi hành quân, ý nghĩa bước chân đi khắp nơi trong các cuộc hành quân có lẽ đúng nhất. Nhóm chữ/ cụm từ "để mẹ còn tương lai" hơi yếu ớt, như thể tác giả chợt nhớ là bài hát này là cho mẹ nên cố móc nối lại hình ảnh người mẹ. Quan trọng hơn, cách diễn tả của câu chót rất khó hiểu và kỳ quặc. Làm sao mà "đá mềm chân cứng" có thể đem tương lai cho mẹ anh? Từ "đá mềm chân cứng" tới "mẹ còn tương lai" người nghe phải đi qua nhiều giai đoạn suy luận: Đá mềm chân cứng → Đi hành quân nhiều → Đem chiến thắng → Hòa bình trở lại → mẹ có tương lai. Lối diễn giải có chuỗi suy luận gồm có nhiều mệnh đề luận lý như trên thường được coi là "ngụy biện luận lý" (logical fallacy) trong lý thuyết về tranh luận (argument). Một cách bình dân, ta có thể nói đó là lối "chuyện bé xé to." Trong lối diễn giải này, nhiều mệnh đề luận lý được chắp nối vào nhau trong đó phần kết luận (conclusion) của một mệnh đề là phần giả thuyết/thiết (premise) của mệnh đề được chắp nối kế tiếp, theo một cách mà từ phần giả thuyết/thiết của mệnh đề đầu tiên đến phần kết luận của mệnh đề cuối cùng là một bước nhảy luận lý vĩ đại (giant leap of logic). Sau đây là một thí dụ: Nếu trời mưa, tôi ở nhà. Nếu tôi ở nhà, tôi vào trang mạng Dân Làm Báo. Nếu tôi vào trang mạng Dân Làm Báo, tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản. Nếu tôi đọc các lời phê bình của dư luận viên cộng sản, tôi dễ nổi giận. Do đó, tổng kết lại, nếu trời mưa thì tôi dễ nổi giận. Cái sai lầm của ngụy biện này rất hiển nhiên. Kiểu ngụy biện luận lý trên được gọi là dốc trơn (slippery slope) hoặc Domino fallacy (Xem, thí dụ như, Damer 2009, 185). Khi bạn tuột xuống một dốc trơn, bạn sẽ lôi kéo cả một đống vật cản trở dọc đường, và cuối cùng thì các vật này dồn lại thành một đống vĩ đại, tương tự như phản ứng dây chuyền do bởi những miếng dominoes ngã lên nhau. Lẽ dĩ nhiên, đây là một bài hát, không phải là một bài dùng luận lý. Nhưng văn thơ nhạc dựa vào suy diễn tương tự như luận lý. Các biến dạng của suy diễn này là nghĩa đen/ nghĩa bóng và ẩn dụ. Văn sĩ hoặc thi sĩ rất thường dùng kiểu suy diễn này để diễn tả ý tưởng một các gián tiếp. Nhưng các suy diễn nên đơn giản, thông thường, được nhiều người chấp nhận, hoặc chỉ cần một hay hai bước suy diễn. Không ai muốn diễn tả quá phức tạp làm ý nghĩa trở nên khó hiểu hay kỳ quặc. Ở đây, "đá mềm chân cứng" là một nhóm chữ/ cụm từ it ai dùng. Từ "đá mềm chân cứng" để suy ra nghĩa bóng là "đi hành quân nhiều" đòi hỏi một trí tưởng tượng không nhỏ. Từ "đi hành quân nhiều" để suy ra "chiến thắng trên chiến trường" là hơi vất vả. Cứ thế, bạn sẽ thấy tác giả khiến người nghe phải có trí tưởng tượng thật là phong phú mới hiểu được tại sao "đá mềm chân cứng" sẽ cho "mẹ còn tương lai." Ngoài chuyện suy diễn cực nhọc đó, cái kết luận "mẹ còn tương lai" có vẻ mơ hồ. "Tương lai" có vẻ mơ hồ. Anh lính chắc cũng khoảng lứa tuổi hai mươi. Mẹ anh, chắc cũng còn trẻ (dựa vào câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" hàm ý mẹ anh khoảng hai, ba mươi tuổi khi anh lên 6, 7 còn cắp sách theo mẹ đến trường), có thể bốn, năm mươi tuổi lúc ấy. Do đó, tương lai cũng còn dài. Nhưng tương lai gì? Anh lính muốn tương lai mẹ anh thế nào? Không còn cực khổ gánh hàng tần tảo? Sống lâu khỏe mạnh? Lập lai gia đình? Tác giả không cho chi tiết đặc thù và chỉ muốn cho một ý tưởng đại khái. Chuyện đó không có gì sai, nhưng thiếu hiệu quả. Như tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí," một kỹ thuật viết hiệu quả là chú trọng vào chi tiết rõ rệt, dù chi tiết đó chỉ là một trong nhiều chi tiết khác. Cho một chi tiết rõ rệt giúp người nghe tưởng tượng ra được các chi tiết khác. Thí dụ như thay vì nói, "Hôm nay tôi cảm thấy sung sướng," bạn có thể nói, "Hôm nay tôi huýt gió trong giờ làm việc làm mấy đồng nghiệp ngạc nhiên." Chỉ với chi tiết đó người nghe biết là bạn đang sung sướng và còn biết thêm vài chi tiết về bạn nữa. Trong bài này, câu "mẹ còn tương lai" quá mơ hồ và không đem lại tác dụng mạnh. Người nghe có thể sẽ bỏ qua và không có chút gì suy nghĩ thêm, và tác giả đã thất bại trong việc lôi cuốn người nghe. Người nghe xong bài hát sẽ không "huởn" mà cố suy nghĩ mẹ có tương lai gì. Theo tôi nghĩ, tác giả dùng "mẹ" trong câu chót không phải chỉ mẹ anh lính. Có vẻ tác giả muốn dùng "mẹ" để ám chỉ mẹ Việt Nam, hàm ý tổ quốc. Với nhóm chữ/cụm từ "đá mềm chân cứng," tác giả nhấn mạnh ý chí chiến đấu của anh lính đem lại hòa bình cho đất nước. Do đó, mục đích chiến đấu của anh là cho tổ quốc, cho mẹ Việt Nam, chứ không phải cho mẹ anh. Tuy nhiên, cách diễn giải đó cũng chưa chắc đúng. Hoặc tác giả cố tình mơ hồ để người nghe muốn hiểu sao thì hiểu. Dù diễn giải thế nào, tôi nghĩ nhóm chữ/ cụm từ "mẹ còn tương lai" rất yếu. Tóm lại, bài hát có ý nghĩa thật hay và táo bạo trong phần đầu (2/3). Phần sau (1/3) không đem lại hoàn mỹ cho bài hát mà lại còn có thể làm loãng ý. Tuy nhiên, bài hát vẫn có giá trị nhờ lối tả cảnh và cách dùng chữ thật độc đáo ở phẩn đầu như được trình bày sau đây. Lối tả cảnh và cách dùng chữ thật sáng chói trong phần đầu lấn át vài khuyết điểm trong phần sau Tương tự như phần nội dung và ý tưởng, có sự không đồng đều trong kỹ thuật diễn tả và cách dùng chữ. Tuy nhiên, những điểm đặc sắc quá sáng chói làm lu mờ những khuyết điểm. Ngay lúc mở đầu, tác giả có lối tả cảnh tuyệt vời. Tác giả tận dụng những kỹ thuật hay nhất trong chuyện viết để trình bày cảnh anh lính đang đi hành quân và nghĩ đến mẹ anh. Người nghe tưởng tượng ra được ngay cảnh anh lính đang hành quân trong vùng núi non rừng rú. Tác gỉả dùng hai kỹ thuật tôi trình bày trong bài "Một Mai Giã Từ Vũ Khí": "Cho thấy, đừng kể" và "Chú trọng vào chi tiết rõ rệt." Tác giả cho thấy cuộc hành quân qua cảnh "lội bùn dơ," "băng lau lách," "xuyên đêm," thay vì kể lể hành quân cực khổ thức khuya cả đêm. Ngoài ra, tác giả còn dùng các chữ/từ mạnh (lội, băng, xuyên, sương trắng rơi, rủ nhau, gọi nhau, tê tay, đăm mắt, hư ảo) làm sống động hình ảnh. Đi theo với cách cho thấy, tác giả dùng những chi tiết rõ rệt của cuộc hành quân qua vùng núi non rừng rú vắng vẻ: lội bùn, băng lau, xuyên đêm, đàn chim bay, khỉ vượn hú. Tác giả dùng "sương" hai lần: "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" và "Em còn khêu sáng ánh đèn từ sương mai." Ngoài ra "sương" còn được dùng trong nhan đề. Ta phải hiểu rõ hai loại sương. Tiếng Việt mơ hồ trong chữ/ từ "sương." Tiếng Anh phân biệt rõ các loại sương: dew (sương mai/ đêm), mist (sương mù mỏng), fog (sương mù dày). Trong "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm," tĩnh từ "trắng" cho thấy đó là sương mù vì không ai tả giọt sương mai/ đêm màu trắng. Giọt sương mai/ đêm trong như giọt nước. Chỉ có sương mù mới tạo ra hình ảnh trắng đục. Ngoài ra, sương mai/ sương đêm tạo ra do bởi cô đọng (condensation) và thường xuất hiện trên các vật mỏng lộ ra như cỏ, lá cây, hoa, mui xe. Ngược lại, sương mù tạo ra khi hơi nước đọng lại thàng những giọt nước li ti trong không khí. Chỉ có sương mù mới "rơi" xuống, chứ sương mai/ sương đêm không có rơi xuống. Câu "sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm" có ít nhất hai tác dụng: thiết lập quy chiếu về thời gian (cộng thêm với "xuyên đêm") là sáng sớm, và cho thấy chuyến đi hành quân lâu đến nỗi vai anh lính thấm sương trở nên lạnh mềm. "Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu" vẽ ra hình ảnh các đàn chim bay trên trời không có định hướng. "Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau" gợi ra cảnh tượng đám khỉ vượn kêu réo nhau một cách vô tư (ngẩn ngơ) chứ không phải hỗn loạn phá phách. Bốn câu đầu dàn dựng bối cảnh của câu chuyện. Tác giả xác định rõ không gian (vùng núi non rừng rú) và thời gian (sáng sớm) và những diễn tiến của cuộc hành quân. Cách diễn tả rất tài tình tạo ra một hình ảnh sống động và cho người nghe có ý niệm rõ rệt. Không những thế, tác giả còn dùng một kỹ thuật viết rất hiệu quả trong việc tả cảnh hoặc tình cảm là dùng nhiều giác quan trong ngũ quan (nhìn, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc/ cảm nhận/ va chạm). Bằng cách dùng nhiều giác quan, người viết lôi cuốn độc giả vào cảnh vì độc giả liên tưởng đến những hình ảnh, mùi, vị, âm thanh, và cảm giác trong lúc tưởng tượng ra cảnh tượng hoặc tình cảm. Anh lính nhìn thấy đàn chim bay trên trời (Chim muông buồn rủ nhau bay về đâu), nghe tiếng khỉ vượn hú (Ngẩn ngơ lũ vượn gọi nhau), tiếp xúc/ va chạm sương rơi ướt lạnh và súng ̣đến tê tay (Sương trắng rơi vai tôi ướt lạnh mềm/ Nào những khi ôm thép súng tê tay). Chỉ thiếu ngửi và nếm nhưng đủ lôi cuốn người nghe. Dùng nhiều giác quan quá không nhất thiết là hay vì con người thường cảm nhận cùng lúc chỉ qua hai, ba giác quan mà thôi. Rất ít có tình trạng nào mà bốn hay năm giác quan được dùng. Người viết cũng phải nên cẩn thận, và đừng lạm dụng các giác quan. Chỉ nên dùng bốn, năm giác quan trong trường hợp thật đặc biệt. Thí dụ như trong bài "Uy Lực" (Cao-Đắc 2014c), tôi dùng cả năm giác quan khi tả cảnh sáu con sư tử trở vể lãnh thổ chúng (thấy cây bao báp cổ, ngửi mùi hương quen thuộc của những bụi cây keo, nếm không khí khô hoài cổ, nghe tiếng gió xào xạc trên bãi cỏ, và cảm nhận bãi đất núi lửa mềm gợi nhớ). Lý do là tôi muốn nhấn mạnh dùng các con sư tử trẻ là ẩn dụ cho tuối trẻ Việt Nam, trong nước và hải ngoại, đã bị mất nước dưới nền đô hộ cộng sản với lý thuyết ngoại bang, và họ trở về để lấy lại đất nước và khôi phục lại chính nghĩa. Vì đó là bài thơ văn xuôi nên tôi có thể kéo căng cái nhấn mạnh đó. Như trình bày ở trên, hình ảnh tuyệt vời nhất của cả bài nhạc là hình ảnh cậu bé đi theo mẹ đến trường trên con đường làng. Tác giả dùng chữ đơn giản, không cầu kỳ, nhưng có tác dụng mạnh. Để ý tác giả dùng "theo mẹ đến trường" thay vì "mẹ dẫn con đến trường." Tác giả vẽ ra cảnh tượng dưới góc nhìn của cậu bé, để chuẩn bị cho hình ảnh "tóc liễu vờn gió ru buồn" ngay sau đó. Trong việc viết, chọn góc nhìn (viewpoint) cho nhân vật rất quan trọng. Người nghe hay người đọc sẽ đứng vào vị trí của góc nhìn đó để tham gia vào cảnh tượng. Người viết nên giúp người nghe/ đọc đứng ở vị trí trong suốt cảnh một cách nhất quán. Thay đổi góc nhìn trong một cảnh dễ tạo ra lẫn lộn và làm giảm tác dụng trên người nghe/ đọc, trừ phi người viết cố tình chuyển góc nhìn. Đinh Miên Vũ dùng góc nhìn của anh lính một cách đồng nhất khi tả cảnh anh nhớ lại ngày xưa còn bé. Anh lính nhớ "khi con còn bé nhỏ" và "theo mẹ đến trường." Nhờ vậy anh mới ghi nhận được hình ảnh tóc mẹ bay trong gió. Bằng cách dùng góc nhìn của anh lính (thay vì một người bàng quan nào đó đứng trên đường), tác giả chuẩn bị cho hình ảnh sau đó. Hình ảnh tóc mẹ anh bay trong gió được mô tả sống động với câu "tóc liễu vờn gió ru buồn." Cũng như câu "Hồn lỡ sa vào đôi mắt em" trong bài "Về Đâu Mái Tóc Người Thương" của Hoài Linh, câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có lối dùng chữ sâu sắc và gợi hình thật tuyệt diệu. Trước hết, "tóc liễu" thường được dùng để tả mái tóc dài rũ xuống của các cô gái trẻ. "Liễu" là loại cây có lá thuôn dài và cành mảnh dẻ. Liễu rũ thường dùng làm cảnh trồng bên bờ hồ hoặc bờ sông. Liễu thường được dùng để ám chỉ phái nữ (liễu yếu đào tơ, phận liễu). Tóc liễu mô tả mái tóc chảy dài có những nhánh chẻ ra và không phải dày dặc. Rất nhiều thi sĩ dùng "tóc liễu" để tả mái tóc cô gái. Tóc liễu xanh xanh vẫy tóc người, Tay em cầm nhẹ lấy tay tôi... Lần đầu ân ái trao bằng mắt Rồi để tình thương đến trọn đời (Tình Xa - Hồ Dzếnh) Suốt trời hôm ấy thê lương quá, Tóc liễu bờm xơm, sóng vỗ hồ, Mây rối trên trời, cây rối lá, Giường cô xuân nữ gối chăn xô... (Thu - Hồ Dzếnh) Môi khô tóc liễu thân gầy, Anh xa, em kẻ lông mày với ai? (Không hẹn ngày về - Nguyễn Bính) Vừa rồi tỏ mặt Hằng Nga Mây vương tóc liễu son pha má đào. (Tỳ bà truyện - Nguyễn Bính) Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều Bên màu hoa mới thắm như kêu; Nỗi gì âu yếm qua không khí, Như thoảng đưa mùi hương mến yêu (Nụ Cười Xuân - Xuân Diệu) Với chuyện "tóc liễu" được các thi sĩ dùng nhiều, "tóc liễu" trong "tóc liễu vờn gió ru buồn" có gì hay hơn? Thực ra, trong bối cảnh của bài hát, "tóc liễu" có tác dụng khác hẳn với "tóc liễu" trong các bài thơ. Tác giả để anh lính dùng "tóc liễu" để tả tóc mẹ mình dựa vào trí nhớ của anh về mẹ mình lúc anh còn bé. Tuy không nói rõ, ta có thể hiểu là mẹ anh không còn có tóc liễu nữa. Mẹ anh phải buôn tảo bán tần, gánh hàng ra chợ hoặc đi bán rong ngoài đường, và bây giờ chắc cũng khoảng it nhất là tứ tuần hay ngũ tuần, thì làm sao mà còn tóc liễu được nữa. Quan trọng hơn, nếu mẹ anh vẫn còn tóc liễu thì tại sao anh có ý nói là tóc liễu vờn gió nay còn đâu. Anh lính rất luyến tiếc tóc liễu đó. Chỉ một chi tiết đặc thù đó, ta có thể hiểu là anh lính rất thương mẹ. Đây là một thí dụ cho thấy dùng một chi tiết rõ rệt làm nổi bật được toàn diện ý tưởng. Anh lính nhớ mái tóc liễu đó thế nào? Ở đây, tác giả biểu lộ tài năng dùng chữ tuyệt diệu. Những sợi tóc liễu của mẹ anh "vờn gió"! Động từ "vờn" hàm ý đưa đẩy, đùa giỡn (mèo vờn chuột), nhảy múa. Tự nó, "vờn" là một động từ mạnh mẽ (mạnh mẽ đây là chỉ tác dụng diễn tả, không phải là sức mạnh của hành động) để diễn tả cảnh tượng đùa cợt. Quan trọng hơn, tác giả dùng "tóc liễu" là chủ từ của động từ vờn, nhân cách hóa những sợi tóc đó như thể những sợi tóc có tâm trí riêng của chúng. Hay hơn nữa, những sợi tóc liễu vờn gió. Làm sao mà tóc lại có thể vờn được gió? Chính gió mới thổi tóc bay lên chứ? Nhưng không, với cậu bé 6, 7 tuổi, cậu ta không thấy gió thổi tóc mà chỉ thấy những sợi tóc dài nhảy múa đùa giỡn với gió. Còn gì tuyệt diệu và thơ mộng bằng? Hậu quả của những sợi tóc nhảy múa đùa cợt với làn gió là gì? Một cách bất ngờ, tác giả mô tả cảnh tượng đó "ru buồn." Một lần nữa, tác giả nhân cách hóa cảnh tượng tóc nhảy múa với gió, cho cảnh tượng đó có khả năng phát ra âm thanh như hát bài ru ngủ. Có phải chăng gió thổi những sợi tóc tạo nên âm thanh khi những sợi tóc quyện với nhau hoặc vướng vào tay, cổ, nón, áo của mẹ anh? Âm thanh đó chắc nhỏ như tiếng ru khe khẽ của mẹ. Tiếng ru đó chắc đều đều và tạo ra một giai điệu rù rì văng vẳng từ đâu đến. Nhưng tại sao ru "buồn"? Ở đây, tác giả dùng "ru" một cách khác thường. "Ru" thường được dùng là ru ngủ, nhưng tác giả dùng "ru" như là một động từ với ý nghĩa phát ra âm thanh đều đều nhẹ nhàng êm ả, gợi lên một cảm xúc hay tác dụng nào đó, không nhất thiết là cho ngủ. Với cách dùng đó, ta có thể dùng "ru buồn," "ru vui," "ru nhớ," "ru sầu," "ru hạnh phúc," "ru khổ," v.v. Tuy nhiên, không phải túc từ nào cũng thích hợp với "ru." "Vui" thường hàm ý náo nhiệt, dùng "ru vui" rất gượng gạo vì làm sao mà giai điệu đều đều êm ả lại có thể đem lại niềm vui. Nới rộng thêm nữa, "ru" không nhất thiết dính líu đến âm thanh, và có thể Đinh Miên Vũ không có ý định cho những sợi tóc bay theo gió tạo ra âm thanh ru buồn mà chỉ có hình ảnh đó ru buồn cậu bé. Với cách dùng chữ như vậy, ta có thể viết những câu như "Ánh mắt nàng long lanh ru tôi vào giấc ngủ triền miên," "Bầu trời xanh cao với các cụm mây trắng lờ lững ru niềm hân hoan tràn trề," v.v. Sau đây là một cách giải thích khác cho "ru buồn." Tại sao lại "buồn"? Anh lính thấy buồn lúc nào? lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường hay là bây giờ khi anh nghĩ lại hình ảnh đó? Ý nghĩa trực tiếp từ câu "tóc liễu vờn gió ru buồn" có sự mơ hồ. Tuy ta biết chắc "tóc liễu vờn gió" không còn nữa, ta không biết chuyện "ru buồn" xảy ra lúc nào. Một diễn giảng là cảm xúc buồn đó xảy ra với câu bé. Nhưng tại sao cậu bé buồn? Ở đây, ta không rõ. Anh lính không nói thêm. Anh chỉ nhớ là những sợi tóc bay nhảy với gió đã khiến anh buồn lúc anh là cậu bé theo mẹ đến trường. Có thể vì cậu bé muốn ở nhà với mẹ, không thích đi học. Có thể vì cậu bé thương mẹ phải lặn lội dẫn mình đi học. Có thể có một chuyện gì đó về mái tóc mẹ. Ta không biết. Dưới một diễn giảng khác, anh lính có ý nói vì "tóc liễu vờn gió" không còn nữa nên hình ảnh đó ru buồn. Nghĩa là anh lính buồn sau này, không phải lúc là cậu bé đang ngắm tóc mẹ vờn gió. Theo tôi nghĩ, cách diễn giảng này có vẻ hợp lý hơn. Thứ nhất, sự kiện một cậu bé buồn vì tóc liễu mẹ vờn gió là một chuyện khá kỳ quặc Thứ nhì, một giải thích có thể làm phù hơp mọi chuyện. Giải thích đó là cậu bé thực ra rất thích và rất vui khi nhìn tóc mẹ vờn gió, vì vậy mà cậu bé giữ mãi hình ảnh đó. Do đó, khi mẹ không còn có "tóc liễu vờn gió" nữa, cậu bé và sau này trưởng thành là anh lính, cảm thấy buổn. Chuyện đó cũng giải thích tại sao Đinh Miên Vũ dùng động từ "ru" vì cái mất mát đó xảy ra nhiều lần, đều đều ngày này qua ngày khác, như một giai điệu lập đi lập lại như lời ru. Cho dù cách diễn giảng nào, câu "tóc liễu vờn gió ru buổn" thật là tuyệt diệu trong bối cảnh anh lính nghĩ đến ngày thơ ấu theo mẹ đến trường. Đinh Miên Vũ đã thành công trong việc tạo ra một ấn tượng sâu đậm về lòng thương yêu mẹ của anh lính. Tiếc thay, cách diễn tả xuất sắc đó không đồng đều. Cái diễn tả tuyệt vời về tình yêu thương mẹ của anh lính bị cắt đứt đột ngột khi tác giả để anh lính chuyển ý nghĩ sang người yêu anh. Trong khi phần đầu rất là tuyệt vời, phần sau trở nên tầm thường, nếu không muốn nói là yếu kém, gượng gạo, và thiếu mạch lạc. Như đã trình bày ở trên, ngoài lối chuyển tiếp đột ngột từ mẹ sang người yêu, tác giả có lối suy diễn kỳ quặc của "đá mềm chân cứng" và mơ hồ tả ước vọng anh lính là để cho "mẹ còn tương lai." Chúng ta không hiểu tại sao có sự chênh lệch giữa hai phần trong cùng một bài hát. Nếu Đinh Miên Vũ là một người, ta có thể giải thích là ông viết phần sau trong trạng thái khác với phần đầu, như thể ông muốn viết cho xong. Nhưng nếu Đinh Miên Vũ là ba người, thi ta biết là người viết phần đầu khác với người viết phần sau. May thay, có hai yếu tố cứu vãn bài hát. Yếu tố thứ nhất là nhạc điệu. Giai điệu bài hát rất hay, có lối kể lể gây xúc động. Hòa âm và nhịp điệu cũng rất xuất sắc, trầm bổng nhịp nhàng. Nếu bạn nghe nhạc không lời, bạn vẫn thưởng thức bài hát, nhất là khi các nhạc cụ phối hợp nhau như guitar, sáo, và trống phụ họa (Xem, thí dụ như, Phạm 2014). Yếu tố thứ hai là sự nổi bật ở phần đầu khiến người nghe quên đi hoặc không nhận ra cái yếu kém ở phần sau. Ngoài ra, tuy phẩn sau yếu kém so với phần đầu, nó cũng không đến nỗi tệ, và cũng đóng góp được hoàn thành câu chuyện anh lính đang muốn diễn tả. Bài hát nói lên sức mạnh của âm nhạc miền Nam trước 1975 qua cách diễn tả tình yêu thương mẹ nồng ấm Có nhiều bài hát về tình mẹ con. Thí dụ như Lòng Mẹ, Bà Mẹ Quê, Bông Hồng Cài Áo, Bà Mẹ Trị Thiên, Bà Mẹ Gio Linh. Những bài này chỉ nói về người mẹ thuần túy, ca ngợi mẹ và tình yêu mẹ dành cho con. Cũng có nhiều bài hát về người lính VNCH và mẹ. Thí dụ như Xuân Này Con Không Về, Cảm Ơn. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" có lẽ là bài hát hay nhất về tình yêu thương của người lính VNCH dành cho mẹ anh. Bài hát này là một thí dụ cho thấy tính chất nhân bản của nền âm nhạc miền Nam Việt Nam trước 1975. Như tôi đã trình bày trong các bài trước, âm nhạc miền Nam trước 1975 không ủy mị, yếu đuối như phe cộng sản thường chê bai. Ngược lại, âm nhạc miền Nam trước 1975 rất mạnh mẽ, hào hùng, và kích động ý chí. Neil Jamieson, một học giả Hoa Kỳ, gán sức mạnh của hai miền Nam Bắc là Âm Dương, với miền Bắc Dương và miền Nam Âm. "Các trận đánh lớn lúc Tết khiến cho chiều âm này một động lực mạnh mẽ trong VNCH" (Jamieson 1993, 320). Tôi không nhất thiết đồng ý với cách phân loại đó, nhưng khái niệm âm dương hoặc nhu cương giúp ta có chút hiểu biết về tính chất của hai miền Nam Bắc trong chiến tranh. Một điểm quan trọng mà nhiều người, nhất là phe cộng sản, quên, là miền Bắc là kẻ xâm lăng trong khi miền Nam chỉ phòng thủ. Người lính VNCH có gia đình, cha mẹ, vợ con, và họ phải bảo vệ những người thân yêu. Sức mạnh của họ không phải là tấn công giết giặc, mà là tình yêu. Chính tình yêu giúp họ mạnh mẽ và chiến đấu chống trả quân thù. Do đó âm nhạc miền Nam trước 1975 phản ảnh cái sức mạnh đó. Gọi tình yêu cha mẹ, vợ con, người tình ủy mị yếu đuối là thiếu hiểu biết, mất cá tính nhân bản. Quân đội Bắc Việt, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, không coi trọng cái tình yêu đó. Họ bi tẩy não chỉ biết phục vụ Đảng cộng sản Việt Nam và yêu thương Bác Hồ hơn cả cha mẹ, vợ con. Ngược lại, những người lính VNCH lúc nào cũng có tình yêu thương gia đình. Bản nhạc "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" thể hiện tình thương yêu mẹ của anh lính trẻ một cách nồng ấm. Tình yêu thương đó được bộc lộ chân thành qua chi tiết cậu bé theo mẹ đến trường trên con đường làng, ấp ủ hình ảnh những sợi tóc mẹ bay nhảy theo cơn gió thoảng trong suốt mười mấy năm. Đinh Miên Vũ, dù là Đinh Miên hay Đinh Trụ, Miên Thành, và Võ Hữu Bình, lúc sáng tác bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" chỉ là một người lính trẻ ở tuổi đôi mươi. Kinh nghiệm viết nhạc coi như không có vì bài này là bài duy nhất được sáng tác trước năm 1975. Tuy nhiên, bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" cho thấy mức sáng tạo thật cao, có những kỹ thuật viết thật điêu luyện. Một lần nữa, bài này là một thí dụ cho thấy xã hội và thể chế tự do của VNCH đã giúp phát huy khả năng sáng tạo nghệ thuật trong miền Nam trước 1975. Kết Luận "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là bản nhạc duy nhất của Đinh Miên Vũ trong kho tàng âm nhạc miền Nam trước 1975 và là một trong những bài hay nhất, nếu không muốn nói là bài hay nhất, về tình yêu thương mẹ. Tuy có nhiều bài về tình yêu mẹ dành cho con, rất it bài nói về tình yêu con dành cho mẹ. Bài "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" còn xuất sắc ở cách diễn tả độc đáo qua một cảnh tượng bình thường, đem lại cảm xúc mạnh cho người nghe. Cách diễn tả độc đáo đó và khía cạnh tha thiết của nhạc điệu khiến người nghe quên đi vài khuyết điểm trong lời nhạc. Một lần nữa, "Sương Trắng Miền Quê Ngoại" là một bằng chứng hùng hồn cho mức sáng tạo phong phú trong xã hội tự do của chính thể VNCH và sức mạnh của nền âm nhạc miền Nam trước 1975. Chúng ta lắng tai nghe bài hát, thưởng thức nhạc điệu và lời ca ru hồn; nhưng chúng ta không quên cảm thấy xót xa cho nền âm nhạc của miền Nam trước 1975. Cảm tạ Tôi xin có lời cảm tạ anh Vũ Đông Hà và các bạn dân lành, Sài gòn, PHO, binh, Cau Ho, buồn cho tiếng Việt của trang mạng Dân Làm Báo đã có lời khích lệ trong các bài về âm nhạc trước và giúp tôi có ý định viết bài này, đặc biệt là lời yêu cầu của Sài gòn. ____________________________________
] Giáo Dục Việt Nam Cộng HòaMặt tiền tòa nhà hành chánh Viện Đại Học Sài Gòn, cơ sở giáo dục đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng Hòa
Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa là nền giáo dục Việt Nam dưới chính thể Việt Nam Cộng Hòa. Triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng Hòa là nhân bản, dân tộc, và khai phóng.[1] Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa nhấn mạnh quyền tự do giáo dục, và quy định "nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí", "nền giáo dục đại học được tự trị", và "những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn".[2] Hệ thống giáo dục Việt Nam Cộng Hòa gồm tiểu học, trung học, và đại học, cùng với một mạng lưới các cơ sở giáo dục công lập, dân lập, và tư thục ở cả ba bậc học và hệ thống tổ chức quản trị từ trung ương cho tới địa phương. Tổng quátTừ năm 1917, chính quyền thuộc địa Pháp ở Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục thống nhất cho cả ba miền Nam, Trung, Bắc, và cả Lào cùng Cao Miên. Hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc có ba bậc: tiểu học, trung học, và đại học. Chương trình học là chương trình của Pháp, với một chút sửa đổi nhỏ áp dụng cho các cơ sở giáo dục ở Việt Nam, dùng tiếng Pháp làm ngôn ngữ chính, tiếng Việt chỉ là ngôn ngữ phụ. Sau khi Việt Nam tuyên bố độc lập vào ngày 17 tháng 4 năm 1945,[3] chương trình học của Việt Nam - còn gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn ban hành trong khoảng thời gian từ 20 tháng 4 đến 20 tháng 6 năm 1945 dưới thời chính phủ Trần Trọng Kim của Đế quốc Việt Nam - được đem ra áp dụng ở miền Trung và miền Bắc. Riêng ở miền Nam, vì có sự trở lại của người Pháp nên chương trình Pháp vẫn còn tiếp tục cho đến giữa thập niên 1950. Đến thời Đệ nhất Cộng hòa thì chương trình Việt mới được áp dụng ở miền Nam để thay thế cho chương trình Pháp. Cũng từ đây, các nhà lãnh đạo giáo dục Việt Nam mới có cơ hội đóng vai trò lãnh đạo thực sự của mình.[4] Ngay từ những ngày đầu hình thành nền Đệ Nhất Cộng Hòa, những người làm công tác giáo dục ở miền Nam đã xây dựng được nền móng quan trọng cho nền giáo dục quốc gia, tìm ra câu trả lời cho những vấn đề giáo dục cốt yếu. Những vấn đề đó là: triết lý giáo dục, mục tiêu giáo dục, chương trình học, tài liệu giáo khoa và phương tiện học tập, vai trò của nhà giáo, cơ sở vật chất và trang thiết bị trường học, đánh giá kết quả học tập, và tổ chức quản trị.[5] Nhìn chung, người ta thấy mô hình giáo dục ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1970 có khuynh hướng xa dần ảnh hưởng của Pháp vốn chú trọng đào tạo một số ít phần tử ưu tú trong xã hội và có khuynh hướng thiên về lý thuyết, để chấp nhận mô hình giáo dục Hoa Kỳ có tính cách đại chúng và thực tiễn. Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng hòa có một phần năm (20%) dân số là học sinh và sinh viên đang đi học trong các cơ sở giáo dục. Con số này bao gồm 3.101.560 học sinh tiểu học, 1.091.779 học sinh trung học, và 101.454 sinh viên đại học; số người biết đọc biết viết ước tính khoảng 70% dân số.[4] Đến năm 1975, tổng số sinh viên trong các viện đại học ở miền Nam là khoảng 150.000 người (không tính các sinh viên theo học ở Học viện Quốc gia Hành chánh và ở các trường đại học cộng đồng).[6] Mặc dù tồn tại chỉ trong 20 năm, từ 1955 đến 1975, bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển. Kết quả này có được là nhờ các nhà giáo có ý thức rõ ràng về sứ mạng giáo dục, có ý thức trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, đã sống cuộc sống khiêm nhường để đóng góp cho nghề nghiệp, nhờ nhiều bậc phụ huynh đã đóng góp công sức cho việc xây dựng nền giáo dục quốc gia, và nhờ những nhà lãnh đạo giáo dục đã có những ý tưởng, sáng kiến, và nỗ lực mang lại sự tiến bộ cho nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam.[4] Triết lý giáo dụcMột lớp tiểu học ở miền Nam vào năm 1961. Năm 1958, dưới thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế, Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, thân hào nhân sĩ, học giả, đại diện của quân đội, chính quyền và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc "nhân bản", "dân tộc", và "khai phóng" được chính thức hóa ở hội nghị này.[7][8] Đây là những nguyên tắc làm nền tảng cho triết lý giáo dục của Việt Nam Cộng hòa, được ghi cụ thể trong tài liệu Những nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa (1967).
Mục tiêu giáo dục
Từ những nguyên tắc căn bản ở trên, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đề ra những mục tiêu chính sau đây cho nền giáo dục của mình. Những mục tiêu này được đề ra là để nhằm trả lời cho câu hỏi: Sau khi nhận được sự giáo dục, những người đi học sẽ trở nên người như thế nào đối với cá nhân mình, đối với gia đình, quốc gia, xã hội, và nhân loại?
Những quy định trong hiến phápĐiều 26, Hiến pháp năm 1956: "Quốc gia cố gắng cho mọi người dân một nền giáo dục cơ bản có tính cách bắt buộc và miễn phí. Mọi người dân có quyền theo đuổi học vấn. Những người có khả năng mà không có phương tiện riêng sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. Quốc gia thừa nhận phụ huynh có quyền chọn trường cho con em, các đoàn thể và tư nhân có quyền mở trường theo điều kiện luật định. Quốc gia có thể công nhận các trường tư thục đại học và cao đẳng chuyên nghiệp hội đủ điều kiện luật định. Văn bằng do những trường ấy cấp phát có thể được Quốc gia thừa nhận."[13] Điều 10, Hiến pháp năm 1967: "1- Quốc gia công nhận quyền tự do giáo dục. 2- Nền giáo dục cơ bản có tính cách cưỡng bách và miễn phí. 3- Nền giáo dục đại học được tự trị. 4- Những người có khả năng mà không có phương tiện sẽ được nâng đỡ để theo đuổi học vấn. 5- Quốc gia khuyến khích và nâng đỡ các công dân trong việc nghiên cứu và sáng tác về khoa học, văn học và nghệ thuật." Điều 11 phát biểu: "1- Văn hóa giáo dục phải được đặt vào hàng quốc sách trên căn bản dân tộc, khoa học và nhân bản. 2- Một ngân sách thích đáng phải được dành cho việc phát triển văn hóa giáo dục."[2] Giáo dục tiểu học và trung học
Giáo dục tiểu họcBậc tiểu học thời Việt Nam Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ nhất Cộng hòa gọi là lớp Năm đến lớp Nhất). Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là giáo dục phổ cập (bắt buộc).[14] Từ thời Đệ nhất Cộng hòa đã có luật quy định trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[15] Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học "đúp", tức học lại lớp đó. Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia ra hai ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều. Vào đầu thập niên 1970, Việt Nam Cộng hòa có 2,5 triệu học sinh tiểu học, 82%[16] tổng số thiếu niên từ 6 đến 11 tuổi[17] theo học ở 5.208 trường tiểu học (chưa kể các cơ sở ở Phú Bổn, Vĩnh Long, và Sa Đéc).[18] Tất cả trẻ em từ 6 tuổi đều được nhận vào lớp Một để bắt đầu bậc tiểu học. Phụ huynh có thể chọn lựa cho con em vào học miễn phí cho hết bậc tiểu học trong các trường công lập hay tốn học phí (tùy trường) tại các trường tiểu học tư thục.[19] Lớp 1 (trước năm 1967 gọi là lớp Năm) cấp tiểu học mỗi tuần học 25 giờ, trong đó 9,5 giờ môn quốc văn; 2 giờ bổn phận công dân và đức dục (còn gọi là lớp Công dân giáo dục).[20] Lớp 2 (trước năm 1967 gọi là lớp Tư), quốc văn giảm còn 8 tiếng nhưng thêm 2 giờ sử ký và địa lý. Lớp 3 trở lên thì ba môn quốc văn, công dân và sử địa chiếm 12-13 tiếng mỗi tuần.[21] Một năm học kéo dài chín tháng, nghỉ ba tháng hè. Trong năm học có khoảng 10 ngày nghỉ lễ (thông thường vào những ngày áp Tết).[22] Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức 24%[16] tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18;[17] có 534 trường trung học (chưa kể các cơ sở ở Vĩnh Long và Sa Đéc).[18] Đến năm 1975 thì có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập. Các trường trung học công lập nổi tiếng thời đó có Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trưng Vương, Gia Long, Lê Quý Đôn (Sài Gòn) tiền thân là Trường Chasseloup Laubat, Quốc Học (Huế), Trường Trung học Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ)... Các trường công lập đều hoàn toàn miễn phí, không thu học phí và các khoản lệ phí khác.
Trung học đệ nhất cấp bao gồm năm lớp 6 đến lớp 9 (trước năm 1970 gọi là lớp đệ thất đến đệ tứ), tương đương trung học cơ sở hiện nay. Từ tiểu học phải thi vào trung học đệ nhất cấp. Đậu vào trường trung học công lập không dễ. Các trường trung học công lập hàng năm đều tổ chức tuyển sinh vào lớp Đệ thất (từ năm 1970 gọi là lớp 6), kỳ thi có tính chọn lọc khá cao (tỷ số chung toàn quốc vào trường công khoảng 62%);[23] tại một số trường danh tiếng tỷ lệ trúng tuyển thấp hơn 10%. Những học sinh không vào được trường công thì có thể nhập học trường tư thục nhưng phải trả học phí. Một năm học được chia thành hai "lục cá nguyệt" (hay "học kỳ"). Kể từ lớp 6, học sinh bắt đầu phải học ngoại ngữ, thường là tiếng Anh hay tiếng Pháp. Môn Công dân giáo dục tiếp tục với lượng 2 giờ mỗi tuần.[24] Từ năm 1966 trở đi, môn võ Vovinam (tức Việt Võ đạo) cũng được đưa vào giảng dạy ở một số trường.[25] Học xong năm lớp 9 thì thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Kỳ thi này thoạt tiên có hai phần: viết và vấn đáp. Năm 1959 bỏ phần vấn đáp[26] rồi đến niên học 1966-67 thì Bộ Quốc gia Giáo dục bãi bỏ hẳn kỳ thi Trung học đệ nhất cấp.[27]
Trung học đệ nhị cấp là các lớp 10, 11 và 12, trước 1971 gọi là đệ tam, đệ nhị và đệ nhất; tương đương trung học phổ thông hiện nay. Muốn vào thì phải đậu được bằng Trung học đệ nhất cấp, tức bằng Trung học cơ sở. Vào đệ nhị cấp, học sinh phải chọn học theo một trong bốn ban như dự bị vào đại học.[28] Bốn ban thường gọi A, B, C, D theo thứ tự là khoa học thực nghiệm hay còn gọi là ban vạn vật; ban toán; ban văn chương; và ban văn chương cổ ngữ, thường là Hán văn. Ngoài ra học sinh cũng bắt đầu học thêm một ngoại ngữ thứ hai.[29] Vào năm lớp 11 thì học sinh phải thi Tú tài I rồi thi Tú tài II năm lớp 12. Thể lệ này đến năm học 1972-1973 thì bỏ, chỉ thi một đợt tú tài phổ thông. Thí sinh phải thi tất cả các môn học được giảng dạy (trừ môn Thể dục), đề thi gồm các nội dung đã học, không có giới hạn hoặc bỏ bớt. Hình thức thi kể từ năm 1974 cũng bỏ lối viết bài luận (essay) mà theo lối thi trắc nghiệm có tính cách khách quan hơn.[30] Mỗi năm có hai đợt thi Tú tài tổ chức vào khoảng tháng 6 và tháng 8.[31] Tỷ lệ đậu Tú tài I (15-30%) và Tú tài II (30-45%), tại các trường công lập nhìn chung tỷ lệ đậu cao hơn trường tư thục do phần lớn học sinh đã được sàng lọc qua kỳ thi vào lớp 6 rồi.[32] Do tỷ lệ đậu kỳ thi Tú tài khá thấp nên vào được đại học là một chuyện khó. Thí sinh đậu được xếp thành: Hạng "tối ưu" hay "ưu ban khen" (18/20 điểm trở lên), thí sinh đậu Tú tài II hạng tối ưu thường hiếm, mỗi năm toàn Việt Nam Cộng hòa chỉ một vài em đậu hạng này, có năm không có; hạng "ưu" (16/20 điểm trở lên); "bình" (14/20); "bình thứ" (12/20), và "thứ" (10/20).[33] Một số trường trung học chia theo phái tính như ở Sài Gòn thì có trường Pétrus Ký, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Trường Hồ Ngọc Cẩn (Gia Định) và các trường Quốc học (Huế), Phan Chu Trinh (Đà Nẵng), Cường Để (Qui Nhơn), Võ Tánh (Nha Trang), Trần Hưng Đạo (Đà Lạt), Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho), Phan Thanh Giản (Cần Thơ) dành cho nam sinh. Các trường Trưng Vương, Gia Long, Lê Văn Duyệt, Trường Nữ Trung học Đồng Khánh (Huế), Trường Nữ Trung học Bùi Thị Xuân (Đà Lạt), Trường Nữ Trung học Lê Ngọc Hân (Mỹ Tho), Trường Nữ Trung học Đoàn Thị Điểm (Cần Thơ) chỉ dành cho nữ sinh. Học sinh trung học lúc bấy giờ phải mặc đồng phục: nữ sinh thì áo dài trắng, quần trắng hay đen; còn nam sinh thì mặc áo sơ mi trắng, quần màu xanh dương.[34]
Chương trình giáo dục trung học tổng hợp (tiếng Anh: comprehensive high school) là một chương trình giáo dục thực tiễn phát sinh từ quan niệm giáo dục của triết gia John Dewey, sau này được nhà giáo dục người Mỹ là James B. Connant hệ thống hóa và đem áp dụng cho các trường trung học Hoa Kỳ. Giáo dục trung học tổng hợp chú trọng đến khía cạnh thực tiễn và hướng nghiệp, đặt nặng vào các môn tư vấn, kinh tế gia đình, kinh doanh, công-kỹ nghệ, v.v... nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức thực tiễn, giúp họ có thể mưu sinh sau khi rời trường trung học. Ở từng địa phương, phụ huynh học sinh và các nhà giáo có thể đề nghị những môn học đặc thù khả dĩ có thể đem ra ứng dụng ở nơi mình sinh sống.[35] Thời Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam chính phủ cho thử nghiệm chương trình trung học tổng hợp, nhập đệ nhất và đệ nhị cấp lại với nhau. Học trình này được áp dụng đầu tiên tại Trường Trung học Kiểu mẫu Thủ Đức, sau đó mở rộng cho một số trường như Nguyễn An Ninh (cho nam sinh; 93 đường Trần Nhân Tông, Quận 10) và Sương Nguyệt Anh (cho nữ sinh; góc đường Bà Hạt và Vĩnh Viễn, gần chùa Ấn Quang) ở Sài Gòn, và Chưởng binh Lễ ở Long Xuyên.[36]
Các trường trung học kỹ thuật nằm trong hệ thống giáo dục kỹ thuật, kết hợp việc dạy nghề với giáo dục phổ thông. Các học sinh trúng tuyển vào trung học kỹ thuật thường được cấp học bổng toàn phần hay bán phần. Mỗi tuần học 42 giờ; hai môn ngoại ngữ bắt buộc là tiếng Anh và tiếng Pháp.[37] Các trường trung học kỹ thuật có mặt hầu hết ở các tỉnh, thành phố; ví dụ, công lập thì có Trường Trung học Kỹ thuật Cao Thắng (thành lập năm 1956; tiền thân là Trường Cơ khí Á châu thành lập năm 1906 ở Sài Gòn; nay là Trường Cao đẳng Kỹ thuật Cao Thắng),[38], Trường Trung học Nông Lâm Súc Bảo Lộc, Trường Trung học Kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ; tư thục thì có Trường Trung học Kỹ thuật Don Bosco (do các tu sĩ Dòng Don Bosco thành lập năm 1956 ở Gia Định; nay là Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh).[37][39] Các trường tư thục của Quốc Gia Nghĩa Tử Giáo Hội Công Giáo và hệ thống trường Bồ Đề của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất
Ngoài hệ thống trường công lập của chính phủ là hệ thống trường tư thục. Vào năm 1964 các trường tư thục giáo dục 28% trẻ em tiểu học và 62% học sinh trung học.[12] Đến niên học 1970-1971 thì trường tư thục đảm nhiệm 17,7% học sinh tiểu học và 77,6% học sinh trung học.[40] con số này Tính đến năm 1975, Việt Nam Cộng Hòa có khoảng 1,2 triệu học sinh ghi danh học ở hơn 1.000 trường tư thục ở cả hai cấp tiểu học và trung học.[41] Các trường tư thục nổi tiếng như Lasan Taberd dành cho nam sinh; Couvent des Oiseaux, Regina Pacis (Nữ vương Hòa bình), và Regina Mundi (Nữ vương Thế giới) dành cho nữ sinh. Bốn trường này nằm dưới sự điều hành của Giáo hội Công giáo. Trường Bác ái (Collège Fraternité) ở Chợ Quán với đa số học sinh là người Việt gốc Hoa cũng là một tư thục có tiếng do các thương hội người Hoa bảo trợ.[42] Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất có hệ thống các trường tiểu học và trung học Bồ đề ở nhiều tỉnh thành, tính đến năm 1970 trên toàn quốc có 137 trường Bồ đề, trong đó có 65 trường trung học với tổng số học sinh là 58.466. Ngoài ra còn có một số trường do chính phủ Pháp tài trợ như Marie-Curie, Colette, và Saint-Exupéry.[43] Kể từ năm 1956, tất cả các trường học tại Việt Nam, bất kể trường tư hay trường do ngoại quốc tài trợ, đều phải dạy một số giờ nhất định cho các môn quốc văn và lịch sử Việt Nam.[44] Chương trình học chính trong các trường tư vẫn theo chương trình mà Bộ Quốc gia Giáo dục đã đề ra, dù có thể thêm một số giờ hoặc môn kiến thức thêm. Sau năm 1975, dưới chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tổng cộng có 1.087 trường tư thục ở miền Nam bị giải thể và trở thành trường công (hầu hết mang tên mới).[45]
Ngoài hệ thống các trường công lập và tư thục kể trên, Việt Nam Cộng hòa còn có hệ thống thứ ba là các trường Quốc gia Nghĩa tử. Tuy đây là trường công lập nhưng không đón nhận học sinh bình thường mà chỉ dành riêng cho các con em của tử sĩ hoặc thương phế binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa như là một đặc ân của chính phủ giúp đỡ không chỉ phương tiện học hành mà cả việc nuôi dưỡng. Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ năm 1963 ở Sài Gòn, sau khai triển thêm ở Đà Nẵng, Cần Thơ, Huế, và Biên Hòa. Tổng cộng có 7 cơ sở với hơn 10.000 học sinh. Loại trường này do Bộ Cựu Chiến binh quản lý chứ không phải Bộ Quốc gia Giáo dục, nhưng vẫn dùng giáo trình của Bộ Quốc gia Giáo dục. Chủ đích của các trường Quốc gia Nghĩa tử là giáo dục phổ thông và hướng nghiệp cho các học sinh chứ không được huấn luyện quân sự.[46][47] Vì vậy trường Quốc gia Nghĩa tử khác trường Thiếu Sinh Quân. Sau năm 1975, các trường Quốc Gia Nghĩa Tử cũng bị giải thể. Giáo dục đại học
http://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%C3%A1o_d%E1%BB%A5c_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a#cite_note-111 http://nguyenus90.blogspot.com/2014/08/giao-duc-viet-nam-cong-hoa-to-chuc-va.htmlnoreply@blogger.com (Hy Vọng)0tag:blogger.com,1999:blog-2648430305706719425.post-6293512938212711028Thu, 28 Aug 2014 01:12:00 +00002014-10-12T21:33:21.693-07:00Quân Sử VNCH Câu chuyện của KingBee man/Phi Đoàn 219 Long Mã Biệt Đoàn SOG, bị sa vào tay giặc cộng Chung Tử Bửu Khi cánh cửa phòng giam trại thẩm vấn tù binh Ngã Tư Sở, Hà Nội, đóng lại cài then khóa chặt phía ngoài vào buổi chiều ngày 9 Tháng Ba năm 1971, mọi dự tính trốn thoát của tôi trở thành vô vọng. Tụi ma giáo nầy sẽ giở trò quỉ quái gì đây? Bao giờ thì mình sẽ bị đưa lên các trại khổ sai nơi thâm sơn cùng cốc? Mình sẽ chịu nổi các đòn tra tấn tới mức nào? Bao giờ thì chúng sẽ đem mình đi thủ tiêu? Có khi nào mình sống sót trở về gặp lại bao người thân yêu nhất không?
Mỗi lần nhìn thấy hai người đàn em của tôi cùng bị bắt tại mặt trận, Thiếu Úy Khánh và Thiếu Úy On bị giam khác phòng, nhưng cùng một dãy là tim tôi nhói lên vì thương các đàn em của mình. Các cậu mới ra trường được vài tháng, bay hoa tiêu phó cho tôi một thời gian, chưa dạn dày chiến trận đã bị lôi theo con chim đầu đàn gãy cánh. Trong số mười sáu sĩ quan tù binh bị bắt trong cùng một trận đánh, tuy hai cậu ấy là người gần gũi nhất của tôi, nhưng nếu hỏi rằng tôi biết gì về tánh tình, khả năng, tài vặt, hoặc đời tư của hai chàng, thì tôi cũng mù tịt. Tôi chỉ cảm nhận một điều, mình phải có bổn phận khích lệ và an ủi hai người em cùng phi đoàn. Năm tháng bị thẩm vấn căng thẳng rồi cũng quen, nhưng cái loa điện tổ chảng chĩa thẳng vào mấy cửa sổ cao sát trần nhà phòng giam phát tiếng the thé của đài nói dối Việt Nam; nào là buổi trưa hát bài chòi, giữa đêm hát chèo, với lại mấy thứ nhạc lai tàu bắt chước giọng Liên Sô hát nhanh như ma đuổi, cộng thêm đủ thứ bản tin phịa thứ thiệt đẳng cấp thế giới, thì chịu không thấu bà con ạ! Không Quân Việt Nam Cộng Hòa Hành Khúc http://youtu.be/jdDZAGNQv4Y Ðối với tôi, đứng trước số phận chắc chắn là hẩm hiu và bất hạnh, bản năng khôn ngoan của con người là tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh bế tắc, chẳng ai gàn dở ngồi lý sự về những điều không chứng minh nổi. Vì thế, nỗi trăn trở của tôi ngoài việc suy tính phương cách đối phó với những cuộc hỏi cung diễn ra suốt 6 ngày mỗi tuần, còn là nghĩ cách tìm ra lời giải đáp cho thắc mắc làm thế nào tạo được mối liên hệ thân ái với cõi thần linh trên thiên đàng. Ðể rồi đây, nếu có phải sớm qua thế giới bên kia thì mình cũng còn có chút hy vọng! Trong hoàn cảnh tuyệt vọng và cấp bách, tôi muốn biết vấn đề cách rõ ràng rành mạch, vì sự biết lõm bõm chẳng giải quyết được gì. Càng suy nghĩ càng hối tiếc, vì từ khi còn nhỏ tôi đã được tiếp xúc với Thánh Kinh là quyển sách nói về vấn đề nầy, nhưng tôi đã thờ ơ với số phận vĩnh cửu của mình. Tôi nhớ đến một lời tuyên bố của Ðức Chúa Giêsu trong sách phúc âm nào đó được nhắc tới trong các bài giảng về đức tin mà tôi đã nghe, rằng: “Nếu các con có đức tin lớn bằng hột cải, sẽ khiến núi nầy đời đi, thì nó sẽ dời đi...” Như vậy có phải là với chút lòng tin thì sẽ được ban cho quyển Thánh Kinh không? Ðối với tôi, lời tuyên bố chắc nịch thì một là thật, hai là dỏm, chứ không thể có kiểu lừng chừng. Làm sao ai có nổi thứ đức tin cỡ đó? Nếu tôi có chút đức tin nào thì giỏi lắm nó chỉ lớn cỡ bằng hột bụi bay vơ vẩn là tối đa! Giống như lênh đênh giữa biển bao la, vớ được cái gì làm phao thì cứ bám lấy. Thứ mà tôi cần nhất lúc nầy là quyển Thánh Kinh. Nhưng nhìn lại thực tại của mình trong nhà tù cộng sản thì vô cùng thối chí. Bọn nầy thù ghét Cơ-đốc-giáo hơn mọi thứ trên đời, làm sao nó cho phép mình có được quyển Thánh Kinh, nếu có? Thế còn lời tuyên bố của Thánh Kinh nói rằng Thiên Chúa là Ðấng Toàn Năng thì sao? Lấy cái gì để chứng minh? Nếu Thiên Chúa không trị nổi bọn cộng sản thì có gì đáng tin? Chẳng lẽ Ðấng Tối Cao không đủ quyền phép buộc tụi xảo quyệt nầy phải cho tôi quyển Thánh Kinh hay sao? Muốn biết có thật hay không thì phải thử là cách tốt hơn hết. Từ hôm đó tôi đã bắt đầu cầu xin như thế nầy: “Kính lạy Thiên Chúa, nếu Ngài hiện hữu và toàn năng, xin ban cho con một quyển Thánh Kinh trong nhà tù cộng sản nầy.” Thật vậy nếu Thiên Chúa có thật và toàn năng thì sá gì mấy thằng Việt Cộng láo toét. Tôi cung kính dâng lời khẩn cầu của mình mỗi ngày hai lần vào buổi sáng thức dậy và buổi tối trước khi ngủ. - "Thưa ông, mặc dù tôi không được ra ngoài để thấy cuộc sống xã hội ở miền Bắc nầy, nhưng tôi đoán là vấn đề tự do tín ngưỡng như ông nói chắc không có. Vì tôi nghe phía bên ngoài tường rào có tiếng dân chúng đi lại sinh sống quanh đây rất nhiều. Mà đa số người Việt Nam theo đạo Phật. Có dân ắt phải có chùa. Có chùa ắt phải có chuông. Có chuông thì tôi phải nghe. Nhưng mấy tháng nay tôi chẳng bao giờ nghe tiếng chuông chùa cả, chỉ nghe toàn là tiếng kẻng thôi. Tại sao vậy?" Hắn trả lời: - “Anh nhầm rồi! Chùa ở ngoài nầy không dùng chuông mà gõ kẻng anh ạ!” Biết là hắn phịa, nhưng tôi không có cớ nào để bẻ hắn. Tuy vậy, sau một tuần thẩm vấn xong hắn hỏi một câu: - “Anh có nguyện vọng gì không? Tôi có thể giúp anh được gì không?” Tôi trả lời: - “Dạ có, tôi muốn có một quyển Thánh Kinh để đọc.” Hắn giãy như đỉa phải vôi: - “Ô ô ô ô... cái... cái... cái đó thì không được! Vì chúng tôi không tin, không cho phép, và cũng chẳng đào đâu ra để có cho anh.” - "Ông nói các ông không tin, và không cho phép; tôi tin ông nói đúng. Nhưng về việc ông nói là không có để cho, thì tôi nghĩ là ông nói dối đấy!" Tôi nói. - "Sao... sao anh lại dám nghĩ là tôi nói dối? Anh biết cái... cái... cái gì ở ngoài nầy? Anh lấy lý do nào nào?" Hắn la lên: - "Thưa ông, mới hồi nãy ông khoe cạnh phố Hàng Da gần Cửa Nam vẫn còn nhà thờ Tin Lành, vẫn có mục sư, và tín đồ vẫn được đi nhà thờ dự lễ. Có phải vậy không ạ? Thế mà ông nói là không đào đâu ra Thánh Kinh. Chẳng nhà thờ Tin Lành nào mà không có sẵn Thánh Kinh cả. Nếu nhà thờ ấy có thật, ông cứ đến xin một quyển là họ biếu ông ngay." Tôi nói. - "Tôi đã nói là không được." Hắn nói. - "Vì ông hỏi nguyện vọng của tôi thì tôi thật lòng nói rằng đó là thứ tôi cần. Chứ có bao giờ các ông theo nguyện vọng của tôi trả tự do cho tôi trở về Miền Nam đâu." Tôi nói. - "Anh đừng đòi hỏi những gì mà tôi không thể giúp." Hắn ta nói. - "Vậy xin cảm ơn ông đã quan tâm." Tôi nói. Không ai biết rằng tôi sẽ phải tiếp tục ở tù thêm 12 năm nữa, và cái Tổng Cục Chính Trị đó cũng không nghĩ rằng họ sẽ nhốt tôi thêm mười hai năm nữa. (Cho tới cuối năm 1978, khi tôi bị cái đói hành hạ dai dẳng ở trại cải tạo Nam Hà. Một đêm tôi nằm trách móc Chúa tại sao Ngài để cho tôi bị đói như thế nầy, bỗng cuốn phim ký ức về con gà mái xổng khỏi lồng làm trì hoãn đoàn xe chở tù binh vào ngày 16 tháng 4, 1972, diễn ra rõ mồn một trong trí. Có tiếng hỏi rất nhỏ nhẹ vang trong trí “Nếu ngày ấy Ta không tháo cho con gà xổng ra ngoài, trì hoãn đoàn xe để cứu cả đoàn khỏi bị máy bay bắn cháy, liệu ngày nay con còn sống sót để nằm đó trách móc Ta chăng?” Một tuần sau tôi “bị” điều động sang đội nấu bếp mới thành lập). Chuyện đời tù của tôi quá dài không thể kể hết trong một bài viết ngắn.
|
Sau khi không được trao trả cho Việt Nam Cộng Hòa, nhóm tù binh Hạ Lào chúng tôi bị đưa ngược lên vùng Trung du Bất Bạt rồi Yên Bái. Tôi tiếp tục bị nhốt riêng, vì dám tổ chức tuyệt thực và tập họp cả trại hát vang những bài quân hành để kỷ niệm ngày quân lực 19 tháng 6, 1973.
Nhìn đàn chim bay phía đỉnh núi xa, nhắc nhớ những vùng trời quê hương tôi đã bay qua...
Chung Tử Bửu
http://youtu.be/bx1wYg3kf_4
No comments:
Post a Comment