Friday, July 28, 2023

Kinh Dương Vương


Kinh Dương Vương






Kinh Dương Vương


Nước xích Quỷ
Người chim trên trống đồng Ngọc Lũ. Ảnh Wikipedia



Kinh Dương vương – Wikipedia tiếng Việt

Kinh Dương vương

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Kinh Dương Vương
涇陽王
Vua Bách Việt
Vua nước Xích Quỷ
Trị vì2879 TCN[1] - 2792 TCN
Tiền nhiệmĐế Minh
Kế nhiệmLạc Long Quân
Thông tin chung
Sinh15 tháng 8 năm 2919 TCN
Mất18 tháng 1 năm 2792 TCN
(127 tuổi)
An tángthôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh.
Thê thiếpThần Long (con gái Động Đình Quân)
Hậu duệLạc Long Quân
Tên thật
Lộc Tục (祿續)
Thời kỳXích Quỷ
Thân phụĐế Minh
Thân mẫuCon trai của bà Vụ Tiên

Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王, 2919 TCN - 2792 TCN) là con của Đế Minh, tức em trai ruột của Đế Nghi (Đế Nghi cũng là con trai của Đế Minh), cháu nội của Đế Thừa, cháu ba đời của Thần Nông. Kinh Dương Vương (tên húy là Lộc Tục) thuộc dòng dõi vua Thần Nông vốn được suy tôn là thủy tổ của người Bách Việt. Sử chép Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục (祿續), là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm).

Thân thế[

Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì Kinh Dương Vương: Nguyên Đế Minh là cháu 3 đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam đến núi Ngũ Lĩnh (Hồ Nam, Trung Quốc) đóng lại đó rồi cưới con gái của Vụ tiên nữ (鶩僊女),[2] sau đó sinh được một người con trai tư chất thông minh đặt tên là Lộc Tục (祿續).

Sau Đế Minh truyền ngôi cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam xưng là Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王). Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì Kinh Dương Vương làm vua và cai trị từ khoảng năm 2879 TCN trở đi.[1] Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương Vương rộng lớn, phía Bắc tới Trường Giang (cả vùng hồ Động Đình), phía Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía Đông là Biển Đông (một phần của Thái Bình Dương) và phía Tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Lĩnh Nam chích quái ghi lại truyền thuyết vua đánh đuổi thần Xương Cuồng dũng mãnh, trừ hại cho dân.

Ông lấy con gái vua hồ Động Đình tên là Thần Long,[a] sinh được một con trai đặt tên là Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.

Nhận xét

Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục:

Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và cương quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi". Còn  Liam Christopher Kelley nhận xét:

Lăng và Đền thờ

Việc thờ cúng Kinh Dương Vương ở Việt Nam không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Hùng Vương đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam; được các triều đại phong quân chủ Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm.

Di tích đình Thượng Lãng ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là di tích cổ nhất thờ Kinh Dương Vương; tương truyền có từ thời nhà Đinh.

Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại quân chủ Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng.

Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích Thần (Thần Nông bắc) vào thời Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Viêm (Thần Nông). Chấm dứt sau 520 năm (TCN) trị vì của Đế Viêm tộc Việt sau khi bị thua ở trận Trác Lộc,.

Xích Quỷ còn là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời.[1] Tục truyền là quốc hiệu của đất nước, được xem là cội nguồn của Việt Nam vào thời Kinh Dương Vương “Xích” là -- màu đỏ ngụ ý phương nam, chữ “Quỷ” là chữ Vương của người Bách Việt, ba chữ Vương ghép lại thành chữ “Quỷ”.

Đế Thừa là cháu hai đời của Thần Nông (Đế Viêm). Đế Thừa có ba con trai, đó là: Đế Minh, Đế Nghi, và Đế Long.

Ba người con của Đế Thừa đều làm Vương ở ba phương.

- Hùng triều thứ nhất: Kinh Dương Vương đóng đô ở Ngàn Hống nhưng sau đó dời về Nghĩa Lĩnh. Vương triều Hùng thứ nhất chỉ có một đời vua là Kinh Dương Vương.
- Hùng triều thứ nhì: khởi đầu với vua Lạc Long Quân. Kinh đô vẫn ở Nghĩa Lĩnh.
- Hùng triều thứ ba: Con của Lạc Long Quân lên ngôi, lấy niên hiệu là Hùng Vương. Ông đổi tên nước là Văn Lang và dời đô về Phong Châu. Quốc hiệu Xích Quỷ chấm dứt.

Hiện nay khu di tích lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương được thờ phụng tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Những góc nhìn khác

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm gần đây nghi vấn Kinh Dương Vương là một nhân vật huyền thoại, có nguồn gốc tiểu thuyết Liễu Nghị truyện. Trần Trọng Dương, một nhà nghiên cứu lịch sử trong một bài viết vào năm 2013 đã chỉ ra rằng:[7]

Quan điểm này được cho là phù hợp với nhiều sử gia thời Nguyễn (ví dụ như Ngô Thì Sĩ trong cuốn Đại Việt sử ký tiền biên,[8] hay trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục[9]) và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm ủng hộ. Tuy nhiên, cũng có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử phản đối cách nhìn này.[10]

Chú thích

Ghi chú

  1. ^ Nhưng theo Ngô Sĩ Liên viết ở mục Lạc Long Quân tại trang 2 thì Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái của Vụ tiên nữ mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, nghĩa là Động Đình quân tên là Thần Long chứ không phải con gái của ông này tên là Thần Long.

Tham khảo

  1. ^ a b Kỷ Hồng Bàng thị. informatik leipzig.de. Bản sao lưu. nguoikesu, 2017. Truy cập 1/04/2019.
  2. ^ Ứng với một chòm sao trong khoa thiên văn, theo khảo cứu của nhà ngôn ngữ học Trần Như Vĩnh Lạc.
  3. ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, tờ 9b-10a, 1856 - 1883.
  4. ^ The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition. Journal of Vietnamese Studies Vol. 7, No. 2 (Summer 2012), p. 122.
  5. ^ Khởi công tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương Lưu trữ 2013-03-01 tại Wayback Machine Từ Lương, 11:13, 25/02/2013.
  6. ^ Gần 500 tỷ bảo tồn, tôn tạo lăng và đền thờ Kinh Dương Vương Đoàn Thế Cường, báo Dân Trí 09/10/2012 - 07:02.
  7. ^ Trần Trọng Dương, Kinh Dương Vương - Ông là ai?. Tia sáng, 06/09/2013, http://tiasang.com.vn/-van-hoa/kinh-duong-vuong-ong-la-ai-6723
  8. ^ Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt Sử ký Tiền biên viết: "Nay xét phần Ngoại kỷ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy lại tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy".
  9. ^ Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1856 - 1883) viết: "Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong Kỷ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ. Chuẩn tâu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi".
  10. ^ Hà Văn Thùy. Thủy tổ người Việt thực sự ở đâu? Lưu trữ 2019-08-19 tại Wayback Machine Văn hóa Nghệ An, 6/8/2014.
  • Quỳnh Cư và Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Thanh Niên Hà Nội, in lần thứ sáu năm 2001.

Liên kết ngoài ]



Chú ý: Thời Vua Hùng Vương VI (thứ sáu) là có giặc Ân Thương, và có Thánh Gióng ra cứu nước.




Hunam/Hồ Nam

Kinh Dương Vương



涇陽王
Leader of Xích Quỷ
PredecessorĐế Minh
SuccessorHồng Bàng Dynasty started
Hồng Bàng Thị
Predecessor Founder of Hồng Bàng Thị
Successor Lạc Long Quân
BornHunan, Center Plain of North East Asia
DiedThuận Thành, Bắc Ninh Province
SpouseThần Long
IssueSùng Lãm
Names
Lộc Tục (祿續)
HouseHồng Bàng
FatherĐế Minh
MotherVụ Tiên Nữ's son

Kinh Dương Vương (Hán tự: 涇陽王; "King of Kinh Dương") is an ancient history time ancient Vietnamese figure, mentioned in the 15th-century work Đại Việt sử ký toàn thư by having unified all the tribes within his territory into one state, and as the founder of the Hồng Bàng dynasty. He is considered the first sovereign of the Vietnamese people, and was the father of Lạc Long Quân.[1].[]

Kinh Dương Vương's personal name was Lộc Tục (: 祿續). According to the Đại Việt sử ký toàn thư, he ruled over Xích Quỷ (赤鬼, later renamed Văn Lang) starting in 2879 BC. Kinh Dương Vương's father was Đế Minh (帝明, "Emperor Minh" in Vietnamese prehistory, was the descendant of Thần Nông.[2] His mother was Vụ Tiên Nữ (婺僊女, lit. "Beautiful Immortal Lady, Beautiful Goddess"). Kinh Dương Vương married Thần Long, who was the daughter of Động Đình Quân (Lord of Dongting) and mother of Kinh Dương Vương's successor Lạc Long Quân.[1]

Today Kinh Dương Vương with other history's figures such as Thánh Gióng, Âu Cơ, Sơn Tinh and Thủy Tinh, in elementary school texts.[3] A popular shrine, and presumed tomb of Kinh Dương Vương, is located in the village of An Lữ, Thuận Thành District, Bắc Ninh Province .

pre-history of Viet]

According to Đại Việt sử ký toàn thư, Kinh Dương Vương son of Đế Minh, the great-great-grandson of the Shennong, went on a tour of inspection south of the Nanling Mountains, settled down and married a certain Beautiful Immortal Lady (鶩僊女 Vụ Tiên Nữ), who then gave birth to an intelligent son named Lộc Tục (祿續).

After Emperor Minh passed the throne to his eldest son, Emperor Ly (釐) to be king of the North state of Xích Thần, and Lộc Tục was appointed to be king of the South, his title Kinh Dương Vương (涇陽王). Kinh Duong Vuong was king and ruled from about 2879 BC onwards.[4] The territory of the country under Kinh Dương Vương was claimed to be large, reaching Dongting Lake in the north, the Husunxing (胡猻精; SV: Hồ Tôn Tinh) country (i.e. Champa) in the south, the East Sea (東海, part of the Pacific Ocean) in the east and Ba Shu (巴蜀; now in today Sichuan, China) in the west. Lĩnh Nam chích quái recorded the legend that the king vigorously expelled a murderous god named Xương Cuồng.
He married the daughter of the King of Động Đình (洞庭) Lake, named Thần Long (神龍 "Divine Dragon"), who gave birth to a son named Sùng Lãm (崇纜). Sùng Lãm would later succeed Kinh Dương Vương as ruler, titled Dragon Lord of Lạc (貉龍君; SV: Lạc Long Quân).

Worship[

Worship of Kinh Dương Vương in Vietnam is not as popular as worship of Shennong, the deity who is Hùng Vương's ancestor and a very respected one in Vietnam's agricultural beliefs; Đàn Xã Tắc (壇社稷) was established annually by feudal dynasties to worship.

Thượng Lãng communal house in Minh Hòa commune, Hưng Hà district, Thái Bình province is the oldest relic worshiping Kinh Dương Vương; Legend has it since the Đinh dynasty.

The Kinh Dương Vương Mausoleum and Temple (locally called Lăng và Đền thờ) in Bắc Ninh have long been classified by the Vietnamese feudal dynasties as shrines to worship the emperors, each time the National Ceremony will bring to the army to worship and worship people solemnly. In 2013, Bắc Ninh province announced a plan to preserve, embellish and promote the population of national historical and cultural relics of Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple with a total investment of more than 491 billion VND.[5] The project is divided into 4 main construction categories, including: relic conservation space, focusing on repairing and embellishing the relics of the Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple, temple grounds, tomb gardens; relic value space includes: ancestral monument, cultural festival square, cultural display... accompanied by ancillary services to develop spiritual cultural tourism, attracting tourists and technical infrastructure, leveling, roads, electricity lines.[6] At present, the Kinh Duong Vuong tomb and temple relic is worshiped in Á Lữ village, Đại Đồng Thành commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province.

Now we're examining what was written in the Outer Annals: The year of Nhâm Tuất [the sexagenary cycle's 59th year]? When had been the beginning year of Giáp Tí [the same cycle's 1st year]? [The authors] recorded the taboo names of King of Kinh Dương and Dragon Lord of Lạc, why omitted [those of] Hùng kings? Before the Five Emperors' time, [rulers] had not been called kings [王; standard as king: wáng; SV: vương]

What kind of name was the name Xích Quỷ? Why used it as a national name?

Xích Thần is a name of state in North (now called Sơn Đông city and Mount. Thái),
Xích Quỷ a state in South (now called Lĩnh Nam ranges area)

Vu, Hong Lien (2016). Rice and Baguette: A History of Food in Vietnam. ISBN 9781780237046.

  • ^ Marie-Carine Lall, Edward Vickers Education As a Political Tool in Asia 2009 - Page 143 "Children learn about the legends of the nation's birth, which feature heroic figures such as Kinh Dương Vương, Âu Cơ... Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.22 is legend and scientific history."
  • ^ Kỷ Hồng Bàng thị. informatik leipzig.de. Bản sao lưu. nguoikesu, 2017. Truy cập 1/04/2019.
  • ^ Khởi công tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương Từ Lương, 11:13, 25/02/2013.
  • ^ Gần 500 tỷ bảo tồn, tôn tạo lăng và đền thờ Kinh Dương Vương Đoàn Thế Cường, báo Dân Trí 09/10/2012 - 07:02.
  • ^ Trần Trọng Dương, "Kinh Dương Vương - Who was he?". Tia Sáng, 06/09/2013, online text (in Vietnamese)
  • ^ Quoted and translated into Vietnamese in Trần Trọng Dương (2013) "Kinh Dương Vương - Who was he?". Tia Sáng, 06/09/2013, online text
  • ^ KĐVSTGCM, page 9b-10a, 1856 - 1883.
  • ^ KĐVSTGCM "Introductory Fascicle"
  • Kinh Dương Vương
    Hồng Bàng Dynasty
    Preceded by
    New creation
    King of Xích Quỷ Succeeded by



    According to ancient Vietnamese books such as " Dayue Shiji Quanshu Wai Ji Hong Pang Ji" and "Lingnan Wei Wei Biography of Hong Pang Clan", the Yan Emperor Shennong's Emperor Ming the King of Jingyang visited the Wuling Mountains in the south. Born of fairies. Di Ming/Đế Minh intends to pass the throne to King Jingyang, but he already has his eldest son, Di Yi/Đế Nghi. King Jingyang "redeems his elder brother" and renounces the right of succession. Di Ming decides that Di Yi will succeed him, rule the north, and confer the title of King Jingyang to the south, to implement the rule, the country is called Chigui Country, and the first year is "Jenxu Year (2879 BC)" . [1] [2] [3]

    According to " Lingnan Weiguai ", King Jingyang has the supernatural power of "being able to travel to the water house", and married the daughter of "Dongting King Dragon King ", and gave birth to Raccoon Dragon King. Afterwards, King Jingyang "does not know where he will end up", and Lord Raccoon Dragon "governs the country on his behalf". [2]

    Regarding the legendary plot of King Jingyang marrying the "daughter of the Dongting Lord", Chinese scholar Dai Kelai believes that this "obviously comes from the famous Tang Dynasty legend " Liu Yi Biography ". [4]

    Reference

    Wu Shilian et al. "The Complete Book of History of Dayue", page 97: At the beginning of the first year of Renxu, the third grandson of Emperor Yan Shennong, Diming, gave birth to Emperor Yi. Then, when he visited Wuling in the south, he picked up the fairy Wu and gave birth to the king. Wang Shengzhi is clever, and the emperor is very surprised, and wants to make an heir. Wang Gu asked his brother not to obey orders. Emperor Ming then established Emperor Yi as his heir, ruled the north and the north, named the king Jingyang King, ruled the south, and named it Chigui Kingdom. The king married the daughter of Dongting gentleman, named Shenlong, who gave birth to Raccoon Dragon Lord.

    "Lingnan Monsters·Hong Pang's Biography", included in "Lingnan Monsters and Other Historical Materials", page 9.

    Ruan Bozhuo's "Huangyue Jiazi Chronology" general examples: 1. According to my Yuehong Pang family, it started in the Renxu year (2879 BC), which was 180 years before the Yellow Emperor of China (the first year of Jiazi). Thirteen years.

    Dai Kelai's "About the Editor, Version and Content of ", appendix in "Three Kinds of Historical Materials such as Lingnan Monsters", p. 265. Related literature

    " Complete Book of Historical Records of Dai Viet · Wai Ji · Hong Pang Ji"

    "Lingnan Monster: Biography of Hong Pang"

    Hong Pang Clan and Ou Raccoon Kingdom Monarch

    lineage

    Hong Ponzi

    King Jingyang → King Xiongxian → King Xiong → King Xiongye → King Xiongxi → King Xionghui → King Xiongzhao → King Xiongwei → King Xiongding → King Xiongxi → King Xiongzhen → King Xiongwu → King Xiongyue → King Xiongying → King Xiongchao → King Xiongzao → King Xiongyi → King Xiongsu

    Ou Raccoon Country

    King of Anyang

    Hongpang → Shu → Zhao → The first northern genus → Zheng → The second northern genus → Qian Li → The third northern genus ( Tang Dynasty uprising ) → Independence period → Wu → Twelve envoys → Ding → Qian Li → Li → Chen → Hu → Hou Chen → Fourth Northern Subordination ( Lanshan Uprising ) → Hou Li → Mo → Li Zhongxing / Beihe / Guangnan / Xuanguang → Xishan →Nguyen → modern

    Category :Hong Pang Monarchvietnamese historyVietnamese mythology

    This page was last revised on Tuesday, September 20, 2022 at 23:43.

    Nước Xích Thần = Đế Nghi cai quản
    Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương trị vì
    - Đế Nghi Leader of Xích Thần (North, Mountain Thai)
    - Kinh Dương Vương Leader of Xích Quỷ (South Linh Nam Range






    Thủy tổ của Việt tộc

    Đế Viêm Thần Nông





    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm




    Shennong3.jpg
    Thần Nông nếm các loại thảo mộc để khám phá phẩm chất của chúng.

    Thần Nông (phồn thể: 神農, giản thể: 神农) (3220 TCN—3080 TCN), còn được gọi là Thần Nông thị (神農氏), Khôi Ngôi thị (魁隗氏), Liên Sơn thị (連山氏), Liệt Sơn thị (列山氏), Tắc thần (稷神), thường được biết với tên gọi Viêm Đế (炎帝).

    Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt.

    Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: "Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông[1], thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương".

    Theo Đại Việt sử ký toàn thư:

    "Vua Đế Minh là cháu ba đời của Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua."

    Lễ Thần Nông

    Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông.

    Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu.
    Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa. Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở các địa phương.

    Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là Tế xuân.

    Theo chỉ dụ của Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần Nông.

    Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa thành Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu.

    Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên.
    Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc.

    Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ.

    Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn. Người Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh phúc thì lễ hội ngày 6 tháng 6 âm lịch là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày 1 tháng 1 âm lịch và 9 tháng 9 âm lịch hàng năm.

    Theo Đế vương thế kỷ và Sử Ký - Bổ Tam Hoàng bản kỷ thì Thần Nông thị có chín người lần lượt làm vua:

    1- Đế Viêm
    2- Đế Lâm Khôi (帝临魁) tức đế Đồi (con Viêm đế)
    3- Đế Thừa (帝承) con Đế Lâm Khôi
    4- Đế Minh (帝明) con Đế Thừa
    5- Đế Trực (帝直) con Đế Minh
    6- Đế Ly (帝釐) tức Đế Nghi (con Đế Trực - sách Thông Giám Ngoại Kỷ nói là con Đế Minh mà không có đời Đế Trực)
    7- Đế Ai (帝哀) tức Đế Lai (con Đế Ly/Nghi)
    8 Đế Khắc (帝克) con Đế Ai/Đế Lai
    9 Đế Du Võng (帝榆罔) con Đế Khắc

    Gia tộc Thần Nông

    Thị Tộc Thần Nông không không phải là một nhân vật duy nhất, mà là một gia tộc liên tục từng thống trị.

    Sau 520 năm trị vì thì gia tộc Thần Nông bị suy yếu, bị Huangdi Huân Viên đánh bại. Đế Lai bị chêt trong trận Banquan và Đế Du Võng bị mât ngôi đế về gia tộc Xuanyuan. Huangdi đã chiến đấu chống lại con cháu Yandi (Viêm Đế Thần Nông) trong trận Banquan, sau đó Huangdi Huân Viên chiến đấu với Chiyou trong khu vực Zhuolu, Huangdi Huân Viên đã đánh bại vị tướng Chiyou, một viên tướng soái của Đế Minh dòng dõi Thần Nông.

    Theo Sách Nghi lễ của nhà Hán thì, Hoàng đế Yan (Đế Viêm Thần Nông) là hoàng đế đầu tiên hy sinh vào mùa hè, và hy sinh cùng lúc với Zhu Rong và Thần bếp [16]."Hoài Nam Tử" tin rằng Hoàng đế Yan (Đế Viêm) đã phát minh ra lửa, vì vậy ông được các thế hệ sau coi là thần bếp.

    Shennong clan. The Shennong clan is not a single character, but a continuous clan that once ruled the East Asia land.

    During the time of Huangdi, the Shennong clan weakened and was invasion by the Xuanyuan clan to Huangdi.

    In the same record, Huangdi fought against Yandi in the battle of Banquan, and then, Huangdi fought with Chiyou in the field of Zhuolu, thus defeating the Shennong clan.

    Emperor Yan was the first emperor who sacrificed in summer, and sacrificed at the same time as Zhu Rong and the Kitchen God [16]. "Huainanzi" believes that Emperor Yan invented fire with named "Viêm Đế" / Yan di so he was regarded as the kitchen god by later generations [17].

    Đế Du Võng

    1. Lai lịch:
    – Tên gọi đế Du Võng (帝榆罔)
    2. Gia đình và hôn nhân
    – Ông nội là Đế Ai/Đế Lai.
    – Bố là Đế Khắc.
    3. Cuộc đời và sự nghiệp
    – Vị vua thứ 9 của Thần Nông thị trong tiền sử người tộc Việt.
    Theo Thông giám ngoại kỷ thì là vị vua thứ 8.
    – Thời kỳ cuối của nguyên thủy bộ lạc, tù trưởng hay thủ lĩnh cai quản, chống lại những bộ tộc khác đến chiếm đất.
    – Trước tình hình rối ren, quân chủ tộc Cửu Lê nghinh chiến với Công Tôn Huân Viên khi ông khởi binh chiếm vùng Trong Nguồn (Trung Nguyên), Tộc Cửu Lê bị thất trận. Lúc ấy Công Tôn Hiên Viên thắng trận lớn trong trận Trác Lộc năm , nên Đế Du Võng bị bưộc phải thoái vị . Chấm dứt 520 năm dòng họ Thần Nông cai quản vùng đất Trong Nguồn (Trung Nguyên) Thủ đô đóng ở Sơn Đông và căn hoa địa núi Thái Sơn.

    --Photo:




    Truyền Thuyết Về Viêm Đế Thần Nông
    https://youtu.be/PuoOCk8Jp5c


    Giai Thoại Thủy Tổ Người Việt LỘC TỤC Con Cháu Họ Thần Nông Vị Vua Khai Sáng Ra Nước Xích Quỷ triều đại Hồng Bàng
    https://youtu.be/GeHVuCwTGm8


    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Lâm Khôi (臨魁)
    Thừa (承)
    Minh (明) Cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục [11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai là cha của Âu Cơ huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?


    Phả hệ

    Phả hệ lấy theo Thông giám tục biên, Sử toản thông yếu, Độc thư kỉ sổ lược, Đại Việt Sử ký toàn thư.[11][12][13][14]



    Phả hệ Viêm Đế Thần Nông thị

    Tên gọi Ghi chú
    Đế Viêm (帝 炎)
    Viêm Cư (炎 居) Còn được biết đến như là Trụ (柱)
    Tiết Tịnh (節並)
    Hí Khí (戲器)
    Chúc Dung (祝融)
    Cộng Công (共工)
    Thuật Khí (術器)
    Hậu Thổ (后土) Em trai Thuật Khí
    Ế Minh (噎鳴) Con Hậu Thổ
    Tuế Thập (歳十)


    Trồng lúa


    ..............................................................



    Name Notes
    Shennong / Thần Nông 神農 Born Jiang Shinian 姜石年
    Linkui / Đế Lâm Khôi / 臨魁
    Cheng / Đế Thừa /
    Ming / Đế Minh / Father of Loc Tuc in Vietnamese mythography
    Zhi / Đế Nghi /
    Li / Đế Lai / or Ke Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang
    Ai / Đế Lai Father of Au Co
    Yuwang / Đế Du Võng 榆罔 Defeated by Yellow Emperor at Banquan /




    -------------------------------------

    Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở…

    Có hai giải thích về danh xưng Hùng Vương:

    - Một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở,
    - Hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt.

    Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hạ gọi dân miền Nam không phải là người Trung Nguyên.

    Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ.

    Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu) là vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, trong cổ sử của Tàu thì không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại Hùng Vương = 雄 – hùng mạnh sau này!).

    Đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã biến thành dân Hạ Trung Nguyên phần nào đó, và Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở. Như vậy, ta có thể nói là -- Ngô – Việt đã bị Sở hóa thì đúng hơn là Ngô – Việt hấp thụ văn hóa của Sở nhiều hơn của văn hóa Hán.

    Thần Nông và con cháu của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế xã hội khiến họ tự phong mình là di (帝; 'hoàng đế'), chứ không phải là hou/Hậu (侯; 'chúa tể'), như trong trường hợp của các tù trưởng bộ lạc du mục.

    Nguốn gốc của văn hóa Việt Nam là Thần Nông, nhưng bây giờ bị Trung Quốc cũng tự xưng nguồn gốc của họ ngoài Hoàng Đế ra, còn bao gồm Thần Nông nữa. Việt Nam là nền văn minh rực rỡ thừa kế Thần Nông duy nhất. Trung quốc tự xưng tổ tiên của mình là bao gồm Thần Nông, đây là một hành vi ăn cắp văn hóa Việt Nam.

    .............................................................

    Shennong

    Shennong (神農), variously translated as "Divine Farmer" or "Divine Husbandman", born Jiang Shinian (姜石年), was a mythological Yue ruler known as the first Yan Emperor who has become a deity in Vietnamese folk religion. He is venerated as a culture hero in Vietnam. In Vietnamese he is referred to as Thần Nông.

    Shennong has at times been counted amongst the Three Sovereigns (also known as "Three Kings" or "Three Patrons"), a group of ancient deities or deified kings of prehistoric China. Shennong has been thought to have taught the ancient Chinese not only their practices of agriculture, but also the use of herbal drugs.[1] Shennong was credited with various inventions: these include the hoe, plow (both leisi (耒耜) style and the plowshare), axe, digging wells, agricultural irrigation, preserving stored seeds by using boiled horse urine, the weekly farmers market, the Yue calendar (especially the division into the 24 jieqi or solar terms), and to have refined the therapeutic understanding of taking pulse measurements, acupuncture, and moxibustion, and to have instituted the harvest thanksgiving ceremony (zhaji (蜡祭) sacrificial rite, later known as the laji (腊祭) rite).[2]

    "Shennong" can also be taken to refer to his people, the Shennong-shi ( 神農氏; pinyin: Shénnóngshì; lit. 'Shennong Clan').

    Shennong taught humans the use of the plow, aspects of basic agriculture, and the use of medicinal plants. Possibly influenced by the Yan Emperor mythos or the use of slash-and-burn agriculture,[3] Shennong was a god of burning wind. He was also sometimes said to be a progenitor to, or to have had as one of his ministers, Chiyou (and like him, was ox-headed, sharp-horned, bronze-foreheaded, and iron-skulled).[3]

    Shennong is also thought to be the father of the Huang Emperor (黃帝) who carried on the secrets of medicine, immortality, and making gold.[4] According to the eighth century AD historian Sima Zhen's commentary to the second century BC Shiji (or, Records of the Grand Historian), Shennong is said to be an ancestor, or a patriarch, of the ancient forebears of the Yue/Viet.

    ----------------------------

    Các vị Hùng Vương nước Văn Lang

    1. 陸陽王(Kinh Dương Vương),即涇陽王
    2. 雄賢王(Hùng Hiển Vương),即貉龍君
    3. 雄國王(Hùng Quốc Vương)雄麟
    4. 雄曄王(Hùng Diệp Vương
    5. 雄犧王(Hùng Hy Vương
    6. 雄暉王(Hùng Huy Vương
    7. 雄昭王(Hùng Chiêu Vương
    8. 雄暐王(Hùng Vi Vương
    9. 雄定王(Hùng Định Vương
    10. 雄曦王(Hùng Nghi Vương
    11. 雄楨王(Hùng Trinh Vương
    12. 雄武王(Hùng Vũ Vương
    13. 雄越王(Hùng Việt Vương
    14. 雄英王(Hùng Anh Vương
    15. 雄朝王(Hùng Triệu Vương
    16. 雄造王(Hùng Tạo Vương
    17. 雄毅王(Hùng Nghi Vương
    18. 雄璿王(Hùng Tuyên Vương




    Hùng Vương Thế 襲統 trị的傳說 Năm mươi con trai của Cơ Cơ sống ở Phong Châu, đẩy "hùng vương giả" (< a href="/wiki/%E8%B6%8A%E5%8D%97%E8%AA%9E" class="mw-redirect" title="Việt語"> Việt 語: Hùng Vương),並使用「文 lang"(

    Việt語: Văn Lang)୆ 國號[7] .[6] Sau đó, Yanxin đã > .


    ...

    Các vị Hùng Vương nước Văn Lang
    Đời vua Vương hiệu Chữ Hán Nôm Năm sinh Năm mất Ghi chú
    Thượng Tổ Kinh Dương Vương 涇陽王 2919 TCN[12] 2792 TCN Húy là Lộc Tục (祿續).
    Thái Tổ Lạc Long Quân 駱龍君 ~2825 TCN Không rõ Hiệu là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君). Húy là Sùng Lãm (崇纜).
    1 Hùng Đức Vương 雄德王 Không rõ ...
    2 Hùng Hiền vương 雄賢王 ...
    3 Hùng Lân vương 雄麟王
    4 Hùng Diệp vương 雄曄王
    5 Hùng Hi vương 雄犧王 Phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛
    6 Hùng Huy vương 雄暉王
    7 Hùng Chiêu vương 雄昭王
    8 Hùng Vĩ vương 雄暐王
    9 Hùng Định vương 雄定王
    10 Hùng Hi vương 雄曦王 Phần bên trái chữ "hi" 曦 là bộ "nhật" 日
    11 Hùng Trinh vương 雄楨王
    12 Hùng Vũ vương 雄武王
    13 Hùng Việt vương 雄越王
    14 Hùng Anh vương 雄英王
    15 Hùng Triêu vương 雄朝王
    16 Hùng Tạo vương 雄造王
    17 Hùng Nghị vương 雄毅王
    18 Hùng Duệ vương 雄睿王 258 TCN

    Chú ý: "雄犧王" và "雄曦王" tuy đều đọc là "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa.



    Nước Sở tính từ đời Dục Hùng tới đời Xương Bình quân bị Tần diệt năm 223 TCN gồm có 46 vua. Nước Sở được lập lại cuối thời Tần, truyền được 5 vua nữa, tổng cộng 51 vua. Dưới đây là bảng liệt kê các vị vua nước Sở (theo Sử ký)

     

    ............................................

     

    Thứ tự (thế hệ) Thụy hiệu Tên húy Thời gian ở ngôi Số năm Quan hệ với vua trước Ghi chú
    1 (1) Sở Dục Hùng Dục Hùng thầy của Chu Văn vương
    2 (2) Sở Hùng Lệ Hùng Lệ/Mị Lệ con Dục Hùng
    3 (3) Sở Hùng Cuồng Hùng Cuồng/Mị Cuồng con Hùng Lệ
    4 (4) Sở Hùng Dịch Hùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh) con Hùng Cuồng
    5 (5) Sở Hùng Ngải Hùng Ngải/Mị Ngải con Hùng Dịch
    6 (6) Sở Hùng Đán Hùng Đán/Mị Đán con Hùng Ngải
    7 (7) Sở Hùng Thắng Hùng Thắng/Mị Thắng con Hùng Đán
    8 (7) Sở Hùng Dương Hùng Dương/Mị Dương em Hùng Thắng
    9 (8) Sở Hùng Cừ Hùng Cừ/Mị Cừ con Hùng Dương
    10 (9) Sở Hùng Chí Hùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồng con Hùng Cừ
    11 (9) Sở Hùng Duyên Hùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì ?-848 TCN em Hùng Chí
    12 (10) Sở Hùng Dũng Hùng Dũng/Mị Dũng 747 TCN-838 TCN 10 con Hùng Duyên
    13 (10) Sở Hùng Nghiêm Hùng Nghiêm/Mị Nguyên 837 TCN-828 TCN 10 em Hùng Dũng
    14 (11) Sở Hùng Sương Hùng Sương/Mị Sương/Bá Sương 827 TCN - 822 TCN 6 con Hùng Nghiêm
    15 (11) Sở Hùng Tuân Hùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân 821 TCN - 800 TCN 22 em Hùng Sương giành ngôi với hai anh
    16 (12) Sở Hùng Ngạc Hùng Ngạc/Mị Ngạc 799 TCN - 791 TCN 9 con Hùng Tuấn
    17 (12) Sở Nhược Ngao Hùng Nghi (Mị Nghi) 790 TCN - 764 TCN 27 em Hùng Ngạc
    18 (13) Sở Tiêu Ngao Hùng Khảm/Mị Khảm 763 TCN - 758 TCN 6 con Nhược Ngao
    19 (14) Sở Phần Mạo/Sở Lệ vương Hùng Thuận/Mị Thuận 757 TCN - 741 TCN 17 con Tiêu Ngao
    20 (15) Sở Vũ vương Hùng Thông/Mị Thông 740 TCN - Tháng 3/690 TCN 51 con Phần Mạo
    21 (16) Sở Văn vương Hùng Xi/Mị Xi 689 TCN - 6/675 TCN TCN 15 con Vũ vương
    22 (17) Sở Đổ Ngao Hùng Gian/Mị Gian 674 TCN - 672 TCN 3 con Văn vương bị giết
    23 (17) Sở Thành vương Hùng Uẩn/Mị Uẩn 671 TCN - Tháng 10/626 TCN 46 em Đổ Ngao tự sát
    24 (18) Sở Mục vương Hùng Thương /Mị Thương 625 TCN - 614 TCN 12 con Mục vương
    25 (19) Sở Trang vương Hùng Lữ (Mị Lữ) 613 TCN - 591 TCN 23 con Mục vương
    26 (20) Sở Cung vương Hùng Thẩm (Mị Thẩm) 590 TCN - 560 TCN 31 con Trang vương
    27 (21) Sở Khang vương Hùng Chiêu/Mị Chiêu 559 TCN - Tháng 9/545 TCN 15 con trưởng Cung vương
    28 (22) Sở Giáp Ngao Hùng Viên (Mị Viên) 544 TCN - 541 TCN 4 con Khang vương bị giết
    29 (21) Sở Linh vương Hùng Vi (Mị Vi) 540 TCN - 529 TCN 12 con Cung vương bị giết
    30 (21) Sở vương Bỉ/Sở Ti Ngao Hùng Bỉ/Mị Bỉ 529 TCN 1 em Linh vương tự sát
    31 (21) Sở Bình vương Hùng Khí Tật/Hùng Cư 528 TCN - Tháng 9/516 TCN 13 em Bỉ
    32 (22) Sở Chiêu vương Hùng (Mị) Trân/Chẩn 515 TCN - Tháng 7/489 TCN 27 con Bình vương
    33 (23) Sở Huệ vương Hùng Chương (Mị Chương) 488 TCN - 432 TCN[54] 57 con Chiêu vương
    34 (24) Sở Giản vương Hùng Trung (Mị Trung) 431 TCN - 408 TCN 24 con Huệ vương
    35 (25) Sở Thanh vương Hùng Đương (Mị Đương) 407 TCN - 402 TCN 6 con Giản vương bị giết
    36 (26) Sở Điệu vương Hùng Nghi (Mị Nghi) 401 TCN - 381 TCN 21 con Thanh vương bị bắn vào thây
    37 (27) Sở Túc vương Hùng Tang (Mị Tang) 380 TCN - 370 TCN 11 con Điệu vương
    38 (27) Sở Tuyên vương Hùng/Mị Lương Phu 369 TCN - 340 TCN 30 em Túc vương
    39 (28) Sở Uy vương Hùng Thương/Mị Thương 339 TCN - 329 TCN 11 con Tuyên vương
    40 (29) Sở Hoài vương Hùng Hòe (Mị Hòe) 328 TCN - 299 TCN 30 con Uy vương bị giam ở Tần
    41 (30) Sở Tương vương Hùng Hoành (Mị Hoành) 298 TCN - 263 TCN 36 con Hoài vương
    42 (31) Sở Khảo Liệt vương Hùng Nguyên/Mị Nguyên 262 TCN - 238 TCN 25 con Tương vương
    43 (32) Sở U vương Hùng Hãn/Mị Hãn 237 TCN - 228 TCN 10 con Khảo Liệt vương
    44 (32) Sở Ai vương Hùng Do (Mị Do) 228 1 em U vương bị giết
    45 (32) Sở vương Phụ Sô Hùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô 227 TCN - 223 TCN 5 anh Ai vương bị bắt
    46 (32) Xương Bình quân Hùng Khải (Mị Khải) 223 TCN 1 anh Phụ Sô tử trận
    47 Tương Cương 209 TCN 1 bị giết
    48 Sở Ẩn vương Trần Thắng 209 - 208 TCN 2 khởi nghĩa nông dân bị giết
    49 Sở Giả vương Cảnh Câu/Mị Câu 208 TCN 1 con cháu nước Sở bị giết
    50 Sở Nghĩa Đế Hùng Tâm/Mị Tâm 208 TCN - 206 TCN 3 dòng dõi vua Sở bị giết
    51 Sở Bá vương Hạng Vũ/Hạng Tịch 206 TCN - 202 TCN 5 tự tử


    /span>




    1



    Đế Viêm Thần Nông
    Shennong3.jpg
    Thần Nông nếm các loại thảo mộc để khám phá phẩm chất của chúng.
    帝炎Nghĩa đenĐức Vương Hỏa/Hỏa Đức Vương

    Đế Viêm (tiếng Hán: 炎帝) hay Hỏa Đức Vương/Đức Vương Hỏa (火德王)[1] là một vị vua cổ đại huyền thoại của người Việt cổ vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông.[2]

    Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người.[3] Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng là Đế Du Võng bị Hoàng Đế đánh bại, khoảng 500-530 năm.[1][4]

    Bản đồ các bộ lạc và liên minh bộ lạc người Việt cổ thời đại, bao gồm các bộ lạc theo Hoàng Đế, Đế Viêm và Xi Vưu.


    Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của tộc Việt cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh

    (吳國楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy.[4]

    Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (帝), thay vì là hầu (侯) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn.

    Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng.[5] Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ.[6] Viêm Đế cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam".[7]

    Sụp đổsửa

    Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài LaiTrương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên KhánhBắc Kinh; huyện Phù CâuChu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm HồVận Thành, tỉnh Sơn Tây.

    Con cháu Đế Viêm vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Con cháu Đế Viêm là Đế Du Võng bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Huân Viên Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (共主). Hoàng Đế đã gom hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, đã tham chiến để đánh bại Xi Vưu Xi Vưu tướng soái của Đế Minhtrong trận Trác Lộc.

    Sau khi Xi Vưu, vị tướng soái của Đế Minh bị bắt và bị giết, cùng với Đế Lai bị tử trận trong trận Trác Lộc. Hiên Viên Hoàng Đế thắng lớn, Sau đó Hoàng Đế ông thiết lập sự thống trị của họ ở Trung vùng đất Trung Nguyên (Trong Nguồn) nước Xích Thần của Đế Nghi, chấm dứt 520 năm trị vì của con cháu Thần Nông Đế Viêm.

    Tính lịch sử ]

    Trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử.

    Người Hán đã gom hai vị Đế Viêm và Xi Vưu, rồi tự gọi mình là con cháu Viêm-Hoàng hay Viêm - Hoàng tử tôn. Việc ghép hai tên vào là hành động đánh cắp văn hóa con cháu của Thần Nông và cũng là việc san bằng và xóa sổ con cháu Thần Nông.

    Viêm Đế trong lịch sử với tước hiệu Hỏa Đức Vương.

    Trong văn hóa truyền thống

    Miếu thờ Đế Viêm Đế tại Bảo Kê, Thiểm Tây.

    Đế Viêm đều được coi là tổ tiên của Bách Việt văn hóa Lúa Nước. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ cá cĐức Đế Vương Hỏa.

    Danh sách các Đế Viêm / Đức Đế Vương Hỏa

    Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋命歷序) (khuyết danh, thời Hán).[9]

    Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ,[10] Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn:



    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Lâm Khôi (臨魁)
    Thừa (承)
    Minh (明) Cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục [11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai là cha của Âu Cơ huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?


    ***********************************

    Quý Liên lập ra họ Mi/Mị, còn gọi là Hùng. Quý Liên được xem là tiên tổ của các vua Sở sau này.

    Sau Quý Liên sinh Phụ Tự,
    Phụ Tự sinh Huyệt Hùng.
    Hậu duệ của Huyệt Hùng làm dân thường ở rải rác khắp nhân gian.

    Đến đời Dục Hùng ở vào cuối thời kỳ Thương Ân, Dục Hùng từng làm thủ lĩnh của bộ lạc ở phía nam Triều Ca.

    Dục Hùng từng có chức vị cao trong nhà Thang/Thương, đó là Thái Sư trong triều nhà Thương và Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương (Vua nước Chu).

    Quý Liên lập ra họ Mi/Mị, còn gọi là Hùng. Quý Liên được xem là tiên tổ của các vua Sở sau này.
    Sau Quý Liên sinh Phụ Tự,
    Phụ Tự sinh Huyệt Hùng.
    Hậu duệ của Huyệt Hùng làm dân thường ở rải rác khắp nhân gian.
    Đến đời Dục Hùng ở vào cuối thời kỳ Thương Ân, Dục Hùng từng làm thủ lĩnh của bộ lạc ở phía nam Triều Ca.
    Dục Hùng từng có chức vị cao trong nhà Thang/Thương, đó là Thái Sư trong triều nhà Thương và Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương (Vua nước Chu).


    Yuxiong / Dục Hùng / 鬻熊



    1



    Đế Viêm Thần Nông
    Shennong3.jpg
    Thần Nông nếm các loại thảo mộc để khám phá phẩm chất của chúng.
    帝炎Nghĩa đenĐức Vương Hỏa/Hỏa Đức Vương

    Đế Viêm (tiếng Hán: 炎帝) hay Hỏa Đức Vương/Đức Vương Hỏa (火德王)[1] là một vị vua cổ đại huyền thoại của người Việt cổ vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông.[2]

    Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người.[3] Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng là Đế Du Võng bị Hoàng Đế đánh bại, khoảng 500-530 năm.[1][4]

    Bản đồ các bộ lạc và liên minh bộ lạc người Việt cổ thời đại, bao gồm các bộ lạc theo Hoàng Đế, Đế Viêm và Xi Vưu.


    Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của tộc Việt cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh

    (吳國楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy.[4]

    Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (帝), thay vì là hầu (侯) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn.

    Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng.[5] Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ.[6]Đế Viêm cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam".[7]

    Sụp đổsửa

    Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài LaiTrương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên KhánhBắc Kinh; huyện Phù CâuChu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm HồVận Thành, tỉnh Sơn Tây.

    Con cháu Đế Viêm vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Con cháu Đế Viêm là Đế Du Võng bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Huân Viên Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (共主). Hoàng Đế đã gom hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, đã tham chiến để đánh bại Xi Vưu Xi Vưu tướng soái của Đế Minhtrong trận Trác Lộc.

    Sau khi Xi Vưu, vị tướng soái của Đế Minh bị bắt và bị giết, cùng với Đế Lai bị tử trận trong trận Trác Lộc. Hiên Viên Hoàng Đế thắng lớn, Sau đó Hoàng Đế ông thiết lập sự thống trị của họ ở Trung vùng đất Trung Nguyên (Trong Nguồn) nước Xích Thần của Đế Nghi, chấm dứt 520 năm trị vì của con cháu Thần Nông Đế Viêm.

    Tính lịch sử

    Trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử.

    Người Hán đã gom hai vị Đế Viêm và Xi Vưu, rồi tự gọi mình là con cháu Viêm-Hoàng hay Viêm - Hoàng tử tôn. Việc ghép hai tên vào (Viêm-Hoàng) là hành động đánh cắp văn hóa con cháu của Thần Nông và cũng là việc cho sự san bằng* dòng dõi Thần Nông:

    -- Làm mất 520 năm trị vì của dòng dõi đế Viêm/Yandi)
    -- Làm mất tính quan trọng của vai vế Thần Nông và
    -- Xóa sổ dòng dõi con cháu Thần Nông.

    Viêm Đế đi vào lịch sử với tước hiệu Hỏa Đức Vương.

    Trong văn hóa truyền thống

    Miếu thờ Đế Viêm Đế tại Bảo Kê, Thiểm Tây.

    Đế Viêm đều được coi là tổ tiên của Bách Việt văn hóa Lúa Nước. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ cá cĐức Đế Vương Hỏa.

    Danh sách các Đế Viêm / Đức Đế Vương Hỏa

    Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋命歷序) (khuyết danh, thời Hán).[9]


    Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ,[10] Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn:

    Di sản của Bách Việt
    Một số học giả đặt giả thuyết rằng Kinh Dịch là sản phẩm của nền văn minh Thần Nông ở phía Nam sông Dương Tử (nghĩa là thuộc vùng đất Bách Việt). Có người còn cho rằng đây là sản phẩm của người Âu ViệtLạc Việt.

    Nhà Tần / Ts'in cách người Tàu có biến chế hoặc sửa đổi chữ Khoa Đẩu thành chữ Đại Triện (chữ Hán) và sau đó chữ Hán bắt đầu với chữ Đại Triện, tức là chữ Khoa Đẩu sửa đổi dưới thời Chu Tuyên Vương.



    King Given name Probable Reign, and line of descent
    Kinh Dương Vương (涇陽王) Lộc Tục (祿續) 2879 BC – 2794 BC, Càn line (支乾)
    Lạc Long Quân (貉龍君) Sùng Lãm (崇纜) 2793 BC – 2525 BC, Khảm line (支坎)
    Hùng Lân vương(雄麟王), Hùng King III Lân Lang 2524 – 2253 BC,Cấn line (支艮)
    Hùng Diệp Vương(雄曄王), Hùng King IV Bửu Lang 2252 – 1913 BC,Chấn line (支震)
    Hùng Hy Vương, Hùng King V Viên Lang 1912 – 1713 BC,Tốn line (支巽)
    Hùng Huy Vương(雄暉王), Hùng King VI Pháp Hải Lang 1712 – 1632 BC,Ly line (支離)
    Hùng Chiêu vương(雄昭王), Hùng King VII Lang Liêu 1631 – 1432 BC,Khôn line(支坤)
    Hùng Vĩ vương(雄暐王) Hùng King VIII Thừa Vân Lang 1431 – 1332 BC,Đoài line (支兌)
    Hùng Định vương(雄定王), Hùng King IX Quân Lang 1331 – 1252 BC,Giáp line (支甲)
    Hùng Hi vương(雄曦王), Hùng King X Hùng Hải Lang 1251 – 1162 BC,Ất line (支乙)
    Hùng Trinh Vương(雄楨王), Hùng King XI Hưng Đức Lang 1161 – 1055 BC,Bính line (支丙)
    Hùng Vũ Vương(雄武王), Hùng King XII Đức Hiền Lang 1054 – 969 BC, Đinh line (支丁)
    Hùng Việt Vương(雄越王), Hùng King XIII Tuấn Lang 968 – 854 BC,Mậu line (支戊)
    Hùng Anh Vương(雄英王), Hùng King XIV Chân Nhân Lang 853 – 755 BC, Kỷ line (支己)
    Hùng Triệu Vương(雄朝王), Hùng King XV Cảnh Chiêu Lang 754 – 661 BC,Canh line (支庚)
    Hùng Tạo Vương(雄造王), Hùng King XVI Đức Quân Lang 660 – 569 BC,Tân line (支辛)
    Hùng Nghị Vương(雄毅王), Hùng King XVII Bảo Quân Lang 568 – 409 BC,Nhâm line (支壬)
    Hùng Duệ Vương(雄睿王), Hùng King XVIII Lý Văn Lang or Mai An Tiêm 408 – 258 BC,Quý line (支癸)





    Bản đồ nhà Tần Xâm Lăng Bách Việt



    Hồ Trên Núi
    - Hữu Kiên ft Phạm Thu Hà
    https://youtu.be/CWNK2BrRYh4?si=kKMWzs3NMkcHHbbt




    Sếu đầu đỏ


    Chim Vạc


    Cái cò, cái vạc, cái nông,
    Sao mày giẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
    - Không, không tôi đứng trên bờ,
    Mẹ con cái diệc đổ ngờ cho tôi!
    Không tin ông đến mà coi,
    Mẹ con cái diệc còn ngồi ở kia.


    No comments:

    Post a Comment