Family Tree
Family tree of Vietnamese monarchs | ||||||
Overall | Early independence | Lý Dynasty | Trần dynasty | Lê dynasty | Trịnh lords and Mạc dynasty | Nguyễn lords and dynasty |
Family Tree
Family tree of Vietnamese monarchs | ||||||
Overall | Early independence | Lý Dynasty | Trần dynasty | Lê dynasty | Trịnh lords and Mạc dynasty | Nguyễn lords and dynasty |
The family tree of Vietnamese monarchs from the autonomous period of the Khúc clan (905–923) to the reign of Bảo Đại (1926–1945), the last emperor of the Nguyễn dynasty. Emperors, kings and lords of each monarch are denoted by different colours.
Gia phả / family tree của các vị vua Việt Nam từ thời kỳ tự trị của gia tộc Họ Khúc (905–923) đến triều đại của Vua Bảo Đại (1926–1945), là hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn. Các vị Hoàng đế, vua và lãnh chúa của mỗi vị vua được biểu thị bằng các màu sắc khác nhau.Colour notes
Khúc clan (906–930)
|
Dương family (931–937)
|
Ngô dynasty (939–967)
|
Kiều family (937–938)
|
Đinh dynasty (968–980)
|
Early Lê dynasty (980–1009)
|
Lý dynasty (1009–1225)
|
Trần dynasty (1225–1400)
|
Hồ dynasty (1400–1407)
|
Later Trần dynasty (1407–1428)
|
Lê dynasty (1428–1527; 1533–1789)
|
Mạc dynasty (1527–1677)
|
Trịnh lords (1545–1787)
|
Nguyễn lords (1558–1777)
|
Tây Sơn dynasty (1778–1802)
|
Nguyễn dynasty (1802–1945)
|
Nước Xích Thần
Nước Xích Thần của Đế Lai bị mất trong trận Battle of Zhuolu. Bà Âu Cơ dẫn tàn quân của Đế Lai và xi Vưu về nước Xích Quỳ chờ cánh quân của Lạc Long Quân từ Biển Đông lên núi Thái Sơn nhưng bị mất tích ở Biển Đông Nước Xích Quỷ
Tên gọi Việt Nam | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Saigon Kids (1963) 8mm Film Digitized at CinePost from CinePost on Vimeo.
|
abc
|
*Triệu Đà đã đào tẩu khỏi nước Triệu khi Tần xâm lăng nước Triệu. **Huyện Lệnh là một chức quan thấp hơn chức Thái Thú. |
ưưưưưưưưưưưưưưưưu
In Vietnamese there exists the word 'Tàuô' to call the "Qin" (秦 Tần) people who customarily donned themselves in black attires, which, etymologically, gave rise to the word 秦烏 Qinwu, or SV 'Tầnô' – the surviving people of all other ancient states, that would no longer exist after the Qin's invasion, all would probably call the Qin invaders something similar to "Tàuô" /taw2o1/ – hence, the VS 'Tàuô' and the derivative 'Tàu'. The degrading term 'Tàu', phonologically, emerged as /-n-/ merged with the contraction of /-wo-/ > /-w/, a case of sound sandhi of the ending -n of the first syllable with the rounded vowel o- of the second syllable to finalize it as an ending semi-vowel /-w/, i.e., "Tàu" <~ [/tã-/ + /-wo/].<
|
"Việt Tuyệt Thư"
- Cổ thư được gọi là "Việt Tuyệt Ký" hay "Việt Tuyệt Thư" (*thời Xuân -Thu Chiến Quốc: trước Sử Ký của Tư Mã Thiên), trong đó ghi chép Vua Việt là con cháu của vua Vũ thuộc triều nhà Hạ; Việt Tuyệt Thư viết bằng chữ tượng hình như "Việt Cổ Văn" và "Trung Văn", ngày nay, sách phải dùng bằng bản phiên dịch qua Trung Văn bởi những học giả Việt Học xưa nay, vì cổ Việt văn có một số từ ngữ của cổ ngữ mà ngày nay người ta sẽ khó hay không hiểu khi đọc!... Ví dụ chữ "Cuấy" hay "Cuây" là "Hội", "kây " là "kế"; "cuấy kây" chính là "hội-Kế" , "Cuấy - kây"... mà viết theo chữ tượng hình xưa thì mấy ai biết được bây giờ? Đa số sẽ đọc là "Hội-kế", (Lại có một giọng Cối-Kê = Cuấy Kây = Hội-Kê... là Hàn-Châu ngày nay), chữ 會計(Hội-Kế) là: 會稽 ngày xưa, Chữ "Hội" với chữ "kế "nhưng lại đọc là Cuấy-kây với dần "C-hay K" đó là nét đặc biệt của vùng Giang Đông và Phiên Ngung (bên bờ biển Đông - Thái Bình Dương). Nhờ Việt Tuyệt Thư mà sau nầy "Sử Ký" (Của TƯ MÃ THIÊN) và nhiều sách sử khác có tài liệu về nguồn gốc Bách Việt bên cạnh những truyền thuyết... Truyền thuyết... ***Đế Nghiêu truyền ngôi cho Đế Thuấn, Đế Thuấn truyền ngôi cho Vua Vũ, Vua Vũ lên ngôi rồi truyền ngôi cho con là "Khải" - lập nên triều "HẠ", triều Hạ là của Việt tộc. VIỆT TUYỆT THƯ chép rằng bởi vì "Vua Vũ được chôn cất ở Mao Sơn (Cuấy kây - Hội kê), con cháu trong nhà phải có người theo ở đó để giữ đất mộ của Vũ gia cho tròn đạo hiếu, và rồi lập ra Việt Quốc.". Vậy, theo VIỆT TUYỆT cổ thư: Hạ và Việt là một nhà, đã là một nhà thì "Hạ" ngữ hay "Việt" ngữ là một, có ai cần tranh luận điều nầy không? Nghiêu, Thuấn, Hạ là Truyền Thuyết... nhưng "Việt Tuyệt thư" là cổ thư thời Xuân Thu - chiến Quốc được lưu lại cho đến ngày nay mà nội dung được ghi chép thật rõ ràng, cổ thư nầy mang tên "Việt Chép" và chép lại sử Việt; sau nầy "Hoa" văn không có chữ "chép" nên dùng chữ "Chóe, chóe: 絕yue"/ đọc theo Hán-Việt ngày nay là "Tuyệt"... có phát âm na ná để thay chữ "chép"; xin đón đọc: sẽ nói rõ về VIỆT TUYỆT THƯ ở những bài khảo cứu tiếp theo sau nầy. Việt Tuyệt Thư và những chữ viết được khắc trên xương (Giáp Cốt Văn) và những đỉnh bằng kim loại đồ đồng (Chung Đỉnh Văn) thời nhà Thương và Chu mà khảo cổ học khám phá ra đã bổ túc và minh chứng cho truyền thuyết, và vì vậy Việt Tuyệt Thư càng thêm giá trị. Triều Hạ bị lật đổ do triều Thương, Thương là con cháu của Đế Nghiêu, lấy họ Chử, người Việt không xa lạ với họ Chử qua câu chuyện "Chử Đồng Tử "...Thương không phải là Việt tộc? Hay là Việt tộc? (Xin xem bài tiếp theo) - Đọc giả sẽ tự có câu trả lời: Vì Đế Nghiêu truyền ngôi cho đế Thuấn, Đế Thuấn truyền ngôi cho vua Đại Vũ của nhà Hạ... Sau nầy nhà Thương của họ Chử (子 - đọc là Chử khi là họ, chứ không đọc là Tử) lớn mạnh và lật đổ triều Hạ, và chữ viết và văn hóa của Thương đều là kế tục của nhà Hạ: Những chữ viết trong Chung Đỉnh Văn và Giáp Cốt Văn của Khảo Cổ Học chứng minh được điều nầy... Nhà Thương thôn tính và Đồng hóa Người Siberia da trắng là "Trung Sơn Quốc": gọi là "Bạch-Địch". Nói chung - nhà Thương bao gồm Việt tộc và những ngoại tộc bị Việt tộc đồng Hóa... ngay cả tên của Trụ Vương... cũng được ghi chép lại là Đế Tân theo văn phạm Việt… chứ không phải là Tân Đế! Triều nhà Chu cũng bị Việt tộc đồng Hóa. Tộc Chu là Tộc Khương đã liên kết với những tộc khác tiêu diệt nhà Thương, trước khi lật đổ nhà Thương, thì trên bước đường đông tiến từ cao nguyên phía tây tiến về Trung Nguyên là họ đã bị Việt Đồng Hóa rồi, và họ đổi tên, xưng là: Chu 周, Chu: có nghĩa là Điền 田- Khẩu 口, ráp chữ Điền để phía trên và Khẩu chung sẽ thành chữ 周 – Chu. Chu là: khẩu sống nhờ Điền- (ruộng lúa)... và triều Chu tự xưng là con cháu đích tôn của vua Vũ nhà Hạ để được "Chính Danh". Chu tự xưng là "Hạ" hay là "Hoa" - vì lẫn lộn phát âm giữa chữ Hoa và Hạ của tiếng Việt. Tiếng Khương của dân tộc Khương vẫn tồn tại cho đến ngày nay, cho nên khi đối chiếu tiếng Khương với cổ sử và Tứ Thư, Ngũ Kinh v v... thì sẽ thấy rõ Chu đã Bị văn hóa Việt của nhà Hạ và nhà Thương đồng Hóa... Bởi vì Triều Chu đã không còn dùng tiếng Khương như người dân tộc Khương hiện nay vẫn tồn tại và nói tiếng Khương, và ngay cả việc nhà Chu phải nhận thầy và học hỏi từ nước Sở cũng ̣được ghi rõ ràng trong chính sử, (điều nầy ghi rõ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên). Nhà Hạ được xem là chính danh, là Hoa. Hoa nghĩa là "hoa lệ", là "quí phái", là tiến bộ, là văn minh, là quí tộc, là thống lĩnh, là chính thống ở vùng Trung Nguyên. Cho nên khi mà Chu muốn gom thâu thiên hạ qui phục với Chu, thì Chu phải tự xưng là "hoa", "Hoa-Hạ", ngay cái tên "Hoa-Hạ" đã tự bộc lộ là bị Đồng Hóa rồi!... Vì lẫn lộn "Hoa" Và "Hạ"!!! Bởi vì là bị đồng hóa mà vẫn khó phân biệt phát âm của một ngôn ngữ "mới" đối với họ, cho nên họ không phân biệt được "Hạ" là tên gọi Hoàng Triều, và "Hoa" là tên gọi của quí tộc theo lối phát âm tiếng Việt, nên mới có việc tự xưng vừa Hoa lại vừa Hạ... trong khi lẽ ra chỉ cần xưng là HOA, hoặc chỉ xưng là Hạ... là được rồi! (Hoa = 華, Hạ=夏) - 華 - 夏 Tiếng Việt cổ đại Hoa và Hạ đọc rất là giống nhau... - 華 - 夏 Tiếng Việt ở Việt Nam ngày nay: đọc "Hoa" - "Hạ"... Phát âm rất giống nhau, chỉ vì dùng cố định dấu nặng trong chữ Hạ theo qui định ngày nay của phiên âm a, b, c, theo Latin, mà tạo nên khác biệt hơi nhiều. - 華 - 夏Tiếng Việt ở Quảng Đông nay: Đọc: "Hòa" - "Hà"... Phát âm rất giống nhau. - 華 - 夏Tiếng Mân-Việt Triều/Phước Kiến: đọc: "Hoe"-"he"... Phát âm rất giống nhau. ... Mãi cho đến sau nầy qua nhiều triều đại sau nhà Chu nữa, khi nhiều dân tộc khác tiếp tục bị người Việt đồng hóa nữa thì dần dần mới có sự "lai căng" văn hóa khác mà đổi phát âm chữ "Hạ" đọc thành "seaé" hay "Xié", và phiên âm theo tiếng Anh/English ngày nay 夏 là "Xia". Ngày nay tiếng Bắc Kinh đọc 華 - 夏 là "Hỏa-Xié" / (là "HUA-Xia" khi dùng English phiên âm). Chính vì vậy mà có từ ngữ Hoa-Hạ 華 - 夏 đọc thành "Hỏa-xié" theo tiếng "Quan Thoại" ngày nay để tự cho rằng: ta là "truyền nhân" đích tôn của của nhà Hạ!!! ----------------------------------- Cantonese and Vietnamese sound similar because Vietnam and Canton use to be in the same region then the Han Chinese came in; after a series of attack, we kind of broke apart and had to fled west where modern day north Vietnam use to be. One of the Viet rulers Quang Trung vowed to save our brothers from Han Chinese ruled the two provinces Quang Dong and Quang Tay, but he died. North China: Xianbei, Siberian, Jurchens, Mongols, Khitan, Manchus tribes |
99999999999999999999
|
=================================================
http://i626.photobucket.com/albums/tt346/Quynh494/en_2ngang.gif
Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, ngoài Trung Cộng ra, phi công Nga, phi công Bắc Hàn cũng đã lén lút tham chiến ở Việt Nam. Họ được lệnh mặc đồ dân sự để không ai biết.
Trong khi lính Mỹ chưa đổ bộ ở Đà Nẵng thì báo chí cả thế giới đều biết. Nếu Việt cộng dùng cớ chuyện Mỹ giúp VNCH bằng nhân lực là xâm lược, thì chuyện lính Nga, lính Trung Cộng, lính bắc Hàn đem vào miền bắc Việt Nam thì không phải xâm lược hay sao? — Đem ra so sánh chỉ chuyện vũ khí thôi, Mỹ viện trợ VNCH thua xa với Nga, Trung Cộng, Khối cộng sản Đông Âu viện trợ cho Việt cộng. |
..................................................
Nước Đại Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật... là do yếu tố nào? hotpink
Nước Đại Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật... là do yếu tố nào? deeppink
Giao Chỉ và Tượng Quận
In Vietnamese tradition, the paper fan was an indispensable item in times of yore, one of eight prized objects in every household
The presence of the dead, the behaviour of the living, and an influence on the future – the many generations of the Vietnamese family.
Trịnh Hòa thừa lệnh nhà Minh giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Hồi Giáo. Sau khi quân đội nhà Minh chiếm đóng Vân Nam, Trịnh Hòa đã bị quân Minh bắt giữ khi còn là một cậu bé con và bị hoạn, vì thế ông đã trở thành một thái giám phục vụ cho hoàng đế. |
Người Sở, cũng còn được gọi là Kinh Sở, người Kinh Sở Nước Sở, còn được gọi Kinh Sở, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời Hán - Sở. Lãnh thổ nước Sở khoảng giữa sông Hoài/Hoài Hà và sông Dương Tử/Trường Giang. Người Sở có họ là Mi hay Mị (芈姓). Một người Sở tên là Dục Hùng (dòng họ của Hùng Vương) giữ chức quan trong triều Thương (nhà Thang). Dục Hùng là thầy dạy học của Chu Văn Vương, khi Chu Thành Vương tiêu diệt nhà Thương thì Chu Văn Vương phong cho Dục Hùng đất Kinh để cai quản đất Kinh Nước Sở. Kinh Sở, Kinh Dương Vương là để chỉ người Việt cổ đã có từ đời nhà Thang/Thương. Người tộc Việt, trước tộc Hoa Hạ, có trước người Hán mà chúng ta ngày nay được gọi và người dân tộc kinh, tộc Kinh khác với người Hán, người Tàu. Cũng là có chuyện Hán Sở Tranh Hùng là vậy. |
Người Sở, cũng còn được gọi là Kinh Sở, người Kinh Sở Nước Sở, còn được gọi Kinh Sở, trong thời Xuân Thu Chiến Quốc kéo đến thời Hán - Sở. Lãnh thổ nước Sở khoảng giữa sông Hoài/Hoài Hà và sông Dương Tử/Trường Giang. Người Sở có họ là Mi hay Mị (芈姓). Một người Sở tên là Dục Hùng (dòng họ của Hùng Vương) giữ chức quan trong triều Thương (nhà Thang). Dục Hùng là thầy dạy học của Chu Văn Vương, khi Chu Thành Vương tiêu diệt nhà Thương thì Chu Văn Vương phong cho Dục Hùng đất Kinh để cai quản đất Kinh Nước Sở. Kinh Sở, Kinh Dương Vương là để chỉ người Việt cổ đã có từ đời nhà Thang/Thương. Người tộc Việt, trước tộc Hoa Hạ, có trước người Hán mà chúng ta ngày nay được gọi và người dân tộc kinh, tộc Kinh khác với người Hán, người Tàu. Cũng là có chuyện Hán Sở Tranh Hùng là vậy. |
Tôi biết gì về Trung Quốc? Fr: Thanh Lam, Tuấn Lê KTS Trần Thanh Vân: Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến Trúc Sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế! ..................................... Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa Linh của chương trình Văn Hóa 1000 Năm Thăng Long. Một nhóm nghiên cứu của Ban Khoa Giáo, đài truyền hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa Mạch và Hồn Cốt Thăng Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi: – “Chị nghiên cứu đề tài này lâu chưa?” – Tôi lưỡng lự giây lát, rôì trả lời họ: – “Khoảng chừng đã 55 năm”. – “Cái gì? 55 năm?”. – “Vâng! Từ ngày còn là con bé con”. Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến Trúc. Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết. KTS Trần Thanh Vân (Ảnh: N.X.D. Sự thật và kinh nghiệm Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối “quan hệ” của tôi với vấn đề Trung Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam - Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít có ai có cơ hội để “hiểu” Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết. Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát “Việt Nam- Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…” trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung quốc. Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng đất năm 1953. Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc “bắn phá” tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng goị bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong CCRĐ (Cải Cách Ruộng Đất) ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào. Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nôị nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm cuị làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát “Áo Mùa Đông” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: “Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay / một mùa đông bao người đan áo…” chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô trong Hội Phụ Nữ Kháng Chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi thành các mầu xanh, mầu nâu, mầu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn. Nhưng trong CCRĐ (Cải Cách Ruộng Đất) thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí Thư Chi Bộ Xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc Dân Đảng đã giết ông bí thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được Đội Cải Cách Bồi Dưỡng để đứng lên đấu tố mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ. Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến Chợ Chu - Định Hóa - Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ. Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hồi đó, người ta bàn tán về hoạt động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên Khu 4 được chọn làm điển hình. Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi. Kỷ niệm thứ 2: Trời phạt Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì chúng tôi được ném vào “Trận đồ bát quái” của tháng hữu nghị Việt -Trung -Xô. Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường là dù chưa quen biết người ta cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa Bình lập lại, chính phủ về tiếp quản thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung Quốc. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hùng tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của người Trung Quốc. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn Hoa Canh Nông tập thể dục và hô “I, ơ, xan, xư” ầm vang khu phố Cột Cờ. Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại Sứ Quán. Là con bé mới học bậc tiểu học (cấp 2), tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xảy ra, nhưng tôi có thói quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón trung ương Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn Văn Công Tề Tề Cáp Nhĩ do chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung Thiếu Nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị - Phủ Tây Hồ. Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa. Mộ của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì. Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít và vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới con lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không sao hiểu nôỉ thứ tình hữu nghị quái gở gì mà “người bạn lớn thân thiết” lại tìm mọi cách làm hại “đứa em tội nghiệp” vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ? Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh ở làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài, trong đó có mấy câu: “Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu/ Dấu nhà Trời ai thấu được đâu/ Một dải khăn đào kết một cái cầu/ Để hồ thẳm nước sâu/ Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…”. Du học ở Trung Quốc Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc lôi cuốn tôi, khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ. Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được “ăn cơm Bác Mao”, được chăm sóc dạy dỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình. Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong ba năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một họa sĩ danh tiếng dẫn đi vẽ vùng ngoại ô thôn dã ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già thì hai bàn tay bôi mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt những trái lê, trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khóa một căn phòng có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập, đó là những thứ mà khi ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới. Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: “Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ reo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?” Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu. Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ giảng. Đó là một tòa nhà hai tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc, hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn mặc để nuôi chúng tôi? Tôi phát giác và được biết có một thầy giáo bị bệnh gan, thận gì đó rất cần ăn đường nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua đường mang đến biếu thầy, chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ bảy, khi hai cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn. Rồi đại loạn đến thật, Cách Mạng Văn Hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng Vệ Binh. Chúng tôi phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng Vệ Binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính mắt chúng tôi được chứng kiến các giáo sư trong trường đã từng giảng dậy chúng tôi, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những dòng chữ tục tĩu. Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có giáo dục truyền thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép học trò đấu tố thầy, hành hạ và xỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó. Tôi không sao chấp nhận nổi, những người bị hành hạ là những giáo sư đáng kính của chúng tôi, những người hành hạ các giáo sư lại là những bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy, nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố. Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm hỏi: “Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?” Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký, chúng tôi khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng Vệ Binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh trường Đại Học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc do người Đức thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng quốc tế và bà vợ bác sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ. Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ “tình hữu nghị” mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả năng của tôi. Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi. Thời kỳ đã trưởng thành Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận công tác ở Bộ Kiến Trúc, chúng tôi đã được Bộ Trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu “Ba sẵn sàng” của thanh niên thời chiến. Sau đó, mỗi người đến nơi giải tán ra ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy Hoạch Đô Thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh Vĩnh Yên. Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm. Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn “Liên Xô xét lại” và “Trung Quốc giáo điều” thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy bay Míc bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói. Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự giải thích rằng -- sự việc đã xảy ra là do sự quá đà của một nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xảy ra cuộc tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để “Cho Việt Nam một bài học”. Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nôị bộ của sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời trung cổ của họ mà thôi. Trung quốc hôm nay Sau 60 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung quốc ‘đại nhảy vọt’ mà họ đang ra sức quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung hoa đã từng bị chà đạp, bị xỉ nhục và chiụ nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên bất cứ lúc nào. Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đôỉ rất nhiều. Nhưng khi tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong “Đồng tế tân thôn” bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện “Nghiệp Chướng” nói về những éo le và mất mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người từng là bạn tôi. “Nghiệp chướng” là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói với tôi: “Tôi từng là Hồng Vệ Binh và đang là nạn nhân của Hồng Vệ Binh suốt đời đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay”. Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng tôi đã dành ra gần hai tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm! Đó là lũ lưu manh ‘mạnh vì gạo bạo vì tiền’. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm “chỗ dựa” để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ thủ tiêu “chỗ dựa” đó đi. Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có ba kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một “Bộ Tứ Trụ” điều khiển hơn một tỷ dân. Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành một hệ thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót 2,000 tên, trong số đó có cả giám đốc sở tư pháp và nhiều sĩ quan công an. Cuối cùng, có thể quan sát “Trung Quốc hùng cường hôm nay” bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang xuất hiện ở Việt Nam ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này. Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi người đều hiểu. Ông Vũ Duy Phú và KTS Trần Thanh Vân. Ảnh: N.X.D. Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta. Tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã “không may” bị tận mắt chứng kiến. Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc xử dụng chữ gốc La Tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ 16-17 như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ thứ 19 để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ 20 là Bá Đa Lộc - Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine. Cám ơn các vị giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ thứ 20 đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có: - Phong Thủy, - Địa Mạch và - Kinh Dịch. Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây Dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy, địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói -- nhà cầm quyền Trung Quốc thèm muốn chứ không phải người dân Trung quốc, bởi vì thực hiện mộng bá quyền thì người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi gì, có khi còn bị thiệt thòi hơn nhiều. Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich. Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich. Hình quẻ Chấn (hình) Theo phần tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của Kts. Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gẫy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành bốn hoặc năm quốc gia độc lập. Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ “ĐỒNG BÀO” và trên đất nước này không có câu “Sức mạnh đoàn kết toàn dân”. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giầu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009. Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng -- có một cách vãn hồi được yếu điểm cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya trên qua Cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống Vinh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở Vịnh Mindanao Philíppin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ “Cổng Trời” đầy thiên khí đến “Địa Huyệt” đầy của cải, có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sendwich đó không cho nó trôi trượt đi, mà họ có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này Trung quốc đang cố sức “Củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được” để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu. * Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng 390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều). * Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một nhà nước suốt ngày hô hào “đoàn kết các dân tộc” lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn. Tây Tạng (Hình) Còn ở Việt Nam chúng ta thì sao? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. “Ngoại xâm” đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có (giặc). Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi? Địa mạch Việt Nam: Khúc quan trọng trong địa mạch toàn cầu Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dẫy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì Đồng bằng Bắc phần nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này. (đọc Đại địa mạch quốc gia) Dãy Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3,143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Tàu đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư kiểu tự là một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hôị rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đường Y Tôn yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Địa mạch Việt Nam: Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh khu vực Đông Nam Á.(hình) Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên Vịnh Bắc phần rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát hải cảng Vân Đồn lại có Vịnh Bái Tử Long và ngoài khơi xa của Hải phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng... cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở Đồng Bắc phần, đi xuống nước ở hải cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại Dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippin. Địa mạch Việt Nam: Bắc Việt và Biển Đông. (hình) Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc Dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước họ không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước: Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Úc và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không?
Cốt lõi Trục Phong Thủy nước ta là: ÂM DƯƠNG TƯƠNG ĐỒNG Biển Đông Thái Âm 2 Đảo Hải Nam Thiếu Dương 3 Bán đảo Đông Dương Thái Dương Biển Hồ Thiếu Âm Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi Đồng Bằng Bắc phần đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ 16 trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình. LỜI CUỐI BÀI Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy, tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải qua kinh nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏỉ cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo, và bản thân tôi cũng đã phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông. Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở sức mạnh Trung Quốc và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó? Đông dân là một sức mạnh. Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng -- chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt. Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân Vận Động tổ chim độc đáo, tốn hết hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt. Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại Hàng Không Mẫu Hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân... tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được, đủ để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng. Có điều, một thảm họa đông dân mà nhà nước không vì dân, thì nhà nước sẽ khốn đốn vì sự phản ứng của dân. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu... đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược. Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không? Kiền Trúc Sư. Trần Thanh Vân Nguồn: https://nhatbaovanhoa.com/a7222/kien-truc-su-tran-thanh-van-toi-biet-gi-ve-trung-quoc- |
7
Mani giáo/ Minh giáo / Nhật Nguyệt giáo Minh giáo, Mạt Ni giáo, tiếng Ba Tư: آین مانی Āyin-e Māni, tiếng Trung: 摩尼教 (âm Hán Việt là Ma Ni giáo), là một tôn giáo cổ của Iran, do ông giáo chủ tên là Mani (216-277), người Ba Tư (tiếng Ba Tư: مانی,) sáng lập vào khoảng thế kỷ thứ 3, được truyền bá theo hai hướng Đông và Tây, cực thịnh một thời, ảnh hưởng sâu rộng. Về sau, giáo phái này tàn lụi dần và ít nghe tiếng. Giáo lý Giáo nghĩa chính thống của Mani giáo nằm trong bộ nhị Tông kinh bằng chữ Ba Tư, truyền bá tư tưởng "nhị tông, tam tế". "Nhị tông" là hai thái cực sáng và tối, thiện và ác; "Tam tế" là sơ tế, trung tế và hậu tế, tương ứng với quá khứ, hiện tại và tương lai. Tương truyền rằng tại hậu kỳ sơ tế và trung tế, Minh Vương cùng các vị thần của Quang Minh vương quốc liên tục chiến đấu với quần ma của vương quốc Bóng Tối do Ma Vương đứng đầu; đến hậu kỳ trung tế thì giành toàn thắng, thế giới bị hủy diệt, Minh Vương (Đại Minh Tôn) đưa nhân loại trở về Quang Minh vương quốc. What is Manichaeism? https://youtu.be/8vjzr9ONXi4 Xét từ giáo lý chủ thuyết Mani giáo mang tư tưởng mãnh liệt về hậu kiếp và cứu độ chúng sinh. Chính điều này đã khiến Mani giáo dễ dàng dung hợp với tín ngưỡng dân gian Trung Quốc theo những tín điều căn bản của Phật giáo, Đạo giáo... Khởi thủy, khi Mani sáng lập Mani giáo đã từng phát thệ đại nguyện là -- truyền bá giáo pháp này trên khắp địa cầu, trở thành tôn giáo thế giới. Vào đầu thế kỷ XX, tại vùng Tulufan (Tân Cương) các nhà khảo cổ phát hiện bản kinh Mani giáo bằng chữ Ba Tư thời Trung cổ chép những dòng đầy hào khí: "Tôn giáo mà ta đã chọn phải hơn gấp mười lần bất cứ tôn giáo nào trước đây". Năm 1902, G. S A. Granweldel, Bảo Tàng Nhân Chủng Học Berlin - Đức, cùng cộng sự đã phát hiện số lượng lớn bản kinh của Mani giáo tại các hang động miền Tân Cương - Trung Quốc. Từ đó về sau, không ít nhà khoa học thế giới đã bỏ nhiều công sức để thu thập, tìm hiểu về giáo phái này và đã có những thành tựu quý giá. Hiện đã có học giả của tám nước công bố công trình của mình với các cổ bản bằng văn tự Ba Tư, Đột Quyết, Pali...[1] Tại Trung Quốc, Mani giáo - Minh giáo truyền sang Trung Quốc, được Hoàng hậu Võ Tắc Thiên công nhận vào năm 694 và phát triển mạnh vào năm 806 khi triều Đường cho Mani giáo lập chùa ở kinh đô Trường An, sắc tứ là "Đại Vân Quang Minh tự". Từ đó, Mani giáo truyền đi khắp các châu thuộc miền Nam nước Tàu như Kinh Châu, Dương Châu, Hồng Châu... Minh giáo có ảnh hưởng từ dân chúng đến đại sĩ phu. Đời Đường, thuyết Phật Di Lặc giáng sinh rất thịnh hành. Năm 695, nữ hoàng Võ Tắc Thiên tự xưng là "Phật Di Lặc hóa thân", lấy danh nghĩa này xây dựng và thống trị triều Võ Chu (690-705), ngụy tạo ra kinh điển có tên là Đại Vân kinh, ra chiếu lập những chùa Đại Vân ở khắp nước Tàu. Nhiều nhân vật nổi tiếng đời Đường như cao tăng Huyền Trang, Khuy Căn, thi hào Bạch Cư Dị... đều là những người tin vào thuyết "Phật Di Lặc giáng sinh tịnh thổ" của Mani giáo. Năm Hội Xương thứ 3 (843), triều đình lấy danh nghĩa "không làm ô tạp phong hóa Trung Nguyên", hạ lệnh nghiêm cấm Phật giáo và Minh giáo hoạt động, ra lệnh giết giáo đồ, tịch thu tất cả tài sản tự viện, bắt tu sĩ hoàn tục. Sử gọi đây là "Hội Xương pháp nạn". Sau cuộc "Hội Xương pháp nạn", Minh giáo bị gọi là Ma giáo. Từ đó về sau, Minh giáo trở thành một tôn giáo bí mật, phạm cấm, đời nào cũng bị quan phủ truy lùng giết chóc. Để có thể sinh tồn, người trong Minh giáo không thể không hành sự bí ẩn, để rồi chữ Ma trong Mani bị đổi thành Ma, đồng nghĩa với tà ma. Chu Nguyên Chương (1328 - 1398), là vị hoàng đế khai quốc của vương triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Câu hỏi vì sao ông lấy quốc hiệu "Minh" cũng là câu đố lịch sử hấp dẫn. Trong Minh giáo với đế quốc Đại Minh, được nhận định: "Chỉ có Minh Thái Tổ năm Chí Chính thứ 27 (1367) lấy niên hiệu Ngô Nguyên Niên, năm sau lên ngôi hoàng đế lấy quốc hiệu Đại Minh, niên hiệu Hồng Võ. "Ngô" không phải là quốc hiệu, "Minh" không phải địa danh lúc đầu khởi nghĩa hay quan tước được phong, cũng chẳng phải truy nguyên nguồn gốc từ Hậu Đường, Hậu Hán..."[1]. Quốc hiệu "Minh" thể hiện một số đặc điểm riêng tư trong cuộc đời của vị hoàng đế nông dân này, vì danh xưng có liên hệ đến "Minh giáo", "Đại tiểu Minh Vương xuất thế kinh" mà ông từng là giáo đồ. Sau khi lên ngôi hoàng đế ông cho nghiêm trị tất cả những giáo đồ Minh giáo và cả Bạch Liên giáo. Ai tham gia các giáo phái này đều bị xử trảm. Minh giáo ngày càng suy yếu, đến cuối đời Minh đầu đời Thanh đã hoàn toàn biến mất. Chính sách tôn giáo Đối với Hồi giáo Nhà thờ Hồi giáo Tịnh Giác ở Nam Kinh được xây dựng theo sắc lệnh của Minh Thái Tổ. Minh Thái Tổ đã hạ chiếu cho xây dựng một số nhà thờ Hồi giáo ở Nam Kinh, Vân Nam, Quảng Đông và Phúc Kiến, và cho khắc những lời ca tụng nhà tiên tri Muhammed trong các nhà thờ. Nhà vua cho xây lại Tịnh Giác tự (净觉寺) ở Nam Kinh và một lượng lớn người Hồi chuyển vào thành phố trong thời Hồng Vũ. Phụ nữ và đàn ông Hồi giáo Mông Cổ và Trung Á được luật pháp của nhà Minh cho phép kết hôn với người Hán sau khi Minh Thái Tổ thông qua luật này tại Điều 122. Một số tài liệu cho thấy Minh Thái Tổ giữ mối quan hệ thân cận với người Hồi giáo, và có khoảng 10 vị tướng dưới trướng nhà vua là người Hồi giáo, trong đó có Lam Ngọc, Mộc Anh, Hồ Đại Hải, Hoàng đế còn cho viết một bài văn 100 chữ ca ngợi đạo Hồi, thánh Allah và nhà tiên tri Muhammed. Năm 1369, vua Trần Dụ Tông của nước Đại Việt (Minh thực lục ghi là Trần Nhật Khuê) đã sai sứ sang triều cống Minh Thái Tổ, trở thành vua lân bang đầu tiên cử sứ sang triều cống nhà Minh. Minh Thái Tổ từ chối can thiệp vào Chămpa khi Đại Việt liên tục có chiến tranh với người Chăm, chỉ thể hiện một sự trách cứ và không ủng hộ hành động đó với người Việt. Tuy nhiên, khi vua Trần Duệ Tông bị tử trận trong lúc thân chinh đi đánh Chămpa năm 1377, Minh Thái Tổ lại muốn nhân cơ hội ấy để xâm lăng Đại Việt. Sau khi nghe thái sư Lý Thiện Trường khuyên can, ông đã bỏ ý định ấy và vào đầu thế kỷ 15, Đô Đốc Trịnh Hòa thừa lệnh nhà Minh, giữ vai trò quan trọng trong việc xây dựng mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Hồi Giáo. Đô Đốc Trịnh Hòa vượt biển tới Malacca đưa công chúa Trung Hoa là Hán Lệ Bảo được gả cho quốc vương Malacca, vua Mansur Shah. Công chúa đi cùng với đoàn tùy tùng của mình - gồm 500 con trai của các quan vài trăm cung nữ. Nhà Minh cho dựng mối quan hệ giữa Trung Quốc và các quốc gia Hồi Giáo. Ông đặc biệt căn dặn các hoàng đế tương lai chỉ nên phòng thủ trước các bộ tộc phương bắc, không nên thực hiện việc tấn công nhằm mở rộng bờ cõi ở phương nam và tìm kiếm vinh quang. Trong Hoàng Minh Tổ Huấn viết vào năm 1395, Minh Thái Tổ viết rõ rằng các vua kế vị Nhà Minh không nên cậy giàu mạnh mà tham chiến công, dấy binh tấn công các quốc gia láng giềng. " … Những nước Tứ Di đều núi ngăn biển cách, lánh tại một góc, lấy được đất họ không đủ để cung cấp, thu được dân họ không đủ để sai khiến. Thế nhưng, những người Hồ - Nhung kề biên giới phía tây bắc, liền tiếp lẫn nhau, nhiều đời tranh chiến, thì phải chọn tướng rèn binh, lúc nào cũng nên phòng giữ cẩn thận. Nay đề tên những nước Di không được đánh, xếp đặt ở sau đây: - Phía đông bắc: Nước Triều Tiên. - Phía chính đông lệch bắc: Nước Nhật Bản. - Phía chính nam lệch đông: Nước Đại Lưu Cầu [Okinawa], Nước Tiểu Lưu Cầu [thuộc Okinawa]. - Phía tây nam: Nước An Nam [Đại Việt], Nước Chân Lạp [Khmer], Nước Xiêm La [Sukhotai], Nước Chiêm Thành, Nước Tô Môn Đáp Lạt [Sumatra], Nước Tây Dương, Nước Trảo Oa [Java], Nước Bồn Hanh, Nước Bạch Hoa, Nước Tam Phật Tề [Srivijaya], Nước Bột Nê [Borneo]" Thế nhưng Minh Thái Tổ có những phản ứng rất gay gắt đối với những kẻ cố gắng đe dọa Trung Hoa. Bên cạnh việc thường xuyên Bắc tiến, nơi mà lực lượng quân đội của nhà Bắc Nguyên"[10], do việc đánh phá liên tục của bọn cướp biển Oa Khấu Nhật Bản ở bờ biển Hoa Đông[11][12]. Mạc phủ Ashikaga táo tợn trả lời "Đế quốc vĩ đại của ngài có thể xâm chiếm Nhật Bản, nhưng nhà nước nhỏ bé của chúng ta không thiếu chiến lược để tự bảo vệ mình."[13]. Ngoại thương tư nhân đã bị trừng phạt bằng cái chết, với gia đình và hàng xóm bị lưu đày; tàu, bến cảng và nhà máy đóng tàu bị phá hủy, và các cảng bị phá hoại. Mục đích của kế hoạch dường như là tận dụng nhu cầu cao của người Nhật đối với hàng hóa Trung Quốc để buộc họ phải tuân theo. Tại Quốc tử giám, luật pháp, toán học, thư pháp, môn cưỡi ngựa và bắn cung đã được Thái Tổ nhấn mạnh bên cạnh kinh điển Nho giáo và cũng được yêu cầu trong các kỳ khoa cử của triều đình. Bắn cung và cưỡi ngựa đã được Thái Tổ bổ sung vào kỳ thi năm 1370, tương tự như cách bắn cung và cưỡi ngựa được yêu cầu đối với những người không phải quan võ tại Trường Chiến tranh (武舉) vào năm 1162 bởi Tống Hiếu Tông[26]. Khu vực xung quanh Cổng Meridian của Nam Kinh được sử dụng để luyện bắn cung bởi các lính canh và tướng lĩnh dưới trướng Minh Thái Tổ[27]. Một đội quân kỵ binh được mô phỏng theo quân đội nhà Nguyên được thực hiện bởi các vua Minh Thái Tổ và Minh Thành Tổ[28]. Quân đội và quan lại của Thái Tổ hợp nhất với Mông Cổ[29]. Cưỡi ngựa và bắn cung là những trò tiêu khiển yêu thích của He Suonan, người phục vụ trong quân đội nhà Nguyên và nhà Minh dưới thời Hồng Vũ[30]. Tháp bắn cung được xây dựng bởi Minh Anh Tông tại Tử Cấm Thành và tháp bắn cung được xây dựng trên các bức tường thành phố của Xi'an đã được Hồng Vũ dựng lên[31][32]. Minh Thái Tổ cũng đã viết các bài tiểu luận được đăng ở mọi ngôi làng trên khắp Trung Quốc để cảnh báo người dân nên lưu ý cách cư xử nếu không muốn phải đối mặt với những hậu quả khủng khiếp. Các tác phẩm của Thái Tổ trong thập niên 1380 bao gồm "Những cảnh báo lớn" hoặc "Những dự đoán lớn" và "Những chấn thương tổ tiên". Ông đã viết sáu phương châm (六諭[33], 聖諭六言[34][35][36][37][38]) đã truyền cảm hứng cho Sắc lệnh thiêng liêng của hoàng đế Khang Hy sau này[39][40][41]. Sát hại công thần Giống như Lưu Bang nhà Hán, Minh Thái Tổ đã gây ra nhiều vụ án gây ra nhiều vụ xử án đến nhiều người. Tống Liêm là thầy của Thái tử, từ những năm đầu đã theo làm tham mưu cho Thái Tổ vào sinh ra tử chốn quân trường, lập được nhiều công to, làm quan đến chức Học sĩ Thừa chỉ tri chế cáo. Thái Tổ cũng viện cớ để giết ông ta, Thái tử thấy thầy bị kết án chém, rơi lệ cầu xin cho thầy. Để dạy bảo Thái tử, ông cho mang một cây roi lớn có đầy gai nhọn quẳng xuống đất, bảo Thái tử nhặt lên. Thái tử có vẻ lúng túng, nhà vua liền dạy rằng: “Cây roi có gai ngươi không nhặt, vậy để ta róc hết cái gai nhọn thay ngươi nhé?” Thái tử thông minh hiểu được ý của cha, nhưng cũng không cho là đúng, liền khuyên giải vua cha một cách khéo léo rằng: “Trên mà có vua Nghiêu Thuấn, thì dưới sẽ có dân Nghiêu Thuấn.” Ngụ ý là làm vua không được tàn bạo. Thái Tổ rất giận dữ, liền tóm lấy ghế quẳng về hướng thái tử. Việc này cho thấy Hồng Vũ Đế sau khi đã ngồi trên ngai rồng đã xem công thần là những gai nhọn cần phải loại bỏ. Chính sách khắc nghiệt của nhà Minh đã tạo Ngai vàng của họ rất ngắn, sớm sụp đổ. Minh Thái Tổ (chữ Hán: 明太祖, 21 tháng 10, 1328 – 24 tháng 6, 1398), tên thật là Chu Hưng Tông (朱興宗 ), còn gọi là Hồng Vũ Đế (洪武帝), Hồng Vũ quân (洪武君), hay Chu Hồng Vũ (朱洪武), thuở nhỏ tên là Trùng Bát (重八), về sau Quách Tử Hưng đặt Tên Là Nguyên Chương (元璋), tên chữ là Quốc Thụy (國瑞). Ông là vị Hoàng đế khai quốc của Hoàng triều nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, cai trị từ năm 1368 đến 1398. Các sử gia gọi thời kỳ cai trị của ông là Hồng Vũ chi trị (洪武之治). Ông được xem như là một trong những Hoàng đế vĩ đại nhất của Trung Quốc nhờ các công trạng to lớn của mình với đất nước, nhưng cũng bị chê trách vì sự hà khắc, cũng như sát hại hàng loạt những công thần khai quốc trong thời gian nắm quyền. Vào giữa thế kỷ XIV, cùng với nạn đói, thiên tai, dịch bệnh và các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra khắp nơi, Chu Nguyên Chương trở thành nhà lãnh đạo của một lực lượng đã chinh phục Trung Hoa và chấm dứt nhà Nguyên, buộc người Mông Cổ phải rút vào thảo nguyên Trung Á. Với việc chiếm được Đại Đô của nhà Nguyên, ông tuyên bố Thiên mệnh thuộc về mình và lập ra nhà Minh vào năm 1368. Chỉ tin vào gia đình, ông phân phong đất đai cho các con trai thành các phiên quốc trấn thủ các vùng đầm lầy phía bắc và thung lũng sông Dương Tử. Đích trưởng tử, Thái tử Chu Tiêu và Đích trưởng tôn Chu Hùng Anh của ông chết sớm, những việc này đã khiến ông chọn Đích tôn Chu Doãn Văn làm người kế vị cùng với việc ban bố Hoàng Minh Tổ Huấn. Nhưng những việc này đều thất bại, khi Chu Doãn Văn quyết định ra tay thanh trừng những người chú của mình. Điều này đã dẫn đến cuộc nổi loạn thành công của Yên vương Chu Đệ, con trai thứ tư của ông. North China: Xianbei, Siberian, Jurchens, Mongols, Khitan, Manchus tribes |
88
No comments:
Post a Comment