Wednesday, June 1, 2022

Chuyện Nhà Binh/Chuyện Lính

blogging





Avatar Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu Thủy Quân Lục Chiến Avatar



CUỘC ÐỔ BỘ TRONG LÒNG ÐỊCH




Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu


Mùa Hè Đỏ Lửa 1972









 

 

CUỘC ÐỔ BỘ TRONG LÒNG ÐỊCH





Trung Tá Nguyễn Ðăng Hòa

 

2






  • 01 Hổ Nhớ Rừng Trên Bàn Nhậu
    - Phan Nhật Bắc
    https://youtu.be/xe7lLDhHB1A



    https://youtu.be/nLpb1B5HbVw



    https://youtu.be/nLpb1B5HbVw



    03 Hổ nhớ rừng trên bàn nhậu - Phan Nhật Bắc
    https://youtu.be/ld7o9D_Qoyc



    https://youtu.be/I4xAEhzTSvo



    https://youtu.be/uyA9JeQsnSg



    https://youtu.be/jiYQn8L0_ZA



    https://youtu.be/avDFG3a94N0






 

 

(




Hổ Nhớ Rừng Trên Bàn Nhậu

- Phan Nhật Bắc

Bài đánh chưa xong đành đứt chếnh,
Ván cờ chưa dứt đã buông tay.


(Vô danh)


Câu chuyện bên bàn nhậu vô thưởng vô phạt, người viết chỉ viết lại từng câu chuyện ba ông Lính già thứ dữ, nhớ về dĩ vãng như Hổ nhớ rừng, nếu có đụng chạm đến một ai đó xin thứ lỗi (Phan Nhật Bắc.)

45 năm sau ba ông bạn nối khố gặp nhau trên miền đất tạm dung, rượu vào lời ra ba ông là lính thứ dữ TQLC và Nhảy Dù và ông lính Lôi Hổ ngồi bên ly rượu Vang đỏ, ông nào cũng kiêng cữ đủ thứ vì Mỡ Đường Máu, nên bia bọt bị mấy bà cấm tối đa bắt đầu câu chuyện.

– Hôm nay ngày Quân Lực tao thấy mấy ông cùng binh chủng của tụi mày bảnh chọe đồ rằn ri đang diễn hành sao hai thằng mày không tham gia?

– Mẹ... tao thấy mắc cỡ và nhục vô cùng, nhìn mấy ông diện đồ rằn, cùng với mấy mụ nạ dòng cũng khoát vào bộ cánh rằn ri sao tao tởm quá!

– Bên Việt Nam tụi dỡ người dỡ đười ươi nó cũng có phong trào mặc đồ lính Ngụy đủ loại tả pí lù giống như nồi nước lẫu.

Dù là Rượu đỏ nhưng uống vào lâu cũng thấm như mưa dầm lâu ngày, ông TQLC có danh hiệu truyền tin tên Hắc Long lên tiếng:

– Hôm nay phá lệ, tụi mình nhậu lại bằng rượu, thằng nào nhậu được thì nhậu tao không ép.

Hắn lên tiếng gọi vợ:

– Người đẹp sầu muộn, em đem chai rượu Remy Martin cho anh!

– Trời! Mấy ông bị bác sĩ cấm mà sao còn nhậu rượu!

– Thôi mà em, thông coảm đi, lâu quá không gặp nhau cho phá giới một bữa.

Lèm bèm rồi bà vợ cũng vào lấy rượu. Trời melbourne đã vào Đông nền trời xám xịt câu chuyện râm rang bắt đầu từ ông Lôi Hổ:

– Mẹ... tụi bây biết không? Ngày gần đứt phim mà tao còn nhảy vào rừng, không biết do lệnh từ đâu. tTụi tao sáu thằng nhảy vào khu rừng lá lúc đó thì Nha Trang đã di tản Phan Thiết đã mất ngày 19 tháng 4, khi trực thăng thả xuống một cánh rừng rậm gần Quốc Lộ 1 với nhiệm vụ là do la tin tức các toán tiền trạm của bộ chỉ huy miền của Việt cộng ở đây, mẹ... họ vừa đến một con suối nhìn thì thấy cả một tiểu đoàn Việt cộng đang đóng quân, tụi nó tắm nấu ăn nhởn nhơ như đi cắm trại, tụi tao lui ra đánh dấu khu vực trên bản đồ rồi gọi máy về trung tâm hành quân xin đánh bom và xin trực thăng bốc về, nhưng không liên lạc được, các tần số rối loạn. Đang lui cui với cái máy liên lạc nhỏ do tụi Mỹ cung cấp để tìm tần số không lưu thì tiếng đạn Ak nổ chát chúa chóc chóc chóc tiếng súng báo động của Việt cộng là có Biệt Kích, thì cả dòng suối bọn Việt cộng trần như nhộng chạy lên bờ vác Ak bắn như điên dại vào. Tụi tao không bắn lại, chạy trối chết về phía "Quốc Lộ, rơi vào khủng hoảng. Trời đã về chiều, không dám di chuyển vì Việt cộng nhiều quá. Chúng ém quân đầy rừng, len lỏi tránh chúng nó, đến được khu vực an toàn liên lạc tiếp thì không một ai lên máy, tụi tao bị bỏ rơi, cả bọn thất vọng.

– Thôi tụi mình chia ra ngủ tạm đêm nay mai tính tiếp, đừng đốt lửa, thay phiên nhau gác.

Đến 5 giờ sáng tụi Việt cộng di chuyển náo động cả khu rừng. Không một chiếc phi cơ nào của ta lên vùng oanh kích, chẳng hiểu được tình bên ngoài như thế nào?

Tiếng chiến xa Việt cộng băng rừng di chuyển không xa tụi tao bao nhiêu, tao nói nhân danh trưởng toán tôi quyết định chia ra làm hai, mỗi toán tự mình tìm đường về, tình hình theo tôi đã quá tệ. Thì không một ai đồng ý nếu chết thì chết hết, nhìn những khuôn mặt sầu thảm thất vọng tao nói:

– Tụi mình đã từng như thế này nhưng không gián đoạn liên lạc. Đây là lần đầu tiên bây giờ chúng ta tính sao?

Cả bọn đồng ý rút lui vào sâu trong cánh rừng tránh Việt cộng. Lương thực đầy đủ cho một tuần, và di chuyển hướng Nam về Long Khánh. Cuối cùng thì tụi tao ra quốc lộ ngay trưa 30 tháng Tư, đâu biết Ông Dương Văn Minh đã đầu hàng!

– Rồi sao nữa bạn?

Tiếng lè nhè của ông TQLC.

– Người dân nói -- Hòa bình rồi. Ông Minh đầu hàng rồi, các anh về nhà đi!

Cả bọn tao sụm xuống chân đi không nỗi hỏi:

– Thiệt không?

Thì một chiếc xe jeep trờ tới, bọn du kích dí súng vào mang tai chực bắn thì dân lên tiếng:

– Người ta đầu hàng rồi! Hòa bình rồi mấy ông còn giết người sao?

– Bọn Biệt Kích mang nợ máu, nhân dân khử chúng nó đi!

Sau một hồi bàn tán gì đó, tụi du kích kè tụi tao lên xe mang về ngã tư Bảy Hiển thả xuống và hăm dọa:

– May cho tụi mày vì đã giết một mớ rồi nên Dân phản đối, tìm đồ dân sự mặc vào về nhà đi, những toán ra trước đã bị giết thả trôi sông.

Tụi tao lếch thếch vô nhà dân xin đồ mặc, ra về... thì tao thấy tụi Việt cộng chở đầy nhóc, đám “Biệt Kích Dù" không súng đạn thả xuống cách tụi tao không xa. Mẹ... tao chẳng hiểu ất giáp gì cả, sau này đọc lại bài viết của Ông Huấn mới biết là -- mấy ông đầu hàng cuối cùng và Việt cộng cho xe chở các quan về.

Bên kia ông lính Dù mắt nhướng lên nhìn sau cặp kính lão, rượu hết rồi. Ba thằng một chai Remy này chẳng thấm vào đâu, thì ông TQLC Hắc long lên tiếng:

- Mẹ... Tao tâm đắc nhất câu nói của ông Lân (Bùi Thế Lân Tư Lệnh TQLC) nói với ông Trưởng: "Mẹ... lui binh như thế này chết Lính của tao!"

Lúc này có bốn ông khóa 4 Thủ Đức tại Vùng I, tất cả là Tư Lệnh Quân Đoàn và Sư Đoàn chẳng ông nào phục ông nào. Ông Trưởng tới bản doanh của Sư Đoàn TQLC ngồi chờ cả tiếng đồng hồ mới được bái kiến, ông bạn cùng khóa đang là tư lệnh Sư Đoàn TQLC, mày biết không, cả một Lữ Đoàn bị một Đại Đội du kích bắt sau khi hết đạn. Mẹ... họ tao chưa từng chứng kiến một Lữ Đoàn Lính Thủy Quân Lục Chiến mang tiếng thiện chiến, trang bị vũ khí tối tân mà bị mấy tên du kích nhãi nhép bắt, mà có tên du kích mặc áo cà sa nhà Tu mới hận.

- Mẹ... thì mày đã chứng kiến rồi còn théc méc gì nữa ông boạn!

ông Nhảy Dù lè nhè lên tiếng, ông Dù gốc Quảng Nam nên nói ra còn âm hưởng: Mày biết không, cứ mày biết không? Cả ba ông kéo dài cho đến mặt trời xuống núi. Ông Nhảy Dù chực nhớ là mình phải nói về binh chủng của mình chút đỉnh để vinh danh.

- Ngày 17 tháng 3 Sư Đoàn Nhảy Dù được lệnh chia làm hai: một lên HQ 404 về sài gòn tụi tao mừng thí mẹ, kỳ này về thăm em cho đỡ nhớ nhung, có thằng nào đi chinh chiến mà không nhớ cái nụ hôn và cái húm thì thằng đó nó liệt mất rồi.

Bà vợ ông Hắc Long nghe đến đó thì nguýt một cái nói:

- Mấy ông cứ lè nhè ba cái chuyện cũ.

- Có cũ mới có mới chứ em!

- Mà lúc đó em cũng mong đôi bàn tay anh vẫn kiêu sa vẫn nhớ nhung em khi xa nhà.

Bà vợ lắc đầu vào nhà để cho mấy ông già dịch ngồi mơ dĩ vãng.

- Tụi bây biết không? (lại biết không?) Tưởng về Sài Gòn tụi tao mua nón lá mua kẹo mè xửng về làm quà cho các em và vợ, thì Lữ Đoàn 3 tụi tao bị đổ xuống Nha Trang mà tụi Hải Quân nói là ghé Nha Trang. đổ hàng mẹ họ hỏi ra thì hàng hóa là tụi tao Lữ đoàn 3 nhảy rù ù, hắn nhại tiếng Dù thành Rù... Ông già Phát tụi tao gọi là bố già chuyển quân lên Khánh Dương bộ chỉ huy Lữ đoàn đóng tại Dục Mỹ,nhiệm vụ là chặn địch tại Đèo Khánh dương giúp cho các đơn vị Quân đoàn 2 về Nha Trang an toàn, tụi Việt cộng tung Sư đoàn 320 và Sư đoàn 10 đánh ngang hông, với quân số đông gấp 6 lần tụi tao chịu không thấu ngày 28 tháng 3 tụi tao rút về Phan Rang bỏ lại anh em bị thương và xác chết, tụi tao không còn nước mắt để mà khóc, rồi một cái lệnh nào đó từ Quân đoàn đem tụi tao lên Núi trấn đóng không có giá trị chiến thuật

- Sao tao nghi quá không lẽ ông Thiệu muốn triệt tụi tao vì Ông Lưỡng có đề nghị với ông Trưởng là để Sư đoàn Dù về Sài gòn làm một chuyến đảo chính kế hoạch đã lên, nhưng ông Trưởng không dám,thì tụi tao được bốc, lúc đó Nha Trang đã bị Việt cộng chiếm, hơn 40 chục chiếc trực thăng bay ầm ầm trên không phận an toàn như ngày xưa chẳng có viên đạn nào bắn lên mới lọa, về Phan Rang được hai ngày thì có lệnh về Sài gòn Lữ Đoàn 2 ra thay thế, tụi tao mừng rỡ, không biết Bộ tổng tham mưu tính sao? Lẽ ra phải ở lại tăng cường thêm sức mạnh để chống Việt cộng tại Phan Rang, địch như dòng thác lớn Sư đoàn 320 và 310 đang di chuyển rất nhanh theo sự rút lui của tao.Tụi tao về trại Hoàng hoa Thám đánh một trận cuối rồi tan hàng chỉ có khoảng 400 lính Lữ Đoàn 1 ra đi đến Mỹ thành lập gia đình Nhảy Dù.

Phố đã lên đèn ba ông già đã lè nhè, chân đá Nam đá Bắc vợ con đến rước, còn hẹn tuần sau gặp lại, ông Tqlc Hắc Long đã gục ra bàn, ông Lôi hổ thì lên xe đòi lái vợ la bài hải:

- Bộ ông muốn mất bằng hả? Cảnh sát đang chờ ông ngoài kia. ông Nhảy Dù thì nằm bẹp ở ghế sau, đứa con gái rượu và thằng rể chở về câu chuyện ba ông quan sẽ tiếp diễn ở chương hai của tập truyện ‘Hổ nhớ rừng bên bàn nhậu’.
......


Ngày N

Cuộc gặp nhau cuối tuần lại tiếp tục...

– Hai thằng mày Application hưởng tiền Cựu Quân Nhân chưa?

- Rồi! Chờ cứu xét, tao nghe tụi cựu chiến binh Úc nói tụi Việt cộng giả danh lính mình ngày xưa có giấy ra tù cải tạo đàng hoàng đang hưởng tiền Cựu quân quân nhân Đồng minh – ghê thật bây bây giờ chúng như Ma xó nơi nào cũng cũng có, bó tay!

- Kể ra ông ông bạn Úc tốt thật nhưng số quân 75 chắc không được cứu xét nữa vì Úc rút quân sau khi hiệp định Ba Lê ký xong, bên Không quân Úc có phi công lái C 130 Việt Nam nhưng xuống một bậc.

– Dzậy là ngon rồi, lúc tao mới qua Úc xin đi lính tụi nó không cho hỏi tao Lính gì tao nói Lôi hổ ông ta lắc đầu bên này chỗ đâu mà mày nhảy toán,chỉ có khu Kings Cross và St Kilda mày muốn thì nhảy lúc nào cũng được xong ông ta cười hô hố tao cũng nhe răng cười theo chẳng biết gì , mẹ sau này hiểu ra khu này là ngã ba đèn đỏ của mấy em buôn hương bán phấn.

Ông Hắc Long mặt lừ đừ đem ra bình trà rồi nói:

- Mình chiến đấu bánh canh giò heo rồi tính chứ mới bảnh mắt tụi mày kéo đến nhậu sao nỗi. Mỡ Đường Máu mà gặm thứ này leo lên bàn thờ sớm ông Nhảy Dù than.

- Lâu lâu ăn một lần mày không ăn để tao, ông ăn tạp nhất là ông Lôi hổ ông ta nói ăn thịt gà phải ăn da nó mới ngon.

Ông Lôi hổ gặm khúc giò heo, con cháu gái của ông Hắc long nhìn ông gặm rớt lên rớt xuống rồi nói

- Ngoại ơi ông Ngoại kia gặm xương giống con Dog rớt hoài,

cả bọn cười rần lên nhìn ông Lôi hổ, hàng tiền đạo của hàm răng trống trơn, hèn gì con bé nó cứ cười hoài.

- Con nhìn ông ngoại mày đi có gì khác đâu?

- Mà răng mấy ông ngoại đâu hết rồi ? Nó lên tiếng hỏi

– Cả ba người không trả lời, chực nhớ lại thằng nào cũng gần bảy bó, một nỗi buồn vây quanh.

- Tụi bây biết không? Năm 1972 tụi tao và Nhảy Dù tái chiếm cổ thành Quảng Trị lúc đó tụi mình mới ra trường lon Chuẩn Úy còn thơm cái mùi cơm nhà bàn, có đụng trận lần nào vừa xuống phi trường thì ăn đạn pháo kích tao chúi đầu vào xuống mương đưa cái đít lên thì bị tống cho một đạp tức quá tao quay lại thấy ông Đại đội trưởng mặt hầm hầm:

- Anh là sĩ quan mà trốn pháo kích như thế này lính nó cười làm sao mà chỉ huy?

Nhìn chung quanh đám lính nó cười đa số là tụi quân phạm bổ xung thằng nào cũng có số má ít nhất là 5 thứ lính,mẹ đôi khi tụi nó trình diện đọc số quân cũ tao cũng làm thinh mấy ông Thần này đánh giặc hăng lắm nhưng lãnh tiền đầu quân xong là biến mất, thời gian cũng làm tao trở nên dày dạn.

Sau khi Nhảy Dù nuốt không vô cái Cổ thành đó tụi tao được lệnh thay thế bằng mọi cách phải chiếm lại để làm ưu thế trên bàn hội nghị Ba Lê, xác thân tụi tao thanh niên miền Nam được đem ra mặc cả trên bàn tròn xa tít đâu đó, ngày 16 tháng 9 năm 1972 tụi tao vào cổ thành xác lính nhảy dù và lá cờ nằm vương vãi khắp chân cổ thành, tụi vc chém vè để lại không biết bao nhiêu nhân mạng có tên bị xích vào chân súng phòng không chết tức tưởi lúc đó sống và chết như sợi tóc tụi tao chẳng có một chút cảm xúc nào hết, chiến tranh chết là chuyện bình thường.tao lật một xác việt cộng còn trẻ moi ra cuốn sổ tay nó viết Nhật ký hàng ngày.

- Mẹ ơi! Hôm nay Mỹ nó pháo từ biển vào, một trận mưa pháo khủng khiếp như một cơn địa chấn chắc quả Đất cũng không chịu nổi huống chi thân người, máu tai ứa ra, đồng đội con gục chết vì pháo và bom, chỉ còn 5 người trong một đại đội bổ xung từ Vĩnh Linh, con chết mất mẹ ơi chắc con không sống về với mẹ với em, chiến tranh sao quá tàn ác, con đâu muốn đi B (đi bưng), nếu con không đi thì gia đình bị cắt hộ khẩu bị kết tội phản động, đọc đến đây thì ông Hắc Long tịt ngòi.

- Sao không đọc tiếp!

Ông Nhảy Dù hỏi:

- Tao chỉ nhớ nhiêu đó.

- Bao nhiêu năm tao còn nhớ khuôn mặt thằng bộ đội tuổi cở em tao, khoảng 17 tuổi.

Ông Lôi Hổ chợp thời cơ khi ông TQLC hết lời. Câu đầu tiên khỏi cần nghe cũng biết là ...Tụi bây biết không... đây là câu Kinh Nhật tụng mỗi khi ông nói chuyện.

- Tụi bây biết không? Có lần tao nhảy toán vào một căn cứ ở Kon Tum căn cứ 6 thì phải lúc đó Lữ đoàn 3 Dù đã phá vây về đường bộ giao cho Sư đoàn 22 trấn gũi nhưng bị VC nó chiếm lại nhiệm vụ tao nhảy vào để thẩm định tình hình và báo về bộ chỉ huy hành quân cho B52 tiêu diệt từ căn cứ B 15 tại Kon Tum leo lên trực thăng thả cách căn cứ 6 cây số đường chim bay tụi tao lội từ trưa đến chiều mới đến chân căn cứ toán chỉ ba người tao trưởng toán ăn mặc như Cộng sản, tụi bộ đội đông nghịt không biết tụi nó ở đâu ra chúng không cảnh giác gì hết tụi tao chạm mặt bất thình lình chúng không nghi ngờ vì trời vừa chạng vạng tối, tao tưởng mạng tụi tao coi như xong, nhưng không ai nghi ngờ hỏi han, tụi tao gắn xong thiết bị định vị cho B52 thì có lệnh chạy về hướng Đông thật nhanh đến 10 giờ chẳng biết được bao nhiêu cây số cứ theo đường rừng mà chạy thì trên trời tiếng rú của cánh quả bom rơi xuống như một trận mưa,một vùng sáng loà nhá lên sau đó tiếng nổ đùng đùng vang lên ba trận, tao nghĩ căn cứ đó bị xóa sạch, trực thăng phi đoàn 219 lên đón tụi tao về thì toán khác nhảy vào để biết kết quả toán đó không có tên nào trở lại sau đó B15 giải thể tao về lại phòng 7 tổng tham mưu, tụi mày nếu không phải là dân nhảy toán không biết sự khác nhau giữa Nha Kỹ Thuật, Phòng 7 và Lực Lượng Đặc Biệt, ba cơ quan khác nhau, nhiệm vụ khác nhau.

- Mẹ họ nói vừa thôi cũng chỉ là nhảy toán, ông Nhảy Dù lên tiếng:

- Mày câm cái mồm ăn củ mì của mày lại (tụi tôi gọi là củ Mì Quãng nam ông giá sống là Vĩnh Long, ông rau muống là lôi hổ) nghe tao nói tao là sở Nam chuyên nhảy ở miền Nam, còn sở Bắc là nhảy ra Bắc với tụi Mỹ, tao là MACSOG ‘Underground Activities Rescue & Stategic Technical Directorate).

- Mẹ tên gì mà dài thòng, thôi tạm dừng ông Hắc Long lên tiếng bây giờ đến hơi men tao uống rượu đỏ không chơi rượu mạnh nữa thằng nào theo thì theo.

- Hôm qua tao đọc một bài viết của ông bác sĩ Nhảy Dù Phạm Gia Cổn tao thấy mắc cỡ vô cùng.

- Sao mày nói thử xem, ông ta viết lúc ở Quảng Trị năm 1972 Bộ chỉ huy ông lãnh một ngày một ngàn quả đạn pháo mỗi ngày, ông cứ nhảy lên nhảy xuống giao thông hào băng bó cho thương binh, rồi nhảy xuống nấp, tao tưởng tượng ra ông ta mình đồng da sắt nên không sứt mẻ, còn có ông cũng Nhảy Dù khóa 22 võ bị lãnh nguyên trái B40 mà chỉ gãy cây M16 mà trái đạn bắn tầm gần với tốc độ gần 400 cây số một giờ với đầu đạn cháy nổ ông ta chỉ nghe 'rắt' cái đùi tao bái mấy ông này, không biết sao qua đây ông nào cũng nổ văng miểng. Khóa 20 Võ Bị ông Vương Mộng Long bên BĐQ ông Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82 viết đánh trận nào cũng thắng và sau ngày 30 tháng 4 có tên Trung Đoàn Trưởng Việt cộng tìm đến nhà ông bắt tay khen ngợi vì hai ông chạm trán nhau tại Quảng Đức.

- Mẹ... thời thế đảo điên một ông Thiếu tướng sau khi chạy trước hàng quân ở Phan Rang ra tàu Hải quân bây giờ viết hồi ký tự phong Trung tướng, còn ông bợ đít bà Phú ngồi ở nhà viết cuộc triệt thoái Cao Nguyên tự phong lên Đại tá, mà người ta lại dựa vào tài liệu này để viết Quân sử mới chết.

- Còn lấy cuốn Sài Gòn ét Moi một cuốn sách ma gán cho ông cựu Đại Sứ Pháp tại Việt Nam viết rồi chửi ông Minh thậm tệ, còn ông TT chạy trước hàng quân không ai nói,mày mà coi tấm hình ông Thiệu tươi cười lúc gặp phóng viên tại Phi trường Đài Bắc sau khi miền nam mất 3ba tháng ông ta được nước Anh cho đoàn tụ với vợ con đi trước sang Anh mày sẽ chửi thề mẹ họ ông giết biết bao nhiêu người với cái lệnh quái ác của ông rồi nhởn nhơ ra đi, khi chết được phủ cờ. Trời ạ! Mấy tên thợ hát, khi chết cũng được phủ cờ, tao hết ý.

- Mẹ mấy ông còn vác cờ chống nhau khi tụi Việt Cộng ngồi nhậu rượu quý ở nhà hàng ở Little Saigon, chúng nó cười khẩy:

- Mày có khiếu viết văn, viết đề tài bên bại trận đi ông Lôi Hổ!

- Ừ! Tao nghiệm ra tao cũng có khiếu, nhưng tao về nói với thằng bạn Quân y chung trường Thiếu Sinh Quân nó viết hay lắm.

- Tao có đọc bài của ông Thiệu trả lời nhà báo BBC Michael Charlton sau Hiệp Định Ba Lê rất khôn ngoan mà sao ông lại không đầu hàng cộng sản sớm, thương lượng để miền Nam trả 1ại năm lương cho quân đội và công chức cô nhi quả phụ rồi bàn giao trong danh dự?

Tiền vàng bỏ lại cho tụi Bắc hưởng, ông ta biết là tụi Mỹ nó phủi tay mà cứ ôm lấy cái ghế, hay là ông ta cố ý phá nát quân đội cho tụi cộng sản/Việt cộng dễ dàng xâm lăng?

- Mẹ biết đâu ông ta cũng là nội tuyến Cộng sản như Ông Lê Quang Lưỡng có lần muốn về đảo chánh và nghĩ như vậy; mày xem cuốn Lịch sử ngàn người viết chưa? của Lê Bá Chư phỏng vấn mấy ông Tướng liên hệ đến cuộc lui binh, sau này ông Quang trưởng đài phát thanh Quân Đội đã xác nhận là -- có một cuộc sắp xếp đảo Chánh nhưng tụi Mỹ đã can thiệp vì họ muốn ông Dương Văn Minh lên cầm quyền để đầu hàng.

- Thôi! Mấy ông nước mất nhà tan cũng vì mấy ông đi lính đòi hỏi nhiều quá như tụi Việt cộng nó có lương lậu gì đâu mà nó quánh mấy thằng Mỹ chạy mất dép.

Bà vợ ông Hắc long lên tiếng,-

- Trời em ơi sao nỡ nào nói thế!

ông Lôi hổ lên tiếng:

- Nghĩ cho cùng vợ mày nói đúng, tụi mình được huấn luyện theo cách đánh nhà giàu, khi thiếu hụt phi pháo thì chơi không lại tụi thí mạng cùi nó uống chất kích thích tấn công như chó điên tao bắt mấy thằng tù binh trong trạng thái kích thích nó chửi ra rả tụi tao như Đảng và bác dạy nhưng khi thuốc hết tác dụng tao hỏi tụi bây muốn sống để về gặp vợ con không thì chúng quỳ lạy van xin -Thủ trưởng cho tụi em sống tụi em bị ép đi B, thấy lính Nhảy Dù ông nào ông nấy đen thui bặm trợn lấy lưỡi lê ra mài trước mắt chúng chúng đái ra quần,

Tiệc tàn, ba ông chia tay hẹn gặp tại nhà ông Nhảy Dù. Câu chuyện tiếp tục bên bại trận.
Nhà ông Nhảy Dù nằm dưới chân đồi nho, có giàn nho mọng trái, có giàn Thiên lý rất trữ tình vừa xuống xe ông Hắc long Tqlc hát:

- Nhà tôi ở dưới chân đồi có giàn Thiên lý có người tôi yêu, Anh pháo cho khéo nhé! Kẻo lầm nhà tôi...

- E ông bạn thằng Lôi công đâu chưa thấy ông Nhảy Dù ra đón?

Bạn hỏi.

- Chưa chắc kẹt xe

- Thì ông Lôi Hổ lù lù chạy chiếc xe thổ tả Ford đời Bảo đại đá Dế vào. Ông này khoái chơi đồ cổ, vừa xuống xe mặt mũi ông mồ hôi nhễ nhại nói

- cái xe dỡ chứng tự nhiên chết máy ngay ngã tư đèn đỏ, tao lò mò mãi nó mới chạy lại.-

- Mày thích gái già thì ráng chịu,-nhưng tao thích nó như một nàng thôn nữ về chiều, dễ sửa không điện tử nếu dở chứng lấy contact point ra chùi gắn vào là nổ ngay còn xe bây giờ chết máy giữa đường là chịu chờ xe kéo, con Mustang này theo tao đi khắp nước Úc lên tận Darwin vào giữa sa mạc, giá bây giờ trên 20 ngàn Úc kim đó mày.

Bàn tiệc được bày ra dưới giàn Thiên lý và nho, bên phải là hồ cá kiểng ông Nhảy Dù về hưu ra sức chăm sóc nên vườn tược ngăn nắp đẹp đẽ,phía sau nhà dưới triền dốc có con suối nhỏ đầy cá lý ngư vảy to như 10 cents, không ai ăn to hơn bắp tay.

Câu chuyện tiếp tục không ngoài đề tài chiến tranh và đời lính, nó như thấm vào máu các ông, bữa tiệc được tham dự của mấy đứa cháu sinh viên ngồi phá mồi nghe mấy ông lính già nhớ về dĩ vãng tụi nó nghe tiếng Việt rất chăm chú lâu lâu chen vào:

- Con có đọc nhiều bài viết của các bác ngày xưa là lính viết trận nào phe mấy bác cũng thắng sao chạy hết sang đây?

Cả ba ông đều ngọng, đỗ thừa Mỹ bỏ rơi, không viện trợ... Bệnh đổ thừa là căn bệnh bất trị, không ông nào chịu nhận là chính các ông làm các ông mất Nước như nhà văn Lê Văn Phúc viết Tôi làm tôi mất nước. Tuổi trẻ ở Việt Nam bị nhồi sọ là "Ngụy" vi phạm Hiệp Định Ba Lê. Còn tuổi trẻ ở Hải ngoại bị nhồi sọ là VNCH bị Mỹ bỏ rơi nên thua. Thật ra các ông có đánh đâu, chỉ chạy và chạy, một đạo quân trên một triệu người 13 sư đoàn bộ binh, không quân Hải quân đứng hàng thứ 5 trên Thế giới.

Người Mỹ đã đạo diễn cuộc lui binh hay ai? Cho đến bây giờ chưa có giải đáp!

Nhưng bản văn đuổi Mỹ ra khỏi Việt Nam khi ông Dương Văn Minh lên nắm quyền do ông Đại Sứ Martin đưa cho chính quyền mới thi hành do ông Minh tiết lộ khi sang Pháp định cư, thì chúng ta cũng rõ phần nào về vai trò người Mỹ trong cuộc lui binh để Việt cộng chiếm miền Nam dễ dàng hơn.
Nếu VNCH yếu đi và ngày 29 tháng 4 người Mỹ vẫn chở bom CBU vào Việt Nam để làm gì?

Các ông Không Quân VNCH thắc mắc không biết ông bạn đồng minh tính chuyện gì? Họ viện trợ cho miền nam Việt Nam giờ cuối chỉ toàn là Colt 45 để tự sát và sư đoàn 1 không quân VNCH bất động không can thiệp khi CSVn tấn công vùng hỏa tuyến tháng 3 năm 1975.
Có những phi cơ tự nhiên phát nổ, ông Trưởng phút cuối ngồi một mình trong một căn cứ Hải quân không cận vệ, mấy ông tướng dưới quyền bỏ đi hết, đúc kết từng dữ kiện sau khi Hiệp Định Ba Lê được ký:

- Quân đội Bắc Việt vẫn trú đóng tại chỗ,
- Vũ khí một đổi 1 cho VNCH không được thi hành,
- Viện trợ bị cắt,

Nhưng nếu VNCH chịu đánh và các tướng biên cương cải lệnh không lui binh, thì chưa chắc tụi Bắc cộng thắng dễ dàng.

Năm 1972 Bắc Việt đánh qua vĩ tuyến và ôm đầu máu chạy về Bắc. Bản chất lương lẹo, dối trá, đánh lừa lịch sử, tụi Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã bị lừa.
Chiếm Dinh Độc Lập toàn là bọn Bắc kỳ với xe tăng Nga và Tàu. Lực lượng của Việt cộng miền Nam đã bị nướng hết trong năm Mậu thân.

Bây giờ bây giờ ba Ông chiến bại đánh lại các trận đánh trên bàn nhậu. Người trong cuộc họ không phéc lác khoe khoang, họ nói lên sự thật, không biện minh không chối bỏ, để chứng tỏ họ không hèn.

Bọn người luôn mồm kêu gọi 'hòa hợp hòa giải dân tộc' hơn bốn mươi năm vẫn không thay đổi luận điệu tuyên truyền, mỗi năm con số hàng tỷ Mỹ kim "kiều hối" (ngoại tệ) của người Việt trốn chạy thiên đàng cộng sản, làm giàu cho chế độ cộng sản rồi cũng lòn cúi tụi Mỹ khi bị thằng Tàu ăn hiếp. Chánh nghĩa đứng về kẻ cướp như Nghị Sĩ Mỹ John McCain đã từng nói. Đám văn nô và ca sĩ Việt cộng đều nói: Khi chúng sang Mỹ thì đa số dân chúng Mỹ xin lỗi họ (xin lỗi Việt cộng) vì đã gây tang thương cho Dân tộc Việt Nam, như con Lan Hương Bắc kỳ.

- Thì bản chất tụi nó là như vậy.

- Người Việt Quốc Gia dễ bị quên. Tao còn nhớ vụ Tạ Duy Bình hắn đi sang Úc học 'nghệ thuật' rồi trốn ở lại, xin cộng đồng tị nạn chính trị nhờ người Việt quốc gia bảo trợ cho nó, sau khi có Quốc tịch Úc, hắn trở mặt chửi lại cái cộng đồng tị nạn giúp hắn định cư tại Úc.

- Chờ chút tao hái hoa Thiên Lý xào làm lai rai vài ly rượu rắn Tam Xà.

Đảm ông Nhảy Dù vô bưng nguyên hũ rượu có ba con rắn nằm quấn nhau:

- Cái này độc chiêu! Tao có thằng em từ Queensland gửi xuống, không biết nó tìm đâu ra? Mà ở Úc ngâm rượu rắn là phạm pháp.

Mùi rượu nồng, hăng hăng mùi rắn, ông Lôi Hổ nhăn mặt:

- Ghê! Tao không thử, cho tao rượu Vang đỏ đi.

- Mày cù lần bỏ mẹ, uống vào xương cốt đỡ nhức mỏi.

– Cho tao rượu nào mà 'ông uống bà khen'.

- Có ngay! Hắc Long để tao vào lấy.

- Đây rượu con bìm bịp, tao ngâm.

Ông Nhảy Dù rót cho ông Hắc Long một ly màu cánh dán:

- Uống vào đến tối nó rực lửa hận thù...

Khà một tiếng ông Hắc long lim dim:

– Ngon thơm không tanh, ở đâu hay vậy?

- Tao bẫy phía con suối, chim cu gáy nhiều lắm, có bìm bịp nhưng nó khôn lắm! Gần ba tuần tao mới bẫy được nó, khi nào có công dụng cho tao hay nghe.

Mấy ông già bắt đầu chuyện rượu, mấy đứa nhỏ rút lui, để ba ông ngồi đấu hót:

... Lúc chương trình Việt Nam hóa chiến tranh khai triển, tao nhảy toán đầu tiên vào hạ Lào gần T Chépon, lính còn sống trở về là sà vào quán rượu và gái điếm, tao không thích nên nằm tòng teng trên chiếc võng căn giữa hai gốc cây nhìn xuống phía con sông Dakbla hay lấy ống dòm nhìn gái thượng tắm truồng, cũng đã con mắt, đôi khi vào làng Phương Hòa dê gái, có một em rất đẹp ông già đặt tên thật kỳ lạ, ông anh Hai tên Thúi ông thứ ba tên Huêng còn đứa em gái tên Hoang may là em thứ ba. Tao thường mò vào nhắm bắn sẽ, nhưng kẹt cái thằng bạn Quân y của tao nó là bạn thân của ông Thúi, đèo em đến trường hoài tao đâm ra ganh.

- Mẹ... sao chỗ nào gái đẹp là có mày, nhường tao em Hoang này đi, hắn đáp:

- Thì cứ cua tao đâu có giành, nhưng mày coi lại dung nhan của mày!

– Tao nhìn vào tấm gương thấy tao đâu có tệ - những lần không nhảy toán tao la cà làm quen thì em trả lời: Anh Linh ơi, anh là Lôi Hổ, lấy anh em sớm góa bụa.

Câu nói làm tao chợt tỉnh.

- Thì mình bồ bịch thôi có gì quá đáng?

- Thôi! anh em thì được chứ bồ bịch ông già đánh em.

... Năm 1972 người Mỹ đã có kế hoạch rút quân, nhưng các trại Lực Lượng Đặc Biệt vẫn còn. Việt cộng tổ chức đánh vào các trại, đa số trại viên là người thượng Ê đe tất cả bị thượng cộng và quân chính quy bắc cộng giết dã man, có một toán người Mỹ thoát được, tụi tao phải đi rescue, rừng núi Kon Tum trùng điệp tối âm u như địa phủ, toán tao năm người, tao trưởng toán nhảy theo tọa độ đã cho của đám Mỹ liên lạc nhận diện được sau gần ba tiếng đồng hồ tao dẫn ba ông Mỹ ra điểm hẹn, thì Cộng thượng truy nã đến gần đạn Ak bắn vãi như trấu, tụi tao không bảo vệ được họ tất cả mạnh ai nấy thoát. Mấy ông Mỹ bị tụi Thượng cộng giết hết không chừa một mạng. Trực thăng đến chỉ đón được tụi tao, ông chỉ huy Mỹ yêu cầu tụi tao trở lại tìm, tao từ chối nhìn khuôn mặt lo âu của ông Thiếu Tá cố vấn trại Lực Lượng Dân Sự Chiến Đấu, tao ra hiệu cho phi công thả tao và toán phó xuống hẹn đón ngày hôm sau, ông Thiếu Tá Mỹ mừng rỡ.
Nhảy xuống tụi tao quay lại khu rừng cũng mất hơn ba tiếng, tao nghi tụi Thượng cộng đã rút nhưng cài lựu đạn lại dưới lưng xác ba người Mỹ, và phục đâu đó, toán phó mò mẫm vào, tao yểm trợ, trên trời chiếc trực thăng khác lên vùng tao tắt máy liên lạc, rồi rút ra. Sau khi đánh dấu kỹ khu vực, sáng sớm hai đứa tao mò vào lôi ba cái xác vào một hốc núi lấy đá lấp và làm dấu. Tụi Thượng cộng không gài lựu đạn dưới xác nên công việc mau lẹ, đến sáng thì vẫn ông Thiếu Tá dùng trực thăng lên vùng rất sớm, tụi tao liên lạc lên phi cơ, tao nói:

- All are dead Sir

Ông bật khóc.

- We buried them in a rock hole and did a positioning later.

Về lại căn cứ, ông thiếu tá Mỹ xin tao về căn cứ Mỹ ở Pleiku tường trình cuộc Rescue. Kể xong câu chuyện thật hấp dẫn thì hoa Thiên Lý xào được bày ra.

- Tạm chấm dứt vấn đề chiến tranh bây giờ lai rai chủ nhà lên tiếng thì ông Hắc long mặt đỏ ké lấy đá lạnh uống

- Thuốc chim bìm bịp thấm mày nghe thằng nhỏ nhấp nhổm chưa? Nếu thấm về đi với vợ.

- Thấm con khỉ tao bị mỡ đường máu nên đỏ mặt thôi, chưa tía tai, tía tai thì nó mới vùng lên, tụi mày biết không?

Ông Hắc Long nhướng con mắt nói:

- Ngày 22 tháng 3 lúc Ban Mê Thuột về tay cộng quân, tao lãnh lương xong nghe tin đài BBC tường trình về cuộc di tản trên Liên Tỉnh Lộ 7, tao ra cầu nhìn về phía Việt cộng thấy VC đi qua đi lại trêu ngươi nên ra lệnh: Bắn trúng trật gì cũng bắn, thì có tiếng loa vọng sang:

- Lính Thủy Đánh Bộ chuẩn bị chạy đi mai này tụi tao vào Huế, thì Mỹ Chánh chẳng còn đừng bắn nữa, đài BBC đã nói rồi các anh sắp thua rồi.

- Mẹ... bọn này lúc nào cũng láo khoét trên mây, tiếng loa im bặt, tao ngồi xuống bao cát suy nghĩ -- biết đâu thằng Việt cộng kỳ này nói đúng! Nghe phong phanh ông Thiệu chịu nhường đất ở Lăng Cô, nếu Lăng Cô mất thì Huế chẳng còn, mẹ chưa gì mà BĐQ của Liên Đoàn 14 biến mất. tụi tao rút về phía nam cầu An Lỗ, súng vang lên từng chập ở hướng sông Bồ thì có lệnh giật sập cầu An Lỗ, toán công binh phá cây cầu đếch sập, thì có lệnh trang bị nhẹ để để về cửa Thuận An, tụi tao vứt hết vũ khí nặng, cối quăng xuống sông An Lỗ, tất cả gọn gàng rút lui, tụi tao đi chuyển. Mạnh ai nấy đi, vượt qua hết các chốt đến An Hòa 12 giờ khuya, nằm ngủ vật vã lề đường đến sáng đi tiếp, mẹ họ... lính bị bỏ rơi vẫn còn cầm súng gác cầu Bạch Hổ thấy tụi tao rút thì ngơ ngác hỏi:

- Thiếu Úy rút đi đâu hỉ?

- Giờ này mà gác gì nữa chạy đi, Huế bị bỏ rồi!

Chu mạ ơi!

- Huế đang chết và gần chết, chưa đánh mà cả một Lữ Đoàn tụi tao bỏ chạy, mạnh ai nấy đi trong khi Việt cộng chỉ có du kích, thỉnh thoảng tụi Việt cộng pháo cầm canh vào phố, tao thấy mấy ông khác Tiểu Đoàn tao đang ngồi nhậu ở đầu Năm cầu Trường Tiền. Mẹ họ... giờ này mà nhậu với nhẹt, tao thấy ông H sau này viết cuốn tháng 3 gãy súng mặt đỏ ké nhìn tao hỏi làm ly đi ông vội gì? Tao làm thinh biến cho lẹ với Trung đội của tao đã đi khá xa, tụi tao đến bến phà Tân Mỹ, tụi vc đánh hơi tụi nó gom hết phương tiện qua sông nằm hết bên bờ phía bên kia, công binh không làm cầu như đã hứa tụi tao vượt phá Tam Giang bằng thúng chai và xuồng nhỏ dí súng mà lấy tiếng súng đì đùng làm mấy ông dân chài són đái, đến nơi tụi tao như nhốt trong một thung lũng bốn bề là biển Bắc là thuận an Nam là Tư hiền Tây là phá Tam Giang, Đông là biển,di chuyển ra biển thì thấy tàu HQ 508 đợi sẵn từ bao giờ, phía bên kia mấy ông đại đội khác đang truy lùng việt cộng trà trộn bắn chí choé, không cần giữ tù binh tao lo lắng thì Đại đội tao gom lại đủ, nhận diện và điểm danh không có ai trà trộn,bên kia ông H cũng đã đến tự bao giờ ông này nhanh thật thấy ông nhậu ngay cầu Trường tiền tao đi trước mà ông ta cũng bắt kịp ông đang xử lý một cô gái đang vái ông như ta như tế sao, mạnh ai nấy lo hồn ai nấy giữ tao chẳng quan tâm, cả một Lữ đoàn tập họp trên bãi biển lưng quay lưng ra biển 4 tiếng đồng hồ chẳng có lệnh lên tàu trong khi tụi VC nó cũng đuổi đến nơi chiếc tàu HQ 801 vẫn dập dềnh trên biển chờ đợi chỉ có ông ó Lương và ban tham mưu mới biết, tụi tao những thằng Sĩ quan cấp thấp không hề biết thì Việt cộng đã bôn tập đến Phá Tam Giang, chúng tấn công không biết lúc nào.

Ông Nhảy Dù nóng vì ông Hắc long chiếm bàn độc thoại nói nhiều quá:

- Thôi choa,tắt đài để người khác-thì ông Lôi hổ biến đâu mất thì ra ông nằm dưới giàn nho ngáy.

Ông Nhảy Dù trầm ngâm nói

- Tao đọc cuốn Đời chiến binh của ông Trương Dưỡng viết về những trận đánh của nhảy dù ông viết lực lượng Dù là điểm tựa duy nhất của ông Thiệu, ông Thiệu không muốn mình bơ vơ, bất ổn tại Sài Gòn khi vắng bóng chiến sĩ nhảy Dù,mẹ họ ông này sĩ quan Võ bị mà viết và nhận định một cách rất là đần, trong khi ông Lưỡng tư lệnh Dù thì viết một cách công tâm là Ông Thiệu bẻ gãy sư đoàn Dù ra nhiều mảnh vì đã có nghe phong phanh Dù sẽ đảo Chánh cả một cuốn sách 321 trang toàn viết về những chiến công trận đánh Dù tham dự điều lẫy lừng kể cả trận Thường Đức tao đâm ra chán không muốn đọc, ông Dưỡng toàn viết theo lời kể không tham dự trận đánh cũng như ông Phan Nhật Nam. (Ngày 10 tháng 3 năm 1975 việt cộng tấn công Buôn ma Thuột tướng Trưởng tư lệnh vùng 1 về Sài Gòn họp nhận chỉ thị là bỏ vùng 1 và lệnh cho tướng Trưởng trả Sư đoàn Dù về Sài Gòn với tư cách Tổng tư lệnh ký công điện hạ lệnh toàn bộ Sư đoàn Dù phải rời khỏi miền Trung không chậm trễ ông Lưỡng lên gặp tướng Trưởng để từ giả ông nói TQLC cũng phải ra đi, ông Trưởng nói Cám ơn anh và anh em Nhảy dù đã giúp ông rất nhiều trong những năm qua, lệnh rút Sư đoàn dù chỉ là bề mặt bề sâu là phân tán Sư đoàn Dù .Ông Thiệu áp dụng kế hoạch bẻ bó đũa của 12 Tiểu đoàn Dù,làm tan tành một đoàn quân bách chiến một binh chủng oai hùng,Xô đẩy những thiên thần vào hỏa ngục, gục ngã khắp chiến trường sắp đặt hoặc lọt vào tay địch lệnh cho ông Lưỡng chia Sư đoàn dù ra làm 2 nhánh một đi theo tàu thủy một do không vận, lữ đoàn 1 và 2 di chuyển bằng phi cơ của Không lực Vn Lữ đoàn 3 di chuyển bằng tàu HQ 404 có lệnh đổ xuống Nha Trang và ngày 21 tháng 3 ông Thiệu gọi ông Lưỡng vào trình diện,hỏi theo anh liệu Trung tướng Trưởng có giữ nổi Quân đoàn 1 khi tôi cho rút Sư đoàn Nhảy Dù về đây không? Với khuôn mắt và ánh mắt liếc xéo nhìn tôi kỳ lạ đó, nụ cười khoái trá làm ông Lưỡng không quên được, là tư lệnh Nhảy Dù nhưng ông Lưỡng không biết gì về kế hoạch lui binh, khi Nhảy Dù về Nam quyền chỉ huy Sư đoàn Dù vượt khỏi tầm tay tướng Tư lệnh Dù Sư đoàn dù được phân tán mỏng cho đến ngày mất nước (trích trong Thiên thần mũ đỏ ai còn ai mất của Tướng Lê Quang Lưỡng tư lệnh Nhảy Dù Việt Nam).

Tóm lại có một sự sắp đặt nào đó để VNCH chết cho lẹ. Các kho đạn lúc gần đứt phim gần trống rỗng, nếu còn thì tụi Mỹ cho lên xà lan kéo qua Guam.
Tổng công ty xăng dầu đặt mua xăng cho máy bay bên Singapore thì bị từ chối bán vì lý do không có tàu chiến bảo vệ. Tao đọc bài viết ông giám đốc công ty xăng dầu lúc đó tên gì tao quên mất, viết lên sự thật phũ phàng những ngày cuối của Miền nam tất cả tụi đồng minh nghe lời Mỹ quay lưng với VNCH.

- Tụi nó giết miền Nam và QLVNCH có kế hoạch. thôi tạm dừng tụi tao dìa.

Ông Hắc Long nói. Nhìn hai ông bạn già cùng khóa đi xiêu vẹo ra khỏi cổng, ông Nhảy dù chớp mắt ngâm:

– Ngày xưa cung kiếm đời ngang dọc...

Rồi tắt tỵ không ra câu nào. Ngồi xuống cái bàn nhìn giàn Thiên Lý và ba cái ly trống không, ngậm ngùi.

- Sao ông ngoại còn ngồi đâ?

Đứa cháu ngoại gái nắm tay kéo vào nhà, ánh nắng chiều còn loang trên khung cửa sổ, bầy chim Sáo chim Cu đang về chờ cho ăn.

- Con lấy bánh mì cho chim ăn giùm ngoại.

Rồi đi vào nhà ông nhảy dù thắp nén hương cắm lên bàn có hình Tiếc Thương và 5 ông Tướng tuẫn tiết, xong gõ ba tiếng chuông: bon bon bon. Tiếng chuông ngân vang, ngoài kia tiếng chim về ăn chiều ríu rít, con cháu gái đứng nhìn ông ngoại. Ông đưa tay, nó sà vào lòng như một con chim non, bà ngoại mỉm cười nói:

– Thôi ông đi nghĩ đi, dĩ vãng đã qua các ông cứ làm cho sống lại.

- Bà ơi! Người ta có thể mang tụi tôi ra khỏi Quân đội nhưng không thể mang Quân đội ra khỏi tụi tôi.

Thành phố Geelong cách Melbourne 70 cây số về hướng Tây nam , thành phố ven biển nơi nghỉ mát thật lý tưởng, dưới lớp cát biển vào mùa Hè sò huyết rất nhiều, có cả Bào ngư, 3 ông Quan bên chiến bại rủ nhau đi chơi cùng bầu đàn thê tử cháu chắt, tìm chỗ đậu xe lý tưởng để các đấng phu nhân và con nít đi đâu thì thì đi ba ông cởi trần đi xuống bãi biển vừa nhào xuống ông Lôi hổ nhảy lên.

- Lạnh quá teo thằng nhỏ hết. hôm nay gần 36 độ mà nước biển còn lạnh tao chịu thua.

- Mẹ thằng nhỏ teo từ lâu rồi ông lôi công, để tao! Mày cầm cái bịch cho tao.

ông Hắc long nhào xuống lặn đem lên vài con sò miệng run lập cập:

- Tao ở trên không run mà mày run cập cập như vậy?

- Thằng nhảy dù ngon thì xuống cứ ở trên mà nói dóc.

- Mày lính thủy đánh bộ thì đánh đi tao khỏi cần, tuy nói vậy chứ cũng từ tốn dè dặt đi từ từ xuống không lẽ để thằng này lặn mò sò lông một mình,trên bờ ông lôi hổ không tham gia ông ngồi bó gối nhìn hai ông bạn lặn ngụp dưới biển ông sợ lạnh khi tuổi về già ông nào cũng sợ lạnh làm biếng tắm nhất là cái lạnh thấu xương ở Melbourne gió từ Nam Cực thổi về mấy ông bạn bên Bắc Âu xứ tuyết quanh năm qua đây còn la làng,nói xứ gì mà nó lạnh thấu xương từng ngón tay lạnh buốt.

Kiếm một hốc đá, mấy bà nhóm than đá nướng bọn con nít thì mê tắm trong cái hồ nhỏ chúng không thích ăn thứ này tụi nó là Úc rồi nên ít mặn mà với đồ ăn VN nói tiếng việt lọng ngọng.

- Thôi mấy ông tự nướng và ăn rồi tâm sự gì đó thì làm tụi tôi xuống với mấy đứa cháu, nhìn mấy vóc dáng mập mạp của các bà đi về phía khu rừng dương cuối con dốc mấy ông than đúng là thời gian nó không tha cho một ai .

Ông Lôi hổ bươi than đá vùi mấy con sò rồi nói-lái xe không uống rượu được thôi nhâm nhi vài con vừa ăn vừa nói chuyện chứ không phải vừa đi đường vừa kể chuyện như Trần dân Tiên, ông lên tiếng:

- 10 giờ sáng ngày 30 tháng 4 tụi cộng sản vào Sài Gòn tụi nó ủi sập cổng Dinh độc lập thì chiều hôm đó tao về đến nhà với bộ đồ dân sự, cả nhà mừng rỡ lúc tranh tối tranh sáng, tao lo cho cái mạng của mình nên lên gác nằm vắt tay lên trán suy tư.

- Mẹ tao không hiểu làm sao mà một đạo quân trên 1 triệu lính trang bị vũ khí tối tân từng đánh bại tụi xâm lược từ miền Bắc năm Mậu Thân và năm 1972 mà chỉ có 55 ngày tan hàng, đầu óc tao quay cuồng hỗn độn trong những bực tức không giải đáp, thì chiều đến bạn tao, nó Phòng 7 Tổng Tham Mưu tìm mời tham gia một tổ chức Phục Quốc, đầu não tại nhà thờ Vinh Sơn.

– Mày có tin vào tổ chức này không? Coi chừng tụi nó gài – Tao tin lợi dụng tình hình chưa ổn định chúng tao gom súng đạn nhiều lắm trang bị cũng được cả Tiểu Đoàn đang cho người về vùng IV liên kết với Hòa Hảo.

- Có liên lạc được nên Biệt Kích Dù và Nhảy Đù không? Tao chưa biết nhưng ông Huấn chưa nghe nói không biết tụi Việt cộng có thả lỏng ông ta không - lúc tao nhảy toán trong rừng lá ra có gặp mấy ông này ngồi trên xe Việt cộng xuống ngã tư Bảy Hiền, (theo lời ông Huấn sau khi 2000 biệt kích Dù tan hàng trên Xa Lộ Đại Hàn tụi Việt cộng đề nghị chở các Sĩ Quan về nên ông đồng ý). Thằng bạn tao lắc đầu không tin.

- Thôi mày tóm lược gọn lại là ai cầm đầu và yểm trợ từ đâu?

- Tối nay theo tao đi họp đầu tiên tại địa điểm Z mới biết tường tận.

Tao nói:

– Thôi mày đi rồi cho tao biết tao sợ bị tóm tụi nó sẽ làm thịt ngay tao là Lôi hổ cả xóm này ai cũng biết.

Hôm sau thằng bạn tao đến cho biết thêm tin tức về hoạt động của Kháng chiến phục quốc từ mấy ông Cha tuyên úy công giáo, nhiều Sĩ quan các cấp và đủ mọi binh chủng tham gia vì họ không chấp nhận đầu hàng quá dễ dàng từ ông Dương Văn Minh, đa số vẫn còn uất hận từ việc bỏ Quân Đoàn 1 và 2 mà ra - bây giờ chiến đấu tao đồng ý, nhưng...

Hậu phương yểm trợ là ai?
Bị thương thì Bệnh Viện nào cấp cứu?
Hết vũ khí đạn dược ai cung cấp,
Mày nên nhớ Việt cộng nó là tổ sư du kích, dùng du kích chọi với chúng nó, không thắng! Cho dù dân miền Nam bây giờ tỉnh ngộ.

Câu hỏi của tao không có trả lời, ông bạn tao nói:

- Mình phải gây tiếng vang thì mới có người giúp.

- Tao nói thẳng với mày khi tụi Mỹ phủi tay thì Thượng đế cũng khóc, tao rất thích chiến đấu và thích hành động vì bản chất Thiếu Sinh Quân trong máu, nhưng tao đủ khôn để nhận ra rằng -- chúng ta thua từ trong căn bản là không đánh ra Bắc, người Mỹ không tuyên chiến với Việt cộng cho nên người Mỹ chỉ đánh mà không cần chiến thắng.
Sau 12 ngày đêm Oanh tạc Bắc Việt, tụi cộng sản Việt Nam đã cạn kiệt sức chống cự, bờ biển bị phong tỏa, hỏa tiễn Sam cạn, chúng đồng ý ngồi vào bàn hội nghị khi chúng yếu, thì tụi Mỹ chấm dứt oanh tạc. Theo tao, chỉ có Trung cộng mới giúp được sự nổi dậy nhưng đây là điều bất khả thi, theo tao biết thì tình báo Tàu cũng đầy ở Chợ Lớn.

- Mẹ... mày nói sao tao nghe hết hứng thú.

- Mày ở ngay Phòng 7 Tổng Tham Mưu mày biết nhiều hơn tao, nhưng tao cũng cần theo mày tìm hiểu thêm về phục quốc. Trong thời gian này quá sớm để biết, thân phận cá trong chậu. Tao đồng ý tham gia với điều kiện là phải tận mắt thấy cấp lãnh đạo Phục Quốc.

Nhìn ra biển ông Lôi Hổ quên ăn, câu chuyện trở nên hấp dẫn người nghe.

- Tiếp đi bạn, đây là lần đầu tiên tao nghe mày kể!

Ông Nhảy Dù lên tiếng - ngoài biển từng cơn sóng vỗ nhẹ vào bờ tiếng kể điều dặn vang lên của ông Lôi Hổ:

- Tao theo thằng bạn lên hố Nai ngày 2 tháng 5 từ hố Nai đón xe lam lên Bàu cá nơi căn cứ Phục Quốc của ông Cha tuyên uý Hiệu đến nơi tụi tao lội ruộng đến một xóm nhà chỉ vài căn chung quanh là hàng dừa vây bọc,một cái đầm rất rộng mấy cây số dân gọi là Bầu cá chiếc xuồng được moi lên từ dưới bùn do chiến thuật du kích của cha Hiệu tụi tao ra giữa đầm hướng bờ bên kia có người tay cầm ống dòm và vũ khí ra đón, căn cứ vỏn vẹn vài cây M 16 mấy ông thanh niên từ hố Nai lên mặt non choẹt -ông Cha nói đây chỉ là căn cứ tạm chờ các sỹ quan tác chiến cũ lên huấn luyện quân sự nhìn tao ông nói hay Thiếu uý ở lại đây huấn luyện cho tụi nhỏ.Tao nói Cha tính sao chứ mớ vũ khí què quặt này thì làm sao chống cự thưa Cha ?cố gắng chuyển lên thêm cho đầy đủ tôi sẽ lên giúp còn lương thực thì sao ? Bên ngoài đem vô tiếp tế, không đói đâu.-Cha ơi mình bây giờ từ thành phố về rừng thời thế thay đổi,chiến đấu lâu dài cần nguồn lương thực an toàn,mai này tụi CS nó xiết chặt gạo mắm muối thuốc men thì làm sao mà chiến đấu ,nghe tao nói ông Cha thừ người ra rồi gật đầu nói khi nào quân số lên cấp Đại đội sẽ đi chuyển về Phương lâm tự túc lương thực bằng cách canh tác rừng,tao làm thinh và xin ra về – - Sau khi nhận thấy sự thật tao ra về thì tụi VC ra lệnh trình diện cải tạo tao tính lên đó trốn nhưng thấy không ổn đành đóng tiền vào tù đi Suối máu,trong tù tao nghe tin tụi VC tấn công Bầu cá và tử hình cha Hiệu ngay đó,đến đây ông Lôi hổ quẹt nước mắt đứng lên ra hướng biển thì mấy đứa cháu và các bà kéo về nhìn cái đống lửa tàn -rồi nhìn mấy ông lắc đầu.-Trời đã trưa mấy ông ăn uống chưa mà sầu thảm vây? - No ngang không biết sao? Nghe thằng lôi công kể chuyện buồn quá - Chuyện xưa rồi mà mấy ông cứ xào nấu hoài, - Thì có chuyện gì để mà ba hoa chích chòe? Chuyện mấy em hậu phương thì các bà không thích nhắc lại, không lẽ kể chuyện Tấm Cám hay Thạch Sanh Lý Thông cho mấy đứa cháu? Tui kể hoài vừa mở mồm ra là chúng nó nói: biết dzồi ông ngoại kể hàng trăm time dzồi nhứt là con bé kia, tội nghiệp con bé vợ chồng ông Hắc Long nuôi vì mẹ nó đi làm cả ngày gởi nhà trẻ thì không an tâm, cha nó thì đã ly dị biến về Việt Nam kiếm vợ trẻ, nó không có ai trông nom ngoài ông bà ngoại, về hưu hai vợ chồng ông có nó líu lo như chim Vành khuyên nên đặt là vành khuyên. Có nhiều khi nó cắc cớ hỏi tên nó là con chim nào đậu trên cây trước nhà thì ông ngoại ngọng bà ngoại cũng im, mỗi sáng ông Hắc Long vào gọi dậy ăn uống đi học thì nó nói -- ông ngoại ơi Ông Trời chưa mở đèn mà (Trời chưa sáng) tuổi thơ của nó dính liền với đời sống vợ chồng Hắc Long, hồn nhiên vô tư khi thấy tiền cắc trong túi ông ngoại rơi ra, nó kêu lên Ngoại ơi tiền ngoại té ra kìa, hay cái quần ông ngoại bể dzồi, (rách rồi).

- Mình đến gốc Tùng nghĩ một chút, chiều nhổ neo, về!

- Mày nghĩ gì về ngày mình về Vn dưỡng già hy vọng có thay đổi gì không?

ông nhảy dù lên tiếng:

- Theo tao csvn nó đổi màu như con kỳ nhông, từng giai đoạn để sống còn sau sự sụp đổ của tụi cộng sản quốc tế.

Bản chất nó cũng vậy, nói thật nó chẳng hơn gì mình, chẳng qua tụi nó thắng mình là vì tụi nó có chỗ dựa vững chắc, còn nếu bảo tụi nó nhường ghế cho mấy ông chửi tụi nó hay phong trào phục quốc gì đó thì còn khuya càng chửi càng bơm tiền về cho thân nhân mỗi năm hàng tỷ Mỹ kim thì nó càng khoái nghe chửi, có rụng sợi lông nào đâu?

Mấy ông tự phong Thủ tướng bên Mỹ thật mắc cười mẹ họ xưng luôn chức Tổng thống cho nó oai, nào là đòi khôi phục hiệp định ba Lê, rồi đem hình cụ Diệm ra phong thánh như còn cụ miền nam không mất, lối suy diễn nông cạn, làm trò hề mấy chục năm nay không thay đổi, càng quậy càng đục nước béo cò, Mỹ nó đang giúp Việt cộng đủ mọi chuyện nhằm o bế con đĩ về già, kèm tên Tàu cộng như viện trợ y tế gần 1 tỷ Dollars từ khi bang giao trở lại năm 1994. Rồi cho không tàu tuần dương, làm ngơ cho tụi cán bộ trốn đem tiền sang Mỹ. Ở Úc này chúng bỏ 200 ngàn đô ra mua một cái bản tên đường, Hạ Long. Tụi Council Footscray đồng ý khu này cho toàn cán bộ Việt cộng hạ cánh an toàn và hưởng tiền già của chính phủ Úc, như vậy mày bỏ ý tưởng về Việt Nam dưỡng già đi.

- Không có nơi nào sướng hơn Úc, nơi này là Tây phương cực lạc đấy ông boạn - bây giờ hàng quán tụi nó khắp nơi nào là Phở hàng đúc, bánh ướt hàng đẩy tại ngay trung tâm Melbourne. Mẹ họ... tao chẳng biết nó ở đâu? Đúc đẩy gì? Nnó nằm chình ình ngay trước mắt. Tao thấy thua. Chạy đi đâu cũng không khỏi con cháu Béc.

- Thôi mình chọn nơi này là quê hương, còn quê hương là chùm khế ngọt bây giờ nó không phải của bọn mình - chấp nhận một lần đi là một lần ly biệt, hơn 40 năm tao không về.

Ông Lôi hổ nói:

- Nhiều ông chống Cộng mãnh liệt rồi cũng vác mặt về Việt Nam, tên hề lý toét một ông tự xưng Tổng tư lệnh lực lượng nổi dậy khủng bố nhân viên phi hành rồi nhảy dù xuống ao rau muống, bị bắt mà mấy ông tung hê làm anh Hùng, tao lỡ mua cuốn ó đen 30 chục Úc kim đọc xong tao muốn quăng vào thùng rác, nạn chụp nón cối cho nhau làm tao chán chường chẳng muốn nhìn lại mấy ông bạn cùng khóa bên này. Phía bên chiến thắng cũng thối hoắc nhưng nó có đất, có dân, có bang giao, có chân trong Liên hiệp Quốc, có súng. có Quân đội, chống nó bằng mồm mấy chục năm rồi như Võ Đại Tôn. Than thở - Đoản kiếm ơi sao không dài ra chút nữa. Để ta còn diệt được Tần Vương. giờ thì ngồi mân râu nơi đất khách. Con đường các ông ấy đi làm kháng chiến tụi Việt cộng nó đi mòn cả trăm đôi dép râu, làm sao thoát được tụi nó, bên chiến thắng thì tụi nó chửi tụi mình là bám càng, bu càng Trực Thăng, mà bây giờ ai đu tôi đu theo! Mẹ họ... đôi khi làm kiếp người Việt Nam sao tao thấy thẹn vô cùng!

- Thì mày có quyền từ bỏ quốc tịch, tụi Việt cộng nó ra thông báo rồi, nếu muốn!

Ông Nhảy Dù nói:

– Tao là công dân nước Việt Nam Nam Cộng Hhòa dính líu gì đến cái quốc gia xạo hết chỗ nói đó, Miền Nam mất thì cái quốc tịch Việt mất, tao thấy chẳng có mẹ gì mà tự hào giống dân cứ đánh nhau rồi miệt thị nhau. Đám thắng cho đến cái lá cờ vàng cái bản nhạc của tụi thua nó cũng còn sợ vãi đái nếu nhắc đến nghĩ cũng mắc cười phải không? – Đừng bao giờ bảo tụi nó đối xử tụi mình giống cuộc nội chiến Hoa Kỳ 1861 - 1865 phát súng cuối cùng vào ngày 22 tháng 6 của Tướng Ulysse S. Grant đối với tướng Robert Lee đạo quân miền Nam vì bản chất con người khác nhau, nhận thức khác nhau của tụi răng đen mã tấu, nhưng nó không như những bài viết về sự nhân hậu của phe thắng trận miền Bắc như mấy ông Việt mình thường đề cao, sau chiến thắng của phe của Miền Bắc. 500 chỉ huy của đạo quân miền Nam không được ân xá 6 năm sau mới được trả quyền công dân, theo (Wikipedia).

- Mẹ mày nghĩ tụi Mỹ nó mã thượng sao?

Ông Hắc long nói:

– Trước khi bang giao tụi VC ra điều kiện gỡ dùm cái ngòi nổ là các ông Sĩ quan chế độ cũ đem hết sang Mỹ cho tụi Việt Cộng đỡ lo. Chính quyền nào cũng vậy. Gần 1 triệu ông lính cũ mà nổi dậy cũng khổ lắm, nhất là lúc tụi nó bị cấm vận.

– Mẹ miền Nam bỏ chạy để lại 16 tấn vàng và 280 triệu Mỹ kim tiền mặt, thêm 5 tấn còn trong ngân hàng Thụy Sĩ và gần 200 triệu Mỹ kim ở ngân hàng Mỹ, (theo Lữ Minh Châu người đứng ra kiểm kê và nhận số vàng sau ngày 30 tháng 4 đã tiết lộ sau này) mà tụi Việt cộng lại cho dân miền Nam ăn bo bo.

- Chiều đã xuống nắng sắp tàn thôi thu dọn đi về mấy ông cứ lè nhè hoài, các đấng phu nhân ra lệnh rồng, hổ sợ gì cũng tuân lệnh rút lui.

Vừa mới sáng ông Lôi Hổ bậc TV đài sắc tộc, thì thấy ông biên tập viên đài VTV Việt cộng trên màn hình, ông choáng váng cứ ngỡ mình nằm trong mơ.

– Mẹ không lẽ nước Úc này đã đầu hàng Việt cộng?

Ông hoảng quá ông bắt phone gọi báo động, thì ra mấy tên Úc thân cộng cho chương trình Ti Vi tin buổi sáng này vào để chọc ổ kiến lửa. Cộng đồng người việt ở Úc là một Cộng động đoàn kết keo sơn, chống Cộng có tiếng đã rượt Phan Hiền. Nguyễn cơ Thạch chui cổng hậu. Đỗ Mười cũng bị nên gọi là bọn phản động, sau gần một tháng biểu tình khắp các tiểu bang, đài SBS chấm dứt không cho phát hình nữa, ông Lưu Tường Quang giám đốc đài thậm thụt đi đêm ngậm hột Thị. Mẹ... Nhiều thằng ngày xưa cũng là lính bây giờ vì miếng ăn mà cam tâm làm tay sai như tên Trần Bá Láp, thêm tên nghị viên có cặp môi giống Phạm Văn Đồng và hàm râu kẽm giống Nguyễn Cao Kỳ, thêm con hội đồng thành phố Mai dù Hồ mai, ông Vũ Nhuận có một cuốn sách về con này khi mụ về Việt Nam ký biên bản kết nghĩa giữa HCM city và Footscray, mụ Bú Đỗ Mười, cuốn sách có trong thư viện toàn nước Úc mụ không lên tiếng phản đối:

Con mẹ này dâm thí mẹ bọn toy boys gọi là Mai Bú.

- Mày có được em b chưa mà rành thế!

- Tao muốn thử mà chưa có dịp.

- Thôi xin mấy ông stop chuyện đó. Vợ ông Hắc Long lên tiếng khi đang ba hoa, ông Hắc long tắt đài, nhìn bà vợ rồi cười he he.

- Tao nói thiệt kể từ khi đám tị nạn làm làm nhiều chuyện nhục nhã, đám báo chí Úc lên tiếng. Tao chẳng dám nhận mình là Mít, ai hỏi tao nói là Phi.

- Những tên từ chối nguồn gốc như mày bỏ đi.

Ông Lôi Hổ to tiếng. Ông Hắc long chồm dậy sừng sộ:

- Mẹ mày... nghe mấy đứa nhỏ về nó nói -- Bạn con ở trường học nó trêu tụi bây là dân drug dealer, mày thấy nhục không? Nên tao bảo - Con nói mình là Phi hay Tàu đi cho đỡ nhục.

– Thôi hai ông bớt nóng đi, tụi báo chí truyền thanh bây giờ nó biết phân biệt Nam Bắc rồi.

Ông Nhảy Dù nãy giờ im hơi mới lên tiếng:

- Tụi nó đang xuất cảng tội phạm sang Úc qua diện du học, có thằng không nói được tiếng anh cho ra hồn, tao gặp nhiều ông ngồi chồm hổm trước nhà Bank cùng nhau uống một chai Coke 1 lít, nhìn ông nào ông ấy bặm trợn, xăm đầy mình, tao né. Có nhiều lúc đang đi sau lưng tao hai ông Bắc xưng 'đồng chí' làm xương sống tao ớn lạnh, thua! Chúng ta từ thua cho đến trên mảnh đất tạm dung này.

- Mày đừng kỳ thị Bắc - Nam nhá!

Ông Lôi Hổ rống lên:

- Tao là Bắc chính cống đây.

- Hôm nay câu chuyện hơi găng may là mới 10 giờ sáng nên tình hình chỉ hơi ấm.

- Tao có nói mày đâu ông Bắc năm 54.

Nghe lớn tiếng bà vợ ông lôi hổ đi ra hỏi:

- Bộ các ông ấm đầu sổ mũi hay sao mà loạn lên vậy? Già cả rồi nói năng êm dịu một chút để dành hơi mà sống.

Không khí dịu lại ba ông ngồi thừ ra mỗi ông bưng ly trà nhìn nhau cười trừ.

Ông Hắc long mở đài tiếp về câu chuyện rút lui:

Theo binh pháp rút lui là là khó nhất, phải bí mật, nhanh, gọn, nhẹ nhàng, phải nghi binh và một đơn vị chịu làm con chốt thí ngăn chặn, một thằng lính binh nhì cũng nhận biết, nhưng tụi tao lui binh dân Huế kéo theo như trẩy hội đến bờ biển, thấy mấy cha chỉ huy cao cấp lữ đoàn trưởng ông Ó Lương và ông phó Tống đang đứng trò chuyện cười vui vẻ với một ông quan BĐQ ngoài biển thì tàu Hải quân thả trôi lềnh bềnh trong khi thì lính đang sốt ruột, họ biến ra khỏi hàng quân tìm phao lội ra tao làm thinh, hoang hoang mang chẳng dám hỏi, mẹ đến chiều thì có lệnh tổ chức phòng thủ đêm, tụi việt cộng mà tấn công tụi tao bắn hết đạn rồi cận chiến, chứ đạn đâu còn may mà đêm đó bình yên, sáng ra thì Việt cộng nó bắt đầu pháo bằng đạn 82 ly ra bờ biển chẳng trúng trật vào đâu nó cứ bắn đủ mọi loại, tiếng đại liên từ xe thiết giáp M113 bắn tum lum quạt lên trời xuống đất náo loạn, lính chết la liệt có một ông Thiếu tá TQLC tên Nam bị bắn giữa trán nằm ngáp ngáp trên bãi cát không ai cấp cứu tụi tao chạy thục mạng khi có lệnh. chạy bộ về cửa Tư hiền mạnh quan, quan chạy mạnh lính, lính chạy Trời đất ơi một Lữ Đoàn 369 lính Thủy Quân Lục Chiến lừng danh mà chạy như Vịt, không ra thể thống gì hết, tao gào lên kêu lính mẹ họ đứng lại bắn nhau với tụi nó sao chạy? Tao dí súng vào tên lính trong trung đội la lên dừng lại đánh.

- Cặt Thiếu Úy lấy gì đánh, đạn còn mấy viên để dành tự sát!

- Tao bị thằng binh nhất trổ cặt. sùng quá táo bắn một phát vào gần mang tai bắn dọa, nó té quỵ nhìn tao căm hờn. Trong phút bốc đồng xong tao nguội lại, nâng nó lên, nó khóc nói: thà ông bắn tui đi còn hơn để việt cộng bắn. Tao và nó cả hai cùng khóc.

Chạy theo đám lính thì gặp Tiểu Đoàn 7 chận lại, ông Trung Úy Đại Đội trưởng tao nói:

- Đụ mẹ tụi mình bị bỏ rơi, hai ông lớn nhất trưởng và phó lên tàu Hải Quân rồi.

Ông Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 7 nói với tao:

- Đ. m, Hai thằng cha đào ngũ bỏ hàng quân đáng tội tử hình. Vết nhơ của TQLC không bao giờ rửa sạch.

Trời đất đảo lộn mẹ Tqlc ơi là TQLC, tao nói lớn mình bị bỏ rơi mạnh ai nấy chạy từ bây giờ không ai chỉ huy, nổi khung tao bắn vãi tung lên trời rồi ôm mặt khóc, cả đám cùng khóc trung đội tao tan hàng cùng với đại đội và Tiểu Đoàn 7 kéo về bãi Tư hiền Tàu Hải Quân vào đón mày biết không M113 nó càn quét cán lên hàng trăm cái đầu nhấp nhô trên biển máu loang nhuộm đỏ cả vùng nước trên tàu tiếng súng nổ đì đùng xác lính bộ binh bị Tqlc bắn quăng xuống biển vì Tàu ưu tiên cho tqlc mấy hung thần lao công đào binh của binh chủng lính thủy đánh bộ bắn không chừa một ai trừ Tqlc một ông thiếu tá bộ binh xưng em với ông binh nhì Tqlc mặt đằng đằng sát nói đụ mẹ Thiếu tá có xuống không ?tao bắn ông Thiếu tá van xin anh cho em đi nhờ mình là lính với nhau ,đụ mẹ 1, 2, tiếng hai vừa dứt ông Thiếu tá nhào xuống biển, trên bờ m72 bắn xịt ra tàu phe ta giết phe mình một quả đạn At 3 bắn sập đài chỉ huy máu óc áo quân tay chân đứt lìa bay tung tán ,tao sợ quá không dám xuống ,lính bộ binh dùng súng 57 ly bắn vào Tàu đầy Tqlc. Tụi tao chạy vào tuyến phòng thủ Tiểu Đoàn 5 TQLC thì bị đại liên bắn xéo trên đầu và M79 câu ra bắn chận, mẹ họ bây giờ ai cũng là kẻ thù chung binh chủng mà còn đối xử như vậy

– Thôi tạm ngưng đi ông Hắc Long, nghe xong tao buồn thấy mẹ.

Bún Bò Huế dọn ra con bé cháu ông Hắc Long cầm đũa rất thiện nghệ nói:

– Mấy ông ngoại eat đi nói hoài...

Cặp mắt đen láy khuôn mặt thiên thần mà nói chuyện như cụ non.

- Tao có đọc cuốn sách mùa biển động của ông nhà văn (thiên tả) Nguyễn mộng giác nói lính Thuỷ quân lục chiến giết Việt cộng cắt lỗ tai đeo, sao tụi mày không lên tiếng? – Mẹ... tao phản đối lối viết văn vu không khống kiểu đó, đành rằng chiến tranh nó dã man nhưng TQLC không làm chuyện này, cha nó lú chú nó khôn. Nếu có như vậy thì người chỉ huy sẽ nghiêm phạt ngay, lối viết vu khống về người lính TQLC của Nguyễn Mộng Giác không khác gì Bảo Ninh (văn nô Việt cộng) trong Nỗi Buồn Chiến Tranh hay bà (vẹm) Dương Thu Hương viết về lính miền Nam.

Ông Nhảy Dù tức khí nói:

- Ban đầu thì Nguyễn Mộng Giác viết là lính Nhảy Dù, nhưng bị phản ứng mãnh liệt thì hắn sửa lại là lính TQLC. Có nhiều bài viết lên tiếng bênh vực đám nhà văn, như Duyên Anh bị đánh chẳng hạn, họ nói là không được đụng đến nhà cầm bút bất cứ hình thức nào.

- Mẹ... làm ăng tên chỉ điểm hay chim chuột vợ người khác thì không được đụng đến giới cầm bút, đạo luật nào cấm người ta đánh mấy ông đó?

- Mẹ... Mình bị kẻ thù bôi nhọ, lại bị thêm giới cầm bút thêm thắt vu khống, người lính miền Nam đã hy sinh xương máu để bảo vệ miền Nam cho những tên cầm bút múa bút kiếm cơm, sang đây họ nhẫn tâm bôi nhọ đúng là bạc như vôi.

- Đám côn đồ Năm Vĩnh Nha Trang mặc đồ Tqlc chiến hãm hiếp cướp bóc dân chúng trên xà Lan đã bị Đại tá Thiện quân trấn đặc khu Phú Quốc tử hình khi chúng đến Phú Quốc, lính bên nào cũng có đám binh sĩ như vậy, còn chuyện đeo xâu chuỗi bằng Lỗ tai người là chuyện hư cấu của ông Nguyễn mộng Giác, ông chưa biết cái lỗ chiếu môn và đỉnh đầu ruồi của cây súng như thế nào viết bậy, viết ẩu, tóm lại những kẻ bôi nhọ người lính miền Nam là những tên vô cảm, còn những tên nhà văn thậm thà thậm thụt với cộng sản thì tao miễn bàn, giao lưu thì phải có qua lại không ai có quyền cấm. Chuyện bạn văn nghệ văn gừng của mấy cha nhà văn Hải ngoại với nhà Văn trong nước là chuyện cá nhân, miễn họ đừng bôi nhọ người lính VNCH.

- Tao không phải một người lính quá khích, tao không vinh danh cái Quân đội chưa đánh mà chạy nhưng đụ mẹ tao không muốn ai bôi nhọ vậy thôi! Kẻ thù đã nhục mạ tụi tao không tiếc lời trong trại cải tạo nhưng tụi nó có hơn gì súng đạn nó từ đâu ra? Tao đã tranh luận nảy lửa với tên quản giáo về việc ai là tay sai Đế quốc, tao nói thằng chó nào cũng tay sai kể cả Nam và Bắc hắn bí lối kêu tao ra bờ suối đòi bắn lúc đó tao chẳng có gì để sợ cứ coi như đã chết trong lúc đánh nhau ở đèo Phượng hoàng, tao nói mày cứ bắn nhưng vui lòng bắn cho chết lẹ ngay mang tai, là một sĩ quan nhảy Dù tao đếch sợ,tiếng lên đạn của cây K54 chẳng làm tao sợ nhắm mắt chờ đợi một sự chấn động xuyên phá chết trước khi nghe tiếng nổ nhưng hắn nghĩ sao không bắn, rồi nói:

- Mày khí phách lắm xong bỏ đi tao đứng bên bờ suối nhìn đám tù cải tạo bên trong lán trại nhìn ra đầy kinh ngạc mẹ họ trong trại cải tạo nhiều tên khúm núm với cán bộ Cộng sản qua đây vung vít trên báo là tụi Cộng sản công nhận họ sợ lính mũ đỏ, mũ xanh con Cặt phét lác tận mạng, Cộng sản nó sợ tụi nhân dân tự vệ, vì sao? Vì mấy ông con nít này đụng đâu cũng bắn sợ Ma cũng bắn chẳng có kiêng kỵ gì hết như ở Kon Tum năm 1972 tụi bộ đội chính quy mà bị Nhân dân tự vệ đánh ôm đầu máu mấy ông nhóc con hăng lắm ủi như Trâu điên, ông nhảy Dù nói hăng tiết vịt mồm sùi bọt hàm răng giả không có chỉ còn vài cái lưa thưa trông tội nghiệp.

- Bớt nóng ông bạn già từ từ lên đau Tim thì khổ.

Ông Hắc Long ôm vai bạn trên bàn những tô bún dở dang chưa ăn hết đã nguội. Câu chuyện vẫn tiếp diễn khi mặt Trời đã đúng ngọ, ông Lôi hổ nhập cuộc, sửa đôi kính lão mắt lem nhem:

- Nói về vụ nhảy toán tụi mày biết không lại tụi mày biết không...

- Biết rồi nói hoài!

- Có lần tao nhảy qua hạ Lào khởi hành từ Thái lan lần chung với một toán Mỹ tìm vết tích tù binh nghe tin tình báo thì trại giam nằm tại biên giới Lào việt ,nhiệm vụ là giải cứu một nhóm tù binh Mỹ việt đa số là phi công,chuyến phi trực thăng đầu chở 6 cây nước đá buộc dù cẩn thận thả về hướng Tây cách khu vực tin rằng có trại giam tù binh Mỹ tụi tao nhảy về hướng nam và toán Mỹ nhảy về hướng đông 2 toán hẹn gặp nhau ở điểm hẹn,trang bị Ak mặc đồ Vc,mấy tên biệt kích Mỹ mặc đồ Vc to lớn kềnh càng nhưng nhanh nhẹn vì họ là Biệt kích được huấn luyện khắc nghiệt và gian khổ nhất giống như Seal của Hải quân Mỹ,lấy tần số mật mã nhận diện nhau 2 toán lên máy bay bay vào vùng chân mây đen kịt không một vì sao, tụi tao toán Vn 4 người do tao trưởng toán nhảy xuống một cánh rừng rậm lúc đó 8 giờ tối, tiếng trực thăng đã báo động tổ tiền thám Vc ở đầu rừng,tụi tao lủi nhẹ vào khu rừng thì gặp ngay khu vực đóng quân việt cộng, tiếng nói của việt cộng nghe rõ ràng -Tụi biệt kích ngụy vừa nhảy dù xuống hướng Tây bên K đang lùng (là khung là tiểu đoàn)nên cảnh giác chúng nhảy xuống đây từ máy bay lên thẳng, cả một tiểu đoàn việt cộng đóng quân bảo vệ căn cứ nếu có tù binh Mỹ chuyện cứu là mission impossible (nhiệm vụ bất khả thi) tao ra dấu rút lui ra xa liên lạc với toán a của Mỹ thì họ cũng vừa đến điểm hẹn ,tao cho họ biết chi tiết và số quân quá đông của vc không thể đột nhập để biết rỏ là có tù binh hay Không?toán Mỹ chần chừ tao lên tiếng các anh quyết định cho lẹ một là các anh vào hay chúng tôi,còn không thì rút, thì tiếng kẻng báo động lên náo động một góc rừng.

-không còn đường mạnh Mỹ mỹ chạy mạnh việt việt chạy. Tụi tao nhảy vào chỗ trùng bùn ngâm mình dưới nước dựa vào đám ô rô mà thở, ven bờ rừng tụi vc lùng sục tiếng văng tục -địt mẹ 6 tên biệt kích ngụy vừa nhảy dù xuống bên K chưa tìm ra tung tích ,để lại 6 Vũng nước thế là sao?tụi vc điên đầu 6 cây nước đá vừa tan hết đúng như dự định ,chúng túa ra đi truy lùng thì tụi tao mò vào quan sát gần hơn sát hàng rào tre,vừa bò vào thì một 2 bóng người đi ra ngồi xuống cởi quần tè ngay bên rào cách tụi tao cỡ nửa mét,thì cạnh tao thằng Hùng phó toán chợt cựa mình vì mùi nước đái khai ngấy,hắn cục cựa

-Ai đấy đồng chí nào rình đấy,không còn cách nào tụi tao nhào lên bóp họng nói biệt kích ngụy đây!dí lưỡi Lê vào họng tao hỏi có người Mỹ bị giam ở đây không? Tụi nó lắc đầu và xin tha mạng, tiếng van xin nghẹn nơi cổ họng, dùng lưỡi Lê rạch áo cột tay chân nhét luôn xú chiêng vào họng hai con bé lôi vào cái cái chòi bên cạnh, để toán phó nằm lại canh chừng 3 thằng tao mò vào trung tâm doanh trại đèn dầu mờ mờ sáng bên trong bộ chỉ huy K mấy tên vc đang ngồi bên đống lửa ,chúng đang nói chuyện với nhau tuyệt đối không có tin về tù binh,tao ra hiệu rút thì tiếng tru tréo của con việt cộng cái la lên Biệt kích ngụy,một tiếng hự và ặc ặc như tiếng cắt cổ vang lên,toán phó đã giết con bé,tiếng súng nổ vang rền,tụi vc nghe tiếng biệt kích đâm hoảng bắn loạn xạ,tụi tao rút ra thì đụng tụi bên ngoài chạy về chúng không phân biệt được nên ai bạn thù thì tiếng lựu đạn Mini nổ bùng về phía sau, 4 thằng tao chạy thục mạng, tiếng Ak bắn theo, toán phó gục tại chỗ tao dừng lại ôm hắn trong tích tắc máu loang đẫm bàn tay tao toán phó đã chết tao vụt chạy rừng tối, ba đứa tao mất phương hướng,cứ chạy phía sau tiếng súng vẫn truy đuổi,thì tiếng máy bay lên vùng tụi Mỹ cho phi cơ lên thả trái sáng bắn đại liên vào khu rừng, liên lạc được toán A của Mỹ tụi tao được bốc về ngay trong đêm,tao hối hận vô cùng vì tao mà toán phó chết, trên đường về lại doanh trại trong lãnh thổ Vn tao không biết trả lời sao với cấp trên,vì chỉ còn mấy tháng nữa thì ký hiệp định ba Lê,tao không dám gặp mặt gia đình toán phó từ đó,nhưng mày biết không hắn còn sống được trao trả tù binh tại Lộc ninh năm 1973.

- Tao đi thăm nó tại trung tâm an dưỡng Thủ Đức ,hắn nói hắn chỉ bị vết thương lủng phổi,bất tỉnh thì tụi vc lôi vào không đánh đập, băng bó vết thương cầm máu 2 ngày sau thì bị hỏi cung về 6 cái dù tao trả lời chỉ là 6 cây nước đá nhằm đánh lạc hướng nhiệm vụ tao là đi tìm tù binh Mỹ với toán biệt kích Mỹ phát xuất từ Thái Lan. - Còn con bé VC mày giết nó? Không tao chỉ bóp cổ nó bất tỉnh tại mày nhét cái xú chiêng vào họng không kỷ nó nhả ra được la toáng lên, nếu nó chết tao cũng bị giết vì nó là Y sĩ trạm xá và con kia là Y tá ,sáng hôm sau chính cô săn sóc vết thương cho tao rồi nói- Khiếp anh bóp cổ em suýt mất mạng,tao xin lỗi vì không còn con đường nào khác hơn nhưng tôi không cố ý giết cô nên cô còn sống, nhìn vết bầm trên cổ ba ngấn trắng toát tao cảm động tự nhiên tao đưa tay vuốt tay cô xin lỗi. -Anh là Biệt kích chuyên moi gan ăn thịt người mà biết xin lỗi à, may là cấp trên giữ mạng anh lại để trao đổi Tù binh sau này chứ không mạng anh mất rồi,tao nằm ở đó một tháng thì tình cảm đã nảy nở giữa tao và cô bé Y sỹ Việt cộng,vết thương cũng lạnh người toán phó nhìn tao nói:

- Tao thông cảm mày khi bỏ tao chạy trong đêm đó nếu là tao thì tao cũng vậy thôi!

- Ông Lôi hổ ngừng nhấp một hớp trà kể tiếp tụi mày biết không sau khi miền Nam đứt phim, bạn tao vào tù với tao ở Suối máu thì con bé đi vào Nam tìm hắn vì hắn cho địa chỉ lén lút khi yêu nhau trong trạm xá,mối tình nếu viết ra thành câu chuyện lâm ly

- Sau đây,

- Ôi đau quá tiếng rên của tên Biệt kích, tiếng gầm gừ của con bé Y sĩ Việt cộng- Cho mày chết ngụy Biệt kích ác ôn,mày bóp cổ tao đến gần chết,vết thương được rửa bằng muối thay thuốc sát trùng, tên Biệt kích nước mắt mồ hôi đổ ra như tắm, 2 con Việt cộng dằn hắn ra trên chiếc giường tre trong trạm xá,cấu xé vết thương vì đã đụng chạm đến thân thể tụi nó khi xé nịt ngực tọng vào mồm lúc xâm nhập ,tất cả chỉ là màn đóng kịch Con bé Y sĩ nói -Anh la lớn lên thì tên Biệt kích rống lên như bò rống ,các thương binh VC nằm kế bên hể hả ngụy Biệt kích cho hắn chết để sống làm gì? Nhưng hắn vẫn sống bằng tình yêu thương chân thật của cô Y sĩ Việt cộng và sự đồng lõa của chị Y tá tình yêu không biên giới con Tim không ranh giới nó nảy sinh khi người con gái lần đầu tiên bị đụng vào đôi nhũ hoa bén nhạy sức sống dù sợ hãi,sự và chạm từ đôi tay nóng hổi của giống đực kích thích cái dâm tiềm ẩn trong lứa tuổi cuồng nhiệt nhất của người con gái mới 22 tuổi,học xong khóa Y sĩ bốn năm, nàng vào Nam nằm trong khu rừng già này biết bao nhiêu cây cung chờ bắn tỉa nàng không chọn một ai vì nghe nói sắp Hoà bình nàng sẽ về Hà nội học tiếp 1 năm còn lại của chương trình y khoa 5 năm của miền Bắc thì lại gặp tên ngụy Biệt kích đẹp trai,đôi vai vạm vỡ cặp ngực như tượng đồng Hy Lạp đã bóp đôi nhũ hoa Mình mỗi khi săn sóc vết thương nàng cố tình làm thật lâu. Và đóng kịch thật lâu trên thân xác kẻ thù cùng màu da cùng ngôn ngữ mà hắn là dân Bắc mới lạ giọng Bắc kỳ lai Nam nó ngồ ngộ như một chén nước mắm pha trộn đường chanh. Nó mặn nó chua nó ngọt,mà nàng chưa từng nếm được, kim rơi vào tình yêu không lối thoát ánh mắt tên Biệt kích lúc thì có lửa lúc thì lạnh tanh như phiến đá.

Mọi chuyện rồi cũng đến tai tên chính ủy Khung nàng bị gọi lên cảnh cáo bị hăm dọa thiếu điều bị hãm hiếp bởi những con sói đói mồi nhưng gốc gác nàng khá to,từ Trung ương cục miền Nam,nên thèm thì thèm bọn lang sói không dám đụng đến có chăng chỉ là nhìn ngắn rình rập về đêm bên cái phòng tắm vách lá rồi nuốt nước miếng như nhìn thấy một vóc dáng đầy đủ đồi núi thung lũng của nàng, mối tình ngang trái tiếp diễn,tên Biệt kích ngụy đã khỏe dụ nàng trốn ra Chiêu hồi.

- Không được anh không thoát ra được chốn Thiên La địa võng này vô được ra thì khó theo em tình hình có vẽ bình yên trên Trung ương cục có tin cho em, bố em can thiệp cho em về Hà Nội sau khi thi hành nghĩa vụ Quân sự 1 năm,anh tin nơi em, thời gian trôi qua các trận đánh cũng bớt thì tên Biệt kích được đi chuyển về Lộc Ninh Kim được về Hà Nội những hẹn hò nhen nhúm khi còn nơi trạm xá, được hai bên giữ gìn cho đến khi Tấn được trao trả tù binh và tiếp theo những đụng độ vi phạm từ miền Bắc nàng như ngồi trên đống lửa và nhớ đến nụ hôn vụng dại lén lút với tên Biệt kích ngụy làm tê bờ bôi,rồi miền Nam mất thân phận của tên Biệt kích dễ thương không biết ra sao? Kim vào Nam sớm nhất cuối tháng 6 thì tên Biệt kích khăn gói vào trại tù,để lại bà mẹ già đơn côi trong căn nhà, với bà chị thứ 2 ông chồng đã di tản theo tàu Hải quân Kim đứng trước ăn nhà theo địa chỉ tên Biệt kích cho tần ngần trước Sài Gòn to lớn Văn minh hiện đại trái ngược với những gì miền Bắc tuyên truyền nàng gõ vào cánh cửa thì một đôi mắt nhỏ nhô ra rồi kêu:

- Ngoại ơi có ai tìm.

Một bà già gần 60 tuổi hỏi:

- Cô tìm ai?

- Dạ cháu là Kim bạn gái anh Tấn ạ,bà già chợt nhớ ra thằng con của mình có nói về cô này nên vồn vã mời vào.

- Anh Hùng đâu rồi mẹ -nàng kêu mẹ ngọt xớt không e thẹn,sau một gây ngập ngừng vì tiếng gọi mẹ của cô bé đứng trước mặt làm bà già bàng hoàng.

- Nó đi tù cải tạo rồi con.

- Nàng nghẹn ngào ngồi xuống ôm vai người mẹ già bằng tuổi mẹ mình.

- Anh ấy cải tạo ở đâu mẹ?

- Suối máu con à,

- Thế có xa lắm không? Mẹ không biết con ơi!chờ thư nó về mới biết hay con chờ chị Hai về hỏi bên ngoài 2 đứa bé một trai một gái nhìn vào người con gái không quen biết

- Đây là 2 đứa con chị 2 của thằng Tấn

- Tới chào mợ đi con -mặc nhiên bà cũng công nhận nàng là dâu,đưa quà cho 2 bé,nàng lấy ra 2 ký gạo và đường mì chính đưa cho mẹ Hùng bà ngần ngừ, lấy làm lạ Sài Gòn chưa thiếu thứ này nhìn vào cuộc sống của mẹ Hùng. Kim chợt hiểu là mình quê mùa và thô kệch quá thì chị 2 về

- Con bé nào vậy mẹ?

Tiếng hỏi hơi không vui khi nhìn bộ vó với đồ mặc trên người của Kim là bà chị 2 biết nguồn gốc,sau khi biết câu chuyện tình trên rừng của cô Y sĩ Việt cộng và em mình thì chị 2 vui vẻ ngay Kim an tâm,nàng thay đổi nhanh chóng với Sài Gòn nàng lột xác nhanh và tập sửa đổi phong cách nàng ở lại 4 tuần rồi về Bắc sau khi viết thư cho Hùng .Sài Gòn cái gì cũng mới mẻ lạ lẫm với Kim từ danh từ hàng ngày như thối Tiền lại, làm Kim hụt hẫng khi đi chợ, những ánh mắt hình như có lửa của tên bại trận, kim cảm thấy tâm hồn bất an chợt nhớ đến Hùng không biết anh ta như thế nào? Sự giam cầm đày ải của bên chiến thắng có ảnh hưởng đến mối tình của Kim hay không? Nhưng rồi tất cả đã vượt qua khi Hùng được phép thăm nuôi Kim lại vào Nam đi thăm Hùng Trại suối Máu là trại tù binh giam VC ở Tam hiệp biên hoà do chính tay công binh VNCH xây lên,chiếc xe Lam chậm rì đi theo con đường đất đầy bụi bặm, Kim và mẹ Hùng gọn nhẹ chỉ thuốc men là quan trọng và lạp xưởng lần đầu thấy nàng tưởng là nến nên hỏi đây là Nến hả mẹ cả nhà cười ồ rồi giải thích làm Kim đỏ mặt, Hùng ốm yếu xanh xao trong bộ đồ lính cũ anh ta không ngờ cô Y sĩ Cộng sản còn nặng tình đi tìm mình,không ôm được trong Kim vòng tay Hùng chỉ biết ngồi nhìn hai người mái tóc mẹ bạc thêm và Kim trưởng thành hơn đẹp hơn, khoảng không gian náo nhiệt thăm nuôi cả hai chỉ biết nhìn nhau nước mắt Kim rơi nhạt nhoà -Anh ốm thế,nắm bàn tay chai cứng của Hùng. Kim không nói được nhiều ngôn từ dường như vô nghĩa trong lúc này họ cần gần nhau dù chỉ cần một phút riêng tư nhưng không được, hơn hai năm rưỡi mới gặp lại trong hoàn cảnh tù đày của Hùng và Hùng nghĩ cuộc tình đã quên về phía Kim trong một khoảng bốc đồng của tuổi trẻ,thăm Hùng xong ra về nàng như say nắng, không bàn tính được chuyện gì Kim hy vọng Hùng sẽ được về sau một năm như ba nàng nói ba Kim chẳng còn quyền lực gì khi Thống nhất Đất nước, chuyện can thiệp cho tên Biệt kích ngụy ngoài tầm tay,Sau một năm Hùng ra tù, họ lấy nhau mặc dù gặp sự chống đối mãnh liệt của ông bố Kim ,nàng bỏ công việc tại miền Bắc vào Nam sống với Hùng ,tổ chức một cuộc ra đi vượt biên đến Thai Lan năm 1979- chuyến đi nhiều gian truân gặp cướp biển Thái, cả toán giết cướp biển bị Hải quân Thái kéo vô bờ rồi bị giam ra toà tưởng bị tử hình vì Hùng đã giết tên cướp biển khi hắn toan hãm hiếp đàn bà trong đó có Kim gần một năm bị nhốt tại Thái cuối cùng được Vua Thái can thiệp khoan hồng do phu nhân đại sứ Hoà land BTH giúp đỡ.

Ông Hắc Long chêm vô:

- Chuyện cũng tạm được nhưng sao con bé việt cộng nó yêu cuồng vậy?

-làm sao tao biết mày hỏi nó đang ở Melbourne nè, khi nào có dịp tụi mình ghé chơi cho biết.

Kể xong câu chuyện ông Lôi hổ ngồi trầm ngâm,phe chiến bại tụi mình có nhiều chuyện đau lòng nếu viết ra tao hận thù tụi Vc nhiều lắm nhất là về phía những người vợ lính sau khi chồng bị bắt đi cải tạo,tao sẽ kể tiếp chuyện dài nhiều tập,ông nhảy dù kể tiếp

-Ban mê thuột mất Thành phố Nha trang rơi vào khủng hoảng, dòng người di tản từ Cao nguyên và Miền trung đổ về như một cơn Hồng thủy, thành phố chộn rộn lính tráng đầy như một đàn kiến nạn cướp của lan tràn từ các ông Lao công đào binh và từ Quân lao nhà tù Tỉnh Khánh Hoà được một bàn tay nào đó thả ra Chính quyền bất lực họ chỉ lo đào thoát.

-Em tình hình này tụi mình phải lo chạy thôi, nhìn vợ và đứa con mới lên một Phong thở dài toán Thám sát Tỉnh kéo về theo lệnh của ông Phẩm,là trưởng toán Phong không còn nhiệm vụ tự lo bản thân, các toán viên dưới quyền gần một trung đội giải tán tìm cách vào Nam, căn nhà nằm gần cầu Xóm bóng chìm ngập trong cơn biến động của thời cuộc bọn Cộng sản nằm vùng bắt đầu lộ diện công khai, –

-Mình phải đi thôi em Phi trường kẹt cứng chỉ còn cách ra biển lấy khẩu k54 ra nhét vội vào lưng quần,một mớ áo quần,lương tháng cũng vừa lãnh cả hai ẵm con ra biển tìm tàu đi nhưng thất vọng quay về bãi biển đông nghịt lính và dân không tài nào chen chân lên được tàu Hải quân, về nhà căn nhà bị cạy cửa bọn hôi của lấy hết ráo đồ đạt cả hai chết lặng nhìn căn nhà bị dọn sạch-có tin Nhảy dù đã bỏ phòng tuyến Khánh Dương rút về Phan Rang như vậy Nha Trang đã bị bỏ ngỏ Phong cuống cuồng nói

-Em về với mẹ anh phải đi

-Anh ơi chết thì cùng Chết sao anh bỏ mẹ con em trong tình cảnh này

- Cầm khẩu K54 bấm băng đạn rơi ra Phong chỉ cho vợ cách dùng -trong tình trạng nguy cấp em dùng khẩu súng này Anh còn khẩu Colt 45,sau khi chỉ dẫn cho vợ sử dụng,tháp tùng đoàn người di tản về Phan Rang một đoạn đường tương đối an toàn,Dù và BĐQ sư đoàn 2 đã có lập phòng tuyến mới, tiếng loa phóng thanh kêu gọi công chức và quân nhân trình diện, có một Tỉnh trưởng mới thay ông Tự,ông này đã đào tẩu vào Phan Thiết và bị ép trở lại Phan Rang với chức vụ khác. Phong nhận nhiệm vụ mới sau khi cho vợ con tá túc với bà Dì của vợ, với lực lượng què quặt của Sư đoàn 2 và lữ đoàn 3 Dù và Liên đoàn 31 BĐQ ,ĐPQ 250 tiểu khu Ninh Thuận mới mới về lại sau khi ông Kia tiểu đoàn trưởng chưa đánh mà chạy theo ông Tiểu khu trưởng.Đại tá Liêm từ Sư đoàn 2 được bổ nhiệm làm Tỉnh trưởng Phan Rang đêm 15 tháng 4 Phan Rang Việt cộng chỉ hoạt động lẻ tẻ chưa đánh lớn thì ông Liêm bay ra tàu Hải quân của duyên đoàn 2 được tàu Mỹ Whec vớt thì trên tàu đã có mấy trự như Tướng Nhật tư lệnh Sư đoàn 2 và ông Tiểu đoàn trưởng ĐPQ 250 Trần văn Kia chạy ra đó tự bao giờ. Trong khi Trung đoàn 4 và 5 của Sư đoàn 2 đụng nhau tại Tân Mỹ, (đại tá tự trốn thoát khi Phan Rang mất và trình diện cải tạo tại Sài Gòn chứ không bị bắt làm tù binh như Đại tá.Lương của Dù Tướng Nghi và Tướng sang Wikipedia đã viết sai rất nhiều về phòng tuyến Phan Rang mà phe chiến bại không ai lên tiếng) Phan Rang mất 16 tháng 4 Phong bị bắt đưa ra trung tâm huấn luyện Lam Sơn cùng một số lính dù và đại tá Nguyễn thu Lương lữ đoàn trưởng lữ đoàn 2 Dù ra Phan Rang thay Lữ đoàn 3 Dù, ngày 30 tháng 4 năm 1975 Sài Gòn đầu hàng, tất cả tù binh của VNCH được phân loại thành phần sĩ quan từ Thiếu tá bị giữ lại cấp Đại uý bộ binh cho về .Phong về lại Nha trang thì vợ Phong từ Phan Rang về trước một tuần,nhìn căn nhà ảm đạm vợ ốm o gầy mòn, cả miền Nam chung một số phận trừ bọn 30 tháng 4, Sau khi Phong đi cải tạo gần một 6 tháng -có một tên cán bộ lù lù đến nhà tìm Phong tự xưng là Chú Phong

Lê niềm nở chào hỏi Bắc nhận hàng Nam nhận họ ít ra trong hoàn cảnh bị chụp cho cái mũ vợ sĩ quan ngụy,có một ông Chú cán bộ tụi phường khóm cũng bớt làm khó dễ,nhìn khuôn mặt tái xanh của ông Chú nàng đâm ra nghi ngại. Nhưng ông ta dường như biết được nên nói vanh vách tên ba của Phong và họ hàng bên chồng. Ông ta đang công tác trên Tỉnh bộ Nha Trang chức vụ gì đó cũng có thớ,sau màn trà nước ông đề nghị –

-Con cho chú biết nơi học tập của thằng Phong chú ghé thăm và có thể xin bảo lãnh nó ra về học tập tại địa phương Lê mừng quá nàng cho ngay địa chỉ phong học tập -Tới lui vài lần thì ông ta trổ mòi dê con cháu dâu một con xinh đẹp gái một con trông mòn con mắt -Tháng năm trong rừng vắng hơi đàn bà,vợ ông thì đang ở ngoài Bắc chưa vào Nam

- Chú đề nghị như vầy con thấy sao?

- Con đơn chiếc quá hay là cho Chú dọn về tạm trú chờ thiếm con từ Bắc vào được không? Lê hơi ngập ngừng về lời của ông Chú chồng nàng nói để con suy nghĩ

- Rồi chuyện gì đến sẽ đến con cáo già, nay gói quà,bột ngọt đường sữa làm lay động lòng người thiếu phụ cô đơn với Ý nghĩ đơn giản ông ta là Chú họ của chồng, Ông dọn về chiếc xe com măng ca của liên Xô hàng ngày đậu trước sân làm tụi Công an khu vực không dám ho he một vài tuần đầu không có gì,nhưng một buổi tối sau khi tắm xong Lê đi ra khỏi phòng tắm ông Chú chồng nhìn nàng rạo rực tia mắt đầy dục vọng.

Ông đã nhiều lần nhìn qua khe hở phòng tắm khi con cháu dâu tắm dưới ánh sáng ngọn đèn mờ ảo một tòa thiên nhiên lộ ra núi đồi trùng điệp,mái tóc xõa phủ bờ vai trắng nuốt và tự thủ dâm 5 ngón tay ông mân dế nhiều lần trong rừng chúng gọi là 5 thằng bóp cổ một thằng hôm nay ông dằn nổi con lợn lòng ông phải hành động gái vắng chồng lâu ngày đụng vào thì nước ra như bia bọt mặt ông đỏ rần đâm ra tía tai khi Lê từ phòng tắm đi ra.

Ông chợt ôm choàng Lê đôi tay chạm vào những chỗ nhạy cảm cần có bàn tay chồng nâng niu ve vuốt Lê thở mạnh hất đôi bàn tay tham lam của ông chú chồng

- Chú làm gì vậy tôi la lên bây giờ ông là Chú mà sao tồi bại như vậy?

- Cho chú đi lâu quá vắng hơi đàn bà nhìn con bốc lửa thế này Chú không chịu nổi,thằng Phong nó còn lâu mới về theo Chú biết ít nhất cũng 3 năm cải tạo nếu không có lo lót hay bảo lãnh,nghe nhắc đến Phong nàng rạo rực chợt nhớ đến cảnh ái ân nồng nhiệt của chồng Nhưng nàng còn lý trí để vùng khỏi đôi tay khốn nạn của ông Chú chồng vụt chạy ra ngoài với cái áo bung nút Lê chạy sang nhà con bạn,bỏ quên thằng bé trên chiếc giường với tên Chú khốn nạn

- Mày làm gì hốt hoảng lên thế

- Tao bị tên chú Việt cộng tấn công tính hiếp dâm

- Mẹ họ ông đó để tao sang nói chuyện,về nhà thì tên Chú lủi mất nhìn đứa con thơ ngây giống Phong như đúc nằm ngủ nàng dịu lại

- Mày đuổi hắn ra khỏi nhà đi mẹ họ Chú gì mà kỳ vậy?

Tên Chú biến mất với đồ đạc còn ăn cắp cái áo jacket lính của Phong nàng thường đắp cho con,hai người đàn bà cùng hoàn cảnh ôm nhau khóc hứa nương tựa nhau sống,nghĩ lại giây phút đó Lê nữa choáng váng nửa đê mê nàng nhớ Phong cuồng nhiệt đêm đêm trăn trở thở dài trên chiếc giường trống vắng nàng cần một bàn tay một hơi ấm của đàn ông, ngoài hiên tiếng mèo cái động đực kêu lên nghe rợn người nàng chợt nghe đũng quần ướt nhẹp tinh khí , Anh Phong ơi!Lê kêu tên chồng rồi lịm dần trong giấc ngủ

- Sợ một mình Lê về Ninh hoà gọi mẹ lên sống chung đàn bà vợ sĩ quan bị đi cải tạo bị cám dỗ bị hăm he bị dụ dỗ về phía kẻ thù của chồng có người sa ngã có người chống cự và có người chết để gìn giữ sự thủy chung cho chồng, thân phận họ khi đi buôn bưởi chải liếm cơm nuôi thân nuôi con thì rơi vào tay đám tài xế và lơ xe đò nếu muốn hàng đi buôn trót lọt thì phải trao thân cho bọn khốn nạn này,Lê chợt nhớ đến thân phận người đàn bà Nhật bản sau chiến tranh các ông chồng trở về sau khi Thiên hoàng đầu hàng ăn bám,vợ những người vợ lính Nhật bại trận bung ra làm đủ mọi cách để kiếm tiền và thực phẩm họ bán thân cho Lính Mỹ đem về từng đồng Dollars và đồ hộp để nuôi sống gia đình, người vợ lính bên bại trận miền Nam chẳng hơn gì,nàng quá thơ ngây tin vào tên bất lương làm trong ủy ban quân quản của Việt cộng tại Nha Trang Chú họ của Phong may là nàng thoát khỏi bàn tay hắn công việc còn lại là phải về quê nương tựa với Mẹ chờ Phong. Cuối cùng Lê và đứa con rời Xóm Bống về Ninh Hoà nương tựa nơi ruộng vườn dài cổ chờ Phong ra tù

- Cuộc nổi dậy của nhóm Vinh Sơn đen Noel năm 1975, đã nhen nhúm mầm mống chống đối chính quyền VC Kháng chiến phục quốc nổi lên giả nhiều hơn thiệt, tuy nhiên tất cả chỉ có tính cách một đốm lửa tàn được nhen nhóm trong một số người tự cho là Tôn giáo chống cộng thì ông Giám mục NVB lên án ‘Đây là một bọn phản động, lợi dụng nơi thờ Phượng để chống Cách mạng tất cả bị triệt và bị tuyên án tử hình, bắt đầu từ đây phong trào kháng chiến phục quốc từ từ nhen nhúm trong cộng đồng người bại trận hừng hực khí thế,tụi Cộng sản vãi đái khi vác bị đi ăn mày bọn tư bản,mãi cho đến lúc Mỹ nối lại bang giao với kẻ thù CS VN thì tự biến mất không kèn không trống,tưng bừng khai trương âm thầm đóng cửa, thì họ quay lại chửi rủa nhau sau cái nghị quyết 36 rất thâm độc của Cộng. sản Việt Nam họ rất nắm rõ yếu huyệt của bên chiến bại là Tình cảm dễ mũi lòng, và dễ tin những tên trở cờ được cho về thăm Quê hương chùm khế ngọt điển hình là tướng Kỳ, hay ra thăm đảo Trường sa như đám nhà báo Hải ngoại và mấy tên mát dây như tự xưng Thiếu uý Tqlc tên Lập, có ông Ngô kỷ Sơn nguyên lá cờ vàng ba sọc đỏ trên chiếc xe thổ tả chạy lăng tăng trên đường phố ,một bọn điên điên tỉnh tỉnh quậy nát cái Cộng đồng vốn như bãi cát rời Phục quốc hay Quang phục Quê hương chỉ là một danh từ đã nguội và nhạt như nước Ốc,bây giờ có ông đòi khôi phục hiệp Ba Lê năm 1973, lôi ông Diệm ra phong Thánh và vác cờ vàng choảng nhau chí choé giống như bọn phường chèo.Nào là nghị quyết thỉnh nguyện thư gửi búa xua lên TT Mỹ, bọn Việt cộng thì thập thò vào Mỹ với đống Dollars kếch xù nhìn mấy ông bại trận cười ngạo mạn,nếu Vua Hùng còn sống cũng đập đầu than khóc, với một lũ con như thế này.

- Thôi nhắc mấy cha bên Mỹ tao hết muốn nghe,ông Nhảy dù tay bưng ly trà Sen thơm, ngát đi về phía giàn Thiên lý, mùa đông đã sắp đi qua. Bầu trời trong vắt không một gợn mây, ông suy tư chợt nhớ đến lời kể của Bố già Phát lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Dù và trận đánh tại đèo Phượng hoàng năm 1975. Ngày 16 tháng 3 năm 75 Dù bàn giao lữ đoàn 3 dù được lệnh bàn giao cho Lữ đoàn 369 TQLC xuống HQ504 và HQ 505 về Nam đến Nha trang được lệnh tướng Phú Lên trấn giữ đèo Khánh Dương để chặn Sư đoàn 10 và 320 Bắc việt từ Buôn ma Thuột tiến chiếm chọc thẳng vào Nha Trang Sư đoàn 320 là sư đoàn thiện chiến của Bắc việt ,họ nổi danh khi đánh nhau với quân đội Pháp, nhưng Dù chỉ có một Lữ đoàn, để ngăn chặn sau khi sư đoàn 23 và 22 rút từ từ theo quốc lộ 21 về Cam Ranh theo lệnh tướng Phú,họ không còn tinh thần để chiến đấu dù có sự yêu cầu của bố già Phát, mỗi Sư đoàn 22 và 23 chỉ còn lại không hơn hai Trung đoàn,có còn hơn không nhưng bị từ chối,Sư đoàn 10 Cộng sản Bắc việt bôn tập truy đuổi bị Dù đánh cho tan tác chạy lui về phía Bắc sau cùng phối hợp với Sư đoàn 320 đánh bọc bên sườn theo thế kẹp chả, địch pháo như mưa không có Không yểm lữ đoàn 3 Dù chiến đấu đơn độc,đoàn quân xa tiếp tế cho Dù bị chặn đánh,đạn pháo binh thiếu hụt trầm trọng, bị chặn mất nguồn tiếp liệu, thì Tiểu đoàn 2 Nhảy dù do thiếu tá Hạnh lãnh nhiệm vụ khai thông từ chân đèo xuống Dục Mỹ để tiếp tế đạn dược lương thực thì bị chặn đánh với quân số gấp 5 lần,bị vây hãm Tiểu đoàn trưởng Thiếu tá Hạnh thoát được lên trực thăng số anh em còn lại bị bắt hay bị Chết không một ai biết cuối cùng Lữ đoàn 3 Dù mỡ đường máu rút về Phan Rang một phần còn lại thì được bốc bằng trực thăng do Sư Đoàn 2 không quân thực hiện chuyến bốc quân lịch sử sau cùng của VNCH , ngày 7 tháng Lữ đoàn 3 về Sài Gòn để bổ xung quân số khi Lữ đoàn 2 ra thay thế bàn giao Lữ đoàn cho trung tá Khôi đến ngày mất miền Nam Bố già Phát không có chức vụ gì.

Câu chuyện tiếp tục về phần ông Hắc long một câu chuyện nực cười bà con bên vợ của ông có ông em vợ vượt biên sang Úc năm 1986 sau một thời gian ổn định cuộc sống thì ông nhớ bà mẹ còn ở VN nên bảo lãnh sang Úc.

Nhấp một ngụm bia ông Hắc Long kể chuyện đời đôi mắt xa xăm nhìn về phía cuối vườn nơi có người vợ có biệt danh người đẹp sầu muộn đang lui cui đào xới đem vô một nhúm Sâm đất mà bà rất cưng để nấu canh và ngâm rượu cho ông bợm nhậu Hắc long tuy nó không tốt bằng Sâm Đại Hàn nhưng không bổ bề ngang cũng bổ bề dọc nhưng uống đủ mọi thứ từ Chim bìm bịp, rồi tam xà đảm, bào ngư, Hải Sâm, thằng nhỏ vẫn 6 giờ 15 không ngóc nổi lên 9 giờ bà người đẹp sầu muộn cứ than hoài làm ông Hắc long bực mình nói. Lớn nói nhỏ không nghe biết sao bây giờ,câu chuyện tắc tị ông Lôi hổ nhắc

-Mày nói gì về ông Em vợ và ông HO sao tịt ngòi rồi

-À tao quên mất câu chuyện như thế này .N

-Mẹ ơi ông em vợ bà con của tao bảo lãnh một ông anh hồi xưa là Thiếu tá Tâm lý chiến ông tốt nghiệp khóa 14 Trường chiến tranh chính trị, quyền uy một thời tại một Tiểu đoàn Chiến tranh chính trị tao chẳng nhớ ở đâu ,áo mủ xe xộn xênh xang, mẹ ông có làm gì đâu cứ bám theo mấy anh thợ hát và mấy con ca sĩ suốt ngày cứ anh là lính đa tình, rồi ai nói với em nếu anh là lính, chẳng làm được cái tích sự gì chỉ tốn ngân quỹ Quốc gia, ông lấy một bà vợ đẹp não nùng hơn người đẹp sầu muộn của tao bà chẳng làm gì ngoài nhảy đầm và của móng tay công việc nhà cửa con cái có người lo, đùng một cái miền Nam đứt phim ông Thiếu tá Tâm lý chiến vác Thân vào trại cải tạo tụi VC nó nghe đến tâm lý chiến thì nó căm lắm mày còn nhớ cái tranh hí họa bất hủ mà mấy ông họa sĩ nhà ta vẽ không?

-Tranh gì thì cứ nói ra cứ ỡm ờ hoài cha nụi.

Ông Hắc Long làm cho vẽ quan trọng nhìn ông Lôi hổ và Nhảy dù nheo mắt nói

-Tụi mày còn nhớ Tranh vẽ 3 thằng Việt cộng đu lá Đu đủ không gãy không?

-À nhớ rồi

-Mẹ chính vì bức tranh này và câu nói châm biếm của ông Hề Khả Năng ngon thì ngon ăn xong phải báo cáo mà tụi VC nó cho ông Thiếu tá ngâm trong trại cải tạo 10 năm. Khi ông Thiếu tá Tâm lý chiến đi học tập cải tạo và đợt đánh tư sản đầu tiên thì gia đình ông Thiếu tá Khánh kiệt bà vợ vốn là tiểu thư đài cát trên sàn nhảy chẳng biết làm cái gì để nuôi đàn con 3 đứa thì bà chộp ngay thằng cán bộ Bắc kỳ trưởng phòng thương nghiệp quận 3,khi nó ngưỡng mộ cái dung nhan vẫn còn mượt mà của gái Sài Gòn mẹ

-Gái Sài Gòn lồn viền chỉ đỏ

-Trai Bắc kỳ cặt lỏ đen thui

Đen thì đen nhưng tiền nó không đen, bà nhào vào vòng tay kẻ thù của chồng bà không một chút suy nghĩ và chẳng màng đến ông chồng trong vòng tù tội, bạc như vôi cả nhà bên ông Thiếu tá choáng váng nhưng chẳng làm được gì mỗi sáng thằng em ông Thiếu tá căm hận nhìn thằng cán bộ mặc cái áo jacket của ông Thiếu tá Tâm lý chiến Anh mình tức muốn ói máu,càng ói máu hơn nữa khi thấy chị dâu của mình lẳng lơ tựa má kề vai với tên cán bộ trước căn nhà của Anh mình từ đó về sau bà chị dâu coi như đoạn tuyệt bên chồng Mấy đứa cháu còn nhỏ quá nhưng có một thằng 10 tuổi lâu lâu nó cũng trốn về nhà thăm bên nội.

Đến lúc cho thăm nuôi thì thằng em ông Thiếu tá đến nhà bà chị dâu hỏi mà có gửi gì cho chồng không?

Thì bà nói

-Chú cho tôi gửi lời thăm ông ấy chúc học tập tốt

- Sao chị tàn nhẫn vậy?ngày xưa chị lên xe xuống ngựa nhờ anh tôi bây giờ anh tôi xa cơ chị ác quá

Nghe tiếng ồn tên cán bộ đi ra nhìn ông em chồng của bà vợ mình cướp từ tay ngụy nói

- Anh cút đi Lạng quạng coi chừng tôi

Kể đến đây ông Hắc long dừng

Rồi tụi mày biết sao nữa không!

- Ông em của ông Thiếu tá bảo lãnh ông ấy sang đây vì bà mẹ năn nỉ quá,

Bên nhà VN bà vợ ông ấy quay ngược 180 độ đòi ghép tên vào để đi Úc không biết ông Cựu Thiếu tá ăn cái gì mà ngu thậm tệ, vậy mà ông nghe lời viết thư sang Úc cho ông em bảo phải ghi tên vợ con ông vào, trận chiến nảy ra giữa mẹ con và vợ làm ông em choáng váng

Cuối cùng thì chỉ bảo lãnh ông anh chịu không chịu thì thôi

Sang Úc không nghề ngỗng tuổi thì lớn chẳng có việc làm sống bám vào trợ cấp chờ đến ngày vô Quốc tịch, đến 3 năm ông Cựu Thiếu tá được vô quốc tịch và được hưởng tiền Cựu Quân nhân Đồng minh dù ông chẳng biết thằng Việt cộng ở mặt trận người ngợm như thế nào ngoài 3 thằng ốm đói bu cọng lá đu đủ không gãy,bỏ ra 200 Úc kim thì mẹ họ không đụng trận thì Mai Ngọc Năng nào đó chuyên môn làm hồ sơ, hô biến một cái đụng cả chục trận rồi lãnh tiền ngon ơ.Tội cho ông Đồng minh Úc vì theo tiêu chuẩn chỉ có dân tác chiến hay những đơn vị nào gần mặt trận mới được hưởng tiền cựu quân nhân Đồng minh.

Một hôm một ngày đẹp trời bà mẹ và ông Anh tạm gọi là HO gọi vợ chồng ông em ra cái bàn phòng khách một cách trịnh trọng

- Hôm nay mẹ và anh mày cần nói với vợ chồng con một chuyện.

Ông em và vợ không biết chuyện gì thì bà mẹ nói:

- Từ năm 1975 đến giờ Anh mày dù thất trận nhưng quân đội Úc thay mặt Mỹ vẫn trả lương đầy đủ cho nó, con đại diện anh con lãnh từ khi mày vượt biên đến đây mẹ tính ra tiền truy lĩnh cũng lên mấy chục ngàn đô

- Trời mẹ nói cái gì?

Ông HO chen vào

- Thôi anh nói chú nghe cứ trừ tiền chú làm bảo lãnh cho Tôi sang Úc cao lắm là 2000 ngàn đô số còn lại Chú trả cho anh để anh lo cho mẹ con nó bên VN sang đây Vợ chồng ông em như trên trời rơi xuống hỏi -Tiền gì ? Trời ạ mẹ và anh có ngủ mê không?

- Thì tiền lương bồi thường của Mỹ cho tao ?

Vợ chồng ông em dỡ khóc dỡ cười hỏi ra thì ông Anh cựu Thiếu tá HO nghe ai đó bên VN đồn là Mỹ trả tiền truy lĩnh mười mấy năm cải tạo cho H0 tùy theo cấp bậc Trời ơi là trời,ông em như rơi vào một cơn động đất có giải thích thế nào đi nữa bà mẹ và ông anh cứ nằng nặc là hai vợ chồng ông em ém tiền của ông anh Trời cao có thấu, sau bao nhiêu năm bảo lãnh và nuôi ông anh ở nhà mình không lấy một xu giờ đây lại mang cái nợ gần 30 chục ngàn đô tiền ảo thành tiền thật, ông em ông HO nhờ mấy ông cựu quân nhân VNCH giải thích nhưng vô ích, cuối cùng ông em phải nghỉ làm dẫn ông HO lên văn phòng Cựu chiến Binh tại số 200 Collin st hỏi cho ra lẽ lúc đó ông Anh Cựu Thiếu tá HO mới im miệng.

Ông Nhảy dù nói

- Làm ơn mắc oán lúc ở bên trại tị nạn cũng đồn như vậy nên mấy ông cựu Quân nhân tự tăng cấp bật như ông Lã quý Trang của nhảy dù và ông Nguyễn đình Khánh bên Lực lượng đặc biệt như trong hồi ký của ông Hoàng Long Hải viết, ông nào cũng nói lấy thâm niên thì phải lên một hay hai cấp, mẹ họ chạy sút quần mà các quan cứ phong quan tấn chức ông Tư lệnh Sư đoàn 2 thăng lên Trung tướng ông nhà báo Phạm Huấn được ông em tên Tín phong Thiếu tá lên Đại tá

- Thôi dẹp mấy choa đó lại giờ thì tan hàng chó cắn (cố gắng)

Thần khẩu hại xác phàm ông nhảy dù nói xong đi ra đầu ngõ thì con chó hàng xóm thấy gai mắt nhảy sang tạp cảnh cáo một cái rách ống quần bà người Greek chủ con chó lật đật xin lỗi

Ông nhảy dù nhìn con chó,con chó nhìn ông hai bên nghinh nhau

- Mày coi chừng có ngày vào nồi nước sôi.

- Ê mày có sao không ông Lôi hổ và Hắc long chạy ra

- không sao rách ống quần

- Mày vạ mồm vạ miệng cái củ mì của mày có ngày nó tạp một cái thấu xương, mấy ông bên bại trận còn gặp nhau đánh trận trên bàn nhậu tiếp vào tuần sau đến hẹn lại lên

- Nhà ông Lôi hổ nằm ở Werribee cách nhà ông Hắc long khoảng 15 phút lái xe chừng 30 cây số đường thẳng tắp rất rộng rãi ông Lôi hổ kết con sông nhiều cá Hanh hám ăn và hơi hôi rong nhưng chiên xù nhậu hết biết

Vác cái cần câu ra ngoài phía sau mỏm đá ông Lôi hổ tưởng mình Như Khương tử Nha câu cá chờ thời mà khi sang đây còn độc thân ông gia nhập một Tổ chức Chí nguyện đoàn Hải ngoại Phục quốc tiền bạc làm bao nhiêu ông tiêu vào cái khoảng Kháng chiến này hết lòng hừng hực máu nóng khi biết người dân trong nước và Hải ngoại đã thức tỉnh bên Mỹ Nguyệt san thức tỉnh là cơ quan ngôn luận của Tổ chức chí Nguyện đoàn do ông Lê minh Trực làm chủ bút hô hào hạ gục Việt cộng người người nô nức ngày 30 tháng 4 hàng năm cờ Vàng ba sọc treo khắp nơi có người Việt tị nạn, nơi nào từ chối không treo thì nơi đó là Việt cộng mấy ông Việt gốc Tàu có cơ sở buôn bán làm ăn phải treo cờ nếu không muốn chụp mũ cối đất nước người ta mà các ông Kháng Chiến coi như đất của 18 đời Vua Hùng để lại cờ Vàng khắp nơi chỉ trừ cái Dinh Thủ Hiến Victoria. Ông làm gì mà lò mò vậy ông?

- À Anh làm mồi câu vài con cá Hanh chiên xù để mấy thằng già đến hẹn lại lên

- Tôi thấy ông cầm cái cần câu rồi suy tư chuyện gì dzậy

- Có gì đâu tôi nghĩ lại cái lúc Kháng chiến ấy mà

- Thôi ông ơi ! Mệt ông quá còn cái thân tàn từ Lào về đây gặp tui là may lắm rồi quên đi

Bà vợ ông Lôi hổ người đàn bà tuyệt vời mà ông gặp trong lúc đời ông bị vùi dập vì chuyện Kháng chiến đã cho ông một mái ấm của mảnh đời còn lại trên đất tạm dung này

- Em ơi may mà có em đời còn dễ thương. Em Pleiku má đỏ môi hồng,ở đây buổi chiều quanh năm mùa Đông Ông Lôi hổ gặp bà bên này sau khi ông vất hết chuyện kiếm cung để nhằm khôi phục lại cái mình đã không giữ được là một nửa Giang Sơn, bà dân Pleiku nên ông Lôi hổ đâm ra nghiện bài hát này phổ nhạc từ Thơ Vũ hữu Định

- Anh cá cắn câu kìa

Câu được 5 con bằng bàn tay mỗi con hơn nữa ký chắc nấu canh cà và chiên xù, thì phía trước ông Hắc Long cũng vừa đến

- He he Cá đã quá thấy muốn chiên xù ngay

- Ừ thì em vào bếp với bà Pleiku tụi anh chờ thằng nhảy dù đến tà tà nhâm nhi rượu nếp thang

- Ông ngoại, con bé Vành khuyên cháu ông Hắc long hôm nay theo ông ngoại bà ngoại chạy ra sân nhảy bám vào cổ ông Lôi hổ hỏi

- Ông ngoại tìm ra con Chim Vành khuyên chưa?

- Chết mày rồi mày hứa với nó là mày lãnh nợ ông Hắc long cười nói

- Ông Lôi hổ giật mình con bé này nó nhớ dai kinh khủng

- À ông chụp hình rồi chút nữa ông in ra cho con

- Để tao mở máy cho tao in hình con chim Vành khuyên tao vừa tìm trên mạng cho nó

- Con bé Vành khuyên cháu ngoại thằng Hắc long cấm tấm hình vui mừng chạy khoe hai bà ngoại đang làm cá, tội nghiệp con bé

- Mẹ họ cái thằng cha con bé nó có chu cấp tiền bạc nuôi con bé không ?

- Mẹ không đủ cho nó bao gái

- Nó ở đâu? Mẹ nó về đây tao thiến nó ông Lôi hổ lên tiếng

Đôi mắt trầm buồn ông Hắc long nhìn xa xôi không nói thêm thì ông nhảy dù và phu nhân vừa đến bàn nhậu được bày bên bờ sông dưới tàn cây Red gum rất thơ mộng các ông vừa nhậu vừa đánh trận An Lộc

Bình Long Anh Dũng, Trị thiên vùng Dậy ,Kon Tum kiêu trời (kiêu Hùng)

Ba Địa danh vang dội Thế giới do ông TT Thiệu đặt, chai rượu nếp than do ông Lôi hổ mua từ shop của Tàu nó đen màu Tím tím của trái Sim thì cá Hanh chiên xù cũng vừa đem lên các phu nhân cũng ngồi vào phá mồi cuốn bánh tráng với rau thơm đầy khu vườn

- Ông Nhảy Dù mở máy vào để khi nhấp xong ly rượu Nếp than rồi khà một tiếng nhìn con bé Vành khuyên đang lom mắt nhìn ông nó đang chờ để ông Nhảy dù nhe hàm răng mất vài cái rồi chọc quê ông Nhảy dù biết ý nên để nó thoải mái, ông lên dây thiều cái máy cassette

Rồi nói

- Tụi mày nghe tao kể nè ngày 13 tháng 4 năm 1972 tụi nó tấn công vào An lộc trong vào thời điểm mà Lữ đoàn 2 Dù kẹt trên các căn cứ Delta Charlie và Yankee tại Kon Tum bằng toàn bộ lực lượng 5,7,9 và Binh Long theo tin Tình báo khoản 70.000 bộ đội phía VNCH khoảng 10 ngàn quân gồm sư đoàn 5 liên đoàn 3 BĐQ với 3 tiểu đoàn ngày 18 tháng 4 thì Liên đoàn 81 Biệt kích dù được trực thăng vận vào An Lộc, Sư đoàn nhảy dù có một Lữ đoàn 1 tham chiến tao có mặt cùng với tiểu đoàn 6 trấn tại đồi gió ăn một trận mưa pháo khủng khiếp vì lúc đó tao vừa ra trường cuối năm 1971 về nhảy dù có kinh nghiệm trốn pháo gì đâu cứ lớ ngớ đụng đâu chui đó, may có thằng hạ sĩ nó kéo tao vào căn hầm kiên cố mới toàn mạng, sau pháo tụi Việt cộng nó tấn công tới tấp tụi tao thằng nào còn sống thì tháo chạy ra khỏi ngọn đồi cuối cùng chỉ còn trên trăm mạng được bốc về Lai Khê bổ sung và tái trang bị. Rồi nhảy vào tiếp ông Đại tá Lưỡng điều quân đánh từ Lai Khê lên Chơn Thành phối họp với Biệt kích Dù từ bên trong đánh ra tụi tao được lệnh cùng Trung đoàn 15 Sư đoàn 21 bộ binh có nhiệm vụ khai thông Quốc lộ 13, nhiệm vụ thật nan giải với số lính nhảy dù đã mất tinh thần sống sót từ đồi gió nhưng cấp chỉ huy mặc kệ.

Tao nói thiệt tụi lính Bắc Việt nó bị tuyên truyền là An Lộc đã được giải phóng cho nên tụi nó chẳng chuẩn bị để tác chiến chức với quân số đông như vậy nó thanh toán An Lộc dễ dàng, và hơn nữa tụi nó không không có kinh nghiệm hợp đồng tác chiến giữa Chiến xa và bộ binh tùng thiết và thiếu kỹ thuật tác chiến trong thành phố nên bị thua trong trận An Lộc sức chịu đựng Bom B 52 của tụi nó quá hay, phe mình chỉ được ưu thế về không yểm và nhờ lối đánh của Liên đoàn 81 đánh du kích đêm và Lữ đoàn 1 Dù nếu, để Sư đoàn 5 và 21 chống cự chắc Tướng Hưng đã bị bắt làm tù binh và An Lộc cũng đã mất

-Thôi mấy ông ăn đi, có chồng lính sao tụi tôi khổ quá bà vợ ông Hắc long lên tiếng

-Trời sau giải phóng ông đi cải tạo về không việc làm cứ buồn nhớ quân đội nhậu quài say quắc cần câu thì được mấy đệ tử TQLC lúc trước bỏ lên xe ba gác chở về ném trước hàng ba rồi tui ra lôi vào nhà.

Ông Hắc Long chỉ cười cười không nói năng gì, thì ông Lôi hổ nói

- Ê ông vỗ mông mày khai thác tụi tao nhiều rồi kỳ sau đến lượt mày nghe chưa?

- Ừ tao đang chuẩn bị rồi mà mày đánh xong trận An Lộc rồi hả? Ông Quân y hỏi

- Mẹ tao đâu phải nhà báo thêu dệt ra nhiều chuyện rồi nổ mà có phải Tề thiên phân thân ra để mà biết diển tiến trận mạc ra sao, tao chỉ biết gần cả tháng tụi tao mới khai thông được Quốc lộ 13 để đoàn xe tiếp tế và bổ xung quân cho các Trung đoàn bộ binh của Sư đoàn 5 và Sư đoàn 21 Con lộ lính và dân chết tao bị ám ảnh đến bây giờ tụi tao phải đánh chiếm từng mét vuông đất tao chỉ nhớ nhiêu đó.

- Thì mày cứ hư cấu nhiều vào để thằng Quân y này nó hô biến cho đậm đà muối mắm chuyện gì chứ chuyện già mồm thằng Quân y này nó hay lắm, nó nhờ tài cua gái bằng ngòi bút và nước bọt, mẹ họ con nào thơm như múi mít nó xơi hết ráo tao ganh tị vô cùng

Ông Quân y làm thinh mấy ông bạn già dân tác chiến nói đúng chứ phải không, thôi nhịn chút cho vừa lòng nhau, mẹ tụi này nó hùa vào đánh bằng võ mồm ông quân y cũng mệt xác tóm lại mấy ông là bạn từ lúc nhỏ, cho nên hiểu nhau sau Chiến tranh mà gặp lại nhau trên đất khách quê người nhậu lai rai nhắc chuyện cũ cũng vui đời tị nạn

- Thằng Quân y không hút thuốc không cà phê, nhậu thì phá mồi chơi với nó từ lỗ đến lỗ,ông Lôi hổ lên tiếng được có cái là nó bênh bạn hết mình chơi xả láng sáng về sớm Trời đứng bóng thì mấy ông già dịch bên chiến bại hết đề tài kéo nhau ra con Sông Maribyrnong nhìn đàn Vịt trời bơi lội con nào con nấy mập ú

- Ê bắt làm tiết canh đã lắm,ông Hắc long nói

- Thôi đừng xúi dại tụi Council Brimbank nó gắn chip điện tử nơi chân nó đến nhà nó phạt mệt lắm tụi bây muốn ăn tao đi mua nhưng thằng nào cắt cổ chứ tao không cắt tụi tao cử sát sanh lâu rồi

- Các ông ơi! già rồi tiết canh tiết hẹ gì nữa làm ơn kiêng cữ dùm cho tụi em nhờ. Khi 3 người đẹp nửa chừng Xuân lên tiếng thì mấy ông lặng thinh, kiếp đàn ông xứ này 12 bến nước trong nhờ đục chịu nó hé cảnh sát nó còng đầu, xứ Nữ Hoàng đàn bà con nít thú vật trên hết, biết thân thì hay nhất.

Mấy ông già bên chiến bại lủi thủi quay lên bờ rồi mạnh ai nấy biến hẹn khi khác, tiếng máy xe xa dần ông Lôi hổ vẫn đứng tần ngần ngoài sân, bên phía rặng cây đàn Chim Cu (Lovebird ) gáy lên từng hồi làm ông nhớ lúc nhỏ đi bẫy Cu nơi cánh đồng cùng Anh Hai Phó làm ông nhớ nhà vô cùng, người ta nói khi tuổi về già thì cái memory nó gợi lên nhiều ký ức tuổi thơ mình không cưỡng lại được (câu chuyện gác Cu do ông Quân y viết sẽ kèm theo hồi ức này) Ông Hắc Long là cái ông rất là hư đốn về chuyện gái gú

Một hôm ông Lôi hổ và Nhảy dù chơi ông ham của lạ một vố, nhưng chút xíu trở thành một thiên tai số là có một nhà chứa trá hình Mát sa do một Tú ông Việt làm chủ, ông Nhảy dù và Lôi hổ nghe được bèn rủ ông Hắc long đi thám thính, nhưng bị bà người đẹp sầu mộng phát giác liền tập hợp 2 bà kia lại tìm cách đối phó bà vợ ông Lôi hổ tuy nhu mì hiền hậu nhưng có đai Nâu Tae kwon do, nhỏ tuổi nhưng có lá gan rất lớn chỉ huy một trận đột kích vào cái chỗ có yêu nữ trá hình, ba bà đi mua một thùng xăng 20 mươi lít, chờ đêm tối đến nơi đó Hoả thiêu Động yêu nữ, may mà trời cũng thương đêm đó không có ba ông già dịch không đến đó vì xe bị hư giữa đường chờ xe RACV đến kéo, nếu có chắc tất cả thành heo quay ghê thiệt, ông Hắc long và Nhảy dù cùng ông Lôi hổ nghe mấy bà kể lại và thấy cái thùng xăng ông nào cũng tái mặt. Sau này không dám bén mảng đến cái Động mát xa trá hình kia hú hồn

- Nhìn người vợ nhu mì hiền hậu nhưng có đôi mắt sắc lẻm. Ông Lôi hổ đâm ra ngán hỏi

- Bộ em và mấy bà kia dám đốt cái động hả ?

- Sao không dám, giết nhất Miêu cứu vạn thử

– Trời em hôm nay nho chùm dữ à nghe Anh lạy em đừng chơi dại ở tù mọt gông

Bà vợ làm thinh một sự im lặng kinh người

Ông Lôi hổ gọi điện thoại báo động cho mấy cha già dịch nên cảnh giác tối đa khi hành quân lùng địch, rồi cái chỗ mát xa trá hình cũng bị Cảnh sát Úc bắt dẹp sau khi bị ai đó tố với đồn cảnh sát họ mở cuộc truy lùng khám xét tóm gọn mấy yêu nữ du sinh làm gái. Tú ông Việt chạy thoát biến mất trên Giang hồ tiếng tăm của ba bà vang lừng trong đám chị em phụ nữ Vn tại khu này

Ngày hẹn lại đến mồi nhậu được mấy bà làm rất ngon đem lên nhà ông Hắc Long tại Altona meadows, căn nhà nằm trong một khu sầm uất gần một shopping lớn kỳ này ông Hắc long bị chôn chân ở nhà vì xe ông bị hư chờ sửa nên tất cả hẹn tại đây ông Quân y làm chủ xị ông thì chuyên viên phá mồi nhưng hôm nào hứng ông hạ gục hết chiến hữu, với cái chiêu uống Aspirin trước khi nhậu nên ông Quân y từ từ đưa các ông tác chiến vào hạ. Người đẹp ông Quân y nhỏ tuổi hơn các bà nên làm em út, ông Quân y mang theo hai chai Golden blue quyết hạ gục chiến hữu nhưng thấm vào đâu với mấy ông bợm nhậu thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt Ghé Williamstown ông Quân y chơi hai thùng con móng tay ướp đá và một thùng oyster cho hoành tráng

- He he hôm nay thằng Quân y chơi nổi nha xin cho một tràng pháo tay

Ông Quân Y và ông Lôi Hổ và Nhảy dù là TSQ , ông TQLC học chung lớp lúc tiểu học với ông Quân y tất cả là những người bạn đúng nghĩa không có gì chia cắt tình bạn của họ trên mảnh đất ly hương này

- Hôm nay tao để ông nhảy dù đánh trận cuối Xuân Lộc kỳ sau đến tao vì tao cần tụi mày đánh xong nốt trận đánh lừng danh Xuân Lộc gỡ lại danh dự cho VNCH tụi mày OK không?

- Ok tụi tao đồng ý

Ông Nhảy dù hôm nay đội cái nón bê rê đỏ Áo hoa dù nhưng quần thì quần jean màu đen kể ra cũng tạm đẹp lão Oyster và móng tay đem ra ưu tiên cho con Vành khuyên phá mồi trước nó rất khoái con móng tay vì bà vợ ông Quân y rất thương nó,rượu rót ra mùi thơm ngạt ngào nhắm vào sảng khoái từ từ thì ông Nhảy dù bắt đầu

Ngày 10 tháng 4 Lữ đoàn 1 do Trung tá Đỉnh chỉ huy tăng cường cho Sư đoàn 18 dưới quyền tư lệnh mặt trận Lê minh Đảo, từ 6 giờ sáng một trận địa pháo khủng khiếp vào tỉnh lỵ Xuân Lộc rồi chúng tràn vào bằng chiến thuật biển người, tụi mày biết không tụi tao từ Thường Đức được không vận về Sài Gòn bàn giao vùng trách nhiệm cho TQLC không được ghé thăm gia đình, lệnh là tăng cường cho bộ tư lệnh Quân đoàn 3 thì ông Toàn ra lệnh xuống Xuân Lộc tụi tao đánh vùi với trung đoàn 266 của Sư đoàn 341 Tổng trừ bị của Bắc quân cùng với BĐQ ngay chợ Xuân Lộc bắn hạ mấy chiếc T54 tiến đánh vào nhà thờ Chánh tòa đẩy lui tụi nó về phía sau.Bắc quân để lại hàng trăm xác chết và vũ khí đủ loại tụi tao không được bổ xung quân số mỗi người nằm xuống là khuyết một tay súng tụi tao vây một Trung đoàn Tân lập của Bắc Quân thì ông Toàn ra lệnh rút sau khi phe ta lên tinh thần vì Bom BLU 82 Daisy Cutter đánh xuống làm hơn một trung đoàn địch bị xóa sổ.

Theo Nguyễn Đức Phương 2 quả bom này do Tướng Toàn đề nghị lên bộ Tổng tham mưu và được chấp thuận. Hoàng Cầm tướng cộng sản chỉ huy trận này có 3 Sư đoàn 314, sư đoàn 7 và 6 khoảng 40.000 quân chỉ huy phó là Hoàng thế Thiện sau năm ngày tổn thất Trần văn Trà lên thay hắn thay đổi chiến thuật sau khi nhắm không nuốt nổi Xuân Lộc phe ta khoảng 14.000 nghìn lính với các Trung đoàn 43.48.và 52 ĐPQ Tiểu khu Long Khánh và liên đoàn 33 BĐQ cùng tiểu đoàn 82 của Ông VML với quân số 200 người từ Miền Trung về và 4 Tiểu đoàn Dù 1,2,8,9 của Lữ đoàn 1

Tại Xuân Lộc Nam quân chiến thắng sau 12 ngày đêm Bắc quân nhằm thấy bất lợi chúng thay đổi chiến thuật bỏ Xuân Lộc mở một hướng khác đánh về Sài Gòn sau khi tổn thất quá nặng chúng la làng là Mỹ chơi bom nguyên tử cỡ nhỏ và B52 dội bom trở lại do không Quân ra sáng kiến dùng C 130 thả từng chùm bom lên Xuân Lộc

Lệnh ông Toàn là về bảo vệ Thủ đô cả Lữ đoàn tụi tao bọc hậu cho cuộc lui quân tổn thất và chết chóc dọc đường không một ai được cấp cứu khi tụi Bắc quân biết hết cuộc lui binh tung quân truy đuổi tàn sát cuối cùng về được Bà rịa ngày 29 tụi nó tấn công tụi tao tại Láng Cáng tụi tao vừa chống trả vừa lui đến Vũng Tàu lệnh của Ông Lưỡng đưa ra cho Lữ đoàn trưởng ai đi thì đi còn ai muốn về với gia đình thì về, coi như lữ đoàn 1 Sư đoàn Nhảy Dù Nam quân tan hàng Vĩnh viễn. Tao chạy đến bãi biển thì quá trễ đành quay về trường TSQ thì tiếng súng dồn dập không vào được tìm nhà dân xin đồ dân sự mặc vào tìm đường về Sài Gòn thì VC tràn tới Vũng tàu gom hết lại phân loại cấp cho mỗi người một tấm giấy thông hành về lại Nguyên quán

- Thôi stop ăn đi rồi tiếp tục chai rượu thứ hai được khui ra và trên bàn nhậu Oyster muối chanh tiêu đã hết ông Quân y mặt đỏ kè thì mấy ông khác cũng líu lưỡi nói cà lăm nồi cháo cá mang ra để mấy ông giải nhiệt,

– Ê ông quan một nhảy dù kết thúc câu chuyện đi mình uống trà Sâm cho giải rượu mấy Phu nhân lái về nhà tao hơi xa ông Quân y lên tiếng

- Mày nhổ neo trước đi còn tụi sau từ từ nhà gần mà

Ông Quân y lấy cặp kính lão ra đeo vào nhìn mấy ông bạn già gật gù rồi nán lại nói

- Thôi ngồi thêm chút nữa tụi mình thời gian còn gặp nhau đếm từng tháng, thằng nào cũng lụm cụm hết rồi không biết đi Vùng 5 lúc nào nghe ông Quân y nói 3 ông già bên bại trận nhìn nhau như muốn khóc, mày viết lại đi Bách để cho mấy đứa nhỏ sau này tụi nó đọc nhớ dịch sang tiếng Anh

- Tao dịch sang tiếng Anh Một thời Binh lửa rồi, nhưng tao thấy sắp nhỏ chẳng đứa nào ngó tới thằng Cu của tao chỉ một lần nhìn vào tựa sách rồi chẳng hỏi thêm tao buồn vô cùng tụi nó giờ lo kiếm Tiền, mấy lần tao đem cuốn sách đến nhà nó rồi tao không đem vào cho đến bây giờ, ba ông nghe nói làm thinh nhìn ra khoảng sân trước Con bé Vành Khuyên đang líu lo bên mấy bà với khuôn mặt Thiên thần sáng rực dưới tia nắng chiều cuối tuần

- Về thôi Anh về thôi -ừ về thì về

Tất cả đứng lên sau khi dọn sạch cái bàn từ giả Ông Hắc Long hẹn gặp lại kỳ tới, tiếng xe vang lên để lại phía sau một làn khói, ông Hắc Long đứng nhìn đôi mắt u uất một đời chinh chiến

Bắt đầu từ hôm nay phần chót câu chuyện do Ông Quân y độc thoại, ông không phải là dân tác chiến nhưng ông đọc nhiều và biết nhiều ông theo sát những trận đánh lừng lẫy mà các đơn vị VNCH tham chiến và kể ra làm ba ông Quan tác chiến ngỡ ngàng, Nhà ông một căn nhà được tạm gọi là nhà của một đơn vị Airforce của Úc nằm tại cuối con đường Oak nơi có những cây Sồi thật lớn và một con suối rộng khoản 3 mét bề ngang nhiều rắn độc đủ mọi loại, với một khu vườn lớn đầy hoa thơm cỏ lạ là nơi dân khu vực này đến chơi đá banh,nướng thịt vào mùa Hè đủ mọi loại chim, nhà ông nhỏ gọn tầm thường nhưng đất rộng mênh mông, khu vườn sau nhà ông thả một cặp gà mái để lấy trứng và hai con chó, rau cỏ ông tự trồng vì Úc bây giờ dân làm vườn Mít tị nạn dùng phân bón hoá học để thúc cho rau lớn mau đem ra các chợ bán, nên ông Quân y này không dám dùng, ông tự làm nước mắm ăn sau khi biết nước mắm được chế từ phân u rê trong vòng 2 tuần,nhập từ VN tóm lại ông vỗ mông kỹ lưỡng trong việc ẩm thực. Vừa vào nhà nhìn mấy cây mận trổ bông đỏ Hồng cả sân trước và sân sau 3 ông bạn trầm trồ

-Bông nở đẹp quá mày, mày sống như Hoàng dược sư nơi Đào hoa Đảo

-ừa tao khoái mà vợ tao cũng thích có hoa đẹp và có trái ăn rất ngon, thì năm nào tụi bây cũng hưởng bộ không nhớ sau

-Mẹ tao tưởng mày hái trộm của ai cho tụi tao

-Thôi mấy ông bộ bộ vó tao giống ăn trộm lắm sao? cả 4 ông cùng cười

-Để tao gom lại mấy con chó cưng của bã ra sau vườn, có tụi nó phiền lắm ông nào đã gặm xương chó hay ăn giả Cầy nó nhận ra ngay con chó tên Boy lai Dingo có cặp mắt sáng xanh lè về đêm đang nhìn ông Nhảy dù dù rằng nó biết ông là bạn thân của chủ mình

-Ê mày hồi xưa mày có ăn thịt chó không?

Ông Quảng Nam Nhảy dù cười cười nói cũng lai rai đệ tử nó bắt đâu đó rồi thui mày biết mà nơi hành quân thịt hộp gạo sấy cả tuần thèm chất thịt nên thằng nào cũng ăn thử

-Mày có ăn chưa?

Ông Quân y lên tiếng

-Tao cố gắng hai lần nhưng hai lần điều bị mửa ra máu

-Năm 1971 tao làm việc tại bệnh viện dã chiến trại Sĩ quan có một ông Thượng sĩ người Bắc chuyện viên thịt cầy đem cho tao một gói thịt Cầy bó trong bẹ chuối non để trong phòng trực tao vừa về thì ông nói -Tôi đem cho Anh một chút thịt ăn đi ngon lắm

-Thịt Hả thượng sĩ?

Ông ta làm thinh không nói tao vừa vào phòng thì nhảy mũi liên tục tao quay ra nói Thượng sĩ thịt Chó hả

-Sao ông biết?

Sau này Thượng sĩ có thương tôi đừng đem thứ này vào

- Mẹ thịt Cầy mà mày chê đúng là lính kiểng ông Hắc long lên tiếng

-Tao tự hỏi chính mình tại sao người ta ăn được mà tao không ăn được, trước khi vượt biên ông anh bà con dẫn tao xuống cái quán thịt chó tên Quê hương ăn cháo, tao nhắm mắt ăn vào thì mẹ ơi sau đó tao chạy xe Honda ra Cầu ké để lo dầu thì xe đang chạy tự nhiên đâm đầu vào gốc cây tao té nhào ói mửa muốn xỉu luôn nên tao sợ đến bây giờ thôi dẹp chuyện đó mình lai rai Tôm vỗ tao mua 7 ký tụi mày phá mồi thoải mái nhưng uống vang đỏ nhé

- Hôm nay tao đố tụi mày có một đơn vị không có cấp số trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không lãnh lương, không số quân, nhưng mỗi khi có chốt nào của Việt cộng khó nuốt, mấy ông thần này lãnh diệt ngay.

Ba ông tác chiến đang ngồi suy nghĩ

- Mẹ mày muốn nói đến Lao Công Đào Binh?

- Đúng mày thông minh đấy Hắc Long.

- Mày biết gì về Lao Công mà bô bô lên thế!

Ông Lôi Hổ lên tiếng:

- Thì mày để nó nói.

Ông Nhảy dù chỏ vào:

- Để tao kể một câu chuyện về ông Lao Công Đào Binh của Sư Đoàn 23. Người cùng hai ông cũng Lao Công Đào Binh diệt chốt Việt cộng trên đỉnh đồi Chu Pao năm 1972 mà tất cả bom đạn đều vô hiệu.

- Chủ tịch ủy ban hành pháp trung ương Nguyễn Cao Kỳ ký ban hành sắc lệnh Lao công Đào Binh cho các quân nhân nào đào ngũ trong thời gian thi hành quân dịch và tại ngũ, sắc lệnh này được thông qua cùng với sắc lệnh tử hình cho các quân nhân đào ngũ khi đụng trận năm 1966. Lúc ông Kỳ làm mưa làm gió trên chính trường Miền Nam. Một sắc lệnh rất tàn ác chụp lên vai các Lao công đào binh cho đến khi chấm dứt cuộc chiến.

Một ngày nọ trực thăng đem về hai ông Lính mình mẩy đầy máu, thả vội xuống sân sau bệnh viện Dã Chiến, lúc này tao đã về phòng cấp cứu đem vào phòng, tao rất ngạc nhiên khi thấy cái dòng chữ viết tắt sau lưng LCĐB, hàng chữ nhỏ trên nắp áo trước ngực, một ông bị ăn nguyên một trái đạn M79 nằm trong đầu và một ông bị bắn đứt một cánh tay.

- Cứu em bác sĩ ông bị ăn M79 lắc cái đầu.

Tao sợ quá nói:

- Anh đừng lắc lư kẻo đạn M79 đủ tua nó nổ cả phòng này tôi mạng luôn cả tôi.

- Em nhức đầu quá bác sĩ ơi nó đau như có ai dùng búa đánh vào đầu và như kiến đục trong nảo của em cho em mủi thuốc giảm đau đi

- Vết thương đầu không cho Morphin được đề Tôi cho anh Demerol và penicillin cho anh, sau khi tao làm xong công việc cho ông Lao công đào binh bị ăn M79, tao quay sang ông thứ nhì cánh tay nát bét nhưng còn tỉnh táo vì máu đã cầm ông nhìn tao cười ánh mắt còn sáng sủa

- Bác sĩ. Em chắc làm Độc thủ Đại hiệp

- Giờ này mà anh còn tiếu lâm tao nói

- Chời bác sĩ ui đời Lao công chiến trường không tiếu lâm thì chết sớm

- Tao cho đi chụp hình xong đem lên phòng mổ tháo khớp ngay cùi chỏ, thời gian sau ông Lao công đào binh này tâm sự rất nhiều về đời ông lúc rảnh rỗi tao cũng chịu nghe lối nói chuyện của ông vì cùng trang lứa

- Tui dân vùng Nha trang trốn quân dịch bị bắt sau trận bố ráp của tụi Quân cảnh đưa vào Trung tâm huấn luyện Lam Sơn học 3 tháng quân sự năm 1971 lúc đó có trận Hạ Lào. Lúc đó tui học chung với tụi Cam bốt, khi mới vào Quân trường đang học căn bản thao diễn thì nghe tiếng hát. Lá Giang lá Giang ta trèo thằng cha mất rồi cái nắp còn đây. Đời con gái sống chết cũng nhờ Thiếu uý mẹ tụi tui và ông Huấn luyện viên ngưng tập đứng nhìn nguyên một đại đội lính Miên đen thui ôm Carbine M2 đi ngang qua sân tập cứ Thằng cha mất rồi cái nắp còn đây, đời con gái sống chết cũng nhờ thiếu uý kéo dài khuất cuối con đường đất đỏ mịt mù của Liên đoàn A

- Mà bác sĩ có biết Lam Sơn không?

Tao nói biết

- Lam Sơn hắc ám Lam Sơn buồn

- Ngày ăn cá chuồn tối ngủ đường mương

- Lam Sơn rừng núi Âm u
- Ra đi lại nhớ cái Mu bà xoài

- Mẹ không biết làm sao mà tụi nhà thầu cho tụi lính ăn toàn cá Chuồn tanh và thịt bò dai như miếng cao su làm dép râu của VIệt cộng. Tụi lính Campuchia ăn không được kéo nhau biểu tình đòi về nước, lính mình thì chịu chẳng kêu cứu vào đâu, em nhớ lúc đó ông Đại tá Phan đình niệm làm Chỉ huy trưởng

Ông Lao Công Đào Binh thao thao bất tuyệt như chưa bao giờ được nói, công việc rảnh, địch im pháo mấy hôm nay sau trận mưa B52, buồn quá nghe ông này kể chuyện tao cũng vui lây.

- Bác sĩ ơi sau khi xong khóa căn bản quân sự em được một Tiểu Đoàn BĐQ đến nhận đem ngay vào Đất Bét một tiền đồn nằm đâu đó gần biên giới, em than -- coi như thân này bỏ đi. Tiền đồn heo hút toàn mấy ông BĐQ đít mốc (Lính Thượng) mấy ông này mùa nắng thì đi lính kiếm cái lương, mùa mưa thì đào ngũ về làm ruộng. Tụi em chẳng tin ông nào. Đại Đội trưởng là một ông Trung Úy gốc Nùng nói tiếng việt lơ lớ. Mẹ họ... em lạc giữa rừng gươm, may thay sau đó có thêm ba ông tân binh vừa bổ xung người kinh.

- Sau khi lãnh đợt lương đầu tiên, tui không được lãnh tiền đầu quân vì bị bắt quân dịch, ba ông kia lính tình nguyện thì có, tụi tui bàn chuyện đào ngũ chớ bỏ thân nơi đồn heo hút gió Lào về đêm sao khổ quá! Mà kẹt là con đường tiếp tế ra vào do trực thăng đem đến. Cuối cùng tụi em nhờ một ông lính Thượng trong Đại Đội dẫn đường sau khi hối lộ, ông đại đội phó cũng người Thượng luôn, một tháng lương tụi tui ba thằng hùn vào chung đủ, được dẫn về đăk tô với lời hứa là -- báo cáo đào ngũ sau một tuần lễ, đủ tụi tui về Nha Trang.

– Ba ông BĐQ ông nào ông nấy ngầu, tóc tai dài, không có một ông Quân Cảnh nào dám hỏi giấy tờ, lúc này BĐQ chưa có toán kiểm soát để bắt lính BĐQ đào ngũ.

- Thôi tạm ngưng ăn uống làm lai rai nói chuyện khác đi mẹ tối ngày cứ BĐQ, Nhảy Dù, TQLC chán bỏ mẹ!

Ông Hắc Long lên tiếng:

- Ừ nhậu đi rồi tao kể tiếp về vụ ông Lao Công Đào Binh bị tuyên án ba năm và đánh chốt Chu Pao. (Trong chiến tranh VNCH, lính Lao Công Đào Binh họ lập nhiều chiến công và được khôi phục lại bình nghiệp, nhưng ít ai nói đến. Bài viết này viết lên để nhớ đến công lao của họ. Những người Lao công không lương không số quân sống nhờ vào lòng hảo tâm của những người lính cấp thấp nhất của QLVNCH).

Câu chuyện các Lao Công Đào Binh tiếp diễn. Ông Lao công đào binh tiếp tục câu chuyện, cả đám Trợ y và y tá thương binh điều ngồi nghe ông kể, ông kể chuyện rất có duyên, rành mạch như một thầy giáo trường làng.

- Bác sĩ ôi! tui đào ngủ về Nha trang chơi nguyên bộ rằn ri nón nâu sau khi chia tay với hai ông kia tôi dìa nhà trong mình không có gì ngoài cái Căn cước Quân nhân, mẹ họ tui cũng không biết cái KBC của Đắk bét số mấy, cả xóm tui mấy ông thanh niên choi choi nể quá chừng tôi chơi sộp dẫn mấy ông con nít đi coi Xi nê chùa ở rạp Tân Quang, thì một bữa nọ ngứa mắt quá Ông chủ rạp kêu Quân cảnh tới hỏi giấy tóm tui luôn vồ đồn Quân cảnh rồi đưa qua Quân cảnh Tư pháp làm thủ tục truy tố tội đào ngũ, xong đem qua Quân Lao nhốt chờ ngày ra Tòa

Quân Lao Nha trang đầy Quân phạm tui được đưa về Khu B nơi này có một nhóm quân phạm du đảng có tên Năm Vĩnh cầm đầu, nó đánh dàn chào tù nhân dã man, tướng thằng Năm Vĩnh nhỏ con cao cờ 1m60 đi chân chữ bát. Nó đá tui như bao cát nói thiệt với bác sĩ chứ đánh tay đôi tôi chơi nó gục ngay, nhưng trong tù mình lép vế một tháng sau tui ra Toà Án Quân sự ông Thư ký kêu lên một lần 10 mạng đứng xếp hàng ngang. Quan tòa là ông Chánh án ủy viên chính phủ ngồi chính giữa hai bên hai ông gì đó tui quên mất, sau khi đọc số quân trình diện ông Quan hỏi lý do tại sao đào ngũ từng ông, đến tui ông quan tòa hỏi -Tại sao Anh đào ngủ thì tui nói, dạ bẩm quan tui đâu muốn đi lính người ta bắt tui mà, tui khai rồi. Nghe ông kể mọi người cười ầm lên

- Rồi sao nữa?

Ông Lao công gãi chỗ khớp tay nói ngứa quá kéo da non rồi bác sĩ, ông kể tiếp ông quan toà nghe xong nện cho tui ba búa tui năn nỉ. Quan toà ơi! bây giờ cho em trở lại đơn vị đi, sao em cũng chịu hết nhưng ba búa đã gõ thì xong rồi,10 ông lãnh 30 chục năm Lao công chiến trường chia ra mỗi ông 3 năm về Quân lao chờ đơn vị nào đến mang đi. Khi sư đoàn 23 đến lãnh tụi tui, nhiều thằng nhắn thân nhân đêm tiền bạc dấu vào lon Ghi gô được lắp thêm một cái đít giả tiền dấu trong đó, trên đựng muối mè không ai ngờ được thì Trung đoàn 45 đến nhận tụi tui bắt chổng mông dùng cây thọc vô hậu môn moi xem có dấu tiền không vì có tiền Lao công đào binh sẽ trốn, đám Lao công đào binh bàn nhau nhảy xe, khi vừa xe ra khỏi cổng quân Lao Nha trang nhiều thằng nhảy xuống bị bắn chết ngay tại chỗ làm tui hoảng quá ngồi im.

Đến Trung đoàn 45 tui về Tiểu đoàn Thần ưng vác đạn đại liên hai thùng đạn cho thằng xạ thủ đại liên M60 khổ không thể tả, mấy thằng khác thì vác đạn Cối, và đào giao thông hào Mẹ mấy ông Sĩ quan hành đủ điều lính thì thông cảm khi họ lãnh lương thì cũng giúp chút đỉnh thuốc hút, được nửa năm thì Trung đoàn 45 cử Tiểu đoàn tui lên diệt chốt Chu pao thông Quốc lộ 14 đã bị địch đóng chốt không lưu thông được

Chu Pao ai oán hờn trong gió,
Mỗi tấc khăn tang mỗi tất đường.

(Thơ Lâm Hảo Dũng)

Chu Pao là một ngọn đồi nằm cách Kon Tum 10 cây số chiếm một vị thế vô cùng quan trọng. Nếu bạn đi từ Pleiku lên sẽ gặp đồi Chu Pao phía Tây và Núi Chu Thoi phía Đông kẹp con đường Quốc Lộ 14 ở giữa một đoạn dài 7 cây số. Nếu địch quân đóng chốt trên hai cứ điểm này chúng đứng trên nhìn xuống bao quát toàn diện khúc đường này chỉ cần một Tiểu Đội và hai cây 12 ly 7 và cối 82 ly, địch sẽ làm chủ con đường, và Kon Tum chỉ còn thoi thóp nhờ không vận nhỏ giọt vì phi trường bị pháo liên miên, có lần nghe Tiểu Đoàn 63 pháo binh bắn đì đùng, tao chui rào sang xem mấy quan pháo binh súng lớn nòng dài, bắn phản pháo khi Bắc Quân pháo vào thành phố Kon Tum. Nghe mấy ông nói -- tên Trung Đoàn Trưởng đơn vị pháo của Bắc quân tốt nghiệp Thủ khoa của trường Pháo binh danh tiếng của Nga nên hắn điều chỉnh tác xạ hay lắm, mấy ông phe ta phản pháo vô dãy núi như vô chỗ trống chẳng thấm vào đâu, tụi Bắc quân chọt 122 ly đều đều xuống phi trường, tao chán nản quay về, để nghe ông Lao Công Đào Binh kể chuyện phá chốt hay hơn. Không biết ông này có nổ không nhưng tôi tin vì đã có lần thấy Biệt Kích của Hòa Hảo nhảy vào Núi diệt chốt tại Quy Nhơn do Quân Đoàn thuê, chuyện này nói ra thì chắc ai cũng chửi tao là xạo, lính Hòa Hảo đánh hay lắm, cái chốt tụi Đại Hàn và Việt Nam đánh mấy ngày không thông. Hòa Hảo nhảy vào xong ngay.

Ông Lao Công Đào Binh tên Lửa bắt đầu ngụm cà phê xong rít một hơi thuốc Ruby Quân Tiếp Vụ tao cho, rồi chậm chạp nói:

- Tui không biết chiến thuật và chỉ nghe phong phanh là một Chi Đoàn Thiết Kỵ ⅛ của Thiết Đoàn 18, 5 xe Thiết Giáp và 1 Đại Đội Bộ Binh không lên nổi cái dốc để tiến lên ngọn Chu Pao. Ông Nguyễn Văn Toàn lúc này thay ông Ngô Du ra lệnh cho Tướng Lý Tòng Bá bằng mọi cách phải kiểm soát ngọn đồi Chu Pao để tiếp tế cho Kon Tum. Sau nhiều ngày dằng co, chỉ có một cái chốt mà ông Toàn nói chỉ là ổ kiến nhỏ mà mấy anh nuốt không vô thật nản, thì ông Tiểu Đoàn Trưởng 4/45 có sáng kiến: Dùng Lao Công để làm vật tế thần! Ông ra lệnh gom hết Lao Công Đào Binh gặp ông:

- Các Anh, tôi cần một tiểu đội chia làm hai, bọc theo triền đồi lên diệt các cây 12 ly 7, các anh xung phong tôi sẽ đề nghị phục hồi quân tịch chức vụ và thăng một cấp nếu diệt được cái chốt dưới chân đồi. Tụi Thiết Giáp không lên được, bom đạn chẳng ăn thua gì vì tụi nó ẩn trong hang.

15 ông Đào Binh nhìn nhau chẳng ông nào muốn xung phong, tui nghĩ Lao Công Đào Binh trước sau gì cũng chết, mà tình nguyện diệt chốt nếu chết cha mẹ tui cũng có tiền tử nên hỏi ông Đại Đội Trưởng:

- Nếu tui tình nguyện chết có được lãnh tiền tử không?

Thì Ông Tiểu Đoàn Trưởng đáp:

- Bảo đảm là có 100%

Nghe vậy 12 ông Đào binh dơ tay. Tui tui được trang bị lựu đạn lân tinh, lựu đạn phá hầm, một thằng mang khoảng hơn chục trái, một ông Đào Binh Hạ Sĩ BĐQ và một Trung sĩ cũng đào binh, chỉ huy hai ông này được mang mỗi ông một cây M72 chia làm hai toán. Không được trang bị súng, mang dép râu thực tập trước một ngày trên ngọn đồi, như Kinh Kha đi vào đất Tần mà tui đọc trong truyện Tàu.

Giờ N

Lúc 4 giờ chiều chúng tôi chia nhau bốn tổ, mỗi tổ ba đứa lên lõi đi vào hình vòng cung ngược men theo vách đá lần mò lên cuối chân đồi thì Ak nổ liên hồi trước mặt, tôi hoảng quá khựng lại, tiếng súng im bặt... thì ra tụi Việt cộng nó bắn hù mỗi buổi chiều khi đêm xuống.

Khi đến gần chân đồi chúng tui gom lại thành hai nhóm len vào khe núi, thì thấy hai tên đang gác, chúng rất lơ là, khói bốc lên dưới căn hầm, hai nòng súng 12 ly 7 nhô lên. Tụi tui bắn hai trái M72 cùng một lúc rồi tung vội lựu đạn và tràn lên tụi Việt cộng la lên hoảng hốt Biệt kích Ngụy chúng bắn như vãi trấu, tui coi như thí mạng cùi tung thêm hết lựu đạn vào các căn hầm kiên cố. Lựu đạn lân tinh bám vào tụi Việt cộng cháy thịt da khét nghẹt, thì bên trên đỉnh đồi tụi Việt cộng pháo cối xuống, chúng không dám tràn xuống. Diệt hết đám Việt cộng thủ 2 cây 12 ly 7 và cây cối 82 ly đen thui bên cạnh mấy thùng đạn nó nổ tung cát đá mịt mù, tụi nó chỉ có bảy thằng tan thây vì đạn M72 và đạn cối nổ.
Tui bị trúng đạn cối và mấy thằng Lao Công chết, số còn sống chạy ngược về thì tiếng Súng M60 đại liên bên dưới bắn lên dồn dập về đỉnh đồi để yểm trợ tụi tui, trực thăng lên vùng cũng tàn bị 12 ly 7 trên đỉnh đồi bắn đạn lửa ngút trời. Trinh Sát Sư Đoàn 23 đổ quân phía sau ngọn đồi. Địch kháng cự mãnh liệt một hồi rồi im bặt nghe nói là một đại đội của Sư Đoàn 320 Bắc quân chiếm ngọn đồi này sau khi Lữ Đoàn 2 Nhảy Dù đánh khi rút ra khỏi Kon Tum bằng đường bộ, giao lại cho BĐQ Biên jPhòng, thế dốc dựng đứng Bắc quân có lợi thế phòng thủ, trên thụt B40, B41 cùng đủ loại đạn xuống cho nên xe tăng khó tiến chiếm.

Chúng tui hoàn thành công việc được tản thương về đây, chuyện sau đó thì bác sĩ biết rồi, Quốc Lộ 14 được khai thông, công lao chúng tui bị dìm, họ chỉ nói là do Trinh sát Sư Đoàn và Chi Đoàn 1/8 Kỵ Binh mà thôi! Không biết họ có khôi phục lại quân tịch cho mấy thằng tui còn sống không?

12 ông Lao Công Đào Binh chỉ sống năm ông, số còn lại chết và bị thương hết bảy ông, tụi tui nằm đây mấy ngày chẳng ông nào đến thăm, bác sĩ ui thật đen như mõm chó! Nhìn mấy ông Lao công tao thấy thương vô cùng. Không biết số phận ra sao khi tản thương về Quy Nhơn, còn ông bị M79 thì chết sau khi mổ.

Ông Quân y kể xong câu chuyện mọi người im lặng không một ai lên tiếng. Chiến Tranh và Con Người thật tàn nhẫn...

Chiều xuống dần, bữa tiệc đã tàn chia tay nhau ai về nhà nấy.









Đọc thêm chủ đề liên quan:
TRẬN ĐÁNH THÁNG 3/75 QUÂN KHU I
https://caybut2.blogspot.com/2021/05/tran-anh-thang-375-quan-khu-i-mu-xanh.htmlvan.html

TRẬN ĐÁNH THÁNG 3/75 QUÂN KHU I

9



10





Biệt Kích
Nhớ Về Trường Sơn https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/07/nho-ve-truong-son.html


6




Gót Chinh Nhân
Karaoke Tone Nam - Hoàng Nam
https://youtu.be/2X5HWf8EJws


---------

 



LAO TÙ và VƯỢT NGỤC



Mũ Xanh Trần Văn Khỏe


©TQLC


Khóa 4/71 Sĩ Quan Trừ Bị-Thủ Đức ra trường vào lúc mùa Hè đỏ lửa năm 1972, sau 10 ngày huấn luyện leo lưới, đổ bộ. TĐ5/TQLC được phân phối 10 sĩ quan. Nhóm tôi có bốn người về trinh diện ĐĐ3/TĐ5/TQLC, lúc bấy giờ ĐĐT là Tr/Úy Trần Thanh Tùng tại ngã ba Long Hưng - tên địa danh của một ngã rẽ đi vào cổ thành Quảng Trị -. Những tháng ngày của đạn pháo mưa bom, và cũng là nơi hai bạn tôi là Ch/Úy Tô Ngọc Khanh và Ch/Úy Nguyễn Văn Bình đã hy sinh hai tuần sau khi nhận đơn vị. Lòng tôi không sao tránh khỏi sự bùi ngùi, xúc động mỗi khi nhớ đến hai bạn thân của mình đã không may bị gục ngã, và hy sinh để bảo vệ phần đất tự do, cho đất nước, cho quê hương miền Nam Việt Nam. Giờ đây sau 40 năm nhìn lại chỉ còn là những kỷ niệm, là quá khứ của một thời chinh chiến.

Sau ngày quốc hận 30-4-1975. Hầu như tất cả Sĩ Quan QLVNCH đều bị lừa bịp bằng danh từ “cải tạo tư tưởng” trong thời gian nhất định. Thế rồi, như một đàn trẻ mới lớn, từng đoàn người lũ lượt kéo nhau ra trình diện để được vào trại cải tạo tập trung. Trong số đó có chúng tôi, Mai Xuân Cương, Diệp Phi Hùng và Trần Văn Khỏe cũng kéo nhau vào tù một lượt. Sau gần ba năm năm vất vả trong cảnh lao tù cộng sản, ngày ra tù gần như tuyệt vọng...

ooOoo

Đầu năm 1978 nhóm chúng tôi gồm sáu ngưới có ý định trốn trại trại tù, kế hoạch qua khu trại tù Bùi Gia Mập rồi xuyên ranh giới Cambodia, vượt sông Mekong qua vùng Bát Tam Bang đến Thái Lan bằng đường bộ. Đây là việc làm rất quan trọng đến sự sống còn, nên trong nhóm không ai khác ngoài bốn chữ TQLC, trong đó có ba trung đội trưởng của ĐĐ3/TĐ5 là Th/Úy Trần Văn Khỏe, Th/Úy Diệp Phi Hùng, Th/Úy Mai Xuân Cương. Ba thằng bạn rất thân với nhau cho dù bất cứ hoàn cảnh nào.

Khoảng cuối mùa thu 1978, một người bạn sau cùng trong số bốn đứa ra trường đã bị gục ngã trong hoàn cảnh khốn cùng của trại tù Bùi Gia Phúc, tỉnh Phước Long, nằm cách ranh giới Cambodia độ trên 10 cây số, đó là Mai Xuân Cương.

Trại được bao quanh bởi ba hàng rào xây dựng bằng tre "lồ-ô" và kẽm gai của QLVNCH để lại, mỗi hàng cách nhau khoảng 5 tới 10 thước, do chính những tù nhân Công Binh QLVNCH thực hiện, “phe ta làm hàng rào kiên cố nhốt phe mình”. Bên ngoài hàng rào thứ ba là những vọng gác cao khoảng 10 mét và có vệ binh canh gác hàng đêm.

Nguyên nhân đưa đến cái chết Th/Úy Mai Xuân Cương.

Tổ chúng tôi âm thầm chống đối, hầu hết trong tổ toàn dân tác chiến, nhiều lần chúng tôi bị kiểm điểm là tổ có “khả năng” lao động sản xuất thấp nhất trong đội, nên cả đội bốn tổ phải chịu hình phạt chung, ngồi mổ xẻ hằng đêm, nhưng rồi vì sự công bình toàn đội, nên cả tổ chúng tôi bắt đầu làm việc trở lại.

Một hôm, không nhớ rõ ngày tháng, vào năm 1976 trại tù Trảng Lớn L3/T4, theo chỉ tiêu 5 kg rau mỗi người trong tháng, nên mọi người cố gắng đắp thêm vàì luống rau muống trên mặt đường trải đá. Tôi Hùng, Cương, Sơn, Lâm… cả tổ đều chia nhau đi tìm đất mềm để làm thêm luống rau. Tôi lấy đất gần bìa hàng rào; Hùng, Sơn, Cương thay phiên xuống hầm ếch lấy đất cho lẹ. Gọi hầm ếch, vì như cái hang không chân khổng lồ, nhìn rất nguy hiểm, đất có thể sụp đổ bất cứ lúc nào. Vì mọi người ai cũng muốn lấy đất mới, nên đã tạo thành cái hố lớn không chân. Tôi cũng xuống hố lấy vài ký đất và linh cảm cho tôi biết có điều gì không ổn nên tôi leo lên đi tìm để cào một nơi khác. Hôm đó, Cương đào đất, Sơn kéo, Hùng đổ vào những luống rau. Được khoảng độ 10 ký thì tôi nghe tiếng rú lên của Sơn:

- “Đất sụp, đất sụp”.

Một khối đất khổng lồ đè lên người Cương, không nhìn thấy bạn mình đâu hết, chúng tôi ùa ra, móc đất tìm bạn kéo lên. Đống đất dầy cộm, cả đám tay móc, chân cào, đâu độ năm, ba phút, thấy được cái chân Cương. Chúng tôi mừng rỡ - “Nó đây rồi, nó đây rồi”.

Sơn, Hùng và tôi kéo Cương ra khỏi hầm ếch, rồi đưa lên mặt đường.

Lúc bấy giờ tôi nhìn thây hai mắt Cương trợn trắng, sùi bọt mép ra, thân hình cong như con tôm, chúng tôi phụ nhau keó thẳng thân người ra, khi phát hiện cột xương sống bị gãy, bấy giờ mỗi thằng một tay, khiêng bạn chạy thẳng vào bịnh xá của tiểu đoàn cách đó độ vài trăm thước.

Trời đã sụp tối, bệnh xá chỉ có vài tên vệ binh được bổ làm y tá, thấy chúng tôi sôn xao tên vệ binh hỏi:

- “Thế anh kia bị gì thế mà đưa vào đây?”

Chúng tôi trả lời:

- “Báo cáo anh, bị đất sụp, đè gãy xương sống nhờ anh xem dùm”.

Tên vệ binh bảo:

- “Bỏ anh đó xuông rồi các anh trở về trại đi”.

Chúng tôi nài nỉ xin họ chích thuốc giảm đau cho bạn mình, vì thấy Cương quằn quại quá đau.

Tôi không để ý gì đến khung cảnh chung quanh mà chỉ chú tâm vào Cương thì giật mình nghe bên kia nhà có tiếng hét la đau đớn. Quay sang nhìn thì thấy xe Honda chiếu ngọn đèn pha thẳng vào trong cái mùng xanh màu nhà binh. Bấy giờ tôi trố mắt nhìn kỹ xem việc gì, thì ra một tên bộ đội y tá cầm cây cưa sắt đang cưa cáí chân của một bạn tù, đi lao động cuốc trúng một đầu đạn M79 khi sáng. Cả đám nhìn nhau lắc đầu, lúc đó tên bộ đội chĩa súng vào chúng tôi quát lớn bắt chúng tôi phải trở về phòng ngay! Biết làm sao bây giờ, đành lủi thủi ra về, bỏ lại bạn mình nằm quằn quại ngoài hiên không một liều thuốc trị.

Vài tuần sau khi Cương trở về, đi đứng như thằng Gù Nhà Thơ Đức Bà và kể lại:

- Đ. m, tụi nó đâu có thuốc gì mà chích, mà cho… Biết cái đéo gì mà trị. Mỗi khi tao bị lên cơn sốt thì thuốc “ký ninh” và khi đau quá kêu la thì tụi nó cho liều thuốc “KHẮC PHỤC”: ráng chịu “đau rồi sẽ qua”.

Vừa kể, Cương vừa vấn điếu thuốc rê, nói thuốc rê cho sang chứ thực sự toàn là râu bắp nhúng nước thuốc lào, đem sấy khô hút cho đỡ thèm. Cương hỏi tôi:

- Khỏe, mày còn nhớ mấy sĩ quan Võ Bị khóa 29 hay 30 gì đó không? Họ tốt nghiệp trên đường di tản, về TQLC rồi đi theo thực tập với mày không? Thằng Hải, cái đêm mà tụi mày khiêng tao lên bệnh xá, thì nó đang bị cưa cái chân trong mùng. Nghe tụi mình gọi tên nhau nó nhớ tên mày và hỏi tao mới biết ra phe ta, cùng là Mũ Xanh. Tội nghiệp nó bị cụt một chân, đui một con mắt vì cuốc trúng vào đầu trái M79.

Sau này, vì Cương bị sốt rét, đi tiểu bị té nứt khớp xương sống, tủy sống chảy ra, đó là nguyên nhân đưa tới cái chết của ngườì đồng đội, đồng tù: Th/Úy Mai Xuân Cương.

Nhiều lúc ngồi một mình, suy nghĩ vu vơ, nhớ chuyện này rồi sang chuyện khác. Đôi lúc tôi nghĩ số tôi lận đận nhưng gặp nhiều may mắn. Ngày đó, nếu Cương không chết và ba người bạn vẫn quyết định trốn tù theo dự tính lúc ban đầu thì số phần chúng tôi chưa biết sẽ như thế nào? Có lẽ bỏ thây trong rừng sâu, một nơi nào đó trên đất Campuchia, hay bị chặt đầu vì đám quân Pôn Pót. Sau khi Cương chết, tôi nghĩ đến hướng khác, đổi hướng “tiến về Saigon”.

*****

Tôi bí mật viết thư gởi về gia đình làm giây tờ giả. Tội nghiệp má tôi khi nhận được thư, nghe tôi có ý định trốn trại, bà rất lo lắng vô cùng nhưng cũng chìều tôi. Bà nói ra cho em trai tôi biết, thằng em cũng đồng ý, vì đã bốn năm rồi mà vẫn chưa có ngày về. Bà hỏi tiền đâu mua giấy tờ giả trong lúc không có cơm ăn? Thằng em lanh lẹ trả lời:

- “Thẻ công nhân của con, gỡ hình ra dán hình ảnh vô, rồi vô hãng chôm giấy phép, chuyện nhỏ. Còn chuyện lớn là ảnh trốn có được an toàn hay không thôi”.

Vài ngày sau, nó tìm đâu ra tấm hình thẻ học sinh của tôi dán vào thẻ công nhân của nó, rồi đưa cho má tôi kèm theo tấm giấy phép để trống.

Lúc bấy giờ, tình hình thay đổi, chuyển trại giải giao tù về Hàm Tân, Suối Máu, Chí Hòa cho bộ Công An quản lý, tù nhân trốn trại bắt được xử bắn tại chỗ.

Mới cách đây một hai tuần, trại kế bên đã xử bắn làm gương một bạn tù trốn trại, treo hàng rào để tới thối mới được chôn.

Nhớ lúc còn làm anh nuôi, đem cháo vào nuôi hai bạn trốn tù không may bị bắt lại, trước thời gian ba năm. Bị đánh đập đến nỗi một thằng thì con mắt lòi ra đầy máu, còn một đứa thì gãy cánh be sườn chỉa ra ngoài một khúc. Hai chân bị cùm trên đôi thanh gỗ, thoi thóp trong cái chòi tôn nhỏ xíu. Tiếng nói thều thào của Thời còn văng vẵng bên tai “đợt cháo tới cho xin chút đường”. Thấy bạn nằm thiếp tôi nhận lời sẽ cố gắng, trong khi được lệnh một lon cháo trắng cho cả hai thằng.

Quá thương bạn, hôm sau tôi làm liều một chuyến, bỏ thẻ đường dưới đáy lon Guigoz rồi đổ lên đầy lớp cháo.

Như đã đoán được việc làm của tôi tên vệ binh chận lại hỏi:

- ”Thế, anh đem gì cho chúng nó hôm nay.”

Tôi đáp lại:

- “báo cáo anh đem cháo trắng cho hai anh ấy”.

Vệ binh:

- “Đ. M... mấy thằng phản động mà gọi bằng anh, tớ đập bỏ mẹ bây giờ”.

Rồi hắn đi thẳng ra ngoài sân nhà, bẻ nhánh cây khô thọt vào lon Guigoz cháo tôi đang cầm quậy lên, thấy cục đường vàng khè dưới đáy quét văng ra ngoài, rồi lấy khẩu AK 50 quay báng súng định đập vào mặt tôi. Nhưng rồi không hiểu hắn nghĩ sao, bỏ súng xuống. Nếu không chắc giờ đây miệng tôi toàn răng giả.

Việc thăm nuôi trở nên khó khăn hơn trước. Thân nhân thăm nuôi bị khám xét rất kỹ lưỡng, đám vệ binh lợi dụng việc này tha hồ khám xét mò dưới… bóp trên, vợ hay em gái tù nhân lên thăm. Má tôi phải can đảm và vất vả lắm mới đem được giấy tờ cho tôi. Tôi hỏi má tôi có bị tụi vệ binh mò không? Bà trả lời tao già nó chê, chỉ mò mấy đứa nhỏ thôi, tụi nhỏ nó la, khóc um trời.

Mẹ con nói với nhau qua loa vai câu chuyện, trời đã tối, tôi trở về trại, đổ lon Guigoz mắm ruốc ra. Tôi ứa nước mắt khi nhìn cuộn giấy được bao thật kỹ trong bịch nylon, cũng may là tụi vệ binh không bắt đổ ra khám xét. Phần tôi đã xong, tôi hỏi Niên người bạn “Kình Ngư, Phạm Bá Niên” anh trả lời xong xuôi một ngày cơm vắt. Thế là dự trù sáu người lúc ban đầu thì một chết (Cương), lạnh cẳng ba, chỉ còn hai là tôi và Niên.

Kế hoạch vẫn thực hiện, nhưng chưa quyết định ngày giờ xuất phát. Lúc này còn lại tôi và Niên hằng đêm bí mật bàn thảo kế hoạch. Đêm thì thầm cuối cùng là đêm 18-6-1979. Hai thằng nhìn nhau nắm chặt tay trong quyết đình cuối cùng. Có thể, trong đêm mai ngày 19-6-1979 ngày thành lập Quân Lực VNCH cũng là ngày giỗ của hai thằng! Dẫu sao ngày này gia đình chúng tôi cũng dể nhớ! Ngày hôm sau tôi chuẩn bị những đồ cần thiết để rời tuyến xuất phát đúng 9 giờ đêm, sau khi tiếng kẻng vang lên tới giờ đi ngủ.

Theo kế hoạch, khi kẻng 9 giờ đêm, tôi dậm chân tại chỗ. Niên sẽ đến bắt tay để rời tuyến xuất phát. Như cảm giác của giây phút đầu mỗi lần trước khi đụng trận trong mùa Hè Đỏ Lửa 1972, tim tôi đập mạnh, người lạnh run, trong khoảng 5, 10 giây. Năm phút hồi họp chờ đợi đã qua, Niên vẫn chưa đến tôi suy nghĩ có lẽ hắn lại đổi ý rồi. Tôi tiếp tục xem đồng hồ, khi tiếng ồn ào trong láng bắt đầu lắng dịu thì Kình Ngư xuất hiện kéo giò Hắc Long. Tôi vội kéo tấm mền giầy cộm làm bằng bao cát phủ lên chiếc gối dài, rồi chui ra khỏi láng, thấy Niên đang núp chờ tôi ngoài cửa chòi.

Giây phút định mệnh đã đến, giây phút hồi hộp chờ đợi đã qua, lúc nầy tim tôi gần như đều hòa trở lại để đương đầu với giây phút thập tử nhất sanh. Hai thằng tôi lần lượt đi lòn qua từng láng, trong lúc tiếng xì xào sắp bắt đầu im lặng, cũng là lúc cán bộ cai tù đi kiểm soát.

Qua khỏi láng cuối cùng một khoảng độ vài mươi thước, thì đụng lớp hàng rào thứ nhất, dễ dàng vạch kẽ hở của hàng tre "lồ ô" chui qua. Kế tới là hàng thứ hai hơi khó, những cánh "lô ô" còn chưa siêu vẹo, cuối cùng cũng cố lòn lách chui qua được. Lúc này ngoài trời tối đen như mực, cả doanh trại dường như hoàn toàn yên lặng khi tôi quay đầu nhìn lại để lắng nghe.

Lớp hàng rào thứ ba là vấn đề trở ngại lớn, Niên ra dấu hiệu hỏi ý tôi nên đi hướng nào? Theo dự trù thì hướng phía trước mặt là đường xe chạy thì dễ dàng hơn, nhưng tôi quyết định đổi hướng, chỉ thẳng vào vọng gác, “nhứt chín nhì bù”. Theo kinh nghiệm chiến trường, nơi nào khó thì chỗ đó tương đối an toàn, giờ đó mới quá 9 giờ đêm, vệ binh chắc chưa ra vọng gác. Cả hai đồng ý bò thẳng về hướng vọng gác gần tới chân hàng rào, dừng lại nghe ngóng, quan sát. Chúng tôi nhìn thẳng lên vọng gác đâu chừng năm phút xem có động tĩnh gì trên đó không. Quả như điều tôi đoán, chưa thấy tên vệ binh nào ra gác giờ này. Tới chân hàng rào thứ ba, cao độ chừng ba mét bên trên là ba lớp kẽm gai "công xẹc ti na" chồng lên như hình tam giác, dưới chân thì dầy đặc kẽm gai, không cách nào chui qua lọt được. Vừa suy nghĩ tìm cách đối phó, vừa lầm thầm chửi thề... Quân ta làm hàng rào nhốt quân bạn kỹ quá, giá ngày xưa… rào kỹ như vầy thì đỡ biết mấy.

Niên và tôi mỗi thằng cố tìm cách bám viu để leo lên đỉnh hàng rào, tránh động tĩnh tối đa, không thằng nào lên được. Cuối cùng, tôi quyết định ngồi xuống để đưa Niên lên bằng hai vai của mình, khi bám được vòng kẽm gai trên cùng, Niên từ từ tìm kẽ hở chui qua, đeo lủng lẳng trên ba vòng kẽm gai, độ vài phút sau tôi thấy Niên xuống tới chân bên kia hàng rào. Qua được một thằng rồi, còn tôi làm sao tôi trèo qua đây? Thì bên kia Niên cố gắng banh kẽm gai chui vào đưa hai cánh tay chịu trên kẽm như một nấc thang cho tôi bước lên. Không cách nào khác tôi đành đạp lên tay Niên cố gắng hết sức mình để đu lên vòng kẽm, cũng may tôi nắm được vòng đầu rồi đu lên. Lúc này tôi nhớ đến leo lưới trong quân trường lần đầu tiên có cơ hội thực tập và cũng là lần cuối của đời tôi, đu tòn teng như nhện. Khi lòn qua gần hết kẽm tôi vội vàng buông tay nhảy xuống, vòng ngoài cho lẹ. Nhưng lưng quần tôi còn vướng móc kẽm gai kéo tôi ngược lại lơ lửng giữa chừng. Tiếng "lồ-ô" đổ gãy kêu răng-rắc. Niên vội vàng chạy tới đỡ tôi bước xuống.

Thật may mắn cho hai thằng tôi, giả sử có vệ binh canh gác đêm đó thì hai thằng tôi đã ra người thiên cổ. Ngồi xuống lấy lại bình tĩnh, định lại vị trí rồi bắt đầu tìm lối ra. Gai mắc cở chằng chịt mọc trộn lẩn trong đám tranh khô, mỗi bước đi chúng tôi tạo nên từng tiếng kêu xào xạc. Bọn vê binh thường hay bắn “la fan” vào nơi có tiếng động ban đêm may ra chết được heo rừng. Tôi nhớ có lần tôi làm “anh nuôi” cùng một thằng bạn qua khu vê binh ăn trộm mướp, dưa leo vì quen đường đi lối về nên an toàn trở lại. Nửa giờ sau, tiếng AK nổ vang rền, tiếng vệ binh la inh ỏi heo rừng, heo rừng lọt vào giếng cạn. Tên vệ binh chĩa đèn pin xuống giếng định bắn thì nghe tiếng la đừng bắn tôi… tôi không phải heo rừng. Thì ra là thằng tù đói như tôi cũng đi ăn trộm nhưng không thuộc đường nên bị băt và đánh bầm dập cả đêm, nhưng thoát chết.

Kinh nghiệm đó, Niên và tôi lần mò từng bước một, có lúc phải bò thật chậm hay lom khom bước đi từng chặng một. Mất khoảng gần hai tiếng đồng hồ để vượt khỏi đám tranh dài chừng 200 m. Ra tới mặt đường xe chạy, theo kế hoạch dự trù là đi qua đường tiến thẳng vào rừng độ chừng 20 m, quẹo trái. Cập dọc theo lề đường đi độ chừng hơn cây số, qua khỏi bộ chỉ huy Trung Đoàn, mới ra đường lộ. Lúc này chúng tôi làm theo kế hoach vạch sẵn, qua đường lần theo con đường nhỏ mà đi. Hai thằng yên lặng lần mò đi được hơn nửa giờ, tôi có linh cảm dường như bị lạc, nếu đúng đường thì có lẽ đã qua khỏi vọng gác Trung Đoàn, nhưng con đường mòn này dẫn xuống chân đồi, ẩm ướt và sương mù.

Tôi bảo Niên tụi mình bị lạc rồi, bẻ góc 90 độ, đi lên. Hai thằng đồng ý chuyển hương đi, trời tối đen, bàn tay đưa ra không thấy ngón, đi được khoảng 20 phút, tôi thấy đàng xa dường như có ánh đèn dầu. Kéo Niên ngồi xuống định lại hướng, thì ra ngọn đèn dầu thấp sáng loe lóe trong căn nhà thăm nuôi, bên cạnh vọng gác của Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn. Nếu không nhờ ngọn đèn dầu của căn nhà thăm nuôi đêm đó, thì hai thằng tôi đi vào ngay họng súng của vệ binh trước cửa cổng Trung Đoàn.

Định được điểm đứng trọng yếu, không dám tiến sâu vào rừng nữa, chỉ lùi vào một chút rồi tiép tục hướng Ngã Ba Đường 10 mà đi. Được một đoạn hơi xa Trung Đoàn, rồi lần mò trở ra đường xe chạy. Tới được “Ngã Ba Đường 10” khoảng 12 giờ đêm. Đã ba giờ đồng hồ mà đi chỉ được hơn ba cây số, chúng tôi bằng mọi cách phải đi tới cầu Sông Bé đúng 6 giờ sáng. Khi vệ binh gác cầu rời vọng gác vào tập thể dục, lợi dụng cơ hội này để qua cầu. Đoạn đường này độ vài mươi cây số. Niên và tôi bắt đâu bám đuôi nhau, đi như chạy khoảng 10 km, đứng lại nghỉ mệt, Niên đề nghị:

- Nếu hai thằng bám đuôi nhau thế nầy thì nguy hiểm, bây giờ một thằng đi trước, thằng sau độ 10 mét, nếu có bị bắn hy vọng có thằng chạy được vì ban đêm bọn nó không biết mình đi mấy người.

Chúng tôi “oẳn tù tì”, ai thua đi trước và Niên đã thua, Niên bảo nếu có gì nghi ngờ thì Niên sẽ đưa tay ra sau xoay tròn. Mật hiệu đã xong, Niên vội vàng lên đi trước. Lầm lũi đi trong bóng đêm, được thêm vài giờ nữa, ra tới quán “BA CÔ” lúc này tôi độ chừng 4 giờ sáng, trời bắt đầu bớt tối dần, khoảng cách chúng tôi càng xa, chỉ bám nhau theo mật hiệu mà thôi. Đi thêm đoạn nữa, thì bắt đầu đoạn dốc đồi thật cao, tới đây chúng tôi đã biết được khi đổ dốc là sẽ tới gần cầu “Sông Bé”. Đang miên man nghĩ đến những đều may mắn, trời thương không mưa, không một toán vệ binh gác đường thì Niên đã lên tới đỉnh đồi cao. Tôi còn chưa được nửa đồi, bỗng thấy có dấu hiệu khác thường, tay Niên đưa ra sau lưng xoay tròn. Tôi giật mình chạy nhanh vào lề đồi núp vào lùm cây, quan sát. Dường như có tiếng đối thoại nhưng không nghe rõ vì một đoạn quá xa, hơn nữa trời lúc này vẫn hơi tối. Chừng một lúc, tôi thấy Niên đi trở lại bình thường rồi biến mất đi khi xuống bên kia dốc đồi.

Tôi đoán chắc là có chướng ngại vật, nhưng không biết là cái gì. Phải đành chui ra bước lên. Đã lên lưng cọp rồi phải cố điều khiển nó mà thôi, tôi lấy lại bình tỉnh, bước đi lên đồi. Khi tới đỉnh thì bỗng dưng có tiếng quát to từ phiá bên kia đường:

- “Anh kia làm gì, đi đâu sớm thế?”

Một giọng nói gần như quen thuộc hàng ngày của những vệ binh, hay cán bộ cai tù. Tôi giật mình quay sang, thấy tên bộ đội với khẩu AK 50 chỉa thẳng vào người tôi. Lúc này, không hiểu sao tôi bình tĩnh như chưa bao giờ hết. Tôi trả lời như người một công nhân bình thường chẳng sợ sệt gì:

- “Trời đất ơi, anh làm tôi hết hồn. Tôi là công nhân ở thành phố HCM lên thăm ông anh trong trại cải tạo, vì không nghỉ phép được lâu nên phải đi về sớm ra Phước Bình đón chuyến xe đầu về thành phố".

Tên bộ đội gằn giọng trả lời:

- “Thế à! Vậy anh đi cẩn thận xuống dốc đồi, kẻo bá vào chiếc xe tôi lật nằm dưới đấy nhé, đi đi...”

Cũng may tên này không phải là vệ binh gác tù, tôi gần như thoát nạn, trả lời:

- “Vâng, cám ơn anh báo trước”, rồi tiếp tục xuống đồi, tôi nhìn thấy chiếc xe MotoLova nằm lật ngang bên lề bên phải, thì ra vì trận mưa lớn sáng hôm qua.

Tôi nhớ lại, cũng tại chỗ dốc này cách đây hai năm, khi được chuyển tới khu vực này. Chiếc xe chở đám tù chúng tôi cũng đã nhiều lần muốn lật ngang vì ngọn dốc quá cao. Thêm vào là đường mưa trơn trợt. Thật hú hồn, nếu một trong hai thằng trả lời không suông sẻ, giờ này có lẽ không còn có dịp viết lại chuyến trốn trại tù.

Xuống tới chân đồi, trời gần sáng hẳn, đã thấy Niên chờ sẵn bên cạnh bìa rừng. Rồi hai thằng mò xuống con suối nhỏ gần đó để rửa sạch những dấu vết bám đày xình, đất đỏ trên quần áo. Tôi thay chiếc áo tay ngắn Kaki vàng cũ kỹ, chiếc áo này tôi lượm nó trong lúc làm vệ sinh dọn dẹp khi vừa chuyển tới trại Trảng Lớn cách đây bốn năm, mặc rất vừa vặn nên tôi giữ kỹ nó như một món đồ quý giá. Rửa tay chân sạch sẽ, chúng tôi trở ra đường, quan sát cái chòi gác của vệ binh bên này cầu Sông Bé. Hai thằng nhìn thật kỹ, không thấy tên vê binh nào còn gác, vì trời đã sáng.

Đợi Niên đi một đoạn hơi xa độ chừng 200 mét, tôi bắt đầu nối gót theo sau. Khi tôi đến ngay vọng gác, thì lúc đó Niên đã nửa đoạn cầu. Nhìn xuống đáy cầu sâu thâm thẩm, không cách nào qua được nếu không liều lĩnh bước đi trên cầu. Lúc trời sáng, tôi càng sợ hơn, sợ khi phát giác chúng tôi trốn trại. Trung Đoàn cho vệ binh đuổi theo bằng xe Jeep để chận ngoài bến xe Phước Bình, hoặc thấy chúng tôi trên đường là bị bắt ngay. Tôi muốn chạy thật nhanh cho qua khỏi đoạn cầu dài mấy trăm thước này, cũng ước gì nếu có phép thì tôi sẽ biến ngay cho khỏi chỗ này, vừa đi vừa lầm thầm khấn nguyện.

Niên đã qua tới phía đầu bên kia, trong khi tôi mới nửa đoạn cầu, bước nhanh hơn nhưng không để lộ nỗi sợ hãi của mình, cũng may vì còn quá sớm không một chiếc xe nào qua lại lúc này. Qua xong cây cầu Sông Bé, lại đối diện với cái dốc cao, con dốc cong quẹo trước khi đến bến xe Phước Bình. Niên chui vào bìa rừng bên phải đợi. Tôi lên tới ngồi nghỉ một lát cho tỉnh, vì quá mệt. Không dám nghỉ lâu, chừng năm ba phút rồi tiếp tục ra đường bước tiếp. Chừng một đoạn không xa, dường như có tiếng xe từ phía cầu chạy lên tôi ra hiệu chạy nhanh vào góc mô bên trái có vài nhánh cây đủ che thân cho hai thằng. Quả thật là may cho hai thằng, nếu xe này chạy trước nửa giờ, thi chúng tôi không biết phải đối phó ra sao? Trên xe có ba người, hai cán bộ và tài xế, xe chạy lên dốc rồi thẳng hướng Phước Bình.

Bọn tôi phóng ra đi tiếp, lên khỏi dốc núi thì con đường trở nên rộng hơn. Đi hướng về bến xe Phước Bình, mắt nhắm, bụng đói, miệng khác nước, nhưng chân vẫn bước đi như chạy. Tới ngã ba đường đi Bù Đăng, Bù Đốp, cách bến xe Phước Bình vài trăm mét. Nhìn thấy một đám bò vàng (danh từ của đám tù gọi bộ đội và CA) đứng đầy bến xe. Kế hoạch A không thể thực hiện được thì kế hoạch B thi hành, đoạn đường dài nguy hiểm hơn, qua Bù Đăng, Bù Đốp về Lộc Ninh, xuống Bình Long, rồi Bến Cát, Bình Dương, xong tới Saigon”.

Quá khát nước, mệt lả người, chân không ngừng bước, may thay có vài người Thượng vác gùi đi ngược đường, thấy vài khúc mía lau bên trong. Tôi móc túi ra chừng 5, 10$ gì đó rồi ra dấu muốn mua. Như thấy tôi mệt lả, một trong số người Thượng đứng lại đưa hai khúc mia, lấy tiền rồi bỏ đi. Như được cứu tinh, vừa đi hai thằng cắn, xước hai khúc mía ngon lành gần như tỉnh hẳn lại, đường đi Bù Đốp trên 10 Km.

Lang thang trên đường độ vài cây số, có tiếng xe lam từ sau chạy tới, quá mệt, tôi đứng lại đón xe, xin đi Bù Đốp, thấy trên xe lam đã có bốn, năm người. Xe dừng lại, Niên và tôi nhảy lên. Ngồi chưa nóng đít, một toán du kích chận xe lại trên đường, xét giấy tờ. Hai thằng nhìn nhau tái mặt, nhưng cũng phải bình tĩnh. Tên du kích bắt đầu hỏi giấy tờ, Tôi ngồi ngoài bên trái, Niên bên phải. Du Kích hỏi tôi:

- “Anh này cho tôi xem giấy tờ tùy thân”.

Tôi lấy trong túi ra một thẻ công nhân của em tôi làm giả và một giấy phép được nghỉ ba ngày. Tên du kích xem thẻ công nhân, rồi qua tới tờ giấy phép. Tôi thấy hình như tên này không biết chữ, cứ lật ngược, rồi lật xuôi, lật qua lật lại, rồi hắn nói:

- “Thế giấy phép của anh hết hạn rồi, sao giờ này còn đây?”

Tôi giật mình, thoáng nghĩ không lẽ mình ghi lộn ngày? Mới vừa điền vào khoảng trống chiều hôm qua trước khi vượt trại. Tôi bình tĩnh trả lời:

- “Đâu anh coi kỹ lại xem, giấy phép tới hết ngày mai mà”.

Du kích lật giấy qua lại vài lần nữa rồi gật đầu trả giấy lại cho tôi, rồi lần lượt hỏi giấy tới Niên. Khi nghe Niên nói giọng Huế, tôi nghe tên du kích hỏi Niên:

- “Anh từ Huế vào à? Sao giấy đi đường là của quận Phú Nhuận?”

Niên trả lời, tôi không nhớ rõ như thế nào, cuối cùng hai thằng thoát nạn một lần nữa, tới được Bù Đốp. Vào trong chợ Bù Đốp, thấy gánh mì mừng quá ngồi xuống gọi hai tô mì lớn, định ăn mỗi thằng một tô cho no nê rồi tính. Đang ngồi chờ mì, tôi hỏi bà bán mì:

- “Bác! Bác! Có xe nào từ đây tới chiều về Lộc Ninh không?"

Bả chỉ vào chiêc xe như chiếc “Dodge”, người bu như kiến trên đó và nói:

- “Mỗi ngày chỉ có một chuyến thôi. Nếu không đi được phải chờ tới ngày mai.”

Hai thằng giật mình, vội vàng trả tiền hai tô mì chưa ăn, chạy thẳng ra xe, bon chen, cố bám lấy sườn xe cho được. Giành giựt với nhau một hồi, tôi bám được một chân đứng trên xe, một tay nắm vào cái thanh sắt trên mui xe, còn Niên hắn hay thiệt, chen lấn ngồi trên nóc mui xe. Hai thằng nhìn nhau như yên tâm vì không đứa nào lọt lại nơi này đêm nay.

Xe bắt đầu chạy khoảng hơn 12 giờ trưa. Tới Lộc Ninh hơn một giờ. Không trạm kiểm soát nào. Về tới Lộc Ninh mua tạm bánh mì ăn lót bụng. Đi chung quá nguy hiểm, quyết định chia tay từ đây, tại Lộc Ninh tôi hỏi thăm dò, thì biết được từ Lộc Ninh về Bình Long có một trạm kiểm soát “Bò Vàng”. Từ Bình Long về Bình Dương có trạm kiểm soát lớn tại Bến Cát. Chia tay nhau mỗi thằng một ngả, hồn ai nấy giữ. Lang thang qua lại bến xe đò mấy lần thăm hỏi, muốn mua vé xe đò lúc này phải có giấy đi đường, tôi chỉ có giấy phép, không giấy đi đường, đành đi xe chuyền từng chặng.

Thế là tiếp tục lội bộ ra đường xe rồi tìm cách quá giang. Vài chiếc xe hàng chạy qua tôi đưa tay xin quá giang, cũng may có một chiếc xe ngừng lại. Tôi thấy trên đó 5, 7 tên bộ đội gì đó. Lúc đó không cách nào khác tôi chạy đến trèo lên xe. Mới biết ra là đám bộ đội trẻ rủ nhau trốn đơn vị về Bình Long chơi, không khác gì mình ngày xưa, lúc ngoài chiến trường Quảng Trị nhảy dù đi Huế.

Tôi bắt đầu trò chuyên làm quen, có đôi lúc hỏi dò trạm kiểm soát, nhưng không để lộ vẻ sợ hãi vì tôi là công nhân mà. Tôi làm bộ hỏi tên bộ đội:

- “Mấy anh qua trạm kiểm soát có phải trình giấy phép không?”

Vài tên trong đám bộ đội nói:

- “ĐM... sợ đếch gì bọn Công An áo vàng này”.

Tôi biết được điểm này có thể dùng được lúc này. Gần tới Bình Long, đằng trước tất cả xuống xe từng người qua trạm kiểm soát trình giấy tờ. Xe hàng chở đám bộ đội và tôi cũng dừng lại, xuống xe đi bộ qua để trình giấy. Thấy toàn Công An, không có kiểm soát quân sự, cũng như trước đây Cảnh Sát mà không có Quân Cảnh làm sao lính sợ. Nhanh trí tôi vội vàng kéo chiếc áo kaki xanh cất trong bị khoác vào, cộng thêm cái nón bo màu xanh giống như đám bộ đội, rồi chui vào cùng bước chung với đám bộ đội trẻ. Đi tới trạm, bọn bộ đội hiên ngang không vào lối kiểm soát, mà lại dòm mấy tên Công An cười, cười như thách thức bọn tao đi chơi đó làm gì nhau. Tôi cũng làm y chang như đám bộ đội không trình giấy tờ, cũng cười mà đi. Qua xong trạm này, thật hú hồn như có ơn phước, nhờ gặp phải đám bộ đội nghĩa vụ trẻ này. Về tới Binh Long độ ba giờ chiều. Tôi xuống xe, ghé vào xe nước mía bên lề. Thấy ly nước mía lạnh, vì quá khát nước tôi nốc vào quá nhanh, toàn thân xây xẩm, mắt tối đen không đứng vững, tôi té quỵ trên đường. Người bán nước chạy ra đỡ tôi đứng dậy và hỏi:

- “Cậu có sao không? Có sao không?" Tôi trả lời:

- “Dạ cháu không sao, chỉ chóng mặt chút thôi, bác à cháu muốn về Binh Dương, giờ này có xe nào chạy không bác?” Bà dòn dã trả lời:

- “Quá 3 giờ thì làm gì có xe về Bình Dương, may ra cậu ra ngã ba Bình Long đón xe chở hàng”.

Bằng mọi giá phải rời khỏi khu vực này ngay, vì hơn 4 năm cách ly thế giới bên ngoài thấy gì cũng hoài nghi và lo sợ. Tiếp tục cuốc bộ ra ngã ba Bình Long. Đón xe hàng với nỗi buồn tuyệt vọng, tôi nghĩ hôm nay nếu không đón được xe về Bình Dương chắc là phải ngủ lại ngoài rừng. Trong túi còn 30 đồng, may ra đủ để trang trải tiền xe tới Saigon. Đang lang thang trong nỗi phập phòng lo sợ, thấy chiếc xe hàng lù lù từ phía xa, tôi vội vàng đưa tay ra đón. Xe từ từ ngừng lại, tôi vội vàng ngỏ lời xin trả tiền quá giang. Thấy trên cabin chỉ có hai người, cha làm tài xế, thằng con độ khoảng 13 theo phụ. Thằng con hỏi tôi, anh đi đâu? Tôi đáp TP HCM. Thằng nhỏ nói “không được, tôi chở anh tới Binh Dương thôi, 15 đồng". Tôi cũng đồng ý, khi tới Binh Dương rồi tính tiếp.

Trả tiền xong, nhảy lên phía sau thùng xe, thấy một người đã ngồi trên đó, tuổi chạc ngang tôi, gật đầu chào rồi nhìn nhau yên lặng. Thấy một đống củi khô nằm chồng lên những bành cao su thật lớn. Xe chạy được một đoan khá dài. Thấy thằng con từ cabin chui vào trong thùng xe phía sau. Rồi ì ạch kéo những bành cao su, thấy em nhỏ làm, tôi hiểu ý, kéo phụ những bành cao su lớn, sắp xếp củi lại bỏ dưới đáy, xong phủ lại lớp cao su. Xong rồi em mở lời:

- “Xe này là xe hàng quốc doanh cao su không được chở bất cứ gì khác. Ba em lén mua một số củi lậu về bán kiếm thêm. Dưới Bến Cát có trạm kiểm soát lớn phải tim cách giấu đi. Em sẽ nói ba em chở anh về thành phố mà không lấy tiên thêm”.

Nói xong, thằng nhỏ leo trở về phía trước, tôi thì mừng rỡ. Nhưng khi nghe tới trạm kiểm soát lớn tôi như tái mặt, cũng phải bình tỉnh và phó thác cho định mệnh. Xe chạy thêm hơn nửa giờ, bỗng nhiên chậm bớt tốc độ, tôi quay đầu nhìn ra phía trước thấy hơn nửa cây số xe đò, xe hàng, nối đuôi chờ qua tram kiểm soát. Xe chở hàng của tôi đang ngồi, khi chạy tới chiếc xe cuối cùng đang nối đuôi chờ đợi, lại không ngừng, mà ra giữa lộ chầm chậm chạy thẳng tới trạm kiểm soát rồi dừng lại.

Thằng nhỏ nhanh giò nhảy xuống xe, mời tên công an lên xét. Thì ra đây là xe quốc doanh được quyền ưu tiên không phải chờ đợi như những xe hàng tư nhân. Tên công an trèo lên thùng xe kiểm soát, hắn thấy tôi và người khách lạ trên xe. Hắn nhìn thẳng vào tôi, nhưng không hỏi giấy tờ, phản ứng bình tĩnh, tôi mỉm cười lấy lệ. Thấy những bành cao su ngay hàng thẳng lối, không chút khả nghi, hắn bước xuống rồi gọi thằng nhỏ:

- “Mày chở khách lấy tiền phải không?”

Thằng nhỏ liền miệng:

- “Không, không, thấy người đi bộ, cho có giang về nhà, chứ tiền bạc gì đâu, không tin chú hỏi đi”

Công An không tin lời thằng nhỏ nói:

- “Tao biết cha con mày chở khách lấy tiền, nhưng tao tha cho lần này đấy nhé, đi đi”.

Thằng nhỏ cũng cố cãi lại:

- “Đâu có, đâu có”.

Rồi nó phóng thẳng lên cabin ra hiệu cho ba nó dọt lẹ.

Trên xe tôi thở phào nhẹ nhõm, thế là số tôi quá lớn, bốn lần đều gặp may thoát chết. Tới Binh Dương, người khách kia xuống xe, còn tôi được xe chở thẳng về cầu Bình Triệu. Tới Bình Triệu khoảng độ 7 giờ tối, xe cộ, người đi tấp nập. Như chim được sổ lổng, còn 15 đồng tôi đi bộ tới lui, không dám vào tiệm, sợ không đủ tiền. Thấy gánh cơm bên lề, tôi gọi một dĩa cơm thịt kho, hột vịt thêm vài miếng cải chua, kèm theo ly trà đá. Hơn bốn năm, chưa bao giờ có được bữa ăn ngon như vậy. Ngồi ăn, nhớ tới Niên, không biết bạn mình ra sao? Làm sao qua khỏi những trạm gác lớn này? Chúng tôi mất liên lạc với nhau từ đó...

Ăn xong, rồi đi về đâu? Nhà không dám về, vợ con đã vượt biên tới Úc. Tôi nghĩ tới bà ngoại bên vợ đang ở cầu Gò Dưa, lội bộ tiếp cầu Gò Dưa đoạn đường này là chuyện nhỏ. Liên lạc lén lút với gia đình tôi kể từ đó. Sống lang thang nhà thân nhân, bạn bè mỗi chỗ một, hai tuần; đi sớm, về trễ hàng đêm. Sau vài tháng, quen cách sống bình dân, liên lạc được một số bạn bè cũ, biết được Phan Văn Đuông cũng lì đòn, trốn trại tù như tôi nên tìm nhau để dựa lưng vào nhau. Có tình đồng đội thì dù tiền tuyến hay hậu phương, dù trong lòng địch thì chúng tôi vẫn thấy an tâm hơn.
Len lỏi sống qua ngày, Phan Văn Đuông thi bơm hộp quẹt ga ở chợ Sài Gòn. Tôi vá xe đạp khu Hải Quân Công Xưởng. Có lúc giúp em của Đuông ở quán bia hơi, khi bán ế, thì è nhau ba thằng cụng ly say, xỉn, rồi mỗi người lại tìm đường sống trong cái chết... Đuông vượt biên thì tôi vượt biển. Tôi sau ba lần mới thoát vào cuối tháng 10 năm 1980. Niên và tôi, hai thằng đều may mắn đến được bến bờ Tự Do vào thập niên 80. Sau này khi gặp lại nhau bên Mỹ, tôi hỏi Niên về việc đi qua hai trạm gác thì mới biết. Niên phải xuống xe, đi vòng qua trạm gác, thuê xe đạp xe ôm nên Niên về tới Saigon sau tôi một ngày. Ôi thôi cực khổ gian nguy, sau bao lần thoát chết trong chiến trường lại phải vào tù, từ trong tù tìm cái sống trong cái chết lúc vượt ngục.
Thoát ngục nhỏ thì tới nhà tù lớn nên lại phải tìm cái sống trong cái chết lúc vượt biên. Nhưng nhờ ơn trên thương những thằng lính chiến trẻ người nhưng không non dạ nên chúng tôi được bình an, hít thở không khí tự do. Tuy vật lộn với cuộc sống, nhưng chúng tôi vẫn còn bên nhau để ôn kỳ niệm “đồng đội cũ, chiến trường xưa”. Và nhắc lại chuyện vượt ngục như một lời chào và hỏi thăm đến các Mũ Xanh, nhất là các HT 4/71-5/71. Cho dù các anh ở bất cứ nơi đâu “Thiên Đàng, Niết Bàn hay Địa Ngục, kể cả địa ngục trần gian XHCN...
Trại tù cải tạo, vượt ngục, VC cài bẩy để giết tù nhân và những trận đòn thù ©TQLC
Th/Úy Phạm Bá Niên hiện sống tại Quebec, Canada
Th/Úy Trần Văn Khỏe, căn cứ “Evergreen” thung lũng hoa vàng San Jose, California - Đồi Gió.
Niên và tôi gặp lại nhau tại Hawaii ở Condo nhà tôi, nơi mà vợ chồng tôi dự trù sẽ hưu trí sau này. Ngày, tháng, năm trôi quá nhanh, thấm thoát đã 32 năm kể từ khi chúng tôi thoát khỏi cảnh lao tù cộng sản ngày 19-6-1979.

Mũ Xanh Trần Văn Khỏe

http://phongchieuphimonline.multiply.com/journal/item/1210






Người yêu nước có thể bị giết. Nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc thì bất diệt.
Vương Mộng Long

©VML
(Hồi ký - Vương Mộng Long - K20)

G iữa năm 1978, toán bốn người cựu sĩ quan của Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa, tù cải tạo ở Trại 4, Xã Cẩm-Nhân, Yên-Bái, vượt ngục lần thứ nhì, nhưng bị thất bại. Đại Úy Lê Bá Tường chết trong rừng. Còn lại Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ, Đại Úy Trần Văn Cả và tôi (Thiếu Tá Vương Mộng Long) bị bắt đưa về tạm giam ở Đoàn 776 Yên-Bái.

Số phận bức tượng ©VML
Số phận bức tượng "Thương Tiếc" sau 1975
Ngày đầu, một vệ binh còn rất trẻ tên Lời đã thẳng tay nện một báng súng A.K vào mặt tôi, một cái răng gãy. Tên vệ binh Cộng-Sản trẻ tuổi này đã nặng tay với tôi, vì hắn vừa tìm thấy trong ba-lô của tôi một bài thơ "phản động". Chưa hả giận, hôm sau y trở lại. Tôi bị quật thêm một báng súng vào ngực, gãy một cái xương sườn.
Qua ngày thứ tư thì chúng tôi bị đưa xuống phà để về Trại 9 bên hồ Thác Bà, Xã Cẩm-Nhân, Yên-Bái.
Hai bạn đồng hành của tôi, Thiếu Tá Trụ và Đại Úy Cả bị nhốt trên nhà kho của trại. Tôi không rõ họ bị đối xử ra sao. Còn tôi là người cầm đầu cuộc vượt ngục này, nên bị tách riêng, giam trong nhà kỷ luật, sát với hàng rào khu cưa xẻ thợ mộc. Tôi bị cùm cả hai chân, còng cả hai tay.
Khi ấy đang mùa hè, trong hầm nóng nực, muỗi như trấu, bất kể đêm, ngày. Da mặt, da cổ, da tay chân của tôi trở nên sần sùi vì muỗi đốt.
Tôi được phát hai cái ống nứa lồ ô dựng gần chân nằm. Một ống nứa để đại tiểu tiện, một để chứa nước uống. Tay bị còng, chân bị cùm, vấn đề đi đại, tiểu tiện quả là một cực hình. Nhưng vì bụng đói liên miên, nên vấn đề đại tiện cũng khó xảy ra thường xuyên.
Cũng do biên bản bàn giao lại từ Đoàn 776, nên từ hôm về Trại 9, ngày nào tôi cũng trải qua một trận đòn hội chợ, kéo dài trên, dưới hai tiếng đồng hồ. Tôi bị bắt đứng giữa phòng trực trại, bốn góc phòng là bốn vệ binh. Tôi bị đánh chuyền tay từ góc này sang góc khác, xoay tròn quanh phòng. Má bên trái vừa lãnh một cú đấm chưa kịp cảm thấy đau thì má bên phải đã lãnh cú đấm tiếp theo. Những đợt máu mũi phọt ra ồng ộc tràn trên má và trên ngực tôi chỉ làm cho những tên vệ binh trẻ tuổi hăng tiết thêm.
Hình ảnh nhũng người lính Biệt Động Quân vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 ©Reuters
Hình ảnh cuối cùng của nhũng người lính Biệt Động Quân vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975
Trọng lượng thân tôi thời này còn chừng trên ba mươi ký lô là cùng. Những cú đấm móc tận lực làm cho tôi có cảm tưởng như là đang "bay" từ góc nhà này, sang góc nhà khác. Sau mỗi tiếng "hự!" máu tôi lại trào ra như xối. Không biết máu từ mồm tôi hay từ phổi tôi phun qua hai lỗ mũi thành vòi? Mặt tôi bầm tím sưng vù, đôi mắt híp lại, nhìn một vật hóa hai. Sau khi bị hàng chục cú đá cật lực vào bụng dưới, cứt đái trong bụng tôi cứ tự do tuôn ra quần. Tôi cố nín, cũng không nín được.
Lãnh những trận đòn thù như thế này, tôi mới thấm ý câu hăm he của tên sĩ quan an-ninh Trại 9, "chúng ông sẽ đánh cho mày té đái, vãi phân".
Nhiều lần tôi bị đánh mửa mật xanh, mật vàng mà vẫn chưa được tha; đến lúc tôi mềm như sợi bún, vệ binh mới kéo tôi ra vứt ngoài cửa phòng trực. Có hôm cả giờ sau trực trại mới cho người kè tôi về nhà giam.
Chắc nhiều bạn tù thấy cảnh tôi nằm rũ như cái xác không hồn nơi góc sân phơi sắn khô, nên một người được tha về Ban-Mê-Thuột đã đến nhà ông bà nhạc của tôi kể lại rằng tôi trốn trại và bị vệ binh đánh chết rồi!
Khi nhận tin này, ông anh vợ của tôi lo quá, vội đề nghị với bà mẹ vợ tôi, "Đừng nói cho con Loan hay tin chồng nó chết. Nghe tin này nó không sống nổi đâu! Nó mà chết thì đàn con nó sẽ bơ vơ..."
Năm 1963, VML gia nhập Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam ©VML
Năm 1963, VML gia nhập Khóa 20 Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam
Những ngày không bị dẫn lên "khung" để lãnh đòn, tôi nằm chờ thời gian trôi qua.
Một tia nắng xuyên khe mái nứa, in một đốm sáng trên nền nhà. Nhìn vị trí đốm nắng di chuyển, tôi biết giờ giấc. Chấm nắng bắt đầu xuất hiện trên vách nhà hướng Tây vào lúc kẻng giải lao thứ nhứt của trại (khoảng chín giờ sáng) rồi từ từ di chuyển dần về hướng đông. Khi tiếng kẻng báo giờ điểm danh chiều (khoảng năm giờ chiều) thì chấm nắng tới giữa vách hướng Đông, thế là hết một ngày!
Hàng ngày, tù nhân của nhà bếp đem cho tôi một bát sắn khô nấu nhão nhoét. Anh ta phải để bát sắn nơi cửa buồng giam; tiếp xúc với người đang bị cùm là điều cấm kỵ!
Khi người tù đưa cơm rời bước, đàn gà của trại vội tranh giành nhau những mẩu sắn trong tô. Tới giữa trưa, tên bộ đội trực trại mới đến mở cửa hầm giam cho tôi ăn bữa cơm tù độc nhất trong ngày. Nhiều khi, tô sắn tới tay, tôi chỉ thấy một mớ bầy hầy đất cát và vài cọng sắn khô cỡ ngón tay. Tôi đói tới run chân, run tay, đói ngủ không được.
Vương Mộng Long Đại Đội Trưởng Đại Đôi 3 Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân©VML
Vương Mộng Long Đại Đội Trưởng Đại Đôi 3 Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân
Hình như không có "chế độ" ẩm thực nào áp dụng cho những trường hợp tù cải tạo vượt trại. Có hôm tôi được một củ sắn lớn cỡ cườm tay, dài một gang. Cũng có ngày tôi được hai củ khoai lang luộc nặng chừng nửa ký. Thường xuyên, thực đơn cho tù trốn trại là một tô cháo sắn phơi khô rắc muối.
Từ lâu lắm rồi, không nghe ai nhắc tới hai chữ "nhân quyền". Trong thời gian tôi bị cùm ở trại này thì, cứ cách hai hay ba tiếng đồng hồ, một tên bộ đội đi tuần tra lại ghé kiểm soát tình trạng khóa, chốt, còng, cùm một lần. Trong bóng tối, để chắc chắn rằng tôi còn sống, anh ta thường "tiện tay" khện cho tôi một cái bạt tai hay một báng súng để nghe tôi la lên oai oái vì đau.
Đêm nào nghe thấy tiếng chân nhiều người đi tuần, lòng tôi lại phập phồng,... biết đâu?... rất có thể, người ta sẽ ập vào, hè nhau đè tôi xuống, bịt miệng, khóa tay tôi, tròng một sợi dây thòng lọng vào cổ tôi, rồi lôi thân tôi lên xà nhà, như cách đây hai năm họ đã làm, để giết một anh tù vượt ngục bên Trại 4. Những cái chết như thế sẽ được thông báo là "tù tự tử", thật đơn giản.
Một ngày, khi vệt nắng vừa chấm chân vách tường hướng Tây, từ bên sân của đội cưa xẻ, sát hàng rào có tiếng người nhắn sang, tôi nhận được đó là tiếng thằng bạn thân Vũ Văn Bằng:
"Long ơi! Thợ mộc được lệnh đóng ba cái áo quan. Chắc tụi mày sẽ bị xử bắn. Trưa mai tao sẽ đem cơm cho mày. Mày có nhắn gì cho gia đình thì nói với tao, tao sẽ thư cho gia đình tao, rồi chuyển cho gia đình mày. Tao cứ tưởng tụi mày đã đi thoát, không ngờ..."
Rồi nó nấc lên, nghẹn ngào...
Thằng Bằng cũng là dân Bắc-Kỳ Di Cư như tôi. Chúng tôi thân thiết sáu năm cùng lớp Trung Học Trần Quí Cáp. Sau khi tốt nghiệp Tú Tài 1, nó tình nguyện đi Khóa 63 A Sĩ-Quan Không-Quân.
Thiếu Tá Vũ Văn Bằng là Trưởng Phòng Quân-Báo Sư Đoàn 6 Không-Quân. Mỗi lần từ tiền đồn về thăm Pleiku, tôi thường gặp nó.
Nằm trong cùm, nghe tiếng khóc của người bạn đồng môn, lòng tôi chạnh nhớ ngôi trường đã đào tạo tôi thành người.
Tiếng thày hiệu trưởng Tăng Dục, ngày đầu Đệ Thất, còn đâu đây,
"Trường chúng ta được hân hạnh mang tên Trần Quí Cáp. Cụ Trần là một vị anh hùng ái quốc. Thày mong muốn các em chăm chỉ học hành, để sau này thành đạt, ra giúp nước, làm rạng danh cho trường."
Hôm ấy có một vị khách, vốn là một giáo viên, bạn của thày hiệu trưởng, tới thăm và nói chuyện. Vị khách này là thân sinh ra anh Phạm Phú Nhàn, người ngồi bên cạnh tôi.
Ông khách mở đầu bài diễn văn bằng một câu mà tôi nhớ cả đời:
"Tụi mi nhớ đây! Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành. Nếu tụi mi không chăm chỉ học hành thì suốt đời tụi mi chỉ là những cục cứt xái mà thôi!"
Sau đó ông già dài dòng kể về lý lịch và cuộc đời người anh hùng ái quốc Trần Quí Cáp, qua đấy, chúng tôi biết cụ Trần vì yêu quê hương, yêu đồng bào, nên đã bị cầm tù, bị đưa lên đoạn đầu đài.
Tôi lớn lên, tự hào và hãnh diện là một đứa con của cụ Trần. Tôi cứ nhớ mãi hai danh từ "viên ngọc nát"' và "cục cứt xái" mà ông bố anh bạn học của tôi đã đem ra ví von trong câu truyện khuyên nhủ tụi nhỏ.
Tháng Năm, năm 1908 cụ Trần Quí Cáp đã bị đưa ra pháp trường, xử trảm ngang lưng. Ngày đó khóc bạn, cụ Phan Bội Châu đã viết:
“Ngọc toái bất ngõa toàn, tam tự ngục hàn, sơn hải khấp!
Hồng khinh nhi thái trọng, thiên thu luận định, nhật tinh huyền.”

(Phan Bội Châu)
Dịch:
Ngọc nát vẫn hơn ngói lành, nhà tù ba chữ, núi biển khóc!
Thái Sơn nặng, lông hồng nhẹ, bàn luận nghìn năm, còn thấy sao trời sáng.
Bảy chục năm sau, tháng Năm năm 1978, một người vì yêu đất nước, yêu đồng bào cũng đang nằm chờ giờ ra pháp trường.
Hai người, tôi và cụ Trần Quí Cáp, tuy sinh ra không cùng thế kỷ, nhưng đã phạm cùng một tội:
“Tội mất nước”
(Phan Bội Châu)
Thế mới biết, những người yêu nước có thể bị giết, nhưng tinh thần ái quốc của một dân tộc thì bất diệt.
Trưa nay nghe tiếng khóc của thằng bạn, tôi thở dài:
“Thôi thế cũng là xong! Cứ coi như một lần ra trận…”
Mười hai năm lửa đạn, vào sinh ra tử, tôi đã không ngừng cố gắng để hoàn thành phần nào ước vọng của thày tôi ngày đầu Đệ Thất. Là đệ tử của cụ Trần Quí Cáp, tôi đã noi gương cụ, cống hiến trọn đời tôi cho tổ quốc.
Tiếc thay, đất nước tôi đã tới thời mạt vận, nên tôi đành chấp nhận những tai ương giáng xuống số phận mình.
Đêm hôm đó tôi thức trắng. Tôi nằm im, nhắm đôi mắt lại, mường tượng ra trong trí, từng khuôn mặt của những người thân. Trước hình ảnh mỗi người, tôi lẩm nhẩm nhắn nhủ lời vĩnh biệt. Lần lượt, tôi chia tay với mẹ tôi, rồi tới vợ tôi, cùng ba đứa con gái.
Đến lúc phải tưởng tượng ra khuôn mặt thằng con út thì óc tôi quay mòng mòng. Tôi không làm sao vẽ ra trong trí khuôn mặt của thằng con. Nó sinh ra ba tháng sau ngày Miền Nam sụp đổ, lúc đó tôi đã ở trong tù rồi.
Trưa hôm sau thằng Bằng năn nỉ anh bạn tù trưởng bếp để nó thay anh ta đem phần ăn một ngày sắn khô cho tôi. Nó đứng ngoài cửa buồng giam, miệng cười hô hố:
- Long ơi! Chiều hôm qua, sau khi đóng xong ba cái áo quan, về lán tao không ngủ được. Tao buồn, tao thương mày, tao khóc suốt đêm. Sáng nay tao mới biết, Trại 7 có năm thằng chết đuối vì bị chìm mảng khi đi chặt nứa. Nhưng Trại 7 chỉ có hai cái áo quan, nên tụi tao phải đóng thêm ba cái nữa. Thế mà tao cứ ngỡ là áo quan để dành cho ba đứa tụi mày…
Thằng Bằng chưa dứt lời đã có tiếng vệ binh quát tháo:
- Anh kia! Đem cơm cho "phạm" xong là phải đi ngay. Lớ ngớ ở đây tôi cho một báng súng bây giờ.
Lúc đó vệt nắng nằm ngay giữa nền nhà, đúng Ngọ! Anh bạn Thiếu Tá Vũ Văn Bằng vừa báo cho tôi một tin vui. Như vậy là, ít nhứt tôi cũng còn sống thêm một, vài ngày nữa!
Nhưng vừa cảm thấy vui đó, lòng tôi lại chùng xuống ngay. Bởi vì, suy nghĩ lại, thì đó cũng là một tin rất buồn, vì tôi vừa mất năm đồng đội. Mai đây, ở một nơi xa xôi nào đó, trong Nam, sẽ có năm gia đình đau khổ vô cùng khi được báo tin này.
Chuyện ra pháp trường của tôi đã không xảy ra. Hôm sau chúng tôi bị chuyển trại. Ba người bị trói quặt hai tay ra đàng sau. Thêm vào đó là một sợi thừng được buộc vào cánh tay phải của tôi, luồn qua lưng anh Trụ, tới cánh tay trái của anh Cả. Đi hướng nào, chúng tôi cũng bị dính chùm.
Hai khẩu A.K. kèm chúng tôi rời Trại 9 vào giờ tù tập họp đi lao động. Những khuôn mặt hốc hác vì đói khát của đồng đội đang hướng về phía chúng tôi. Có đôi bàn tay gầy guộc đưa lên má vội vàng quệt nước mắt.
Chúng tôi bị dẫn đi một vòng quanh chợ Cẩm-Nhân để cho dân địa phương coi mặt. Cũng may, lần này dân chúng chỉ đứng nhìn theo ba người tù bị trói một cách tò mò, không có ai chạy theo ném đá hay đả đảo, sỉ nhục chúng tôi như thời 1976.
Năm 1976, sau khi bị bắt vì tội vượt ngục lần đầu từ Trại 3, tôi và Thiếu Tá Đặng Quốc Trụ đã bị trói ngoặt cánh khuỷu, rồi bị dẫn riệu qua đây để dân địa phương bày tỏ lòng căm thù “Ngụy Quân ác ôn”. Chúng tôi bị ném đá sưng đầu, sưng cổ.
Cùng thời gian đó, toán bị bắt bên kia sông Hồng, về qua đây cũng bị dân đánh đập tơi bời, Thiếu Tá Hồ Văn Hòa gãy xương sườn, Thiếu Tá Nguyễn Văn Nghiêm sưng vù hai má, Thiếu Tá Trần Tấn Hòa dập mũi.
Riêng toán đi từ Trại 4 là bị “chiếu cố” kỹ càng nhứt:
Đại Úy Nguyễn Tấn Á bị đánh bằng đòn gánh, xệ vai trái,
Thiếu Tá Chu Trí Lệ bị quật lọi cẳng chân,
Thiếu Tá Nguyễn Hữu Đông bị đấm lòi mắt.

Không những thế, ba anh này còn bị nhốt trong chuồng trâu, bị dân quân nắm tóc, dúi mặt vào hố phân trâu bò nhiều đợt, xém chết ngạt.
Trong hai năm bị giam giữ ở đây, chúng tôi có nhiều dịp đi lao động “vần công” với các hợp tác xã nông nghiệp của dân địa phương. Qua những lần tiếp xúc ấy, người dân có lẽ đã nhận ra rằng, những sĩ quan Việt-Nam Cộng-Hòa không phải là những kẻ “ác ôn” như họ từng nghe chế độ Bắc-Việt tuyên truyền. Dần dà, dân chúng nơi này đã nhìn chúng tôi với đôi mắt khác xưa. Càng ngày, dân trong vùng càng tỏ ra thân thiện với chúng tôi hơn.
Rời chợ Cẩm-Nhân, vệ binh dẫn chúng tôi nhắm hướng Lũng Ngàn: thế là chúng tôi về lại Trại 4!
Tháng Tám năm 1976 tôi đã bị cùm ở buồng giam Trại 4 hơn ba tháng trời. Rồi cũng từ nơi này, đầu năm 1978, tôi lại xuất phát cuộc vượt ngục lần thứ hai.
Nay bị đưa trở lại nơi đây để chấp cung thì quả là điều đáng sợ đối với tôi.
Cũng như ở bên Trại 9, hai bạn tôi bị nhốt trên ban chỉ huy. Còn tôi bị cùm riêng trong nhà kỷ luật nơi góc trái cổng trại, sát hàng rào, bên bờ suối.
Vừa đặt chân vào phòng giam, tôi đã nhìn thấy một cái cùm mới cáo cạnh. Cái cùm chân này tinh vi và chắc chắn hơn cái cũ nhiều.
Trước đây, năm 1976, chân người bị cùm có thể duỗi dài thoải mái, hai chân sát đất trong buồng giam.
Lần này cùm làm bằng hai tấm ván ghép, mỗi tấm được khoét hai nửa vòng tròn vừa cổ chân. Sau khi gác hai cổ chân tù nhân lên hai hình bán nguyệt của tấm ván dưới, cai tù sẽ kéo sập tấm ván trên xuống và khóa chốt. Thế là, tù nhân chỉ còn cách nằm ngửa, vắt hai chân lên cao 45 độ. Chân người bị phạt sẽ lòi ra ngoài ô cửa sổ đầu hồi. Lính canh không phải đi tới cửa buồng giam, mà chỉ cần bước qua cổng chính là đã nhìn thấy đôi chân người có tội rồi.
Trại tù cải tạo, vượt ngục, VC cài bẩy để giết tù nhân và những trận đòn thù©VML
Trại tù cải tạo, vượt ngục, VC cài bẩy để giết tù nhân và những trận đòn thù
Sau này tôi mới biết, cái cùm đó được hoàn thành chỉ vài ngày trước khi chúng tôi bị giải về đây. Người vẽ kiểu cùm là viên Thượng Úy Việt-Cộng tên Xuyên, Chính Trị Viên của Trại 4. Người tù thợ mộc được giao nhiệm vụ đóng cái cùm lại là một cựu Hải Quân Thiếu Tá VNCH, bạn cùng lớp Trần Quí Cáp của tôi. Còng tay là một cặp khoen sắt rèn số 8 vừa sát với cổ tay. Khóa của nó là loại khóa cửa, lớn bằng bàn tay, nặng chừng một ký lô. Cái khóa này đè trên ngực làm cho tù nhân khó thở vô cùng.
Ngay buổi chiều đầu tiên, tôi đã bị tên vệ binh Lê Văn Tưởng tới “hỏi thăm sức khỏe”.

Vệ binh Lê Văn Tưởng và vệ binh Hồ Ngọc Thắng, biệt danh “Thắng Bo” là hai hung thần của Trại 4. Thấy bóng dáng hai tên này từ đàng xa, anh em bạn tù đã run rồi.
Tên Tưởng ló đầu bên cửa sổ đầu hồi, đôi mắt chớp chớp, miệng cười cười,
- Anh Long ơi! Mạnh khỏe chứ?
- Thưa anh bộ đội, tôi vẫn khỏe.
- Người ta đồn, nửa đường, máy bay lên thẳng của Mỹ đến đón, nhưng các anh thích đi bộ cho khỏe chân, nên mới bị bắt lại, có đúng không?
- Tôi không biết chuyện này anh bộ đội ạ!
- Mình “nhớ” anh muốn chết! Anh có “nhớ” mình không? Tôi lặng thinh.
- Anh đi vắng mấy ngày? Anh nhỉ?
- Tôi trốn sáu mươi bốn ngày.
Tên bộ đội gỡ cái băng đạn A.K. ra khỏi súng, nhoài người qua cửa sổ,
- Sáu mươi tư ngày! Kỷ lục đấy!
Hắn dơ cao cái băng chứa đầy đạn A.K gõ xuống hai chân đang bị cùm của tôi, rồi lớn tiếng dõng dạc đếm,
- Một!…Hai! …Ba!… Bốn!…
Sống của cái băng đạn giáng trên xương ống quyển làm cho tôi thót tim. Tôi la lên, “Ối!… Ối!…Ối! …”
Thấy tôi đau líu lưỡi, Tưởng cười khoái trá. Nó cười bằng miệng, và cười cả bằng đôi mắt,
- Anh Long đi vắng sáu mươi tư ngày. Tôi khổ vì anh sáu mươi tư ngày. Tôi sẽ gõ chân anh sáu mươi tư lần để anh nhớ! Mười hai! Mười ba! Mười…

Tôi đau đến chảy nước mắt, đau nhảy nhổm, đau quằn quại, giẫy đành đạch.
NHỚ MẸ
http://www.youtube.com/watch?v=j5QI4H5rHbo


Vệ binh Lê Văn Tưởng vẫn tỉnh bơ, mặt không đổi sắc, tay nó dơ lên, giáng xuống, đều đều…
Ống chân tôi sưng lên, rồi tóe máu. Mắt tôi bắt đầu hoa, tai tôi ù như sắp điếc đặc.
Đau quá, tôi điên tiết, ngồi bật dậy. Tôi dơ hai tay có cái còng lên cao, nện một phát thẳng cánh, trúng cổ tay thằng mất dạy.
Bất ngờ bị một cú đau điếng, nó buông rơi băng đạn. Mặt nó đổi sắc thành màu tím. Nó nghiến răng, rít lên,
- Tiên sư cha nhà mày! Ông cho mày biết tay. Từ nay mày chỉ còn nước bò thôi, hết đi được nữa rồi! Con ơi!…
Nó cúi xuống rút con dao găm đeo trên dây lưng. Một tay nó cầm bàn chân phải của tôi, tay kia dí mũi dao vào nhượng chân. Chỉ một giây đồng hồ nữa là gân nhượng chân tôi bị cắt! Tôi sẽ thành phế nhân!
- Ngừng tay ngay!
Tiếng quát của ai đó làm cho tên khát máu chùn tay, mũi nhọn của con dao găm vừa chạm lớp da khuỷu chân tôi thì ngừng lại.
Người vừa quát là cán bộ Vấn.
- Đồng chí có nhiệm vụ gì ở đây? Sao lại định cắt gân chân người ta?
- Thủ trưởng ơi! Thằng này hỗn láo quá! Nó chửi tôi. Tôi phải dạy nó một bài học.
Cán bộ Vấn nghiêm giọng,
- Chuyện gì cũng phải báo cáo với cấp trên. Đồng chí không được tự tiện.
Hung thần họ Lê đi vòng sang cửa chính, khom mình lượm cái băng đạn. Nó lườm lườm nhìn tôi với đôi mắt căm hờn:
- Tiên sư cha mày! Số mày còn may lắm đấy!
Tôi cũng nghiến răng, trợn mắt, nhìn ngay mặt nó:
- Tổ mẹ mày! Đồ con chó!
Cán bộ Vấn ra lệnh:
- Đồng chí Tưởng ra khỏi đây ngay! Từ nay, nếu không phải phiên trực, tôi cấm đồng chí léo hánh tới đây.
Chờ cho tên Tưởng qua khỏi cổng, cán bộ Vấn mới bước tới sát cửa phòng giam, nhỏ giọng nói với tôi:
- Chuyện đâu còn có đó. Anh Long yên chí nằm nghỉ đi, đừng lo nghĩ gì cả.
Viên Trung Úy Cộng-Sản tên Bùi Văn Vấn này là dân Hải-Dương. Anh ta làm quản giáo ở đây từ ngày mới lập trại.
—–o—–

Đêm tháng Năm, muỗi vo ve…
Ngoài rào có tiếng chân người lội lõm bõm dưới nước; chắc đó là ông già Khê người dân tộc Tày? Đêm nào già Khê cũng đi cắm cần câu cá dọc theo con suối.
Nhà của già Khê nằm sát rào Trại 4. Trước khi trốn trại, mỗi lần tôi đi ngang qua rào, ông cụ tốt bụng này thường dúi cho tôi một gói ớt hiểm, kèm với lời dặn dò:
“Ở nơi thâm sơn cùng cốc này, nhớ mỗi ngày làm một quả ớt hiểm để chống sốt rét, ngã nước!”
Có ánh đèn pin loang loáng, rồi tôi nghe già Khê lớn tiếng hỏi người nào đó:
- Làm gì mà ngồi đây thế? Thấy hết hồn… tưởng ma!
Người kia trả lời:
- Suỵt!… Suỵt!… Cháu… ngồi… chơi…
Tiếng người này nhỏ nhí, nhưng tôi vẫn nghe được đó là tiếng vệ binh Đèo Văn Thắng. Trại 4 có hai vệ binh tên là Thắng. Đèo Văn Thắng người Cao-Bằng, hiền như bụt nên chúng tôi gọi là “Thắng Phật”. Tính nết “Thắng Phật” trái ngược hẳn với “Thắng Bo” Hồ Ngọc Thắng người Bắc-Thái rất độc ác dữ dằn. Gặp điều không vừa ý, “Thắng Bo” đánh tù không nương tay. Chữ “Bo” là từ chữ “Porteur” tiếng Pháp, có nghĩa là “phu khuân vác”. Biệt danh của hai vệ binh tên Thắng đều do anh em tù Trại 4 đặt ra, và truyền miệng với nhau.
Già Khê lại lớn tiếng thắc mắc:
- Ngồi chơi mà chong súng như canh kẻ trộm? Có báo động hử?
- Không… không… cháu ngồi chơi mà…
- Ừ! thôi nhá! Có rảnh vào nhà rít điếu thuốc lào rồi hãy về…
- Vâng… vâng…
Sau đó tôi nghe mấy tiếng: “Thịch! Thịch! Thịch!…” trên nền đất, có lẽ già Khê đang dậm dậm gót chân vài cái cho ráo nước?
Rồi tiếng chân bước xa dần, đêm trở lại với mớ âm thanh hỗn độn của ếch nhái, côn trùng…
Tôi đang thiu thiu sắp ngủ thì có bóng người bước vào. Người đó vỗ nhè nhẹ bên hông tôi:
- Dậy! Dậy mau! Ban chỉ huy trại thấy anh tiến bộ nên xét tha cho anh về lán đấy!
Tên vệ binh cúi xuống lấy chìa khóa mở còng tay cho tôi, rồi y đi vòng ra ngoài đầu hồi tháo chốt cái cùm chân.
Bất ngờ nghe lệnh được tha về đội lao động, tôi vừa ngạc nhiên, vừa mừng rỡ.
Tôi chưa đứng vững, tên bộ đội đã thúc giục:
- Đi mau! Anh lên “khung” gặp trực trại, ký giấy tha rồi về lán cho sớm!
Tôi thấy ngoài trời tối đen như mực, nên chùn bước:
- Tối thế này làm sao thấy đường mà đi? Mọi đêm, các anh dẫn tôi đi đâu cũng có cái đèn bão mà?
- Hôm nay chỉ lên ký cái giấy thôi, cần gì đèn với đóm?
Linh tính báo cho tôi biết, hình như có điều gì không ổn, nên tôi vội ngồi bệt xuống bực cửa:
- Tôi không đi đâu! Muốn tôi đi, phải có đèn, đi không đèn thì vệ binh gác trên chòi sẽ bắn tôi chết!
Tên bộ đội thấy tôi ngồi ì ra trước thềm, bèn rút túi, lấy ra một khúc nến. Y bật quẹt đốt nến lên, trao cho tôi,
- Đây! Đèn đây, anh cầm lấy rồi đứng lên đi đi!
Tôi ù lì:
- Nếu anh đưa cái đèn bão, tôi sẽ cầm đi ngay. Cây nến này ra gió là tắt liền, tôi không đi đâu!
Tức quá, nó quát ầm lên
- A! Cứng đầu hả? Anh không đi, tôi điệu anh đi!
“Huỵch! Huỵch!”
Bị hai cái báng súng đánh vào vai, đau lắm, nhưng vẫn không nao núng, tôi cứ ngồi ôm chặt cây cột cửa không chịu buông
Sau cùng, thằng vệ binh đành quàng khẩu súng ngang vai để hai tay nó được tự do nắm cổ áo tôi, lôi ra cửa. Biết mình không đủ sức vật nhau để cướp súng, tôi đành ôm cánh tay kẻ thù, nhe răng cắn tới tấp. Đau quá, nó đành buông tôi ra. Tay xoa chỗ bị cắn, miệng nó chửi:
- Đồ chó cắn càn!
Tôi la lên:
- Anh muốn bắn tôi phải không? Bắn thì bắn bây giờ đi! Tôi không ngu mà bước ra cổng cho anh bắn đâu! Tôi biết tỏng… tòng… tong… âm mưu của anh rồi!
Hình như câu nói đó làm cho tên vệ binh chạm nọc, nó ấp úng:
- Ấy! Ấy! Tôi không bắn anh đâu! Mà sao anh biết? Ơ …ơ …ơ…
Bộ dạng bối rối của thằng cai tù kèm với câu “Mà sao anh biết?…” khiến tôi suy ra ngay.
“Đúng rồi! Tụi nó gài cho mình không đèn đóm đi ra cổng để giết mình! Mấy thằng bộ đội chong súng ngoài kia đang ngồi phục kích chờ bắn mình chứ đâu phải ngồi chơi?”
Thấy chết đến nơi, tôi đánh nước liều, chõ mồm về hướng các lán tù, tôi gào lên:
- Anh em ơi! Người ta giết tôi! Anh em ơi! Chúng nó bắt tôi đi ra khỏi rào để bắn tôi! Anh em ơi! Cứu tôi với!
Ngay từ lúc đôi bên giằng co, đã có vài người tù ở Lán 1 và Lán 5 ló đầu ra theo dõi. Nghe tiếng tôi kêu cứu, họ cũng hét ầm lên,
- Không được giết người! Không được giết người!
- Chúng nó giết tù! Anh em ơi! Chúng nó giết tù! Anh em ơi!
Tiếng la lớn nhứt tôi nghe được, rõ ràng là tiếng của Đại Úy Phạm Xuân Độ.
Gặp cảnh bất ngờ, tên bộ đội đứng ngẩn người, không biết xử trí ra sao.
Bỗng có ba tiếng súng chỉ thiên phát ra từ chòi gác ngoài cổng trại. Rồi một tốp bộ đội ôm A.K. chạy túa vào sân. Tên trưởng toán vệ binh thét lớn,
- Tù làm loạn hả? Vào lán! Đóng cửa lại! Đứa nào lớ ngớ ngoài hiên chúng ông bắn bỏ mẹ! Nghe chưa?
Có tiếng lên đạn: “Cà róch!… Cà rách!…”
Tôi bị tống năm, sáu báng súng vào ngực, vào lưng, rồi bị đẩy vào nhà kỷ luật trở lại. Hai phút sau, còng, cùm khóa xong. Vệ binh tản mát dần. Cảnh vật lại yên tĩnh như không có gì xảy ra.
Trại tù đèn tắt tối thui, nhưng tôi yên tâm nhắm mắt ngủ, vì tôi tin tưởng rằng qua khe vách liếp của các lán tù, thế nào cũng có vài đôi mắt đang theo dõi sự an nguy của tôi.
Sáng hôm sau, trước khi nghe tiếng kẻng xuất trại lao động, có bốn, năm người bị gọi lên trình diện cán bộ an ninh của trại, trong số này có anh Phạm Xuân Độ. Đại Úy Biệt Động Quân Phạm Xuân Độ là một người đàn em trong đơn vị tôi. Tôi và Độ thân nhau như anh em ruột.
Khi đi ngang qua nhà giam, Độ lớn tiếng, cốt cho tôi nghe:
“Thái Sơn ơi! Đàn em không bỏ đại ca đâu! Đại ca ơi!”
Tôi ngồi nhìn theo bóng chú Độ, lòng bồn chồn, thấp thỏm không yên. Chừng một tiếng đồng hồ sau, nhóm tù dính líu tới vụ lộn xộn đêm qua được thả về. Ngang qua chỗ tôi ngồi, Độ lại phát thanh bổng,
“Thái Sơn ơi! Chỉ có một tờ kiểm điểm, không nhằm nhò gì.”
Nghe vậy, tôi mới thấy lòng nhẹ nhõm, hết lo âu.
Mấy cái báng súng đêm trước đã khơi động những chấn thương cũ trong thân thể tôi. Tôi chợt thấy ngực mình đau nhói một cách kỳ lạ.
“Bục… Bục… Ục… Ục…”
Ruột gan tôi như đang lộn lạo, sôi sùng sục. Có một vật gì tròn tròn, mềm mềm như cái bong bóng đang tìm đường chui qua cổ họng tôi để thoát ra ngoài.
“Ộc!…Ộc! Phè!…Phè!…” Máu từ ngực tôi vọt qua hai hàm răng, văng tung tóe trên đùi và trên nền ván gỗ.
Tôi ói máu liên tục. Lúc này, trước mắt tôi chỉ còn những đốm sao chớp chớp, lập lòe. Rồi tất cả tối sầm lại, đen đặc. Tôi gục đầu hôn mê trên chiếc còng tay…
“Lai tỉnh đi Long! Long ơi!… Lai tỉnh đi Long!…”
Tôi mở mắt ra, thấy mình đang nằm thoải mái trên nền đất nhầy nhụa, hôi tanh, tay không còng, chân không cùm. Ông thầy thuốc Nam của trại một tay bóp miệng cho tôi thở, tay kia không ngừng giựt giựt mớ tóc mai bên thái dương tôi.
Cán bộ Nghiễm trực trại, đang đứng trước cửa theo dõi. Thấy tôi mở mắt tỉnh lại, y buột miệng:
- Tưởng đi luôn rồi chứ!
Sau đó y ra lệnh cho tên lính gác:
- Dẫn nó ra suối!
Thế rồi, sau nhiều ngày ủ mình trong bộ quần áo kaki đầy máu me, cứt đái hôi thối, tôi được đi tắm. Sức yếu, hai chân lại đau, tôi đi không nổi, đành phải bò. Tới cổng, tôi níu vào hàng rào đứng lên, cố gắng lần mò từng bước. Có hai anh bạn đánh liều chạy tới đỡ, dìu tôi đi. Thấy thế, vệ binh cũng làm ngơ.
Trong lúc tôi đi vắng, một anh bạn tù bị bắt làm công tác vệ sinh nhà giam với một thúng tro.
Tới suối, tôi tụt hết quần áo, lết nhanh xuống dòng nước mát. Hai tên lính canh đã ghìm súng ngồi sẵn trên bờ. Cán bộ Nghiễm ra điều kiện:
- Anh Long có mười phút tắm gội. Cấm không được lặn!
Tôi bỏ ngoài tai lời đe dọa, cứ gục đầu xuống uống đầy một bụng nước, rồi lặn ngụp, vò đầu vò tai. Những con cá lòng tong bu vào gặm nhấm lớp da phủ vảy máu mủ chưa khô trên ống quyển. Lúc đầu, răng cá làm cho những vết thương chân của tôi thật là đã ngứa. Sau đó máu tươm ra, tôi bắt đầu cảm thấy xót, thấy đau.
Buổi chiều, trực trại sai hai bạn tù kè nách đưa tôi lên phòng làm việc. Tôi phải viết hai tờ tự kiểm, phải thành tâm hối hận về hành động trốn trại vừa qua để xin ban chỉ huy trại khoan hồng.
Tôi nại cớ hai tay bị cùm, bị đánh, đã tê dại, không cầm bút được. Thế là một anh bạn gốc Không Quân đang ngồi tỉa bắp trên kho bị điệu vào ghi chép tờ tự khai cho tôi. Tôi nói anh bạn muốn viết gì thì viết, rồi tôi nhắm mắt ký bừa, không cần đọc lại. Lúc nộp hai tờ tự kiểm cho cán bộ, hình như anh ta đã ghi lộn họ Vương của tôi thành họ… Nguyễn thì phải?
Trong thời gian chờ cán bộ của Nha Quân-Pháp Bộ Quốc-Phòng Cộng-Sản từ Hà-Nội về chấp cung, tôi không được đi ra ngoài. Mọi sinh hoạt tiêu, tiểu đều ở ngay chỗ nằm. Hằng ngày, ông thầy thuốc Nam của trại có nhiệm vụ đi vứt cứt đái cho tôi. Biết tôi bị nội thương, ông ta lén dấu cho tôi vài viên xuyên tâm liên. Ông thầy thuốc này cũng là tù cải tạo. Tù mắc bịnh gì ông ta cũng cho uống xuyên tâm liên! Từ thời ông ta đảm nhận công tác y tế của trại, tôi chưa thấy ai chết vì xuyên tâm liên cả.
Ngày Chủ Nhật, trại được nghỉ lao động. Hai cổng trước sau đều bị khóa. Tên lính gác trên chòi cao ngồi ngủ gà ngủ gật. Các bạn tù túa ra sân, người thì tay chân bận bịu với ca cóng trong việc nấu nướng, kẻ tụ họp đánh cờ, vài anh khác mải mê tập thể dục, dưỡng sinh. Có bóng người lạng qua cửa nhà cùm.
“Vèo!…
Vèo!…
Độp!…
Độp!…”
Vài cục đường thẻ và mấy củ khoai lang luộc được quăng vào nhà kỷ luật.
Hai củ khoai bay tuốt vào góc phòng, ngoài tầm tay với. Còn hai cục đường vì nhẹ, nên rơi nơi bục cửa, tôi chụp lẹ, rồi đưa ngay vào mồm.
Oái oăm làm sao! Cục đường trong miệng lại nằm kẹt ngay chỗ cái răng đã bị tên Lời đập gãy, tôi đau điếng người! Cả hàm răng tê tái, cứng đờ, cục đường nằm trong họng mãi không chịu tan.
Hai ông bạn tù vừa ném đồ ăn cho tôi, một ông là Hải Quân Thiếu Tá Trần Văn Căn, bạn cùng lớp Trần Quí Cáp, người thứ nhì là Đại Úy Vương Thành Lân Khóa 19 Võ-Bị.
Lâu ngày mới thấy chất ngọt, nước dãi trong mồm tôi tiết ra ào ào, nuốt không kịp.
Tới trưa hôm đó mới khổ! Tôi chưa kịp cởi quần đã bị “Tào Tháo” đuổi, bắt tại chỗ! Tay còng, chân cùm, tôi đành nằm chịu trận.
Chờ mãi, tôi mới thấy bóng dáng ông thầy thuốc Nam trước cửa nhà bếp. Tôi lên tiếng gọi, rồi mắc cỡ, nói với ông ta rằng vì bị trúng gió, tôi đã “bĩnh” ra quần.
Ông lang sốt sắng chạy vội lên gặp cán bộ trực trại. Tôi được “chiếu cố” cho ra suối tắm rửa lần nữa.
Hai ngày sau, vào lúc xế chiều, cán bộ Vấn xuất hiện. Đứng chân trong, chân ngoài ngạch cửa, anh ta dặn dò:
- Ngày mai có người từ trên Bộ xuống chấp cung. Tính mạng của anh coi như an toàn rồi đấy! Tôi cũng mừng cho anh. Có điều là cần kín miệng.
Nói vừa xong câu, anh ta vội vàng xoay lưng, bước đi.
---o---

Chín giờ sáng ngày hôm sau, tôi ngồi đối mặt với một thượng úy của Nha Quân-Pháp Cộng-Sản. Công tác chấp cung xảy ra đúng ba ngày.
Ngày thứ nhứt…
Tay nhấn cái nút “Play” màu trắng, đồng thời với cái nút “Record” màu đỏ của chiếc cassette để trên bàn, tên cán bộ bắt đầu cuộc thẩm vấn:
- Trong thời gian ở Trại 4 này, cán bộ và chiến sĩ của trại có làm điều gì trái với chính sách của đảng và nhà nước khiến cho anh và các trại viên khác bất mãn không?
Tôi thoáng nghĩ:
“Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện, mình có nói ra những hà khắc, bất nhân của cán binh trại này, chưa chắc hắn ta đã làm được điều gì thay đổi. Mà không chừng, tố cáo những gì mình chứng kiến, có khi còn mang vạ vào thân…”
Hai bàn tay xếp trên đùi, tôi tránh đôi mắt người đối diện:
- Thưa cán bộ, tôi thấy rằng ở trại nào thì chế độ cũng như nhau. Tôi không có điều gì để khiếu nại cả.
- Vậy thì, nguyên nhân nào đã khiến anh vượt trại?
- Tôi trốn trại là để đi tìm tự do.
- Sao lại phải đi tìm? Bao giờ học tập xong, anh sẽ được trả tự do thôi!
Ngẩng đầu lên, thấy vẻ mặt người sĩ quan Cộng-Sản không có nét gì là giận dữ, tôi đánh bạo:
- Thưa cán bộ. Cán bộ có thể cho tôi biết, đến bao giờ thì khóa học của tôi mới chấm dứt?
Thừ người ra một phút, viên thượng úy nhịp nhịp cái bút chì trên mặt bàn,
- Cái ấy cũng tùy, một năm, vài ba năm, tùy nơi các anh…
Lúc đó mắt tôi chợt nhìn thấy trong góc phòng một cái giá súng, trên đó dựng bốn khẩu A.K. của vệ binh. Một ý nghĩ thoáng qua.
“Hai giây đồng hồ để nhảy từ đây tới cái giá súng. Một giây chụp khẩu A.K. Một giây kéo cơ bẩm. Hai giây vượt qua cửa sổ. Một phút sau có mặt trong vườn sắn. Lính canh trên chòi gác không thể quan sát được phía sau vườn sắn. Phải tốn ít nhất là năm phút, vệ binh mới tập họp xong. Chỉ cần năm phút phù du ấy là ta đã lên tới Lũng Ngàn rồi!”
Tiếng gõ nhịp bút chì chợt ngừng thình lình. Tôi liếc mắt thấy vẻ mặt hơi thất sắc của tên cán bộ. Hình như hắn ta đã thấy mắt tôi đang dán vào cái giá súng?
Y vụt xô ghế, đứng dậy:
- Thôi anh về nghỉ, ngày mai ta làm việc tiếp.
Tôi chột dạ, nhưng cũng không tỏ vẻ bối rối. Phải chống hai tay lên ghế lấy đà, tôi mới từ từ đứng lên được. Lúc này tôi chợt sực tỉnh: sức tôi yếu quá! Tôi đứng còn khó khăn, nói chi tới chuyện chạy, nhảy, leo trèo?
Ngày thứ nhì…
Bước vào phòng trực, tôi không còn thấy cái giá súng A.K. trong góc nhà nữa. Bên ngoài cửa sổ thấp thoáng bóng vệ binh ôm súng, rảo bước đi qua, đi lại.
Chờ cho tôi ngồi xuống ghế, viên sĩ quan quân pháp chỉ tay vào một cái bịch giấy dày cộm trên bàn:
- Tôi đã có toàn bộ hồ sơ quân bạ của anh Long ở đây. Đầy đủ hết! Từ bản tướng mạo công vụ, cho tới từng cái giấy phạt, giấy khen, huy chương, khai sinh, giá thú… không thiếu bất cứ thứ gì. Nếu không tin, anh có thể tự tay kiểm tra lại, xem tôi nói có đúng không?
Rồi y rút ra đưa cho tôi mấy tờ huy chương và bản tướng mạo công vụ của tôi. Thoáng nhìn thôi, tôi đã biết đó là thứ thật. Thấy tôi có vẻ không hứng thú với việc đọc mớ giấy tờ kia, hắn từ tốn cất chúng vào bao trở lại, rồi gật gù,
- Hôm nay chương trình sẽ là nghe vài cuộn băng.
Cuộn băng thứ nhứt dài nửa giờ ghi lại phiên tòa ngoài trời, cách đây không lâu, xử một anh tù cải tạo tên Phê (?) trốn trại ở đâu dưới Vĩnh-Phú hay Thanh-Hóa gì đó. Tiếng loa vang vang lời kết tội phát ra từ miệng một “cải tạo viên”, có lẽ là trật tự hay thi đua:
“Tên ngụy quân này đã ngoan cố vượt trại, không chịu học tập! Đề nghị xử tử!”
Hàng chục người khác nhao nhao tán đồng:
“Đồng ý!“…
”Nhất trí!”…
”Đồng ý!”…
”Nhất trí!”…
Một người nữa phát biểu,
“Thằng này đã cướp súng bắn lại cán bộ! Phải xử tử nó ngay!”
Đám đông lại thét gào:
“Xử tử!”…
”Xử tử!”…
”Xử tử!”…
Một ý kiến khác:
“Chúng tôi không an tâm học tập khi tên ác ôn này còn sống và tiếp tục quấy rối chúng tôi…”
Khán giả dường như đã say máu:
“Xử tử nó đi!”…
”Xử tử nó ngay!”…
”Xử tử nó!”…
”Xử tử!”…
Đa nghi cách mấy tôi cũng không thể nói cuộn băng này là giả tạo được! Rõ mồn một, đấy là tiếng nói, tiếng la, tiếng hét của đồng đội tôi. Tôi không thể nghe lầm: Đồng đội của tôi đang tranh nhau đòi giết bạn mình!
Là một tù nhân sắp ra tòa lãnh án, tôi không mảy may sợ hãi cái chết, nhưng những tiếng la hét của những người đồng ngũ lại làm cho tôi đau đớn vô cùng.
Cuộn cassette dài có nửa giờ, vậy mà tôi cảm như mình đang trải qua một cuộc tra tấn dài vô tận. Ngón đòn cân não đã có hiệu quả! Lòng đau như cắt, hai lá nhĩ lùng bùng, đầu tôi choáng váng như muốn nổ tung vì những tiếng thét đầy man rợ,
“Xử tử!”…
”Xử tử!”…
”Xử tử!”…
”Xử tử!”…
Cuộn băng ghi âm chấm dứt không có đoạn kết của phiên tòa. Viên thượng úy xoi mói nhìn vào mặt tôi, như tìm đọc phản ứng của tôi, rồi y bồi theo một câu, như phát đạn ân huệ:
- Anh Phê bị xử bắn rồi đấy anh Long ạ!
Thấy tôi ngồi lặng thinh, hắn ta nói nhỏ:
- Tôi không cần hỏi thêm anh về lai lịch hay thành tích nữa làm gì. Chúng tôi có đủ tài liệu và hồ sơ để xác định tội trạng của anh rồi. Tuy nhiên, tôi cũng mạnh miệng bảo đảm rằng, tội của anh chưa đến mức bị xử tử hình. Tin tôi đi!
Sau khi được uống một bát nước lạnh, tôi tiếp tục ngồi nghe cuộn băng thứ nhì, cuộn băng ghi lời phát biểu của hai vị đại tá bị Cộng Quân bắt tại mặt trận Ban-Mê-Thuột.
Cuộn băng chót là một buổi học tập, phê bình, kiểm thảo của một nhóm sĩ quan cấp tướng và đại tá.
Qua hai cuộn ghi âm vừa rồi, tôi nhận ra giọng nói của những vị tôi đã từng dưới quyền, đã từng thân thiết. Vẫn giọng nói xưa, nhưng những lời tôi nghe được lại như từ miệng ai đó, tôi chưa từng gặp, chưa từng tiếp xúc bao giờ!
Trong cơn bão tố cuồng điên, con thuyền quốc gia của dân tộc tôi chìm nhanh quá! Giữa biển khơi không thấy bến bờ, những người sắp chết đuối thấy vật gì bồng bềnh trước mắt, cứ ngỡ rằng đấy là một cái phao, đâu ngờ đó chỉ là đám bọt nước mà thôi!
Thực tình, từ ngày mất nước, tôi chưa bao giờ có ý oán trách bất cứ ai, kể cả các cấp chỉ huy và bạn đồng ngũ của tôi. Tôi chỉ thấy xót thương cho bạn bè mình, và buồn cho số phận của chính mình. Người cán bộ xếp dọn đồ nghề, rồi nói câu chấm dứt buổi thẩm cung:
- Thôi! Mai ta tiếp tục anh Long nhé!
Tôi khập khiễng trên đoạn đường từ ban chỉ huy trại về buồng giam, sau lưng là một họng A. K.
Ngày chấp cung thứ ba…
Viên thượng úy xoa xoa hai bàn tay vào nhau:
- Hôm nay chủ đề trao đổi giữa chúng ta sẽ là: “Quốc-Gia và Cộng-Sản.” Tôi sẽ không đánh đập anh đâu. Đừng e ngại, sợ sệt, cứ việc phát biểu một cách công tâm. Tôi cho phép, và khuyến khích anh nói thật lòng mình, về những gì anh cho là sai, là đúng của hai chế độ. Mục đích chuyến công tác của tôi lần này chỉ có thế!
Tôi ngồi ngẩn mặt ra. Thật là ngoài mức tưởng tượng! Tôi đã một lần nếm mùi cái “kinh nghiệm thương đau” của kẻ bị tra khảo vì tội trốn trại rồi, nên tôi biết, trong thời gian chấp cung, tù vượt ngục nào cũng bị đánh cho tới bò lê, bò càng, cả tháng sau, thân mình còn ê ẩm.
Tôi nghĩ lần này cũng lại bị đánh, bị buộc tội trối chết, rồi phải tỏ ra ăn năn, hối lỗi những việc mình đã làm, sau cùng là ký bản cam kết, hứa hẹn sẽ không còn tái phạm nữa… vân vân.
Ấn nút cho máy ghi âm chạy, thẩm vấn viên hất hàm:
- Theo anh, cuộc chiến tranh vừa qua chính nghĩa thuộc về phe Quốc-Gia hay Cộng-Sản?
Tôi đáp liều:
- Mỗi bên tham chiến có lý lẽ riêng để bênh vực cho chủ trương của phía mình. Người Cộng-Sản có lý của họ, còn chúng tôi, có lý của chúng tôi.
Người hỏi cung lắc đầu, nghiêm giọng:
- Anh hãy nói thẳng ra ý kiến của cá nhân anh. Phải là “ý kiến tôi thế này, ý kiến tôi thế kia! "Không được nói quanh quanh, nói chung chung kiểu…”chúng tôi thế này, chúng tôi thế kia…”
Tôi nuốt nước bọt rồi trả lời thẳng thừng:
- Tôi chiến đấu có chính nghĩa vì tôi là người tự vệ, Miền Bắc là kẻ xâm lược.
Hắn ta vội át giọng tôi
- Anh nói sai rồi! Chúng tôi mới có chính nghĩa vì chúng tôi chiến đấu để giải phóng Miền Nam thoát ách cai trị của ngoại bang.
- Không có ngoại bang nào cai trị Miền Nam cả. Việt-Nam Cộng-Hòa là một nước độc lập.
Y hét lên:
- Độc lập giả tạo! Thực chất Ngụy-Quyền Miền Nam chỉ là tay sai của đế quốc Mỹ.
- Việt-Nam Cộng-Hòa là một quốc gia đồng đẳng với các nước khác trên thế giới. Miền Nam có chính phủ riêng, hiến pháp luật lệ riêng. Tổng Thống và Quốc Hội nước Việt-Nam Cộng-Hòa là do dân bầu lên, có nhiệm kỳ hiến định hẳn hoi, sao lại gọi là tay sai được?
Tôi ngừng lại, chờ xem ý kiến của người đối diện ra sao thì thấy y đã tắt máy.
Ngồi im một lát như để tĩnh tâm, rồi thật chậm rãi, hắn ta ôn tồn trở lại:
- Tôi sẽ không đấu lý với anh nữa. Vì nếu cãi nhau thì anh sẽ ở vào thế yếu, còn tôi ở thế mạnh, không được công bằng. Từ bây giờ tôi chỉ đặt câu hỏi. Anh được tự do trả lời theo ý anh! Như vậy có được không?
Thấy tôi gục gục đầu, hắn nhấn nút cho máy quay, rồi tiếp tục:
- Anh nói rằng Miền Nam là tự do, vậy hãy diễn tả cái tự do đó thể hiện ra sao ngay trong cuộc đời của chính anh.
- Tôi lớn lên trong một chế độ mà trong đó, chúng tôi muốn nói gì thì nói, nghe gì thì nghe, đọc gì thì đọc. Không bị ai nhồi nhét tư tưởng này, tư tưởng kia vào đầu. Ngay như tôi là một thiếu tá, mà suốt mười hai năm quân ngũ tôi chưa bị bắt buộc phải vào dự một buổi học tập chính trị nào cả. Những hiểu biết về Cộng-Sản, hay Tự-Do là do cái vốn kiến thức thu thập từ thực tế và tự tìm hiểu qua báo chí, sách vở. Không ai ép buộc tôi phải tôn thờ chủ nghĩa này, đả phá chủ nghĩa kia.
- Nếu nói rằng Miền Nam tôn trọng tự do tín ngưỡng, thì tại sao lại có những cuộc biểu tình, xuống đường của Cha, Cố, Giáo Dân cũng như của Tăng Ni, Phật Tử?
- Chính vì có tự do nên mới xảy ra những chuyện xuống đường, phản kháng, nếu không có tự do thì toàn dân sẽ câm như hến.
- Anh có là một thành viên của đảng Dân-Chủ không? Nếu một người lính mà không là đảng viên đảng Dân-Chủ thì có bị thiệt thòi gì không?
- Thú thật tôi không để ý đến vụ đảng phái. Tôi không gia nhập đảng nào. Tôi cũng chưa thấy đảng nào công khai gây ảnh hưởng trong đơn vị tôi bao giờ.
- Trong thời gian qua, anh đã có dịp tiếp xúc với dân chúng Miền Bắc, anh có nhận xét gì về nếp sống của dân chúng Miền Bắc không?
Thấy có dịp giải tỏa ấm ức, tôi hứng chí nói một mạch:
- Miền Bắc và Miền Nam khác hẳn nhau. Ở trong Nam, người dân có thể sống theo ý mình muốn. Còn Miền Bắc là một xã hội có quy củ, có khuôn phép. Từ vấn đề cơm, áo, gạo, tiền, nhà cửa, ruộng vườn, cái gì cũng có tiêu chuẩn cả. Cái gì cũng tem phiếu, sổ sách. Hàng còn nằm trong kho quốc doanh có một giá, tới lúc tuồn ra ngoài, nó thành giá khác, đắt gấp chục lần. Lao động xã hội chủ nghĩa thì người này dựa vào người kia. Làm việc hợp đồng, vần công chỉ là chuyện lãng phí nhân lực. Tôi đã thấy có một mảnh ruộng cỡ nửa sào, mà ào xuống mười người, với mười con trâu, và mười cái cày. Họ làm việc chừng một giờ đồng hồ, mà chấm công là một ngày. Thời giờ còn lại, mạnh ai nấy đi canh tác riêng để cải thiện. Lý thuyết là không có quyền tư hữu, tất cả là tài sản chung, nhưng trên thực tế, ai cũng lo mưu cầu lợi ích riêng, vì ai cũng thiếu thốn cả. Có lẽ vì thế mà mấy chục năm nay Miền Bắc vẫn nghèo, không khá lên được.
Tôi thấy kỹ thuật thẩm vấn của người Cộng-Sản có vẻ na ná với kỹ thuật khai thác của Đức Quốc-Xã thời Thế Chiến thứ 2 trong những tài liệu mà tôi đã đọc qua. Thoạt đầu, với đôi ba câu hỏi bâng quơ, tù binh được nói thoải mái thả giàn vài phút. Sau đó, thẩm vấn viên mới ra tay, bằng những câu hỏi dồn dập, tới tấp, loanh quanh, lẩn quẩn một vấn đề, làm cho óc người bị thẩm vấn rối tung lên, không biết đâu mà chống đỡ.
Với những câu hỏi ngoắt ngoéo, viên thượng úy Cộng-Sản đã cố gắng moi móc những gì tôi cất dấu trong đầu về cuộc đời tôi, từ thuở mới di cư, đến khi nhập ngũ, rồi tới ngày rã ngũ.
Trong thời chiến, tôi đã qua lớp Tình-Báo Tác-Chiến Singapore, rồi nhiều năm, đảm nhận chức Trưởng Phòng Quân- Báo của Bộ Chỉ-Huy Biệt Động Quân, Quân-Khu 2, Việt-Nam Cộng-Hòa. Tôi đã thẩm vấn rất nhiều tù binh, và đã hoàn tất nhiều bản cung từ.
Do đó, tôi đủ bản lãnh để luồn lách, tránh né những bí mật liên quan tới sinh mạng những người đã cộng tác với tôi thời trước, như tên tuổi các mật báo viên trong mạng lưới mật báo của Phòng 2 Biệt Động Quân Quân-Khu 2, danh sách các cán binh chiêu hồi đã hướng dẫn các chuyến xâm nhập vào lòng địch của tôi trong thời gian 1972- 1973.
Chỉ sau vài câu hỏi trùng lặp, tôi đã nghiệm ra ngay chủ đề của cuộc “thi vấn đáp” trường chinh hôm ấy là nhằm khai thác tin tức liên quan tới “Vai trò của Chính-Trị và Tôn-Giáo trong Quân-Đội Việt-Nam Cộng-Hòa” Về cả hai lãnh vực trên đây, quả tình, tôi chỉ là một tay ấm ớ, nên người tra hỏi chẳng biết được gì.
Cứ thế, trừ đi cỡ sáu, bảy phút cho hai lần đi tiểu, và khoảng mười phút cho bữa ăn trưa với một củ khoai lang luộc, tôi phải trả lời hàng trăm câu hỏi trong thời gian dài từ sáng sớm tới xế chiều. Tôi không nhớ có bao nhiêu cuộn băng mới đã được thay, mấy lần pin mới được lắp vào máy.
Chấm dứt ngày làm việc cuối cùng, không chỉ người bị chất vấn, mà ngay cả người đặt câu hỏi cũng thấy mồ hôi vã ra đầy mặt. Người cán bộ châm điếu thuốc lá, rít một hơi, rồi trao nó cho tôi:
Thiếu Tá Vương Mộng Long tại Vùng II Chiến Thuật Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82/Biệt Động Quân ©VML
Thiếu Tá Vương Mộng Long tại Vùng II Chiến Thuật Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 82/Biệt Động Quân
- Anh Long ạ! Tôi đã thực hiện công tác phỏng vấn này với một ông sư, một ông cha, một nghị sĩ, một dân biểu, hai cấp tướng, hai cấp đại tá, và ba người cầm đầu đảng phái chính trị. Mỗi anh có nhân cách riêng khi đối diện với tôi. Cũng những câu hỏi ấy nhưng mỗi người trả lời khác nhau. Mỗi anh có lý lẽ riêng. Anh là người tuổi nhỏ nhất và có địa vị thấp nhất mà tôi đã gặp trong công tác này đấy! Bây giờ tôi có một câu hỏi riêng tư với anh. Câu hỏi cuối cùng. Anh có vui lòng trả lời tôi không?
Tôi rít một hơi thuốc dài, nuốt ực vào, ém khói trong phổi, thấy tỉnh táo dần:
- Vâng! Tôi sẽ trả lời cán bộ.
- Nào! Anh hãy thành thật, tuyệt đối thành thật, trả lời tôi: Quan niệm của anh ra sao đối với sự sống và sự chết?
Tôi nhìn thẳng vào đôi mắt người đối diện, dò chừng. Hình như hắn ta không có âm mưu gì chứa ẩn trong câu hỏi. Tôi hắng giọng, rồi nhỏ nhẹ trả lời, rõ ràng từng tiếng một:
- Thưa cán bộ. Tôi nghĩ, đời tôi bây giờ có sống cũng chẳng thấy vui thú gì, thì nếu chết, tôi cũng coi như là trở về cùng cát bụi. Tôi không có điều gì phải hối hận hay vướng bận cả.
Viên thượng úy Cộng-Sản đứng lên, bàn tay y xiết bàn tay tôi một cái rất nhẹ, rồi buông ra ngay. Y nói với tôi, nhưng có vẻ như nói một mình:
- Tiếc thay! Anh lớn lên ở Miền Nam. Nếu ngày đó anh không di cư, thì có lẽ, giờ này, những người tầm cỡ như tôi, muốn gặp mặt anh cũng là một điều khó khăn.
---o---

Buổi trưa sau ngày hoàn tất hồ sơ thẩm vấn, đầu óc thật thoải mái, tôi nằm im, đón nghe trong gió vọng về những âm thanh quen: tiếng ve sầu rên rỉ trên Lũng Ngàn, tiếng chân trâu kéo gỗ nặng nề qua đoạn đường quanh, tiếng xẻng cạo chảo bên nhà bếp. Gần tôi nhứt là tiếng "kẽo! kẹt!" của loài mọt gỗ đang đục khoét cái cột giữa nhà.
Tôi ngửa cổ nhìn lên nóc tranh, trước mắt tôi là cảnh một con ruồi xanh đang cố gắng một cách tuyệt vọng tìm cách thoát khỏi cái màng lưới nhện. Thân phận tôi giờ đây ví như thân phận con ruồi xanh trên kia, không hơn, không kém. Nhện và ruồi là hai động vật khác loài. Chúng giết nhau để sinh tồn. Còn tôi và những người đang giam cầm tôi lại cùng chủng loại.
Tuần lễ sau, vào giờ cơm chiều, cán bộ Vấn bước vào, ngồi trên bệ cửa, rút bao Cửu-Long ra, bật lửa châm cho tôi một điếu. Chờ tôi hút xong điếu thuốc lá thơm, anh ta mới mở lời:
- Bà mẹ anh ngày xưa đẹp nhất làng Trác-Châu đó! Anh có biết không?
Tôi trố mắt,
- Cán bộ có lớn tuổi hơn tôi nhiều đâu? Làm sao mà cán bộ biết điều này?
- Ngày anh bị đưa về cùm lần đầu ở trại này, tôi đã đọc qua lý lịch của anh rồi. Tôi biết tên bố mẹ anh và tất cả họ hàng bên ngoại của anh nữa. Nhà tôi ở sát rào nhà cụ Ngãi, ông ngoại của anh. Thời còn là con gái, bà cụ sinh ra tôi là bạn thân của bà cụ nhà anh. Mẹ tôi nói hồi đó mẹ anh có làn da trắng như trứng gà bóc. Mẹ anh không lấy người trong làng, lại đi lấy người làng bên. Sau khi bố anh bị giết, mẹ con anh đã bỏ xứ, ra đi biệt tăm. Không ngờ sau đó gia đình anh di cư vào Nam, và anh đã làm tới chức thiếu tá. Dù gì thì chúng ta cũng là người cùng làng...
Tới lúc đó, tôi mới hiểu lý do vì sao viên sĩ quan Cộng-Sản này lại nương tay với mình.
Cán bộ Vấn thọc tay vào túi, lôi ra một cái phong bì. Mở phong bì, móc cái ảnh cỡ 6x9 cm đưa cho tôi, anh ta nói nhỏ,
- Anh Long có thư. Nhưng tôi không được phép đưa thư cho anh. Tôi "diếm" cho anh cái ảnh của vợ con anh. Nhớ giữ kín đừng cho ai biết.
Nói xong câu này, Vấn nhét vào tay tôi một điếu thuốc nữa, rồi đứng lên, lững thững đi về hướng nhà bếp.
Có lẽ cái thư chứa tấm hình đã tới trại trong thời gian tôi tại đào. Trong hình là vợ tôi bế thằng con út ngày nó vừa biết lật. Nay chắc thằng bé đã biết nói, biết chạy rồi?
Vợ và con trai của VML 1975 ©VML
Vợ và con trai của VML 1975
Ấp cái ảnh vợ con vào lòng, tôi nghe rõ ràng, tim mình đang thổn thức...
Tôi được nhìn thấy mặt bố tôi lần cuối cùng (1946), ngày tôi lên bốn tuổi. Còn thằng con tôi, không biết suốt đời, nó có dịp nào nhìn thấy mặt bố nó hay không?
Từ lúc đó cho tới tối mịt, cứ lâu lâu, tôi lại dở cái ảnh ra xem.
Hình/image/Vợ và con trai của VMLong-1975
Vằng vặc trăng trôi...
Tôi nằm quay mặt về hướng Tây. Cửa chính của phòng giam không bao giờ đóng. Ngoài kia ánh nguyệt chan hòa.
"Tưng!... Tửng!... Từng!... Tưng!..."
...có tiếng đờn ghi ta vọng cổ bay sang từ Lán 1. Tiếp đó là một câu hò (hay sàng xê) não nuột:
"Đêm nay trăng sáng...(á!) lung linh, em ngồi trông trăng.
Lòng nhớ thương anh, mà lòng... (ừ!) buồn mông mênh.
Mình cách xa nhau rồi...(à!) Mình mất nhau muôn đời.
Đêm ngồi trông trăng, mà mắt lệ ...(ý! à!) tuôn rơi..."
Tôi không phân biệt được giọng hò này là của ông trung tá con rể bà Bút Trà, hay là của ông đại úy con rể cụ dân biểu Hoàng Kim Quy?
Ánh trăng lùa tiếng đờn tràn qua cửa phòng giam.
"Từng!" ..."Tưng!"..."Tứng!"..."Tứng!" ..."Tưng!"...
Nhịp đờn bỗng rối rít hẳn lên, quện vào tiếng hát, xoắn lại như con chốt, rồi vút lên thật cao:
"Trời ơi!... Bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn
Nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu ... Hà...
...Tưng! Từng!...Tưng! Tửng!...Từng! Tưng!... Ư...ưng... ư...ưng..."
Giữa đêm trăng lạnh, vô tình, khúc "Võ Đông Sơ" đã như mũi dao nhọn, xoáy vào tim người nghe...
Ngày xưa tôi là chúa ghét vọng cổ. Cứ thấy mấy anh kép cải lương "miệt rừng" trong đơn vị vừa cất giọng:
"Biên cương lá rơi, Thu Hà em ơi!”
... tôi lại bấm bụng cười thầm, lỉnh nhanh đi chỗ khác.
Vậy mà giờ đây, giọng ca của mấy ông nghệ sĩ tay ngang cũng làm cho tim tôi xốn xang. Tôi nằm trằn trọc hoài mà không nhắm mắt được. Đêm sao quá dài...
---o---
Từ đầu tháng Sáu, sau giờ ăn trưa mỗi ngày, tôi được mở còng cùm vài phút để đi vệ sinh. Chuyện ỉa đái của tôi xảy ra ngay trong vòng rào mà vệ binh cũng phải kè kè đi kèm. Khi tới đầu Lán 11, vì sợ thối nên tên bộ đội đành dừng lại, ôm súng đứng canh, cách nhà cầu chừng sáu chục thước. Mắt nó cứ lom lom theo dõi những người tù trên đường ra nhà xí. Nó soi mói, kiểm soát kỹ càng những ống vầu chứa nước họ xách theo để rửa đít. Nó sợ bạn tù lén lút liên lạc tiếp tế cho tôi!
Bọn cai tù không thể ngờ rằng, trước khi tôi được mở cùm, đã có hai ba anh bạn tới ẩn mình trong cầu tiêu rồi. Họ tranh nhau nhét vào miệng tôi, cục đường, củ khoai, và cả những viên thuốc bổ. Tôi chỉ được phép ở trong chuồng xí có năm phút. Trong năm phút, tôi vừa ăn, vừa đại tiểu tiện, vừa nói chuyện với bạn bè.
Hàng ngày, bạn tù chia phiên nhau giúp đỡ cho ba người đang bị phạt. Các anh Thiếu Tá Hoàng Văn An, Đại Úy Vương Thành Lân, Đại Úy Nguyễn Hữu Quang, Đại Úy Phạm Xuân Độ, và Đại Úy Đỗ Dũng là những người tôi gặp mặt thường xuyên, ngoài ra còn nhiều bạn khác nữa. Họ lo cho tôi vào giữa trưa, và lo cho anh Trụ, anh Cả vào lúc xế chiều. Nếu hôm nào cả trại phải đi lao động suốt ngày, thì các anh trực lán sẽ làm công tác cứu trợ.
Thời gian này người tù mang cơm cho nhà kỷ luật là Nguyễn Hữu Quang, bạn cùng khóa Võ-Bị của tôi. Những khi có dịp thuận tiện, anh Quang thường lén lút ém thêm phần ăn cho người bị giam.
Cũng may những chuyện này không đổ bể. Chứ cai tù mà biết được thì các bạn tôi chỉ có nước vào cùm!
Trong cảnh hoạn nạn, tôi đã không bị bạn bè bỏ rơi. Những sự trợ giúp ấy đã khiến tôi tăng thêm sức lực cả về thể chất lẫn tinh thần. "Khốn khó có nhau, là huynh đệ chi binh!" phải gặp cơn nguy biến mới thấy cái cao đẹp của tình đồng đội. Những tháng tiếp theo, tôi và hai anh bạn bị đưa đi vòng vòng, lần lượt nhốt trong các trại tù quanh vùng Cẩm-Nhân, Yên-Bình. Mỗi khi tới trại mới, ba “cải tạo viên” vượt ngục lại trở thành những cái bao cát cho bọn vệ binh của trại đó thực tập võ nghệ.
Cuối cùng chúng tôi bị dẫn vào Trại 2 trong Tích-Cốc, nhốt chung với một tay "Papillon" của trại này. Anh ta nằm trong căn bìa của nhà kỷ luật, cách tôi một tấm phên.
Ghé mõm sát cái lỗ nhỏ dưới chân vách, tôi hỏi nhỏ:
- Này! Tên gì? Cấp gì?
- Thường! Đại úy!
- Đi lúc nào?
- Sau các cha một tháng.
- Mấy người?
- Bốn.
- Ba ông nội kia đâu?
- Thoát rồi!
- Còn cha? Sao lại nằm đây?
- Mình bị sa ruột, giữa đường đành bỏ cuộc, bị dân quân bắt, dẫn về giao lại cho trại, rồi bị tống vào đây.
- Đã bị chấp cung chưa?
- Rồi!
- Có bị đánh không?
- Tơi bời! Đau lắm các cha ơi!
Mấy ngày sau, người đưa cơm của Trại 2, vốn là một đại úy Biệt Động Quân thì thầm với tôi rằng:
"Một toán vệ binh của Trại 2 đã kêu gọi được ba người bạn của anh Thường ra đầu hàng rồi. Nhưng ngay sau đó, chúng bắn chết hết ba người này, rồi đổ hô là họ bỏ chạy lúc ban đêm!"
Nghe chuyện này, tôi nhớ lại cái đêm trời tối đen như mực cách đó không lâu, nếu tôi nghe lời tên vệ binh, bước ra khỏi cổng để lên ban chỉ huy ký giấy cho về đội lao động, thì tôi đã bị bắn chết rồi!
Cuối năm 1978 có tin Trung-Cộng sắp đánh Việt-Cộng, ba chúng tôi lại bị còng dính vào nhau đưa lên xe, vượt sông Lô, qua đèo Khế, ghé Tân-Trào, rồi chạy một lèo về Trại Phú-Sơn 4, Thái-Nguyên.
Tại đây, vừa được tháo còng ra, tôi đã bị tống vào đội trừng giới số 12 toàn là dân vượt ngục, chuyên làm lò gạch. Đồng cảnh ngộ, nên anh em trong đội này đã thương yêu, đùm bọc lẫn nhau như người thân trong một nhà.
Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành!
- Tôi vẫn ghi tạc trong lòng một lời khuyên
VML
Tháng Ba năm 1979 quân Tầu ào qua biên giới, chúng tôi lại bị còng từng cặp, đưa lên Molotova, chạy một mạch qua thủ đô Hà-Nội về tuốt miệt Hà-Nam, Phủ-Lý.
Trong lúc chờ phà vượt sông Hát, đoàn xe bị dân chúng ném đá tơi bời. Tù chỉ còn nước ôm đầu, úp mặt xuống sàn xe. Thì ra dân chúng tưởng chúng tôi là tù binh Trung-Quốc!
Đến khi biết trên xe là tù cải tạo Việt-Nam Cộng-Hòa thì dân chúng lại đua nhau ném chúng tôi lần nữa! Chúng tôi lại lo ôm đầu, úp mặt. Nào ngờ, lần này đầu cổ, tóc tai lãnh toàn là xôi, đường, kẹo bánh, xu hào, cải bắp!
Quý hóa hơn mọi món quà mà chúng tôi nhận được ngày hôm đó là, lần đầu kể từ khi bại trận, chúng tôi lại được nghe hai tiếng "Hoan hô!" từ miệng của đồng bào tôi.
Dù chỉ có vài tiếng "Hoan hô!" rụt rè phát ra trong đám đông thôi, đã khiến đôi mắt tôi cay xè. Nhìn sang bên, tôi thấy mặt anh bạn chung còng cũng nhạt nhòa nước mắt...
Từ ấy, cứ vài năm một lần, tôi lại bị chuyển sang trại mới, cuối cùng là Z30 D Hàm-Tân. Tới năm 1988 tôi được tha.
Nhớ lại, một ngày mùa đông năm 1965, tôi đã quỳ xuống giữa vũ đình trường Lê-Lợi Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam để tuyên thệ rằng sẽ đem xương máu mình bảo vệ tổ quốc, phục vụ đồng bào. Sau khi đứng lên, tôi trở thành một sĩ quan Biệt Động Quân. Qua bao nhiêu năm xông pha nơi chiến trường, rồi trầm luân trong tù ngục, tôi vẫn ghi tạc trong lòng một lời khuyên:
"Thà làm một viên ngọc nát, chứ không làm một viên ngói lành!"
Seattle, tháng 3 năm 2012

Vương Mộng Long

http://www.nguyetsankbc.com/toiaccuacongsan/vienngocnat.php



Photobucket
.............................................................

❚ Việt cộng cướp đoạt:

Chiếu theo Điều IV, QD111/Chính Phủ Việt cộng.

“Nhà cửa, đất đai của những người sau đây đều do nhà nước trực tiếp quản lý:

--> Sĩ quan ngụy quân từ cấp thiếu tá trở lên.

--> Sĩ quan cảnh sát từ cấp Trung úy trở lên.

Cán bộ thuộc bộ máy cai trị của ngụy quyền đã giữ chức vụ, từ chủ sự phòng

-->Cơ quan trung ương,

--> Ty phó,

--> Quận phó trở lên…”

----

❚ Việt cộng mượn dao giết người trong tù cải tạo:

“Các anh về chuẩn bị lương thực mười ngày.”

Bên 'bị bắt phải buông súng' -- Sập bẩy! từ 'bên được cầm súng'.
----

❚ Bằng chứng Việt cộng giết người, cưỡng đoạt:

Trên báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày 3/7/77, trang 3, viết như sau:

“Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976.”

Khoản 9 của điều luật đã ấn định rõ như sau:

"Tội chạy trốn theo hàng ngu địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp đặc biệt và nghiêm trọng tổ chức, tội phạm sẽ bị kết án Chung Thân hay Tử Hình."

Hà Nội thực hiện đối với người dân miền Nam Việt Nam theo Quyết Định mang số 111/CP do Phạm Hùng ký vào ngày tháng 4 năm 1977, đặc biệt nhắm vào việc tịch thu nhà cửa đất đai của người dân, những người đi vượt biên dù đi thoát hay không thoát đều bị lấy nhà.

--------

❚ Việt cộng dùng luật để giết người, cướp đoạt của dân:

HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng.

Đợt 1: Được bắt đầu vào sáng ngày 11 tháng Chín năm 1975 khắp 17 tỉnh thành miền Nam và thành phố Sài Gòn. Đợt này nhắm vào nhà của các cư dân thành thị, tịch thu nhà và cưỡng bức toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống.

Đợt 2: Được Hà Nội tiến hành từ tháng Ba năm 1978 và được kéo dài cho đến khoảng năm 1990 thì mới chấm dứt. Đợt này nhắm vào tư thương, tiểu tư sản, các thành phần sản xuất nhỏ đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do do chính phủ Việt Nam Cộng Hòa

Những ngôi nhà lớn, nhà mặt đường của người dân có thân nhân đi học cải tạo liên hệ chính quyền cũ bị tịch thu, họ còn lấy tất cả nhà cửa tài sản của những người đi chính thức miền Nam, dưới tội: phản quốc, phản cách mạng, phản động.





❚ Bằng chứng Việt cộng đổi tiền cướp trắng tài sản người miền nam:

Ba lần đổi tiền:

• Đổi tiền ngày 22.9.1975
• Đổi tiền ngày 03/5/1978
• Đổi tiền ngày 14.9.1985

Sau khi thủ đô Sài Gòn thất thủ thì các công dân nước VNCH bị ép phải mang tiền đi đổi, với tỷ giá là 500 Đồng VNCH lấy 1 đồng "tiền giải phóng". Tức là thứ "tiền giải phóng" có giá trị ma (không được bất kỳ một hệ thống tiền tệ quốc tế và quốc gia nào khác công nhận) vì được "chế độ mới" bơm lên cao hơn cả US Dollar.

Việt cộng ăn cướp giữa ban ngày, gặm xương hút máu dân miền Nam.

Việt cộng dùng chính sách đổi tiền để ăn cướp công khai gián tiếp cướp nhà, cướp đất của người dân nam. Ngoài chợ trời, người ta thấy mỗi ngày vài chục chiếc xe chất đầy hàng chạy thẳng từ Nam ra Bắc.

Sau đó ngoài bắc bỗng trở nên giầu có. Trong nam chết đói, không nhà cửa, phải tuôn ra biển: Chọn giữa những cái chết: Chết đói, chết tù, chết rừng hay chết biển... cũng là chết, họ chọn một cách chết, cái chét rùng rợn nhất đó là là Chết Biển, không một nấm mồ, không một tang chứng.








CÁI NÓN SẮT
CỦA NGƯỜI LÍNH VNCH
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/06/en-nam-1971-khi-cuon-phim-nguoi-tinh.html




2
Bộ Quân Phục Của Cha Tôi
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/07/hinh-minh-hoa.html
Bộ Quân Phục Của Cha Tôi





3


NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ BỨC TƯỢNG
“THƯƠNG TIẾC”
https://caybut2.blogspot.com/2016/12/buc-tuong-thuong-tiec.html




4
CẶP LỰU ĐẠN “MINI”
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/03/cap-luu-mini.html





5


Tướng Nguyễn Ngọc Loan
Biệt Đoàn 222/Cảnh Sát
Dã Chiến
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/tuong-nguyen-ngoc-loan-trong-biet-oan.html






6
KHÔNG QUÂN VNCH
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/khong-quan-vnch-khong-quan-vnch-2-khong.html







7

Màu Áo Hoa Rừng - Hắc Báo Biệt Động Quân
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/mau-ao-hoa-rung-hac-bao-biet-ong-quan.html








8
Charlie Ngọn Đồi Quyết Tử
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/03/charlie-ngon-doi-quyet-tu-hoi-ky-mu-do.html




9
Pháo Binh VNCH
https://caybut2.blogspot.com/2018/09/phao-binh-vnch.html



Chiến Sĩ Áo-Đen
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/chien-si-ao-en-phan-2-chien-si-ao-en.html



Biệt Kích
Nhớ Về Trường Sơn https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/07/nho-ve-truong-son.html




Đặc Công Văn Hóa Miền Nam
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/02/so-tay-trong-ngay-neu-hai-ngoai-khong.html





Những Câu Chuyện Về Bức Tường Thương Tiếc
https://vuonlenmai.blogspot.com/2019/12/1-nhung-cau-chuyen-ve-buc-tuong-thuong.html

 






 

No comments:

Post a Comment