Văn hóa Việt hay văn hóa Hán?
Việt có trước Hán? Hay Hán có trước Việt?
--- Văn hóa Việt bị gọi là văn hóa Hán? Chứng minh!
|
Giáp cốt văn là những “văn bản” ghi lại kết quả của việc bói cát hung thời Ân Thương thời xa xưa, từ chuyện nhỏ đến chuyện lớn, như thời tiết nắng mưa, thu hoạch mùa màng, hoặc bệnh tật, sinh nở, những việc nguy hiểm như chiến tranh, săn bắt, quan trọng như tế tự.
Một mảnh yếm rùa có khắc chữ
Cốt là xương chữ viết được khắc trên mai rùa (giáp) và xương thú (cốt). Giáp cốt văn hay chữ giáp cốt là thể chữ cổ xưa nhất được tìm thấy cho đến ngày nay. Thời đại của những mảnh xương thú, mai rùa có khắc chữ giáp cốt là thời kỳ Ân Thương”.
“Giáp cốt là thuật ngữ dùng để chỉ xương và mai rùa dùng để bói, gặp trong các di tích đời Thương, cũng gọi là bốc cốt (xương bói)”.
“Văn tự giáp cốt là loại văn tự cổ kính khắc trên mai rùa và xương thú” do bởi những gì mà giáp cốt văn ghi chép là những sự kiện và trường hợp có liên quan đến chiêm bốc, chứ không phải là những ghi chép lịch sử Ân Thương. Vả lại, hình thức của giáp cốt văn phần nhiều là những câu chữ đơn giản, không có thiên chương hoàn chỉnh. có thể nói, giáp cốt văn là văn tự của thời đại Ân Thương là văn tự thành hệ thống sớm nhất là một quốc gia văn minh phát đạt cao.
|
Cây kiếm của Việt Vương Câu Tiễn khắc chữ loại chữ 'trùng điểu'.
|
.................................................................
Phiên Thiết Hán-Việt
Phiên thiết Hán-Việt là dùng cách phiên thiết (反切), tức là dùng âm của hai chữ khác (được coi là đã biết cách đọc) ghép lại để chú âm cho cách đọc âm Hán của một chữ Hán.
Phiên thiết là một phương pháp ghi chú cách đọc được dùng trong các tự điển chữ Hán, trước khi có phương pháp dùng chữ cái La Tinh để ghi chú cách đọc (gọi là bính âm 拼音). Nghĩa là dùng âm của những chữ Hán thông dụng, mà chỉ dẫn cách đọc của một chữ Hán ít thông dụng hơn hay là chữ mới. Người Việt Nam áp dụng phép phiên thiết cho các âm Hán-Việt tương đương, gọi là phiên thiết Hán-Việt.
Ví dụ: Bạn không biết cách đọc chữ 同, tra tự điển sẽ có phiên thiết 德紅切 (âm Hán-Việt là đức hồng thiết). Như vậy chữ 同 sẽ đọc là ĐỒNG, vì đồng = đức + h'ồng, theo quy tắc lấy phụ âm đầu (thanh mẫu 聲母) của chữ thứ nhất ghép với vần (vận mẫu 韻母) chữ thứ hai, riêng thanh điệu thì xem quy tắc ở phần dưới.
Như vậy có thể có rất nhiều cách phiên thiết cho một chữ Hán.
Sơ lược nguồn gốc
Chữ Hán là một thứ chữ được người thổ dân cổ người Việt cổ sáng tạo, Khi người Hán xâm chiếm vùng đất của thổ dân, người Hán thâu tóm hết và rồi nhà Hán cải biến cho phù hợp thực tế và rồi dần dần trở thành một thứ văn tự chung cho một số dân tộc ở vùng Đông Á và Đông Nam Á như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam... Qua nhiều thế kỷ, chữ Hán đã được xem như là một thứ văn tự chính thống, đem dùng vào việc giảng dạy, thi cử, hành chính, sáng tác văn học.
Tùy từng vùng từng xứ mà chữ Hán được phát âm khác nhau, ngay tại Trung Quốc có nhiều giọng đọc khác nhau, như:
- Tiếng Quảng Đông,
- Phúc Kiến,
- Triều Châu,
- Bắc Kinh...
Các nước lân cận như Triều Tiên
có cách đọc riêng của người Triều Tiên, gọi là
Hán-Triều (漢朝),
người Nhật có cách đọc riêng của người Nhật, gọi là
Hán - Hòa (漢和),
người Việt Nam có cách đọc của mình gọi là
Chữ nho hay chữ Hán-Việt (漢越).
Chữ Hán là một loại chữ biểu ý, không phải là loại chữ biểu âm nên không thể nhìn vào mặt chữ mà đọc được.
Thế thì người Trung Quốc dùng cách nào để đọc được thứ chữ ấy? Từ thờinhà Đông Hán (東漢, 25-225) trở về trước,
người Trung Quốc dùng lối chú âm bằng cách dùng chữ đồng âm, gọi là
trực âm (直音).
Trực âm là lối dùng chữ đồng âm để trực tiếp chú âm một chữ khác hay dùng những chữ có âm gần giống, gọi là:
- độc nhược (讀若)
- độc như (讀如) hay
- độc vi (讀為).
Nhưng lối trực âm không có chữ đồng âm thì không chú âm được, còn lối độc nhược, độc như, hay độc vi thì có khuyết điểm là chú âm không chính xác.
Vì thế, thời Đông Hán mới dùng đến phương pháp phiên thiết (反切).
Trước khi có phép phiên thiết, thời Xuân Thu (春秋, 722-479 trước CN) người người Việt cổ đã biết kết hợp hai âm lại làm một.
như:- 不可—叵 — phả;
- 何不—盍 — hạp;
- 而已—耳 — nhĩ
- 之於—諸 — chư
- 之歟—諸 — chư
Phương pháp phiên thiết là một bước tiến rất lớn so với lối chú âm như trực âm, độc nhược, độc như hay độc vi nêu trên.
Ở đây chỉ bàn đến cách đọc chữ Hán theo âm Hán-Việt, tức là lối đọc riêng của người Việt. Chính yếu là dựa theo phép phiên thiết trong các văn tự và từ điển Trung Quốc như:
-
Khang Hy tự điển (康熙字典),
-
Trung Hoa đại tự điển (中華大字典),
-
Từ Nguyên (辭源),
-
Từ Hải (辭海),
-
Trung văn đại tự điển (中文大辭典) v.v.
Định nghĩa
Phương pháp phiên thiết được định nghĩa như sau trong những bộ tự điển, những tác phẩm ngữ học xưa và nay như sau:
- Sách Lễ Bộ Vận Lược (禮部韻略) của Đinh Độ (丁度) đời nhà Tống (宋) giải thích hai chữ "phiên thiết" như sau:
- 音韻展轉相協謂之反,亦作翻;兩字相摩以成聲謂之切,其實一也
- Âm và vận tuần tự hợp nhau gọi là Phiên 反 cũng viết là 翻. Hai chữ mài cọ nhau để thành âm đọc gọi là thiết 切. Thực ra chỉ là một mà thôi.
- Quyển Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển (形音義綜合大字典) giải thích hai chữ "phiên thiết" như sau:
- 以兩字急讀而合成一字之音曰切,亦曰反切,又曰切韻
- Lấy hai âm mài cọ, cọ sác với nhau thành một âm nên gọi là phiên thiết, cũng gọi là thiết vận.
- Sách Văn tự học toản yếu (文字學纂要) dẫn chú thích của Trịnh Huyền (鄭玄) đời nhà Hán về chữ "phiên" (反): 反,覆也 — Phiên là Lật lại; và dẫn chú thích của Cao Dụ (高裕) đời Hán về chữ "thiết" (切): 切,摩也 – Thiết là mài cọ. Sách này ghép hai chú thích của Trịnh Huyền và Cao Dụ để đi đến định nghĩa sau:
- 以二音反覆摩以成一音故名反切
- Lấy hai âm mài cọ với nhau thành một âm, ấy gọi là phiên thiết.
- Từ Nguyên (辭源) định nghĩa "phiên thiết" như sau:
- 以二字之音相切而成一音也:上一字為雙聲,亦謂之母音,下一字為疊韻,亦謂之字音
- Lấy hai âm của hai chữ mài cọ với nhau tạo thành một âm: chữ trên là song thanh chữ dưới là điệp vận.
- Từ Hải (辭海) định nghĩa "phiên thiết" như sau:
- 以二字之音切成一字之音之方法也
- Phương pháp lấy âm của hai chữ 'mài cọ' thành âm của một chữ.
- Từ Vị (辭彙) của Lục Sư Thành (陸師成) định nghĩa "phiên thiết" như sau:
- 用兩個字標注字音:以上字之聲和下字之韻切成一音
- Dùng hai chữ nếu chú âm một chữ. Lấy thanh (phụ âm đầu) và vận (vần) của chữ dưới mài cọ thành một âm.
- ---
- Hán Việt tự điển (漢越詞典) của Đào Duy Anh định nghĩa "phiên thiết" như sau:
-
Đem hai tiếng nói lái lại với nhau thành một tiếng khác.
Ví dụ:
Ha với Cam thành Ham.
-
Đem hai tiếng nói lái lại với nhau thành một tiếng khác.
- Sách Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt của Nguyễn Tài Cẩn (Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1979), trang 109 viết:
- Phiên thiết – nếu nói một cách nôm na – thì có thể định nghĩa là cách dùng hai chữ nói lái lại, để tìm ra cách đọc của chữ thứ ba. Ta hãy trở lại ví dụ: đông = đô tông thiết. Rõ ràng là dùng hai chữ Đô và chữ Tông nói lái lại, thì sẽ tìm ra được cách đọc của Đông. Bởi vì Đông bao gồm phụ âm Đ của chữ Đô cộng với vần Ông của chữ Tông: Đông = Đ(ô) + (T)ông.
- Sách Nghiên Cứu Về Chữ Nôm của Lê Văn Quán (Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1981), phần cuối chú trang 25 viết:
- Phiên thiết là dùng hai chữ Hán ghép lại để ghi âm đọc của một chữ. Ví dụ:
同 = 德紅切 – Đức hồng thiết = Đồng.
Chữ trên đại biểu cho thanh mẫu, chữ dưới đại biểu cho vần (vận mẫu) và thanh điệu.
- Phiên thiết là dùng hai chữ Hán ghép lại để ghi âm đọc của một chữ. Ví dụ:
Nói tóm lại: Phiên thiết là dùng âm của hai chữ đã biết cách đọc để chú âm cho một chữ thứ ba, nghĩa là lấy phụ âm đầu của chữ thứ nhất với vần của chữ thứ hai đọc nối liền lại theo một quy tắc nhất định để đọc chữ thứ ba.
- Ví dụ:
搖 = 余招切: Du + Chiêu thiết = Diêu. - Thuyết minh: Du có phụ âm đầu là D + iêu là vần của chữ thứ hai = diêu. Quy tắc này gọi là Song Thanh, Điệp Vận.
Phiên thiết có âm khởi đầu là phụ âm
Song thanh & Điệp vận
Song thanh (雙聲) là phụ âm đầu (thanh mẫu 聲母) của chữ tìm ra giống với phụ âm đầu của chữ thứ nhất. Ví dụ: 東 = 德紅切: Đức + Hồng thiết = Đồng. Chữ thứ nhất có phụ âm đầu là Đ chữ tìm ra là Đông cũng có phụ âm đầu là Đ nên gọi là song thanh.
Điệp vận (疊韻) là vần (vận mẫu 韻母) của chữ tìm ra giống với vần của chữ thứ hai. Ví dụ: 川 = 昌緣切: Xương + Duyên thiết = Xuyên. Duyên, chữ thứ hai có vần là Uyên, chữ tìm ra là Xuyên cũng có vần là Uyên nên gọi là Điệp vận.
Về thanh điệu cũng có các quy tắc nhất định, được gọi là cùng bậc, đồng loại.
Cùng bậc & Đồng loại
Cùng bậc là bậc thanh của chữ tìm ra giống bậc thanh của chữ thứ nhất.
Ví dụ:
抓 = 側絞切: Trắc + Giảo thiết = Trảo.
Chữ tìm ra là Trảo có dấu hỏi thuộc bậc phù giống với chữ thứ nhất là Trắc có dấu sắc cũng thuộc bậc phù nên gọi là cùng bậc.
Đồng loại là loại thanh tìm ra giống với loại thanh của chữ thứ hai.
Ví dụ:
偅 = 主勇切: Chủ + Dũng thiết = Chủng.
Chữ tìm ra là Chủng có dấu hỏi thuộc loại thanh thượng giống với chữ thứ hai là Dũng có dấu ngã cũng thuộc loại thanh thượng nên gọi là đồng loại.
Công thức bỏ dấu tìm ra
Chữ thứ nhất | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Ngang | Sắc (´) | Hỏi (᾿) | Huyền (`) | Ngã (~) | Nặng (·) | ||
Chữ thứ hai | Ngang | Ngang | Ngang | Ngang | Huyền | Huyền | Huyền |
Sắc (´) | Sắc | Sắc | Sắc | Nặng | Nặng | Nặng | |
Hỏi (᾿) | Hỏi | Hỏi | Hỏi | Ngã | Ngã | Ngã | |
Huyền (`) | Ngang | Ngang | Ngang | Huyền | Huyền | Huyền | |
Ngã (~) | Hỏi | Hỏi | Hỏi | Ngã | Ngã | Ngã | |
Nặng (·) | Sắc | Sắc | Sắc | Nặng | Nặng | Nặng |
Phụ âm đầu, vần & thanh điệu
Trước khi áp dụng quy tắc trên để đọc được lối phiên thiết trong các tự và tự điển Trung Quốc, chúng ta cần phải biết qua âm (thanh mẫu), vần (vận mẫu) và thanh điệu của tiếng Hán-Việt.
Phụ âm đầu
Phụ âm đầu là thành phần phụ khởi đầu của một âm tiết trừ đi phần vần và thanh diệu. Căn cứ vào vị trí cấu âm, phụ âm đầu được chia làm ba vị trí:
* loạt
1 phụ âm môi,
* loạt
2 phụ âm lưỡi và
* 3 phụ âm tắc thanh hầu.
- Loạt phụ âm môi:
b, ph, v, m.
Ví dụ:
巴 (ba), 非 (phi), 文 (văn), 木 (mộc). - Loạt phụ âm lưỡi:
- Loạt phụ âm đầu lưỡi:
t, th, tr, s, đ, n, l, d.
Ví dụ:
三 (tam), 天 (thiên), 中 (trung), 生 (sinh), 年 (niên), 老 (lão), 也 (dã), 多 (đa). - Loạt phụ âm mặt lưỡi:
ch, x, gi, nh.
Ví dụ:
主 (chủ), 春 (xuân), 甲 (giáp), 牙 (nha). - Loạt phụ âm gốc lưỡi:
k, (c, q), kh, ng, (ngh).
Ví dụ:
旗 (kỳ), 姑 (cô), 軍 (quân), 可 (khả), 我 (ngã), 義 (nghĩa).
- Loạt phụ âm đầu lưỡi:
- Phụ âm tắc thanh hầu:
h.
Ví dụ: 海 (hải).
Vần
Vần là thành phần chính yếu của âm tiết trừ đi thanh điệu, phụ âm đầu (nếu có). Căn cứ vào phương thức cấu tạo, chúng ta có thể chia vần ra làm các loạt như sau:
- Loạt vần không có âm cuối:
i, y, (uy), ia, ê (uê), ư, ưa, ơ, a (oa), u, ô, o.
Ví dụ:
之 (chi), 美 (mĩ), 規 (quy), 地 (địa), 細 (tế), 稅 (thuế), 四 (tứ), 乘 (thừa), 初 (sơ), 个 (cá), 化 (hóa), 瓜 (qua), 夫 (phu), 古 (cổ), 儒 (nho). - Loạt vần có âm cuối là nguyên âm ghép:
ai (oai), ơi, ôi, ây, ưu, ao, iêu (yêu).
Ví dụ:
待 (đãi), 話 (thoại), 怪 (quái), 亥 (hợi), 杯 (bôi), 西 (tây), 狗 (cẩu), 久 (cửu), 高 (cao), 料 (liệu), 腰 (yêu).
- Giả Thuyết:
i, y, o, u đứng sau các âm chính đều là nguyên âm cuối.
- Giả Thuyết:
- Loạt vần có phụ âm cuối m/p:
am, ap, âm (im), ấp, iêm (yêm), iêp.
Ví dụ:
甘 (cam), 法 (pháp), 心 (tâm), 今 (kim), 念 (niệm), 淹 (yêm), 涉 (thiệp).-
Giả Thuyết:
m, p đứng sau các âm chính đều là phụ âm cuối.
-
Giả Thuyết:
- Loạt vần có phụ âm cuối n/t:
an (oan), at (oat), ân (ăn, uân), ăt, ât (uât), ôn, ôt, iên (yên, uyên), iêt (yêt, uyêt).
Ví dụ:
安 (an), 短 (đoản), 官 (quan), 怛 (đát), 脫 (thoát), 括 (quát), 引 (dẫn), 根 (căn), 君 (quân), 瑟 (sắt), 乙 (ất), 戌 (tuất), 尊 (tôn), 沒 (một), 典 (điển), 煙 (yên), 川 (xuyên), 列 (liệt), 咽 (yết), 血 (huyết).- Giả Thuyết:
n, t đứng sau các âm chính đều là phụ âm cuối.
- Giả Thuyết:
- Loạt vần có phụ âm cuối ng/c:
ang, (oang), ac, ăng (oăng), ăc (oăc), ung, uc, ưng, ưc, ương, ươc, ong, oc, ông (uông), ôc (uôc).
Ví dụ:
邦 (bang), 皇 (hoàng), 光 (quang), 各 (các), 朋 (bằng), 弘 (hoằng), 色 (sắc), 或 (hoặc), 虢 (quắc), 恭 (cung), 目 (mục), 証 (chứng), 食 (thực), 央 (ương), 掠 (lược), 龍 (long), 捉 (tróc), 公 (công), 尪 (uông), 谷 (cốc), 屬 (thuộc), 國 (quốc).- Giả Thuyết:
ng/c đứng sau các âm chính đều là phụ âm cuối.
- Giả Thuyết:
- Loạt vần có phụ âm cuối nh/ch:
inh (uynh), ich, anh (oanh), ach (oach).
Ví dụ:
丁 (đinh), 兄 (huynh), 昔 (tích), 境 (cảnh), 橫 (hoành), 迫 (bách), 劃 (hoạch), 郭 (quách).
- Giả Thuyết:
ng/c đứng sau các âm chính đều là phụ âm cuối.
- Giả Thuyết:
Thanh điệu
Thanh điệu là sự nâng cao hoặc hạ thấp giọng nói trong một âm tiết. Trong tiếng Hán trước đây có bốn thanh:
bình 平,
thượng 上,
khứ 去,
nhập 入;
mỗi thanh có hai bậc là:
phù 浮 và
trầm 沈 (hoặc
thanh 清/
trộc 濁;
thượng 上 /
hạ 下;
Ngày nay thường gọi là:
âm 陰 /
dương 陽).
Như vậy, tổng cộng có tám thanh bậc:
- phù bình (浮平),
- trầm bình (沈平),
- phù thượng (浮上),
- trầm thượng (沈上),
- phù khứ (浮去),
- trầm khứ (沈去),
- phù nhập (浮入),
- trầm nhập (沈入).
Lưu ý là âm tiếng Hán hiện đại (tiếng Hán phương ngữ Bắc Kinh) chỉ có bốn bậc thanh:
- phù bình (tên thông dụng hiện nay là:
âm bình),
- trầm bình (tên thông dụng hiện nay là
dương bình),
- thượng thanh và
khứ thanh (không chia bậc).
Tiếng Việt có sáu thanh điệu (biểu hiệu bằng: không dấu, huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng), nhưng âm Hán-Việt lại quy về bốn thanh điệu và hai bậc của tiếng Hán vì dựa vào phiên thiết của âm tiếng Hán.
Loại thanh | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Bình 平 |
Thượng 上 |
Khứ 去 |
Nhập (có p, t, ch ở cuối) 入 | ||||
Bậc thanh | phù 浮 |
thanh 清 |
thượng 上 |
ngang (không dấu) trừ các trường hợp dưới đây |
hỏi (?) |
sắc (/) |
sắc (/) |
trầm 沈 |
trọc 濁 |
hạ 下 |
huyền (\) ngang (những chữ khởi đầu bằng l, m, n, ng, nh, d, v) theo Lê Ngọc Trụ |
ngã (~) |
nặng (.) |
nặng (.) |
- Thanh bình: Có hai bậc: phù và trầm.
- Thanh bình bậc phù (phù bình hay âm bình) là những tiếng không dấu, tức thanh ngang.
Ví dụ:
阿 (a), 香 (hương). - Thanh bình bậc trầm (trầm bình hay dương bình) là những tiếng có dấu huyền.
Ví dụ:
陀 (đà), 田 (điền), 神 (thần).
- Điều cần chú ý là các chữ thanh ngang bắt đầu bằng l, m, n, ng, nh, d, v đều thuộc "trầm bình" ("hạ bình") trong cách áp dụng phiên thiết (Lê Ngọc Trụ) như minh 明, nhân 人, vân 云, nếu không sẽ sai về bậc thanh. Điều này rất ít tác giả nhấn mạnh.
- Thanh bình bậc phù (phù bình hay âm bình) là những tiếng không dấu, tức thanh ngang.
- Thanh thượng: Có hai bậc, phù và trầm.
- Thanh thượng bậc phù (phù thượng) là những tiếng có dấu hỏi.
Ví dụ:
把 (bả), 海 (hải), 斬 (trảm). - Thanh thượng bậc trầm (trầm thượng) là những tiếng có dấu ngã.
Ví dụ:
母 (mẫu), 女 (nữ), 語 (ngữ).
- Thanh thượng bậc phù (phù thượng) là những tiếng có dấu hỏi.
- Thanh khứ:
- Thanh khứ bậc phù (phù khứ) là những tiếng có dấu sắc.
Ví dụ:
鬥 (đấu), 放 (phóng), 進 (tiến). - Thanh khứ bậc trầm (trầm khứ) là những tiếng có dấu nặng.
Ví dụ:
大 (đại), 在 (tại), 妄 (vọng).
- Thanh khứ bậc phù (phù khứ) là những tiếng có dấu sắc.
- Thanh nhập:
- Thanh nhập bậc phù (phù nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu sắc.
Ví dụ:
答 (đáp), 切 (thiết), 責 (trách), 捉 (tróc). - Thanh nhập bậc trầm (trầm nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu nặng.
Ví dụ:
沓 (đạp), 滅 (diệt), 石 (thạch), 濯 (trạc).
- Thanh nhập bậc phù (phù nhập) là những tiếng có phụ âm cuối là p, t, ch, c và có dấu sắc.
Bình 平 | Thượng 上 | Khứ 去 | Nhập 入 | ||||
Phù 浮 | Trầm 沉 | Phù 浮 | Trầm 沉 | Phù 浮 | Trầm 沉 | Phù 浮 | Trầm 沉 |
ba 巴 | bà 婆 | đảng 黨 | đãng 蕩 | bái 拜 | bại 敗 | thấp 濕 | thập 十 |
đa 多 | đà 陀 | hải 海 | hãi 駭 | báo 報 | bạo 暴 | thất 七 | thật 實 |
gia 加 | già 伽 | hổ 虎 | hỗ 互 | tứ 四 | tự 寺 | bách 百 | bạch 白 |
thương 商 | thường 常 | tỉnh 省 | tĩnh 靖 | xá 舍 | xạ 射 | bác 博 | bạc 薄 |
Phiên thiết có âm khởi đầu là nguyên âm
Chữ thứ nhất có âm khởi đầu là nguyên âm, chữ tìm ra cũng có âm khởi đầu là nguyên âm nhưng âm khởi đầu của chữ tìm ra không nhất thiết phải giống âm khởi đầu của chữ thứ nhất mà thường là âm khởi đầu của phần vần chữ thứ hai, rồi áp dụng công thức bỏ dấu trên thì sẽ tìm ra được âm đọc của chữ mà mình muốn tìm.
Thanh bình
- 阿 = 於何切 — Ư hà thiết = A (KH, THĐTĐ)
- 阿 = 厄何切 — Ách hà thiết = A (TN, TH)
- 烏 = 哀都切 — Ai đô thiết = Ô (KH, TVĐTĐ)
- 烏 = 汪胡切 — Uông hồ thiết = Ô (THĐTĐ)
- 嫣 = 衣旜切 — Y chiên thiết = Yên (TN, TH)
- 嫣 = 於虔切 — Ư kiền thiết = Yên (TV, THĐTĐ)
Thanh thượng
- 隱 = 倚謹切 — Ỷ cẩn thiết = Ẩn (TN, TH)
- 擁 = 於隴切 — Ư lũng thiết = Ủng (KH, THĐTĐ)
- 苑 = 於阮切 — Ư nguyễn thiết = Uyển (KH, TVĐTĐ)
Thanh khứ
- 亞 = 衣駕切 — Y giá thiết = Á (TN, TH)
- 愛 = 烏代切 — Ô đại thiết = Ái (KH, THĐTĐ)
- 奧 = 阿誥切 — A cáo thiết = Áo (TN, TH)
Thanh nhập
- 浥 = 乙入切 — Ất nhập thiết = Ấp (KH, THĐTĐ)
- 浥 = 衣吸切 — Y hấp thiết = Ấp (TN, TH)
- 遏 = 阿葛切 — A cát thiết = Át (TN, TH)
- 遏 = 烏割切 — Ô cát thiết = Át (KH)
- 遏 = 阿割切 — A cát thiết = Át (THĐTĐ)
- 益 = 伊昔切 — Y tích thiết = Ích (KH, THĐTĐ, TN, TH)
- 惡 = 遏鄂切 — Át ngạc thiết = Ác (KH, THĐTĐ, TN, TH)
- 惡 = 阿各切 — A các thiết = Ác (TN, TH)
Chú ý: Những chữ tìm ra có âm khởi đầu là nguyên âm chỉ có bậc phù chứ không có bậc trầm.
Chuyển đổi chữ khi phiên âm
Chuyển đổi phụ âm đầu
- Chuyển c thành gi
- 伽 = 求迦切 — Cầu ca thiết = Già (KH, THĐTĐ)
- 伽 = 具牙切 — Cụ nha thiết = Già (KH, THĐTĐ)
- 價 = 古訝切 — Cổ nhạ thiết = Giá (KH)
- 價 = 居迓切 — Cư nhạ thiết = Giá (KH, THĐTĐ)
- 減 = 古斬切 — Cổ trảm thiết = Giảm (KH, THĐTĐ)
- 頰 = 古協切 — Cổ hiệp thiết = Giáp (KH)
- 頰 = 吉協切 — Cát hiệp thiết = Giáp (KH, THĐTĐ)
- 覺 = 古嶽切 — Cổ nhạc thiết = Giác (KH)
- Chuyển th thành x:
- Trong hai chữ phiên thiết, chữ thứ nhất có phụ âm đầu là th và có bậc thanh trầm, vần của chữ thứ hai có âm chính là a thì phụ âm đầu th phải đổi thành x.
- 蛇 = 食遮切 — Thực cha thiết = Xà (KH)
- 蛇 = 時耶切 — Thời da thiết = Xà (TN, TH)
- 蛇 = 時遮切 — Thời cha thiết = Xà (TH)
- 社 = 常野切 — Thường dã thiết = Xã (KH, THĐTĐ)
- 社 = 市野切 — Thị dã thiết = Xã (TN, TH)
- 射 = 神夜切 — Thần dạ thiết = Xạ (KH, THĐTĐ)
- 射 = 食夜切 — Thực dạ thiết = Xạ (TN, TH), (KH, THĐTĐ)
- Trong hai chữ phiên thiết, chữ thứ nhất có phụ âm đầu là th, vần của chữ thứ hai có âm chính là a và có loại thanh khứ, thì phụ âm đầu th phải đổi thành x.
- 舍 = 試夜切 — Thí dạ thiết = Xá (TH)
- 舍 = 始夜切 — Thủy dạ thiết = Xá (KH, THĐTĐ)
- Trong hai chữ phiên thiết, chữ thứ nhất có phụ âm đầu là th và có bậc thanh trầm, vần của chữ thứ hai có âm chính là a thì phụ âm đầu th phải đổi thành x.
Chuyển đổi âm chính[sửa | ]
Bỏ âm đệm u và chuyển y thành i: Trong hai chữ phiên thiết, chữ thứ nhất có phụ âm đầu là b, ph, v, chữ thứ hai có vần uy, uyên thì bỏ âm đệm u và chuyển y thành i:
- 非 = 夫威切 — Phu uy thiết = Phi (TN, TH)
- 圓 = 王權切 — Vương quyền thiết = Viên (KH)
- 圓 = 于權切 — Vu quyền thiết = Viên (KH, THĐTĐ, TN, TH)
- 園 = 羽元切 — Vũ nguyên thiết = Viên (KH)
Những điểm cần lưu ý khi phiên thiết
- Phiên thiết người Trung quốc dùng, không phải dùng để cho ngườiViệt đọc ra âm Hán-Việt.
- Trong cách đọc Hán-Việt, có những chữ không đọc theo phiên thiết mà đọc theo thói quen của người xưa. Ví dụ:
- 因 = 於真切 — Ư chân thiết = Ân (KH)
- 因 = 伊真切 — Y chân thiết = Ân (KH, THĐTĐ)
- 因 = 衣巾切 — Y cân thiết = Ân (TN, TH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là "Nhân".
- 一 = 於悉切 — Ư tất thiết = Ất (KH, THĐTĐ)
- 一 = 益悉切 — Ích tất thiết = Ất (KH, THĐTĐ)
- 一 = 衣悉切 — Y tất thiết = Ất (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Nhất.
- 比 = 補委切 — Bổ ủy thiết = Bỉ (KH)
- 比 = 筆旨切 — Bút chỉ thiết = Bỉ (TN, TH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Tỉ.
- 扇 = 式戰切 — Thức chiến thiết = Thiến (KH, THĐTĐ)
- 扇 = 試堰切 — Thí yến thiết = Thiến (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Phiến.
- 轟 = 呼宏切 — Hô hoành thiết = Hoanh (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Oanh.
- 里 = 良已切 — Lương dĩ thiết = Lĩ (KH)
- 里 = 兩耳切 — Lưỡng nhĩ thiết = Lĩ (KH, THĐTĐ)
- 里 = 離矣切 — Li hĩ thiết = Lĩ (TN, TH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Lí
- 陵 = 力膺切 — Lực ưng thiết = Lừng (KH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Lăng.
- 昇 = 識蒸切 — Thức chưng thiết = Thưng (KH)
- 昇 = 書蒸切 — Thư chưng thiết = Thưng (KH, THĐTĐ)
- 昇 = 詩膺切 — Thi ưng thiết = Thưng (TN, TH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Thăng.
- 勝 = 詩證切 — Thi chứng thiết = Thứng (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Thắng.
- 矣 = 移里切 — Di lĩ thiết = Dĩ (TN, TH)
- 矣 = 羽已切 — Vũ dĩ thiết = Vĩ (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là là Hĩ.
- 並 = 部迥切 — Bộ huýnh thiết = Bịnh (KH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Tịnh.
- 匹 = 品入聲 — Phẩm nhập thanh = Phấp (KH)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Thất.
- 譬 = 嚭去聲 — Phỉ khứ thanh = Phí (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Thí.
- 瑟 = 所櫛切 — Sở tất thiết = Sất (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Sắt.
- 今 = 居吟切 — Cư ngâm thiết = Câm (KH, THĐTĐ)
- Chữ trên vẫn được các cụ đồ ngày xưa đọc là Kim.
- Những tiếng có phụ âm đầu d, l, m, n, ng, nh, hay v thuộc thanh bình bậc trầm, nhưng khi đọc và viết thanh bình bậc phù (tức không dấu).
- 移 = 弋支切 — Dực chi thiết = Di (KH, THĐTĐ)
- 離 = 呂支切 — Lữ chi thiết = Li (KH, THĐTĐ)
- 磨 = 莫婆切 — Mạc bà thiết = Ma (KH, THĐTĐ)
- 那 = 諾阿切 — Nặc a thiết = Na (KH, THĐTĐ)
- 俄 = 五何切 — Ngũ hà thiết = Nga (KH, THĐTĐ)
- 疑 = 語其切 — Ngữ kì thiết = Nghi (KH, THĐTĐ)
- 瓤 = 汝陽切 — Nhữ dương thiết = Nhương (KH, THĐTĐ)
- 雩 = 羽俱切 — Vũ cu thiết = Vu (KH, THĐTĐ)
- Vì thế nên những tiếng có phụ âm đầu d, m, ng, ngh, nh, v dù không dấu (tức thanh ngang) cũng thuộc thanh bình bậc trầm.
Cách phiên thiết theo Lê Ngọc Trụ
Lê Ngọc Trụ có bài Lối đọc chữ Hán Tập san Đại học Văn Khoa (Sài Gòn) 1968, được đăng lại trong Tự điển Hán Việt. Hán ngữ cổ đại và hiện đại,
Nhà xuất bản Trẻ Sài Gòn 1999 của Trần Văn Chánh. Lê Ngọc Trụ đưa ra bảng đối chiếu:
Bốn thanh (bình, thượng, khứ, nhập)
Hai bực (thượng, hạ) với sáu thanh Việt:
ngang, sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng
- Tứ thinh Hán Việt
- Thượng bình (âm bình): ngang
- Hạ bình (dương bình): huyền và những chữ không dấu bắt đầu bằng l, m, n, ng, nh, d, v như: lê, minh, nhi, dân, văn, v.v.
- Thượng thượng: hỏi
- Hạ thượng: ngã (và một số chữ ngoại lệ: nặng)
- Thượng khứ: sắc
- Hạ khứ: nặng
- Thượng nhập (có c, ch, t, p cuối): sắc
- Hạ nhập (có c, ch, t, p cuối): nặng
- và công thức để áp dụng phiên thiết:
- A = B + C thiết
- A khởi đầu bằng phụ âm khởi đầu của B (nếu có), và lấy vần của C
- B: bực1 thanh1, C: bực2 thanh2 -> A: bực 1 thanh 2
- Lê Ngọc Trụ cho thí dụ:
- "Tiên" 仙, KHTĐ chua "tương + nhiên" hoặc "tô + tiền", Từ Nguyên và Từ Hải chua "tức + nhiên"
- "Tiền" 前, KHTĐ chua "tạc + nhiên" hoặc "tài + tiên", Từ Nguyên và Từ Hải chua "tề + nghiên"
- "Tô + tiền thiết", tuy tiếng sau là "tiền" (dấu huyền, "hạ bình" thinh), nhưng tiếng trước là "tô" (không dấu, thuộc thanh "âm") nên kết quả phải là thanh "bình thinh", không dấu: "t + iên ngang": "tiên".
- "Tài + tiên thiết", hoặc "tề + nghiên thiết", tiếng "tiên" và "nghiên", không dấu ở thanh "bình thinh", nhưng vì tiếng trước "tài" hoặc "tề" là tiếng có dấu huyền, thuộc "trọc âm", nên kết quả phải tìm ra "trọc bình thinh", dấu huyền: "t + iên huyền": "tiền".
- Phương pháp Lê Ngọc Trụ dễ nhớ, nhưng phải chú ý trường hợp "hạ bình" và "hạ thượng".
Viết tắt
- KHTĐ: Khang Hy Tự Điển
- THĐTĐ: Trung Hoa Đại Từ điển
- TN: Từ Nguyên
- TH: Từ Hải
- TVĐTĐ: Trung Văn Đại Từ điển
Xem thêm
Tham khảo
- Đào Duy Anh: Hán Việt Từ điển.
- Lê Ngọc Trụ: Lối đọc chữ Hán Tập san Đại học Văn Khoa (Sài Gòn) 1968
- Nguyễn Tài Cẩn: Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1979
- Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nhà xuất bản Khoa Học Xã hội, Hà Nội, 1981.
- Trẩn văn Chánh:Từ điển Hán Việt, Hán ngữ cổ đại và hiện đại, Nhà xuất bản Trẻ Sài Gòn 1999
- Lễ bộ vận lược (禮部韻略) của Đinh Độ (丁度) đời Tống (宋).
- Từ Vị (辭彙) của Lục Sư Thành.
- Hình âm nghĩa tổng hợp đại tự điển 形音義綜合大字典.
- Văn tự học toản yếu (文字學纂要).
- Từ Nguyên (辭源).
- Từ Hải (辭海).
- "Lối đọc chữ Hán" của Lê Ngọc Trụ, 1968.
- Bài này được Thượng tọa Thích Phước Cẩn, trụ trì chùa Phước Hậu (Trà Ôn) biên soạn vào năm 2000 với sự hỗ trợ của ni sinh Thiền viện Viên Chiếu và Chân Nguyên Đỗ Quốc Bảo.
Liên kết ngoài
- "Những vấn đề về âm đọc chữ Hán - phiên thiết, vận thư và vận đồ". Nguyễn Đại Cồ Việt (2012). Thông báo Hán Nôm học.
***********************************************************
V
Fǎnqiè
Reverse cut
Chinese
反切
Vietnamese name
Nói lái
Phiên thiết: Cắt ngược lại
反切 Korean name Hangul 반절 Hanja 反切 showTranscriptions Japanese name
Kanji 反切 Hiragana はんせつ
showTranscriptions
Fanqie (Chinese: 反切; pinyin: fǎnqiè) is a method in traditional Chinese lexicography to indicate the pronunciation of a monosyllabic character by using two other characters, one with the same initial consonant as the desired syllable and one with the same rest of the syllable (the final). The method was introduced in the 3rd century AD and used in dictionaries and commentaries on the classics until the early 20th century.
History
Early dictionaries such as the Erya (3rd century BC) indicated the pronunciation of a character by the dúruò (讀若, "read as") method, giving another character with the same pronunciation.[1] The introduction of Buddhism to China around the 1st century brought Indian phonetic knowledge, which may have inspired the idea of fanqie.[1] According to the 6th-century scholar Yan Zhitui, fanqie were first used by Sun Yan (孫炎), of the state of Wei during the Three Kingdoms period (220–280 AD), in his Erya Yinyi (爾雅音義, "Sounds and Meanings of Erya").[1][2] However, earlier examples have been found in the late-2nd-century works of Fu Qian and Ying Shao.[3][4]
The oldest extant sources of significant bodies of fanqie are fragments of the original Yupian (544 AD) found in Japan and the Jingdian Shiwen, a commentary on the classics that was written in 583 AD.[5][6] The method was used throughout the Qieyun, a Chinese rhyme dictionary published in 601 AD during the Sui Dynasty.[2][7] When Classical Chinese poetry flowered during the Tang Dynasty, the Qieyun became the authoritative source for literary pronunciations. Several revisions and enlargements were produced, the most important of which was the Guangyun (1007–1008). Even after the more sophisticated rime table analysis was developed, fanqie continued to be used in dictionaries, including the voluminous Kangxi Dictionary, published in 1716, and the Ciyuan and Cihai of the 1930s.[8][9]
During the Qing dynasty, some bilingual Chinese-Manchu dictionaries had the Manchu words phonetically transcribed with Chinese characters. The book 御製增訂清文鑑 ("Imperially Published Revised and Enlarged Mirror of Qing"), in both Manchu and Chinese, used Manchu script to transcribe Chinese words and Chinese characters to transcribe Manchu words by using fanqie.[10] Function[edit]
The first entry in the Qieyun, with added highlighting of the fanqie formula
In the fanqie method, a character's pronunciation is represented by two other characters. The onset (initial consonant) is represented by that of the first of the two characters (上字 "upper word", as Chinese was written vertically); the final (including the medial glide, the nuclear vowel and the coda) and the tone are represented by those of the second of the two characters (下字, "lower word").[2][11] For example, in the Qieyun, the character 東 is described by the formula 德紅反. The first two characters indicate the onset and the final, respectively, and so the pronunciation of 東 [tuŋ] is given as the onset [t] of 德 [tək] with the final [uŋ] of 紅 [ɣuŋ],[12] with the same tone as 紅.
In the rhyme dictionaries, there was a tendency to choose pairs of characters that agree on the presence or absence of a palatal medial -j-, but there was no such tendency for the rounded medial -w-, which was represented solely in the final character.[13] There was also a strong tendency to spell words with labial initials using final characters with labial initials.[14]
The third character 反 fǎn "turn back" is the usual marker of a fanqie spelling in the Qieyun. In later dictionaries such as the Guangyun, the marker character is 切 qiè "run together". (The commonly-cited reading "cut" seems to be modern.[3]) The Qing scholar Gu Yanwu suggested that fǎn, which also meant "overthrow", was avoided after the devastating rebellions during the middle of the Tang dynasty.[3] The origin of both terms is obscure.[15] The compound word fǎnqiè first appeared during the Song dynasty.[3]
Analysis[edit] Fanqie provide information about the sounds of earlier forms of Chinese, but its recovery is not straightforward. Several characters could be used for each initial or final, and in particular, no character was ever used to spell itself.
However, it is possible to identify the initials and the finals underlying a large and consistent collection of fanqie by using a method that was first used by the Cantonese scholar Chen Li, in his 1842 study of the Guangyun.[16] For example, in that dictionary,
• 東 was spelled 德 + 紅,
• 德 was spelled 多 + 特, and
• 多 was spelled 德 + 河.
That implies that 東, 德 and 多 must all have had the same initial.[17] By following such chains of equivalence, Chen was able to identify categories of equivalent initial spellers, and a similar process was possible for the finals.[16][18] Unaware of Chen's work, the Swedish linguist Bernard Karlgren repeated the analysis to identify the initials and finals in the 1910s.[19]
Chen's method can be used to identify the categories of initials and finals, but not their sound values, for which other evidence is required.[16] Thus, Middle Chinese has been reconstructed by Karlgren and later scholars by comparing those categories with Sino-Xenic pronunciations and the pronunciations in modern varieties of Chinese.[20]
Effects of sound change[edit]
The method described the pronunciations of characters in Middle Chinese, but the relationships have been obscured as the language evolved into the modern varieties over the last millennium and a half. Middle Chinese had four tones, and initial plosives and affricates could be voiced, aspirated or voiceless unaspirated.
Syllables with voiced initials tended to be pronounced with a lower pitch, and by the late Tang dynasty, each of the tones had split into two registers (traditionally known as yīn 陰 and yáng 陽) conditioned by the initials. Voicing then disappeared in all dialects except the Wu group, with consonants becoming aspirated or unaspirated depending on the tone. The tones then underwent further mergers in various varieties of Chinese. Thus, the changes in both the initial and the tone were conditioned on each other, as represented by different characters in the fanqie pair.[21]
For example, the characters of formula 東 [tuŋ] = 德 [tək] + 紅 [ɣuŋ] are pronounced dōng, dé and hóng in modern Standard Chinese; thus, the tones no longer match. That is because the voiceless initial [t] and the voiced initial [ɣ] condition different registers of the Middle Chinese level tone, yielding the first and the second tones of the modern language. (The pinyin letter d represents the voiceless and unaspirated stop [t].)
That effect sometimes led to a form of spelling pronunciation. Chao Yuen Ren cited the example of the character 强, which had two readings in Middle Chinese. It could be read as [ɡjɑnɡ] in the level tone, meaning "strong, powerful", which developed regularly into the modern reading qiáng. However, it could be read also as [ɡjɑnɡ] in the rising tone, meaning "stubborn" or "forced". The regular development would be for the voiced initial [ɡ] to condition the yang register of the rising tone, becoming the fourth tone of modern Chinese and for the rising tone to condition an unaspirated initial. Thus, jiàng would be expected, and this does occur in the sense "stubborn", but the character also has the unexpected pronunciation qiǎng for the sense "forced". Chao attributed that to the fanqie formula 强 = 其 [ɡi] (level tone) + 兩 [ljɑnɡ] (rising tone) given in dictionaries. Here, the first character is now pronounced qí because in the level tone, the voiced initial becomes aspirated, but the second character is now pronounced liǎng. That is because in the rising tone, sonorants like [l] conditioned the yin register, which led to the modern third tone.[8]