Người Đài Loan muốn độc lập là sao?
Đài Loan Và Cội Nguồn Bách Việt
Tác Giả: Nguyễn Đức Hiệp Ph. D
Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.
Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là thành phần của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung quốc, nó không còn dính dán gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 năm trước đây đã cắt lìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh của mình.
Trước đây tôi chỉ để ý và nghiên cứu chút ít về người bản xứ thổ dân sống ở Đài Loan trước khi người Tàu từ lục địa di dân sang. Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hóa và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trải qua cách đây hơn 1.000 năm.
Đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí bị cấm đề cập đến cô, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo cũng không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei.
Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola bị bôi xóa đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó lùng kiếm.
Wu Bai, một nam ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan và Trung Quốc, cũng chịu chung số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thủy Biển.
Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng Mongoloid Nam Á, khác xa với người Hán thuộc chủng Mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân Mân Việt (Min Yeuh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư đến từ phương Bắc.
Bà trả lời là bà đã biết trước kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động cuộc tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là điều gì mới lạ, vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả nghiên cứu của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi.
Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of Chine”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of Yeuh coastal Neolithic: A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã có cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt.
Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải là Hán từ bắc Trung Quốc. Bà nói: “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”.
http://hohyhung.blogspot.com/2011/09/ai-loan-va-coi-nguon-bach-viet.html
- Người vùng miền bắc đại lục nước Tàu
- Người vùng miền nam đại lục nước Tàu
- Toàn miền đại lục nước Tàu
==========================================
Người Việt là nhóm Bách Việt (Yue) đầu tiên hay cuối cùng?
This entry was posted on Tháng Mười Hai 31, 2014, in Lịch sử Việt Nam and tagged Bách Việt, Hà Hữu Nga, Le Minh Khai, việt, Việt Nam, yue.
Bookmark the permalink. 6 bình luận
Ảnh: Trần Việt Bắc (phỏng theo sử liệu)
Le Minh Khai
Người dịch: Hà Hữu Nga
Tác giả của bài viết cho rằng -- "...Người Việt luôn ý thức mình là Việt qua nhiều thế kỷ và họ duy trì được di sản văn hóa Bách Việt," mặc dù tác giả không hề giải thích rõ ràng cái gì tạo dựng nên di sản văn hóa đó.
Bách Việt - nguồn Ảnh
Tôi đã bắt đầu viết một bài trả lời [2] bằng cách chỉ ra rằng... Chúng ta không có bằng chứng về việc là bất cứ nhóm người nào mà người “Trung Quốc” dán nhãn Bách Việt/Yue trong thiên niên kỷ đầu tiên trước công nguyên, cũng thực sự tự coi mình là “Việt/Yue” (có lẽ với một trường hợp ngoại lệ là nhóm tinh hoa Nam Việt).
Cái mà chúng ta có bằng chứng là trong nhiều thế kỷ từ cuối giai đoạn Trước Công Nguyên đến khoảng 1.000 năm Sau Công Nguyên, có những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà*, Lý Bí**, Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], Phùng Áng [馮盎]…v. v...) đã sử dụng khái niệm Việt/Yue để gọi tên các chính thể mà họ thành lập.
Có phải điều đó có nghĩa là -- họ đặt tên vương quốc của mình theo tên nhóm người sống ở đó?
Chúng ta không có bằng chứng về điều này. Có vẻ như họ chỉ đơn giản sử dụng một cái tên có tính văn chương gắn liền với vùng đó của thế giới.
Một trong những nguyên do tại sao cái tên Việt hình như không thuộc về một nhóm người hoặc một “ý thức”, một “di sản văn hóa” trong thiên niên kỷ đầu tiên Sau Công Nguyên là ở chỗ -- chúng ta không có bằng chứng về một văn hóa mà cả những người bình dân và nhóm tinh hoa đều chia sẻ.
Từ cái mà các nhà nghiên cứu đã phát giác về văn hóa Bách Việt/Yue, nó tương tự như cái thế giới mà tôi gọi là “những người săn đầu người Đông Sơn” [3] hơn là thế giới của Triệu Đà hoặc Lý Công Uẩn. Thế giới đó rõ ràng là đã biến mất.
Đây là vấn đề mà nhiều sử gia đã thừa nhận. Chẳng hạn, trong những năm 1960, sử gia Nguyễn Phương đã cho rằng:
Việt là Hán di cư đến vùng châu thổ sông Hồng vào thiên niên kỷ đầu Sau CN [4] và đã thế chỗ các cư dân sớm hơn ở đó.
Đây không phải là ý tưởng gốc của ông. Thay vào đó là quan điểm cho rằng -- các nhà nghiên cứu Việt Nam đã bắt đầu nói về điều này ngay từ đầu thế kỷ XX khi lần đầu tiên họ bộc lộ về quan điểm chủng tộc.
Ý tưởng cho rằng có một số lớn di dân đã làm thay đổi căn bản văn hóa châu thổ sông Hồng đã không được các bằng chứng sử học và khảo cổ học ủng hộ. Tuy nhiên, trong thực tế không cần phải có một dân số lớn mới làm thay đổi đáng kể văn hóa và ngôn ngữ.
Để hiểu được điều này, chúng ta cần suy nghĩ về hai bài viết mà tôi đã đề cập trong blog này: Một bài viết về bài của Richard A. O’Conner [5], và bài khác viết về bài của John Phan [6]
Như tôi đã viết trước đây, John Phan cho rằng:
Ngôn ngữ Việt Nam được tạo ra khi một số người nói phương ngữ Trung Quốc chuyển sang nói một ngôn ngữ địa phương (giống như người Normans ở Anh vậy) ở một nơi nào đó vào thế kỷ IX – X.
Còn Richard O’Conner thì cho rằng:
Những người như người “Việt” hình thành thông qua sự tham gia vào nền nông nghiệp lúa nước.
Đặc biệt ông còn cho rằng -- những người thuộc các tộc người khác nhau dần dần hình thành một “nhóm tộc người” riêng biệt khi họ bắt đầu theo cùng các loại nghi lễ và giao tiếp với các quan chức. (Khi sử dụng ngôn ngữ “mới” mà John Phan đã xác định) là những người điều hành nguồn nước, thu thuế, …v.v.
Điều mà tôi thấy là đây. Thay vì có một nhóm “Bách Việt” “sống sót”, thì điều có vẻ đã xảy ra là trong giai đoạn cuối đời nhà Đường, có các thành viên của nhóm tinh hoa thuộc khu vực mà ngày nay gọi là nam Trung Quốc và bắc Việt Nam bắt đầu tạo thành các quyển ảnh hưởng riêng của họ và bắt đầu tạo ra một ý thức địa phương cho bản thân họ (điều này trên thực tế đã xảy ra trên toàn bộ đế quốc Đường vào thời gian đó).
Họ không thực hiện điều đó bằng cách đồng nhất hóa với những người địa phương. Thực ra họ có ý định coi nhiều nhóm người xung quanh là “man di”. Thay vào đó, họ sử dụng một số thông tin tồn tại trong các văn liệu (chẳng hạn các ghi chép về nước Nam Việt của Triệu Đà) để tạo ra các tước vị cho các chính thể địa phương và để kết nối các lĩnh địa mới của họ với nguồn thông tin trong các văn bản cổ.
Trong một môi trường như vậy, nó tạo ra một ý thức mà những người như Lý Công Uẩn có thể đã đem đến từ các vùng của cái gọi là Phúc Kiến ngày nay và kết thúc sự thống trị trên một vương quốc thuộc vùng châu thổ sông Hồng. Họ có thể làm được như vậy vì nhóm tinh hoa trên khắp vùng này đều có chung một văn hóa tinh hoa.
Ngày nay nhiều người có tham vọng phân biệt về phương diện tộc thuộc một số nhóm người sống trong thời kỳ đó. Có những người muốn coi Nùng Trí Cao là “Tày Thái”, trong khi đó lại có người cho Phùng Áng là “Hán”, v. v...
Trong thực tế thì "nhóm tinh hoa" (được hiểu là nhóm quý tộc hoặc nhóm quyền thế lãnh đạo) trên khắp vùng này đều có chung các tương đồng văn hóa với nhau hơn là với những người mà họ cai trị. Không có lý do gì cho bất cứ một chính thể nhỏ bé nào trong thời gian đó phải bị thống trị bởi những người đồng nhất về phương diện tộc thuộc, vì họ đã được thống nhất bởi một văn hóa tinh hoa, và có lẽ không phải là nhóm tinh hoa ở bất cứ nơi nào thuộc các vùng này cũng đều đồng nhất về phương diện tộc thuộc.
Nếu Lý Công Uẩn thực sự là người Phúc Kiến, thì có lẽ không phải là tất cả mọi người trong cung đình của ông đều giống ông về phương diện tộc thuộc. Cái đã thống nhất nhóm tinh hoa thống trị lại chính là -- họ có chung một văn hóa, và họ giao tiếp bằng một ngôn ngữ chung (rõ ràng là một ngôn ngữ thứ hai đối với một số người).
Và nếu John Phan đúng thì ngôn ngữ được 'nhóm tinh hoa' vùng châu thổ sông Hồng sử dụng trong thời Lý Công Uẩn nắm quyền vẫn còn là một ngôn ngữ hoàn toàn mới. Hơn nữa, nếu ngôn ngữ này được hình thành khi những người nói một phương ngữ Trung Quốc “chuyển hướng” sang nói một ngôn ngữ địa phương và trong quá trình đó đã đem đến nhiều ngữ vựng mới thì có lẽ đã không có gì quá khó khăn đối với những người đã Hán hóa từ Phúc Kiến đến để học ngôn ngữ đó, khi nó có lẽ có nhiều chữ chung với ngôn ngữ riêng của ông ta.
Cùng với thời gian, toàn bộ những điều đó đều thay đổi khi văn hóa tinh hoa này dần dần phổ biến đến người bình dân. Điều đó đã diễn ra như thế nào? Một phần thông qua các quá trình mà O’Connor đã đề cập. Bằng việc tuân thủ trật tự của giới tinh hoa trong việc cam kết với nghề nông làm lúa nước, bằng việc thực hành các lễ thức mà nhóm tinh hoa đã thiết lập, bằng việc lắng nghe các tích truyện về các thần linh địa phương mà nhóm tinh hoa tạo ra nhằm đưa các thần này (mà bản thân người địa phương cũng tin tưởng) vào hệ thống quyền uy của mình, và bằng việc giao tiếp với nhóm tinh hoa bằng ngôn ngữ mà nhóm tinh hoa sử dụng, những người bình dân dần dần thay đổi (tất nhiên quá trình đó không hoàn toàn là con đường một chiều, nhưng tôi lại cho rằng ảnh hướng của nhóm tinh hoa đối với các nhóm không phải tinh hoa là rất lớn – như các trường hợp đã xảy ra mọi nơi trên toàn thế giới.
Quá trình này diễn ra trong nhiều thế kỷ, và trong thực tế nó vẫn còn đang tiếp diễn. Ngày nay ở Việt Nam vẫn còn những người đang tiếp tục trở thành người Việt.
Vì vậy điều mà tôi muốn nói là không phải người Việt là những “người cuối cùng của Bách Việt”, mà thay vào đó họ là những “người đầu tiên của Bách Việt”, vì cái văn hóa và ngôn ngữ ngày nay được thừa nhận là “Việt” chỉ bắt đầu hình thành vào gần cuối thiên niên kỷ I Sau CN, và thông qua quá trình này mà một nhóm người bắt đầu tự coi mình là “Việt” (chứ không phải là được dán nhãn bởi người bên ngoài bằng cái tên đó, như trường hợp thiên niên kỷ I Trước CN Bách Việt được đề cập đến trong các nguồn sử liệu thời gian đó), và tự hình dung mình là một nhóm hậu duệ của “Bách Việt”.
Khi tạo ra văn hóa này, nhóm tinh hoa đã sử dụng nguồn thông tin được ghi lại về vùng đó của thế giới trong quá khứ (đó là nguồn của một số thông tin trong các văn bản như Lĩnh Nam Chích quái chẳng hạn) và việc sử dụng tên gọi “Việt”, mãi sau này mới biết, là một trong những mẩu thông tin quan trọng nhất của quá khứ mà họ đã khai thác.
Nhưng đó chính là một tên gọi mà họ đã phát hiện, chứ không phải là tên gọi mà họ đã được thừa hưởng. Vì những người mà “người Hán” coi là “Việt/Yue” thì lại không hề biết rằng họ là “Việt/Yue”. Chúng ta không hề biết họ tự coi mình là ai, đối với trường hợp những người săn đầu người Đông Sơn và toàn bộ những nhóm người khác nhau sống trên toàn bộ khu vực ngày nay được gọi là nam Trung Quốc – và di sản văn hóa của họ đã biến mất từ lâu trước khi Lý Công Uẩn xuất hiện trên chính trường.
Nguồn: The Last or First of the Hundred Việt/Yue?
leminhkhai.wordpress.com/2013/01/13/
Ghi chú của người dịch: *,** “…những nhân vật tinh hoa Hán hóa (Triệu Đà, Lý Bí)” Tôi không rõ ý của Le Minh Khai trong các trường hợp này? Mong anh ấy giải thích kỹ hơn; nếu có thể, thì cả trường hợp Lâm Sĩ Hoằng [林士弘], và Phùng Áng [馮盎]…v.v) nữa.
Tài liệu dẫn
1. Nguyễn Xuân Phước, Bách Việt Trong Lòng Đại Việt, Bài viết được đăng trên trang http://www.anviettoancau.net/anviettc/
2. Le Minh Khai, The Problem of the Term “Việt” In a National History, bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/06Sep12
3. Le Minh Khai, Đông Sơn Headhunters, leminhkhai.wordpress.com/27Nov12
4. Le Minh Khai, Nguyễn Phương on the Origins of the Vietnamese Nation, Bài viết được công bố trên trang leminhkhai.wordpress.com/ 08Mar12
5. Richard A. O’Conner 1995. Agricultural Change and Ethnic Succession in Southeast Asian States: A Case for Regional Anthropology, Journal of Asian Studies54.4 (1995): 968-996.
6. John Phan 2010. Re-Imagining ‘Annam’: A New Analysis of Sino-Viet-Muong Linguistic Contact. Chinese Southern Diaspora Studies, Volume 4, 2010 [南方華裔研究雑志第四卷 Nam Phương Hoa duệ Nghiên cứu Tạp chí đệ tứ quyển].
Nguồn bài đăng
............................................................
Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt
Tháng Mười Hai 12, 2016
Trong "Lịch sử Việt Nam"
Việt Nam và đại nạn Trung quốc
Tháng Sáu 13, 2015
Trong "Lịch sử Việt Nam"
Nước Việt của Việt Vương Câu Tiễn và Mân ngữ
Tháng Mười Hai 14, 2016
Trong "Lịch sử Việt Nam"
*********************************
6 thoughts on “Người Việt là nhóm Bách Việt (Yue) đầu tiên hay cuối cùng?”
Ngoc Anh nói:
Tháng Mười Một 22, 2015 lúc 7:56 sáng
Bài này viết bậy bạ quá, thiếu sức thuyết phục.
Trả lời
Tong nói:
Tháng Bảy 17, 2019 lúc 10:45 chiều
Totally wrong! Is there any fact or proof?
Trả lời
Ngoc Anh nói:
Tháng Một 18, 2021 lúc 7:47 sáng
all links of References articles are died.
Thái A Trần nói:
Tháng Chín 17, 2016 lúc 12:36 chiều
Bài viết toàn suy diễn vu vơ, chẳng có dẫn liệu nào cụ thể. Ngay đến Lý Công Uẩn.
Lý Công Uẩn vốn là đứa trẻ đẻ rơi, vô thừa nhận, được sư Lý Khánh Văn mang về nuôi trong chùa ở Bắc Ninh ngày nay. Sử ghi rõ ràng như vậy mà tác giả không biết lấy tài liệu nào mà bảo ô. là người Hán ở Phúc Kiến(!?). Về ngôn ngữ cũng suy luận bừa bãi, là bắt nguồn từ tiếng Hán.
Theo tôi thì, tiếng Hán tiếp nhận tiếng Bách Việt thì có lý hơn. Bằng chứng là tiếng Việt có tới 6 thanh, mà tiếng Hán cho đến ngày nay phát triển cao mà cũng chỉ đạt tới được 4 thanh, độ cao thấp lại rất mơ hồ không rõ ràng dứt khoát như tiếng Việt.
Do ít “thanh” hơn tiếng Việt, nên chữ đồng âm trong tiếng Hán rất nhiều, ảnh hưởng đến giao tiếp. Điều này chứng tỏ tiếng Hán từ xa xưa đã chịu ảnh hưởng của tiếng Việt. Một điều nữa chứng tỏ điều này là ngày nay người Việt đọc thơ Đường luật bằng ngữ âm Việt (mà ta gọi là âm Hán-Việt), vừa du dương vừa khớp vần hơn hẳn đọc theo Hán âm!
Trả lời
ngu75yen nói:
Tháng Mười 4, 2016 lúc 5:07 sáng
Bài này có vẻ bị hiểu lầm bởi một số độc giả. Tác giả chỉ muốn nói là cái 'Đại Việt độc lập từ thế kỷ X đã được tạo dựng từ một ý thức độc lập của giới tinh hoa' vào cuối đời Đường do sự kết hợp của văn hóa tinh hoa có hán hóa và các văn hóa địa phương. Và đó là văn hóa Việt do chính họ tự xưng.
Còn cái văn hóa gọi là Bách Việt do người Hán đặt tên khi xâm lăng vùng đất nay là nam Trung Quốc và Bắc Việt Nam thì tên thật của nó là gì không ai biết vì nó đã bị xóa (gần như) hết ở lãnh thổ này, có lẽ là cái mà chúng ta gọi là Văn Minh Đông Sơn. (Tôi xin nói thêm: tương đương với văn hóa, ngôn ngữ của một số dân tộc thiểu số vùng cao còn sót ở Việt Nam ngày nay và các dân tộc khác thuộc ngôn ngữ Nam Đảo như tộc Lê ở Hải Nam, và các giống dân của Micronésie / Đại Dương ĐDảo ngày nay.
Trả lời paracels nói:
Tháng Mười Một 9, 2019 lúc 9:27 sáng
Chẳng hiểu tác giả muốn nói tới điều gì, các dẫn chứng rất mơ hồ vì viện dẫn từ những giả thuyến nghiên cứu mơ hồ.
Trong sách Lã Thị Xuân Thu, văn viết:
“Dương/giang Hán chi nam,
Bách Việt chi tế”. (2241 năm trước)
nghĩa là:
Phía nam sông Hán là đất Bách Việt.
Các nhà sử học cho rằng -- dân tộc Bách Việt không phải đơn thuần là một dân tộc mà là tên chung cho nhiều dân tộc.
Nguồn gốc là dân tộc cổ đại bản địa có lịch sử rất lâu đời, như vua Nghiêu, vua Thuấn, vua Vũ trong truyền thuyết chính là tiền thân dân Bách Việt mà người đời sau gọi là Man, Miêu.
Ancient Việt Dynasty
" ...Within five miles from Giao Chỉ to Cối Kê (within the region south of the Yangtze river), the people of Bách Việt can be found everywhere, each group with its own individual regional customs." [1]
By the time The Trưng Sisters had begun rallying the people of Bách Việt, the remaining kingdom states looked like this.
The loss of Giang Nam (Ư Việt and Mân Việt) was heartbreaking for my people. We wrote songs and poems, documenting this loss, one of which is a famous folk song called Lý Giang Nam.
This song, although simple in format and contains only a few words, is actually very important for various reasons. I will detail these reasons in my next posting about Lý Giang Nam
Lý Giang Nam
If anyone told you that they had a firm grasp of history because they went through years of university, studying through historical books on the subjects, don’t walk—run away from them.
Run far, far away.
They only have the officially sanctioned, creative-writing version of what actually happened. This version is fine if all we want to do is pass our college exams and get our degrees, but if we really want the other half of the truth (or as close to it as we are ever going to get), simple regurgitation of facts presented within these approved history books are not going to get us there.
From what I have been able to piece together, history is written by the victors, who also happen to be the elite upper-class–those who have the necessary level of literacy, not to mention free time—to do nothing for years but read and write the history that has been creatively written to allow for the smooth facilitation and unmitigated growth of the Powers That Be.
All we ever read about is how sexually indulgent the kings were to all his hundreds of concubines, or how many soldiers died out in the battlefields to defend some general’s thirst for revenge. But this is what history zeroes its myopic lenses on–the happenings of the rich and famous.
Since historians are of the elite, their worldview is going to be skewed towards that of the upper echelon’s experiences of what happened. They won’t have the same mindset of the farmer in the field who must deal with pests and uncontrollable weather patterns, or the weaver at her loom whose entire caterpillar population has perished due to sudden temperature fluctuations.
They won’t know what happened at the market stalls and the merchants who have to deal with the day-to-day difficulties of getting enough food and merchandise to feed and take care of an entire city, even as they must kowtow to the government officials who place heavy tax burdens on them.
They have no clue of the hardships of the supply runners who push themselves every day to the limit to get food and supplies from farms and factories to the people who need them, even as they fight off bandits and greedy soldiers who use their weapons to legally plunder and pillage.
Everyone is too busy struggling with day-to-day labor to worry about writing down the commoner’s history, assuming they even knew how to write. But just because they are lacking in formal literacy does not mean they don’t know how to maintain their history. There are a few methods that they have at their disposal.
They embed the crucial parts of their experiences of the history that impacted them, as they uniquely saw it, into their oral traditions, folk songs, wall paintings and cave drawings, poetry, myths, legends, ancient sayings,
One of these songs has a strange name, but the name has nothing to do with the body of the song. The name is, in fact, a region of present-day China named Jiang Nan, the Chinese phonetic pronunciation of the Việt word for Giang Nam ( 江南 ).
Giang Nam
Giang Nam (Jiang Nan) is a geographic area in China referring to lands immediately to the south of the lower reaches of the Yangtze River, including the southern part of the Yangtze Delta. The region encompasses the Shanghai Municipality, the southern part of Jiangsu Province, the southern part of Anhui Province, the northern part of Jiangxi Province, and the northern part of Zhejiang Province.
Giang Nam has long been regarded as one of the most prosperous regions in China due to its wealth in natural resources and very high human development. Back in the days when Giang Nam was still Giang Nam, it was not as large as modern-day Jiang Nan due to a river that cuts through two-thirds of the region. That river was a natural demarcation line for two separate nations, the Han Chinese, and the Bách Việt. After Giang Name was overtaken, the city was enlarged, and is now much larger than the border city that it was, long long ago.
Lý Giang Nam
We have an ancient folk song about this beautiful land of ours. It is called Lý Giang Nam.
Lý Giang Nam (the song) is ancient–thousands of years ancient. We don’t even know who wrote the song, it’s that old. It has been classified as a traditional folk song that has been handed down to us from time immemorial.
The song talks about cranes, caterpillars, and kites. At first glance, it makes no sense. What does cranes and caterpillars and kites have to do with Giang Nam? The answer is fairly obvious, once I dug into the history of Giang Nam.
Here is the song.
Here is the translation of the song.
Pull back the bow and shoot
Shoot, shoot, shoot. Shoot the crane, Shoot the crane,
The cranes scatter, the cranes scatter
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the crane
Pull back the bow and shoot
Shoot, shoot, shoot. Shoot the caterpillar, shoot the caterpillar
The sad caterpillar, the sad caterpillar
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the caterpillar
Pull back the bow and shoot,
Shoot, shoot, shoot. Shoot the kite, shoot the kite
The high-flying kite, kite fly high
Pull back the bow, release the arrow
Shoot the kite
Within the translation, the bow and arrow, along with the crane, caterpillar, and the kite are the various regions that, due to war, have been lost.
The Crane (Lạc)
One of the first things we Viet kids learn is the symbol that is used for the emperor of Vietnam. It is the crane. Not just any old crane, mind you, it’s the HUGE crane that comes from our region of the world.
The shooting of the cranes, in this song, symbolizes the death and ultimate scattering of the kings and royal families of Ư Việt and Mân Việt, the two states that make up roughly, the area of Giang Nam,
The Caterpillar (silk worm)
The caterpillar represents the silk industry, Silk is mainly produced in the southern regions of the Yangtze River Delta, which is exactly where Giang Nam is presently located. Silk was something that we Vietnamese cultivated for a very long time. We still do. There are many famous silk producing villages in Vietnam, but none more famous than Giang Nam silk.
The Kite
The kite was an invention of the Giang Nam region, and played a role in providing military intelligence. It was made of bamboo and silk grown and harvested from the Giang Nam region. Knowledge of kite making were exclusive to Giang Nam for many years until the region was lost to China.
Now, we make kites for fun. We also add flutes onto the kites and when flown, they make a very unique and beautiful sound. Here is a modern-day kite, equipped with flutes and blinking led lights.
|
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay, là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT. |
|
|
|
Chữ Việt chính là vũ khí mạnh nhứt, đã gìn giữ cho cả dân không bị diệt vong.
|
|