Map of countries of asylum in Southeast Asia during 1975-1996


|

Bản đồ các quốc gia ở Đông Nam Á đón nhận người miền nam Việt Nam tị nạn cộng sản trong giai đoạn 1975-1996
- Bọn bán nước, rồi...
- Bọn tay sai.
- Bọn phản quốc.
- Bọn phản động.
Cho mãi đến năm 1990, cũng còn có người Việt cộng gọi họ là những tên Việt gian chạy theo đế quốc... Nói chung, Việt cộng coi người vượt biên đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải đi, muốn loại ra đi cho rảnh mắt và để có cớ và dễ bề tịch thu tài sản. Gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước. Sau này chữ được dùng là "Việt kiều", "kiều bào".
Khôi hài nhất là khi gọi "khúc ruột ngàn dặm" để moi tiền "Kiều bào".
Tỵ Nạn và Cuộc Đời:
Phần thứ nhất
Lần vượt biên sau cùng 23.6.1980
Kỹ sư Nguyễn Văn Phảy
http://navygermany.gerussa.com/main/van%20nghe/baivo/LanVuotBien%20sau%20cung.htm
Tỵ
Nạn và Cuộc Đời:
Phần
thứ nhất
Lần vượt
biên sau cùng 23.6.1980
Kỹ
sư Nguyễn văn Phảy
Lời mở đầu:
*****
Mặc dù thời gian trôi qua thật nhanh, nhưng nhiều hình ảnh ra đi vượt biên vẫn còn đọng lại tiềm tàng trong trí ức. Làm sao tôi quên được những sự ra đi quá hải hùng của những đứa con của Mẹ Việt Nam, những đứa con bất hạnh, những người đi tìm tự do, tìm cái sống trong cái chết của mình, mà thế giới gọi là thuyền nhân „Boat People“ mà tôi cũng là người trong cuộc.
...
Đêm nay đêm tối
trời, tôi bỏ quê hương
Ra đi trên chiếc thuyền hy vọng vượt trùng
dương
Em đâu đâu có ngờ đêm buồn
Bỏ lại em cay đắng thật thương
Hò ơi, hò ơi, tạm biệt nước non…
(Trích
Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Vào
một đêm mùa hè trăng sao, ban ngày trời nóng
chan chan, nắng cháy da người. Tôi cùng vợ và 2
con từ Sài Gòn đi xe đò về Tây Đô thân yêu.
Tối hôm đó, tôi cùng gia đình vợ và 2 con
được hướng dẫn lên một chiếc
ghe rất nhỏ. Chiếc ghe nhỏ nầy đã
được cất dấu nhiều ngày trong 1 con
lạch, được che bởi những khóm cây
dừa nước tại vùng Cần Thơ, chuẩn
bị di chuyển người ra một chiếc ghe
lớn để đưa chúng tôi vượt biên.
Chiếc ghe lớn đang đậu núp ở một
ven bờ Tiền Giang, hướng ra biển. Ghe
lớn có chiều dài khoảng 12,5m và chiều ngang
khoảng 2,5m.
Trong lúc chiếc ghe nhỏ luồn lướt qua những con lạch, băng qua những khóm dừa nước, lao nhao đôi chú ếch nhái, ểnh ương đang đi tìm mồi và đùa giởn réo gọi nhau bỗng dưng yên lặng, trả lại cho màn đêm tịch mịch. Nhưng rồi, xa xa vọng lại những tiếng rên rĩ của côn trùng, tiếng kêu của những lũ ếch nhái khác hoà với làn gió nhè nhẹ thổi vào đêm trăng mùa hè cùng với bóng dáng của cành lá cây, rào rạc ở hai bên bờ rạch, lúc ẩn lúc hiện tạo nên một âm thanh khó hiểu, huyền dịu. Loài côn trùng, động vật có thấu hiểu chuyện gì đang xảy ra bên cuộc sống thanh bình của chúng? Chúng tôi không phải là kẻ săn bắt chúng hay phá rầy sự sống của chúng. Chúng tôi là những người đang tìm đường vượt biển với tâm lý vừa vui buồn lẫn sợ hải. Đôi khi tôi nghĩ ngợi, mình cũng thầm cảm ơn những chú ếch nhái và côn trùng, cây, gió. Nhờ có chúng mà chúng tôi không bị lộ tông tích vì tiếng ồn do chúng tôi có thể tạo ra trong lúc di chuyển.
Sau một thời gian lặng lẽ âm thầm ra đi trong đêm tối, chúng tôi vượt ra khỏi rạch nhỏ thì vào sông Hậu Giang, rồi đến ghe lớn. Lúc đó vào khoảng 1 giờ sáng. Trên ghe lớn cũng đã có một số người từ những ghe nhỏ khác đã được đưa đến. Rồi dần dần có thêm nhiều ghe nhỏ nữa chở thêm người tới.
Ngay
từ những ngày đầu chuẩn bị, sau khi người
chủ mua ghe và trang bị máy móc ở vùng Hà Tiên,
Rạch Giá, tôi đã có nhiều lần xuống vùng
đó để kiểm soát lườn ghe cũng như
xem xét máy móc được trang bị như thế
nào. Khi thử chạy máy và kiểm soát kỷ lườn
ghe thì thấy tất cả đều tốt. Chủ
ghe cũng cho tôi biết rằng ghe sẽ chở
khoảng 80 người mà thôi. Nghe vậy, tôi nghĩ
rằng với chiếc ghe nhỏ như thế
nầy cũng có thể vượt biển được
mặc dù trên đường đi nếu biển
động nhẹ. Nhưng khi tôi lên ghe lớn thì thấy quá nhiều người
trên ghe rồi. Chiếc ghe quá tải, tưởng
chừng sắp bị chìm. Với số lượng
người đông như thế này, tôi đoán có
khoảng trên 170 người. Chiếc ghe đang còn
ở trên sông, nước phẳng lặng mà đã
xem như sắp chìm rồi thì làm sao ra biển đi
được. Thấy vậy, tôi đã kêu gọi
những người đang chuẩn bị lên ghe
lớn sau cùng nên hảy ở lại quê hương
và trở về nhà thì tốt hơn. Nếu không, khi
ra biển, gặp sóng gió lớn, ghe sẽ bị chìm
ngay và sẽ chết hết. Sau khi nghe tôi nói như
vậy họ đã hiểu, cho nên một số người
còn đang ở trên ghe nhỏ họ không bước
lên ghe lớn nữa, cũng như một số người
đã lên được ghe lớn họ cũng bước
xuống ghe nhỏ mà trở về.
Mặc dù vậy, chiếc ghe vẫn còn quá tải. Lườn ghe đã chìm sâu, chỉ còn khoảng 10 cm nổi trên mặt nước mà thôi. Riêng cá nhân tôi, với nhiều năm đi tàu biển, có nhiều kinh nghiệm về sóng gió, biết rằng với chiếc ghe nhỏ như thế nầy mà chở gần 150 người thì rất lo lắng. Nhưng tôi đang ở vào vị thế tiến thoái lưỡng nan. Đây là lần vượt biên thứ ba sau khi tôi bị đi „tù cải tạo“ về. Hai lần vượt biên trước, ghe tôi cũng đã ra tới ngoài biển được rồi nhưng vì bị trở ngại kỹ thuật, ghe không chạy tiếp được, cuối cùng phải bị bắt và vào tù trở lại. Lần nầy nếu tôi và gia đình không đi, khi lên bờ trở lại có thể tôi sẽ bị bắt. Nếu tôi bị bắt mà còn bị lộ ra tông tích rằng mình là một cựu Sĩ Quan Hải Quân của Quân Lực Việt Nam Cọng Hoà và đã nhiều lần vượt biên bị bắt thì có thể lần nầy tôi sẽ bị nhốt vào tù và khó có ngày về đoàn tụ gia đình. Do đó, tôi quyết định ở lại trên ghe để hướng dẫn ghe đi vượt biên. Tôi thừa hiểu rằng trên đường vượt biển có thể có nhiều nguy hiểm xảy ra, nhưng tôi không có con đường lựa chọn nào khác. Tôi chỉ hy vọng rằng vào mùa hè, sóng gió sẽ êm dịu hơn và biển có thể yên lặng.
Thế là cuộc hành trình vượt
biển đang diễn ra theo kế hoạch. Trên ghe có
già trẻ, trai gái và gồm đủ thành phần
trong xã hội đều cùng chung ước mơ ra
khơi tìm Tự Do.
…Đêm
nay trên bản đồ có một thuyền ra đi
Hiên ngang trên sóng gào tự do đón chào
Xin chào tự do với nỗi niềm cay đắng
Nhìn lại bên bờ nước non mình mỗi
mặt
Khóc nghẹn ngào
Hò ơi! Hò ơi! tạm biệt nước non…
(Trích Đêm Chôn Dầu Vượt Biển)
Trong 2 ngày đầu vượt biển dường
như tôi thức trắng đêm. Ngày đầu tiên,
vào chiều tối, ghe chúng tôi ra khỏi cửa
biển và ra khơi khá xa. Tối khuya hôm đó tôi
đổi hướng chếch Nam, nhắm bên
phải của chòm sao Nam Tào ở phía Nam gần hướng
Tây Nam làm chuẩn mà chạy. Vùng biển ngoài khơi Vũng Tàu trải dài đến
vùng đảo Côn Sơn tôi cũng đã có
2
tháng
đi thực tập trên Hoả Vận Hạm HQ 471 và 7 tháng trên Hộ
Tống Hạm HQ10
trước khi được
thụ huấn tại Trường Sĩ Quan Hải Quân
Nha Trang vào tháng 9 năm 1971. Trong thời gian nầy
chiến hạm HQ10 phải đi tuần liên tục
ngoài khơi thuộc vùng 3 duyên hải. Nhờ vậy
tôi có phần nào hiểu biết và kinh nghiệm
ở vùng biển khơi từ Vũng Tàu đến
Côn Sơn.
Để kiểm soát hướng đi, vào
ban đêm, nhìn ngược lại hướng Bắc
thì có chùm sao Đại Hùng Tinh nằm chếch ở
phía sau lưng ghe, sẽ thấy sao Bắc Đẩu. Như vậy
ghe đã đổi hướng Nam.
Ban ngày thì nhìn mặt trời để đoán hướng.
Là sĩ quan hải quân QLVNCH, ngành chỉ huy,
nhiều năm đi biển phải có kinh nghiệm
nhìn các sao, các chùm sao, nhìn sóng nước, nhìn sóng
gió, nhìn mặt trời, mặt trăng trên biển để
đoán được vị trí tương đối và hướng đi của ghe..
Khi mệt
quá tôi giao lại cho vài tài công là những thanh niên và
là thân nhân của chủ ghe. Chủ ghe không đi theo.
Thật sự mấy bạn tài công nầy chỉ
mới tập lái ghe khi ghe được sửa
chữa trên sông trước khi đi vượt biên
mà thôi. Họ không có nhiều kinh nghiệm về
biển cả. Tôi phải chỉ dẫn cho họ.
Họ tin tưởng ở tôi.
Trang bị
cho chuyến vượt biên, trên ghe chúng tôi chỉ có
1 bản copy của tấm hải đồ biển Đông từ vùng
đảo Côn Sơn đến Tân Gia Ba để
vẻ tuyến đường đi đến
hải cảng Singapore. Tôi đã xác định
từng đoạn đường với góc độ.
Tôi chọn tuyến đường đi Singapore
mặc dù xa hơn đi đến Thái Lan hay Mã Lai Á
là vì tôi muốn tránh xa vùng biển mà hải tặc
Thái Lan đang hoành hành trên vịnh Thái Lan. Trước
khi đi, chúng tôi đã mua 1 la bàn từ với đường kính khoảng 10
cm. Loại la bàn từ mà lớn như vậy chỉ
có ở các chiến đỉnh của các Lực Lượng
Hải Quân VNCH, làm gì mà có bán ra ngoài như vậy?.
Khi mua nó tôi đã nghi ngờ là giả mạo nhưng
không tìm được cái la bàn từ nào khác là
thật và original nên đành phải mua.
Khi sử
dụng la bàn giả mạo
trên biển là 1 khuyết điểm lớn vì các
tài công trên sông không có kinh nghiệm về sóng gió và
phương hướng rõ ràng ngoài đại dương.
Khi sóng mạnh ập đến ghe thì la bàn từ
giả mạo kia bị lắc và không lay chuyển
được nữa, góc độ của hướng
đi sai ngay. Nếu tài công không để ý và không
biết hướng gió, sóng và các chòm sao thì lái ghe
sẽ sai hướng. Vì thế mỗi lần tôi
tỉnh giấc và xem lại thì đôi khi thấy ghe
đi lạc hướng, tôi phải điều
chỉnh ghe để có hướng đi đúng
trở lại. Ngoài ra tôi còn nghĩ đến, vào
một thời điểm nào đó các tài công cũng
mệt nhừ người, thì họ vừa lái ghe và
sẽ vừa buồn ngũ là chuyện khó có thể
tránh. Tôi nghi ngờ như vậy. Nói chung, lái ghe trên
biển cũng khá phức tạp. Những đêm
bị mưa gió, trời mù, thì không thấy chòm sao
Nam Tào. Do đó tôi phải thường nắm tay lái.
Vùng biển Côn Sơn và Phú quốc tôi cũng đã
quen thuộc phần nào. Khi đi thực tập trên
Hoả Vận Hạm HQ471 đầu năm 1971, cũng
như khi tôi phục vụ dưới Dương
Vận Hạm HQ503 cũng đã có mấy lần
chiến hạm đi công tác đến đảo Phú
Quốc và đảo Côn Sơn. Nhờ vậy tôi cũng
biết được hướng sóng gió ở vùng
Côn Sơn.
Suốt
mấy ngày vượt biển tôi không lo lắng
được gì cho 2 con tôi. Tất cả đều
để cho vợ tôi trông nom 2 cháu. Bà xã tôi hiểu
được nỗi lo âu của tôi trong khi lái ghe nên
không có một lời than thở. Thật tội
nghiệp!
Có
1 lần vào ban ngày vì biển động, sóng hơi
lớn nên 1 thùng dầu Diesel dự trữ đặt
phía sau lái khoảng 200 lít rơi xuống biển. Tôi
phải ngưng ghe lại và nhờ anh Thọ (hiện
đang cư ngụ tại Nam California) nhảy
xuống biển để cùng chúng tôi vớt thùng
dầu lên. Đến hôm nay tôi vẫn còn thầm
phục tinh thần của anh ấy. Lúc đó không
mấy ai dám nhảy xuống biển mênh mông như
vậy. Tôi quyết định là phải vớt thùng
dầu lên cho bằng được. Tôi nói với các
bạn thanh niên cùng đi rằng con đường
chúng ta đi còn xa lắm. Nếu chúng ta thiếu
dầu, chết máy thì khi biển động ghe
sẽ bị lật chìm ngay vì chúng ta không thể
điều khiển được chiếc ghe để
lái chếch sóng. Họ nghe lời tôi và quyết tâm
phải vớt thùng dầu. Tôi phải tận
dụng những phương pháp cứu người
trên biển cũng như những cách thắt mũi
dây mà tôi đã học được ở những
chiến hạm và khi tôi còn là một Huynh trưởng
Đoàn trưởng Gia Đình Phật Tử ngoài
miền Trung để ứng dụng lúc nầy. Chúng
tôi dùng 1 sợi dây và 2 cây cọc trên ghe để kéo
thùng dầu lên. Rất khó khăn vì thùng dầu quá
nặng nhưng chúng tôi đã vớt được.
Xin cảm ơn Trời Phật!
Sau những ngày đêm ghe vượt trùng dương
bát ngát, lướt sóng gió, đi trong mưa, hướng
Tân Gia Ba, vào một ngày nọ chúng tôi thấy 3 ghe khá
lớn (Thái Lan hoặc Mã
Lai Á) đang đánh cá. Chúng tôi quyết định
chạy đến gần chúng để hỏi
biết vị trí ghe đang ở đâu trên biển.
Có lẽ vì bận đánh cá nên chúng cứ thản
nhiên chạy đi hướng khác. Họ không màn
đến chúng tôi muốn tới gần họ. Chúng
tôi dùng hoả châu phóng lên tia hồng ngoại tím thì
họ mới dừng lại. Khi đến gần
họ, tôi đứng trên mui ghe và hỏi chúng
bằng tiếng Anh để biết vị trí ghe
đang ở đâu và hướng Singapore. Họ
chỉ cần nghe và hiểu chữ Singapore nên họ
chỉ tay về hướng Nam như chúng tôi đang
đi. Đồng thời, tôi dùng sợi
dây nhỏ cột tấm hải đồ chuyển
qua ghe họ để nhờ họ xác định trên
bản đồ vị trí chiếc ghe của chúng tôi
đang đi vì ghe họ có gắn Radar. Ngoài ra chúng tôi
còn xin được thêm 2 thùng nước uống,
khoảng 50 lít. Tôi
cảm ơn lòng tốt của họ.
Khi cầm tấm hải đồ với địa
điểm ghe đánh cá vừa xác định
bằng bút chì, tôi tin rằng có thể những ghe
đó không phải là hải tặc Thái Lan vì
những ghe đó đang đánh cá ở vùng biển
nằm ngoài khơi của bờ biển Mã Lai Á. Tuy
vậy, trong lòng tôi vẫn lo ngại.
Sau
đó ghe chúng tôi tiếp tục nhắm hướng
Tân Gia Ba mà chạy. Đi được một ngày
thì bổng nhiên tôi nhìn thấy từ xa xa ở hướng
Nam hiện ra một đốm đen. Dùng ống dòm
để quan sát, tôi mới rõ đó là
chiếc máy bay trực thăng đang bay về hướng
chúng tôi. Trực thăng càng lúc càng hiện rõ hơn.
Chúng tôi, tất cả mọi người trên ghe
rất vui mừng khi thấy máy bay trực thăng.
Khi đến gần, một người trên máy bay
chỉ tay vào chúng tôi và ra dấu tiếp tục
đi về hướng Nam. Nhìn về hướng Nam
chúng tôi thấy một con tàu cở lớn từ
từ hiện ra. Sau
nầy tôi được nghe kể lại rằng khi
tàu Cap Anamur được trực thăng cho biết
đã phát hiện ghe tỵ nạn chúng tôi thì
thuyền trưởng cho 2 máy tiến full (với
tốc độ tối đa) hầu kịp thời
ngăn chận mọi bất trắc có thể
xảy ra cho ghe chúng tôi. Và sau khoảng 2 tiếng
đồng hồ thì tàu đã đến gần chúng
tôi. Trên tàu, thuỷ
thủ đoàn phóng loa kêu gọi chúng tôi đừng
sợ hải, hảy bình tỉnh. „Đây là tàu CAP
ANAMUR của Tây Đức đang
cứu vớt các bạn“.
Thế là mọi người trên ghe đều
lộ vẻ vui mừng khôn tả nhưng tôi vẫn
yêu cầu họ hãy bình tỉnh, giữ trật
tự, ở đâu ngồi đó. Nếu di động
không trật tự thì ghe có thể bị lật úp
hoặc ghe sẽ bị nghiêng, bị vô nước và
chìm, nhất là lúc ghe đang cập vào tàu. Lần
nữa, mọi người nghe lời yêu cầu
của tôi và ở đâu ngồi đó. Họ cũng
đã thấy vợ và 2 con của tôi cũng ngồi
yên tại chổ. Tôi thầm cảm ơn họ. Bây
giờ tôi cảm thấy khả năng hàng hải
rất hửu dụng của mình sau 2 năm được
đào tạo ở trường Sĩ quan Hải quân
Nha trang và gần 9 tháng thực tập trên các
chiến hạm HQ471, HQ10 cũng như những năm
phục vụ trên Dương Vận Hạm HQ503.
Sau khi ghe tôi
đã được cập vào tàu Cap Anamur, những
thuỷ thủ của tàu cũng bắt đầu
xuống ghe tôi. Họ dùng cần cẩu trên boong tàu
để giúp chúng tôi lần lượt đưa
tất cả 148 người trên ghe lên tàu của
họ. Tôi rời khỏi ghe sau cùng. Sau khi mọi người
trên ghe đã được di chuyển lên tàu Cap
Anamur thì thuỷ thủ đoàn đã phá huỷ ghe chúng
tôi để nhận chìm xuống đáy biển.
Chiếc ghe thật mỏng manh đối với
biển cả mênh mông, giờ đây từ từ
đi vào lòng biển. Tôi hướng mắt nhìn ghe
lần cuối, hiện lên một vẻ buồn không
tưởng, nhưng với tâm niệm „có sinh thì có diệt“
theo giáo lý nhà Phật, tôi cũng cố quên đi. Tôi thầm cảm ơn
chiếc ghe đã
cưu mang 148 đồng bào thân yêu bỏ nước
ra đi, trong đó có tôi cùng gia đình. Ghe đã
đưa chúng tôi đến bờ tự do.
Trên tàu Cap
Anamur, chúng tôi được thuyền trưởng cùng
thuỷ thủ đoàn chào đón một cách niềm
nỡ và họ nấu cháo cho chúng tôi ăn sau
nhiều ngày đói khác trên biển. Họ cũng săn
sóc thuốc men cho chúng tôi nếu có người
bệnh hoạn. Trước những cử chỉ thân
thiện của thuỷ thủ đoàn trên tàu, họ
đã hỗ trợ tinh thần rất nhiều cho chúng
tôi nhằm nhanh chóng phục hồi lại sức
khoẻ.
Sau khi họ đã cứu vớt chúng tôi, tàu
tiếp tục di chuyển trên biển đông ở
gần bờ biển Việt Nam khoảng 10 ngày
nữa để tiếp tục cứu vớt thêm 4
chiếc ghe vượt biên khác, tiếp nhận
khoảng trên 500 người.
Tại hải cảng Tân Gia Ba
Sau
cùng, con tàu ân nhân Cap Anamur chở chúng tôi đến
hải cảng Tân Gia Ba vào những ngày đầu tháng
7 năm 1980. Đó là chuyến thứ 8 của tàu Cap
Anamur ra khơi cứu vớt người vượt
biển tìm Tự Do trở lại cảng. Gọi
tắt là Cap Anamur 8. Tàu không
cập bến, chỉ neo trong hải cảng. Ở
đó chúng tôi được chích thuốc ngừa.
Không một ai được lên bờ.
Cao Uỷ Liên hiệp Quốc tại Tân
Gia Ba cũng xuống tàu để phỏng vấn chúng
tôi. Người nào có thân nhân ở hải ngoại
thì được ưu tiên thiết lập danh sách
đi đoàn tụ gia đình nhưng họ cũng
phải đến trại tỵ nạn tạm trú
một thời gian. Riêng vợ chồng tôi thì bấy
giờ có người bác phía vợ đang hành
nghề luật sư bên Gia Nã Đại. Nhưng khi
tôi trình bày nguyện vọng muốn đi Mỹ thì
Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc nói rằng: Bạn
và gia đình đã được tàu Tây Đức
vớt, vậy bạn và gia đình có thể ưu tiên
đi Tây Đức. Nếu bạn đồng ý thì
trong mấy ngày nữa bạn sẽ đi ngay và không
cần lên trại tỵ nạn chờ đợi. Tuy
nhiên bạn cũng có thể đi Gia Nã Đại
theo diện bảo lãnh, nhưng bạn và gia đình cũng
phải qua tạm trú tại trại tỵ nạn
ở
Sau khi được phỏng vấn, tôi
đã thảo luận với vợ về vấn
đề đi định cư ở nước
thứ ba. Vợ chồng chúng tôi cũng ngại ngùng
ở đảo vì có 2 con còn quá nhỏ. Cháu lớn
nhất lúc bấy giờ được 3 tuổi và
cháu thứ hai chỉ được 18 tháng. Hơn
nữa chúng tôi cũng không muốn cậy nhờ ông
bác vợ ở Gia Nã Đại bảo lãnh. Thế thì
tôi quyết định đưa gia đình qua Tây
Đức xin tỵ nạn cọng sản. Tôi tâm
niệm: „trời sinh voi,
sinh cỏ“. Vợ chồng tôi đồng quan
điểm rằng ở đâu có Tự Do Dân
Chủ là nơi đó chúng tôi có thể định
cư và sẽ cố gắng xây dựng lại cuộc
đời mới. Chúng tôi đã trải qua
nhiều hiểm nguy, nhiều lần vượt biên
trước bị bắn, nhiều cay đắng,
nhiều gian truân, nhiều lần vô tù. Vợ con tôi
cũng chịu cùng cảnh ngộ, cũng chịu
đói khác, bịnh hoạn như mọi người
tù khác. Giờ đây chúng tôi đã may mắn
gặp được tàu cứu vớt thì dù có
đi định cư bất cứ ở xứ nào cũng
đều tốt cả, miễn sao xứ đó có Tự Do Dân Chủ là được rồi.
Nhớ lại những năm xưa,
mỗi lần vợ tôi sinh con là tôi bị ở trong
tù. Con đầu lòng được sinh ra khi tôi
ở trong “tù cải tạo” được 8 tháng
tại Trảng Lớn, Tây Ninh. Con thứ hai được
sinh ra khi tôi ở tù vượt biên tại Côn Đảo.
Với tâm niệm: “Chỉ
có tinh thần là quan trọng”, một bài học
rất quý giá, hàm súc nhiều ý nghĩa thâm sâu mà tôi
học được từ Trường Sĩ Quan
Hải Quân Nha Trang của thuở nào đã giúp tôi
nhiều nghị lực để vượt qua
mọi trở ngại và tiến lên. Suy gẫm
cuộc đời, bài học đó đã được
chứng minh.
Ngày
đầu tiên đến Tây Đức:
Khi tôi quyết định đưa gia
đình đi Tây Đức để định cư,
thì Cao Uỷ Liên Hiệp Quốc lo tiếp thủ
tục giấy tờ cho gia đình tôi. Thế là sau vài
ngày chờ đợi trên tàu Cap Anamur ở hải
cảng Tân Gia Ba, gia đình tôi cùng với một
số bà con vượt biên khác được chích
thuốc ngừa và được phân phối
quần áo mới để đi định cư
tại Cọng Hoà Liên Bang Đức (Bundes Republik
Deutschland) ở Tây Đức (West Germany).
Một buổi sáng tinh sương, chúng
tôi được hướng dẫn lên xe buýt đang
đậu ngay bến cảng để được
chở ra phi trường Tân Gia Ba. Xe buýt chạy xuyên
qua thành phố Tân Gia Ba, có cả thuyền trưởng
tàu Cap Anamur là ông Werner Urban cùng đi về Tây
Đức. Một thành phố rất khang trang và
sạch sẻ. Rất tiếc rằng tôi chưa có
dịp để thăm phố thị muôn màu của
bán đảo nầy.
Khi
qua Tây Đức tôi được biết thêm,
vào năm 1979 Liên Hiệp Quốc
họp tại Geneve, Thụy sĩ, đã kêu gọi
những quốc gia Tây Âu cứu nhận nạn nhân
đến từ Đông Dương, nhất là đồng
bào chạy tỵ nạn từ Việt Nam. Riêng chính
quyền Tây Đức đã đồng ý sẽ
nhận khoảng 30.000 người tỵ nạn
từ Đông nam Á, đặc biệt là từ
Việt
Sau thời gian ngắn xe buýt đã đến
phi trường Tân Gia Ba.
Tôi còn nhớ, khi ông thuyền trưởng Werner Urban cùng đi với chúng tôi đến phi trường Tân Gia Ba, ông ta ứa nước mắt trước khi lên máy bay Lufthansa. Có lẽ ông rất xúc động đã cứu được nhiều thuyền nhân và giờ đây họ sẽ lên đường đến một xứ lạ là quê hương của ông, một quê hương đang có Tự Do Dân Chủ và có những hành động nhân đạo.
Vào buổi chiều tối, chiếc phi cơ Lufthansa của Tây Đức chở 145 người vượt biên xin tỵ nạn tại Tây Đức, trong đó có gia đình tôi rời phi trường Tân Gia Ba. Sau khoảng 12 giờ bay vào ban đêm, phi cơ hạ cánh tại phi trường Frankfurt am Main, Tây Đức vào buổi sáng sớm ngày 15.7.1980.
Tại đây, một số người tỵ nạn trong nhóm chúng tôi được đổi máy bay tiếp tục đi lên miền Bắc Đức ở Hamburg, hoặc đến tiểu bang Rheinland-Pfalz, hoặc đi Saarbruecken. Một số người đi lên thành phố Bremen. Một số khác đi qua Tây Bá Linh. Tây Bá Linh nằm trong lòng Đông Đức. Lúc bấy giờ thành phố Bá Linh được chia làm hai phần bởi bức tường ô nhục do chính quyền cọng sản Đông Đức dựng lên vào ngày 13.8.1961 để chia thành phố Bá Linh ra làm hai nhằm ngăn chận dân chúng Đông Đức từ bỏ chế độ cọng sản để chạy sang Tây Bá Linh là phần đất tự do để tỵ nạn. Sau đệ Nhị thế chiến, Đức Quốc Xã thua trận nên một nửa thành phố đông Bá Linh thuộc về quân đội Nga quản chế và một nửa thành phố tây Bá Linh thuộc về quân đội đồng minh Mỹ, Anh, Pháp. Chung quanh thành phố Bá Linh thuộc nước Cộng Hoà Dân Chủ Đức (DDR: Deutsche Demokratische Republik). Đó là quốc gia theo chế độ cộng sản.
May mắn thay, gia đình tôi không đi Bá Linh. Chúng tôi cùng một số người tỵ nạn khác, tổng cọng khoảng 100 người ở lại chờ đợi để đổi máy bay đi đến phi trường Duesseldorf thuộc tiểu bang Nordrhein-Westfalen bên Tây Đức.
< span style="color: navy">Trong lúc chờ máy bay để đi tiếp tục, tôi và 2 con đứng bên cửa sổ của phòng chờ đợi, hướng mắt ra xa. Nhìn qua cửa kiếng, hướng về những cao ốc, tôi đoán rằng đó là trung tâm thành phố Frankfurt . Lòng mình xôn xao làm sao!. Suy nghĩ về quá khứ, nhớ về quê hương rồi nhìn về tương lai, tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn. Nghĩ về cuộc đời binh nghiệp, đã bao nhiêu năm chinh chiến, tôi suy tưởng, ít ra mình cũng đóng góp phần nào cho quê hương, cho Tổ Quốc để bảo vệ tiền đồn Tự Do. Bây giờ có rời xa quê hương mình cũng không ân hận cho lắm. =
"Nhớ nước đau lòng con quốc quốc. Thương nhà mỏi miệng cái gia gia“. …
Tây
Đức mùa nắng hạ 2008
Nguyễn văn
Phảy
vgpgermany@gmx.net
Ghi chú: Một số hình ảnh trên được trích trong cuốn sách “Thế Kỷ Người Tỵ Nạn”(Das Jahrhundert der Fluechtlinge) do Uỷ Ban Bác Sĩ Cấp Cứu Đức (Deutsches Komitee NOT-Aerzte) biên soạn năm 1981.
Bia đá Thuyền Nhân Việt Nam tại đảo Galang, Indonesia, tưởng niệm những nạn nhân Cộng Sản đã đến được bến bờ tự do hoặc đã bỏ thây trên biển cả. Trại tị nạn Galang trên một hòn đảo ở Indonesia đã đón tiếp khoãng nửa triệu thuyền nhân Tị nạn Cộng Sản vào các năm 1978-1990. Việt Cộng đã làm áp lực với chính quyền Indonesia đục bỏ những dòng chử ghi chép tưởng niệm thuyền nhân. Tuy nhiên hành động kém can đảm nầy không mang lại kết quả mong muốn cho một chính thể độc tài. Nhiều tượng đài, bia đá tưởng niệm khác đã và đang tiếp tục được dựng lên trên khắp thế giới để tưởng nhớ nạn nhân của chế độ bạo tàn Việt cộng / Cộng Sản.
Suýt chết giữa biển khơi, người tị nạn Việt Nam tìm gặp ân nhân sau 37 năm | Sài Gòn Xưa
https://www.youtube.com/embed/wKGM3OxcDes?si=rLqD9y_JyaQ_Vy5Z
Hành Trình Sang Na Uy Của Gia Đình Hương Xa | 30.09.23
https://youtu.be/EKFy1Bd_-JA?si=ClhGnY3xmNC5RM2c
|
No comments:
Post a Comment