Listed the series of Xiongwangshi as follows:
Họ Hùng trong nuớc Văn Lang thời Hồng Bàng
1. King Luyang (Kinh Dương Vương: 2879-2794 TCN), that is, King Jingyang
2. Hùng Hiển Vương (Hùng Hiển Vương: 2793-2525 TCN), that is, Lord Dragon
3. King Xiong (Hùng Quốc (Lân) Vương: 2524-2253 TCN ) Xiong Lin
4. King Xiong Ye (Hùng Diệp Vương: 2252-1913 TCN)
5. Hung Sacrificial King (Hùng Hy Vương: 1912-1713 TCN)
6. King Xionghui (Hùng Huy Vương: 1712-1632 TCN)
7. King Xiong Zhao (Hùng Chiêu Vương: 1631-1432 TCN)
8. King Xiongwei (Hùng Vĩ Vương: 1431-1332 TCN)
9. King Xiongding (Hùng Định Vương: 1331-1252 TCN)
10. King Xiongxi (Hùng Hi Vương: 1251-1162 TCN)
11. King Xiongzhen (Hùng Trinh Vương: 1161-1055 TCN)
12. King Xiongwu (Hùng Vũ Vương: 1054-969 TCN)
13. King Xiongyue (Hùng Việt Vương: 968-854 TCN)
14. King of Heroes (Hùng Anh Vương: 853-755 TCN)
15. Hung Dynasty King (Hùng Triệu Vương: 754-661 TCN)
16. Hung Tao Vương (Hùng Tạo Vương: 660-569 TCN)
17. King Xiongyi (Hùng Nghị Vương: 568-409 TCN)
18. Hung Tuyen Vương (Hùng Tuyên Vương: 408-258 TCN)
3
4
Tài liệu họ Hùng / 熊 / Xiong, lấy từ nhiều nguồn trong Wiki, từ tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, và đến chữ Hán. Để cho được đầy đủ.
Yan Emperor
Shennong being known as Yandi perhaps posthumously. Accordingly, the term "flame emperors" would be generally more correct. The succession of these flame emperors, from Shennong, the first Yan Emperor, until the time of the last Yan Emperor's defeat by the Yellow Emperor, may have been some 500 years.[3]
Trước khi bị nhà Tần 秦 (Ch’in) thâu tóm, chiếm lĩnh, Ngô và Việt lẫn Sở là liên bang nước Văn Lang.
Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở…
Có hai giải thích về danh xưng Hùng Vương:
- Một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở,
- Hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt.
Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hạ gọi dân miền Nam không phải là người Trung Nguyên.
Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ.
Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu) là vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, trong cổ sử của Tàu thì không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại Hùng Vương = 雄 – hùng mạnh sau này.
«Vua Đế Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, căn dặn hai thái tử rằng:
«Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hòa mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn».
1. Triều đại Thần-Nông Bắc.
Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)
Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)
Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch)
Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch).
Ðến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, triều đại trị vì được 520 năm.
2.Thần-Nông Nam.
Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh-Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt có thể nói rằng: Chúng ta đã có năm nghìn năm văn hiến. (1)
Yuxiong / Dục Hùng / 鬻熊
Hùng (熊, Xiong) là một tên họ của người Việt Nam thời cổ đại. Họ này có mặt ở Việt Nam. Họ này được coi là một trong các họ cổ nhất, theo truyền thuyết những người họ Hùng là hậu duệ trực tiếp của Đế Viêm Thần Nông (Yandi) Yan Emperor, vị vua thời cổ đại của Việt tộc. Trong danh sách Bách gia tính, họ Hùng đứng thứ 121.
Người Việt Nam họ Hùng
• Dòng họ của 18 đời Hùng Vương, các vị vua của nước Văn Lang cũ họ Hùng.
• Các vua nước Sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc như Sở Trang Vương - Hùng Lữ, Sở Hoài Vương - Hùng Hòe
Xiong surname in regular script
- Hùng Họ Hùng viết bằng chữ Hán:
熊
- Tiếng Việt, Chữ Quốc ngữ:
Hùng
- Pinyin romanization:
Xiong
Xiong is the pinyin romanization of the surname 熊 (Xióng). It is 41st in the Hundred Family Surnames, contained in the verse 熊紀舒屈 (Xiong, Ji, Shu, Qu).
Contents
• 1 Romanizations
• 2 Distribution
• 3 Origins
• 4 List of persons with the surname
o 4.1 Xiong
o 4.2 Hsiung
o 4.3 Hung
o 4.4 Song
o 4.5 Yoong
• 5 References
Romanizations
熊 is also romanized as Hsiung2 in Wade-Giles. It is:
→ Hung or Hong in Cantonese;
→ Him in Hokkien,
→ Hong or Yoong in Hakka;
→ Hiōng in Gan;
→ Hùng in Vietnamese; and
→ Xyooj in H'mong.
Note that "Hong" and "Hung" may also refer to the unrelated surname 洪.
Distribution
Người Trung Quốc mang họ Hùng:
• Hùng Đinh Bật, đại tướng cuối đời nhà Minh
• Hùng Thập Lực, nhà triết học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX
• Hùng Khánh Lai, nhà toán học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX
• Hùng Nghê, lực sĩ lặn Trung Quốc từng giành ba giải huy chương vàng Olympic.
• Hùng Nãi Cẩn, diễn viên Trung Quốc.
Người họ Hùng khác
• Alex Yoong (chữ Hán: 熊龙, Hán Việt: Hùng Long), tay đua Công Thức một người Malaysia.
熊 is the 71st most common surname in mainland China.
Although Chinese make up the largest part of America's Asian and Pacific Islander population, none of the romanizations of 熊 appeared among the 1000 most common surnames during the AD 2000 US census.
Origins
❖ Xiong's literal meaning is "bear", Xiong (熊) is branch to Mi (surname) (芈) of Chu (state).
❖ Xiong traces back to the aboriginal Thần Nông tribe culture hero Fuxi, who was also styled "Huangxiong" (黄熊, lit. "Yellow Bear"). One archaic form of the surname combined this into a single character 𪏛.
❖ Yuxiong (鬻熊), the progenitor of Chu, was the tutor of King Wen of Zhou and died during his reign.
After Zhou overthrew the Shang Dynasty, Yuxiong's descendants took Xiong as their clan name and remained prominent at court.
Dư Hùng/Dục Hùng (鬻熊), tổ tiên của nước Chu, là gia sư của vua Văn nước Chu và qua đời trong thời gian trị vì.
Sau khi nhà Chu lật đổ nhà Thương, con cháu của Dục Hùng/Yuxiong đã lấy tên họ Xiong làm tên gia tộc của họ và vẫn giữ chức trọng yếu trong triều đình.
⚫ Yuè hay Yú Yuè, Yut ở Yuè, là một quốc gia bản địa, trong thời kỳ Xuân Thu, nó không phải của Trung Quốc ở miền đông Trung Quốc. Nó chỉ trở thành lãnh thổ của Trung Quốc vào đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên. Một trong những Chiến quốc, chính bằng cách thâu tóm và tiếp thu từ vương quốc Woú (Ngô), nước láng giềng phía bắc của nó có dân cư là Yuè. Thủ đô phía bắc của nó là Láng Yé đã được chuyển giao vào năm 379 trước Công Nguyên. J.-C.
⚫ Ở Woú, gần Thượng Hải ngày nay. Bị đánh bại nặng nề vào năm 331 trước Công nguyên. Thông qua vương quốc Chu, nước láng giềng phía tây của nó, Yuè đã nhượng lại phần lớn lãnh thổ của mình cho nước này vào năm 247 trước Công nguyên. J.-C.
⚫ Từ năm 222 TCN. Dưới triều đại của nhà Tần / Ts'in Chi Houang, Yú Yuè đã chịu đựng ở miền nam Trung Quốc thông qua tầng lớp quý tộc của mình được gấp lại trong lưu vực sông Min, nơi nó được thành lập vào năm 202 trước Công nguyên. J.-C.
⚫ Các Minyue. Một khu định cư trên bờ biển Chiết Giang ngày nay đã giành được độc lập vào năm 193 trước Công nguyên. Ông thành lập Dōng Yuè hay Đông Yuè. Hai quốc gia này đã bị nhấn chìm xuống biển vào năm 138 trước Công nguyên.J.-C. bởi Nanyue hoặc Nam Yuè, một thuộc địa khác của các thương nhân Trung Quốc nằm xa hơn về phía nam ở Quảng Đông ngày nay, và sáp nhập với Minyue vào năm 111 trước Công nguyên. J.-C. của Hán Trung Quốc, người đến từ miền Bắc.
⚫ Biểu tượng Yuè hoặc Yueh, 戉 trong văn bản truyền thống, 越 trong văn bản hiện đại, được phát âm giống như một nghĩa là mặt trăng 月 nhưng có một từ nguyên khác, [wjat] một hoặc [gjwat] hai trong tiếng cổ ngữ xưa.
Yuè hay Yú Yuè, Yut -- 戉 Nó dựa trên một dấu hiệu vẽ một chiếc rìu móc, một loại halberd được liên kết với các thuật ngữ liên quan đến quân đội, nó được phát âm là "Việt" trong tiếng Việt3 và Iout [yut] trong tiếng Quảng Đông đương đại dành cho người của Vua Yuè (en) ở cái gọi là thủ đô sigillary của gia cầm, đặc trưng cho Yú Yuè của thế kỷ thứ năm trước Công nguyên (Yuè, trên cùng bên phải).
⚫ Từ thời cổ đại Trung Quốc đến thời hiện đại, thuật ngữ Yuè này đề cập đến tất cả các loại quốc gia biên giới của gần Trung Quốc, chẳng hạn như Tiānyuè, Nanyue có nghĩa là miền nam Yuè, tên của nó đã được bảo tồn bởi phần Nam Việt phía nam và tương lai của nó, Louòyuè, Kanyuè, đã đặt tên cho sông Kan và lưu vực của nó, tất cả được nhóm lại một cách không rõ ràng dưới một hình thức có nghĩa là đám đông man rợ.
L'idéogramme Yuè ou Yueh, 戉 en écriture traditionnelle, 越 en écriture moderne, se prononce comme celui signifiant lune 月 mais a une étymologie différente, [wjat]1 ou [gjwat]2 en chinois archaïque. Il est basé sur un signe dessinant une hache crochue, sorte de hallebarde, qui est associé à des termes relatifs aux militaires. Il se prononce Viet en vietnamien3 et Iout [yut] en cantonais contemporain.
Fait pour la personne du Roi du Yuè (en) en capitales sigillaires dite aviaires, propres au Yú Yuè du ve siècle av. J.-C. (Yuè, en haut à droite).
Depuis l'Antiquité chinoise jusqu'à l'époque moderne, ce terme de Yuè désigne toutes sortes d'États frontaliers de l'Empire du Milieu, tels le Tiānyuè, le Nanyue c'est-à-dire Yuè du sud, dont le nom a été conservé par sa partie méridionale et futur Nam Viet, le Louòyuè (en), le Kanyuè, qui a donné son nom à la rivière Kan et son bassin, tous regroupés indistinctement sous une expression signifiant multitude barbare.
⚫ Sự rút lui của Hsī Yuè hay Yuè của phía tây ở nước Chuang (208 TCN).
⚫ Quyết định của Yuè vào thời điểm đó được sử dụng bởi các nhà ngoại giao của triều đình Trung Quốc và được các nhà sử học theo dõi họ, để chỉ định nhiều thực thể chính trị ở miền nam Trung Quốc.
⚫ Ōu Yuè hay Âu Việt là một thuộc địa được thành lập năm mươi hai năm trước đó, vào năm 258 TCN. AD, bởi một vị tướng của vương quốc Choǔ, người cũng là An Dương Vương bị lật đổ vào năm 208 trước Công nguyên. AD của người sáng lập Nán Yuè, Jào Touó.
⚫ Những người kế vị của họ rút lui về nước Chuang được gọi là Tây Ōu Yuè hoặc Hsī Ōu 西甌. Cái tên này có thể không quá nhiều từ nguồn gốc Yuè của những người sáng lập vương quốc này như từ một công trình trí tuệ liên kết tất cả các loại quốc gia phía nam dưới cùng một thuật ngữ. Do đó, Tư lệnh Ítchōou, được thành lập vào năm 109 trước Công nguyên. J.-C.
Le repli des Hsī Yuè ou Yuè de l'ouest en pays Tchouang (208 av. J.-C.).
Le déterminatif de Yuè est à cette époque employé par les diplomates de la cour impériale chinoise, et par les historiens à leur suite, pour désigner de multiples entités politiques du Sud de la Chine. Le Ōu Yuè (en) ou Âu Việt est une colonie fondée cinquante deux ans plus tôt, en 258 av. J.-C., par un général du royaume de Choǔ, qui est ce même An Dương Vương renversé en 208 av. J.-C. par le fondateur du Nán Yuè, Jào Touó. Leurs successeurs repliés en pays Tchouang sont dès lors appelés Ōu Yuè occidentaux (en) ou Hsī Ōu 西甌. Cette dénomination ne procède peut être pas tant d'une origine Yuè des fondateurs de ce royaume que d'une construction intellectuelle associant toutes sortes d'États méridionaux sous ce même terme. C'est ainsi que la commanderie de Ítchōou, fondée en 109 av. J.-C.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b5/Text_on_Sword_of_Gou_Jian.svg/800px-Text_on_Sword_of_Gou_Jian.svg.png
• La distinction Hua-Yi (chinois traditionnel: 華夷之辨 ; simplifié: 华夷之辨 ; pinyin: huá yí zhībiàn) est un concept de la Chine ancienne qui différencie une culture définie comme « chinoise» (nommée hua 華 ou huaxia 華夏, ou xia 夏) en opposition à une culture ou ethnie extérieure (nommée yi 夷). Bien que le yi soit souvent traduit par « barbare », il peut se référer de manière générique à des «autres », c'est-à-dire tout groupe perçu comme culturellement différent, non-chinois ou étranger.
Sinocentrisme
Yue
en Yue 越
en cantonais Yut
en vietnamien Việt
Fait pour la personne du Roi du Yuè
Hua-Yi ayrımı
9 dil
• Madde
• Tartışma
• Oku
• Düzenle
• Kaynağı değiştir
• Geçmişi gör
Vikipedi, özgür ansiklopedi
Huá ile Yí arasındaki ayrım (Çince: 華夷之辨; pinyin: Huá Yí zhī biàn), Çin-barbar ayrımı olarak da bilinir, Çin kültüründe kültürel olarak belirlenmiş bir "Çin"i (Huá, Huaxia 華夏 Huáxià, ya da Xià 夏 olarak bilinir) bu kültür veya bu etnik gruba ait olmayan yabancılardan (Yí [en]) ayırt etmek için tarihî olarak kullanılmış bir kavramdır. Yí kelimesi yabancı kaynaklarda sık sık "barbar" (İngilizce: barbarian) şeklinde çevirilse de, İngilizce kaynaklarda "foreigners" (yabancılar),[1] "ordinary others" (sıradan ötekiler),[2] "wild tribes" (vahşi kabileler)[3] ve "uncivilised tribes" (medeniyetsiz kabileler)[4] gibi çeviriler de yer alır. Hua-Yi ayrımında Çin'in üstünlüğü vurgulansa da, yabancıların Çin değerleri ve adetleri benimseyerek kendileri de Hua olma ihtimaline sahip oldukları düşüncesi de mevcuttu. Bu kavramlar Çinlilere özgü değildi ve Çin'in yerine kendilerini asıl gerçek "Orta Krallık" (Zhongguo) olarak gören Vietnamlılar, Japonlar ve Koreliler tarafından da uygulandı.
Chu (Staat)
Chu (楚, pinyin Chǔ, W.-G. Ch'u , Old Chinese *s-r̥aʔ [1] ) Chu 楚 was a kingdom in what is now southern China during the Western Zhou Dynasty (1046 to 771 BC.), the period of the Spring and Autumn Annals (722 to 481 BC) and the Warring States period (475 to 221 BC) was originally the country was known as Jing (荆) Kinh and later as Jingchu (荆楚)/Kinh Sở famous.
The greatest extent formed an extensive area, including those of present-day Hunan, Hubei, Chongqing, Henan, and parts of Jiangsu Province.
The culture and politics based on eastern Asia shamanism were characteristic of the state of Chu. The collection of poems Chuci (Sở từ), which is considered the earliest complete written testimony of the shamanistic culture of Central Asia, originated in the state of Chu.*(Zhou/Chu/Sở)
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/b/b5/Text_on_Sword_of_Gou_Jian.svg/800px-Text_on_Sword_of_Gou_Jian.svg.png
Chu, or Ch'u[2] in Wade–Giles romanization, ( 楚, Hanyu Pinyin: Chǔ, Old Chinese: *s-r̥aʔ[3]) was a Zhou dynasty vassal state.
Their first ruler was King Wu of Chu in the early 8th century BCE. Chu was located in the south of the Zhou heartland and lasted during the Spring and Autumn period.
At the end of the Warring States period, Chu then it was destroyed by the Qin in 223 BCE during the Qin's wars of invation.
Also, Chu has known as Jing (荆) and Jingchu (荆楚), Chu included most of the present-day provinces of Hubei and Hunan, along with parts of Chongqing, Guizhou, Henan, Anhui, Jiangxi, Jiangsu, Zhejiang, and Shanghai. For more than 400 years, the Chu capital Danyang was located at the junction of the Dan and Xi Rivers[4][5] near present-day Xichuan County, Henan, but later moved to Ying.
The house of Chu originally bore the clan name Nai (嬭 OC: /*rneːlʔ/) which was later written as Mi (芈 OC: /*meʔ/). They also bore the lineage name Yan (酓 OC: /*qlamʔ/, /*qʰɯːm/) which would later be written Xiong (熊 OC: /*ɢʷlɯm/).
Người Sở có họ là Mi (芈姓). Một người Sở tên là Dục Hùng (dòng họ của Hùng Vương) giữ chức quan trong triều nhà Thương/Thang.
Hùng (熊, Xiong) là một tên họ của người Việt Nam, Việt tộc, họ này có mặt ở Việt Nam. Họ Hùng (熊, Xiong) này được coi là một trong các họ cổ nhất, theo truyền thuyết những người họ Hùng là hậu duệ trực tiếp của Đế Viêm Thần Nông, vị vua thời cổ đại của Việt tộc.
Trong danh sách Bách gia tính họ Hùng đứng thứ 121.
Người Việt Nam họ Hùng:
• Dòng họ của 18 đời Hùng Vương, các vị vua của nước Văn Lang cũ họ Hùng
• Các vua nước Sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc như Sở Trang Vương - Hùng Lữ, Sở Hoài Vương - Hùng Hòe
Xiong surname in regular script
Hùng Họ Hùng viết bằng chữ Hán.
Tiếng Việt
Chữ Quốc ngữ
Hùng
熊
Xiong
Xiong is the pinyin romanization of the Chinese surname 熊 (Xióng). It is 41st in the Hundred Family Surnames, contained in the verse 熊紀舒屈 (Xiong, Ji, Shu, Qu).
Contents • 1 Romanizations
• 2 Distribution
• 3 Origins
• 4 List of persons with the surname
o 4.1 Xiong
o 4.2 Hsiung
o 4.3 Hung
o 4.4 Song
o 4.5 Yoong
• 5 References
Romanizations
☛ 熊 is also romanized as Hsiung2 in Wade-Giles.
☛ It is Hung or Hong in Cantonese;
☛ Him in Hokkien,
☛ Hong or Yoong in Hakka;
☛ Hiōng in Gan;
☛ Hùng in Vietnamese;
☛ Xyooj in Hmong.
❖ Note that "Hong" and "Hung" may also refer to the unrelated surname 洪.
Distribution
Người Trung Quốc mang họ Hùng
• Hùng Đinh Bật, đại tướng cuối đời nhà Minh
• Hùng Thập Lực, nhà triết học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX
• Hùng Khánh Lai, nhà toán học Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX
• Hùng Nghê, vận động viên lặn Trung Quốc từng giành 3 huy chương vàng Olympic
• Hùng Nãi Cẩn, diễn viên Trung Quốc
Người họ Hùng khác
• Alex Yoong (chữ Hán: 熊龙, Hán Việt: Hùng Long), tay đua Công thức 1 người Malaysia
熊 is the 71st most common surname in mainland China.
Although Chinese make up the largest part of America's Asian and Pacific Islander population,[1] none of the romanizations of 熊 appeared among the 1000 most common surnames during the AD 2000 US census.
Origins
❖ Xiong's literal meaning is "bear", Xiong (熊) is branch to Mi (surname) (芈) of Chu (state).
❖ Xiong traces back to the legendary Chinese culture hero Fuxi, who was also styled "Huangxiong" (黄熊, lit. "Yellow Bear"). One archaic form of the surname combined this into a single character 𪏛.
❖ Yuxiong (鬻熊), the progenitor of Chu, was the tutor of King Wen of Zhou and died during his reign.
After Zhou overthrew the Shang Dynasty, ❖ Yuxiong's descendants took Xiong as their clan name and remained prominent at court.
King Wen's grandson King Cheng of Zhou (reigned 1042 – 1021 BC) awarded Yuxiong's great-grandson Xiong Yi the hereditary title of zǐ (子, roughly "viscount") and the fiefdom of Chu. [4] As it grew in power and importance, the Xiong dynasty formed its ruling house and the ruling houses of some of its successor states. To this day, the surname remains prominent in the provinces comprising the former territory of Chu.
List of persons with the surname
Xiong surname
See also: List of the kings of Chu
• Xiong Ni, Chinese diver and triple Olympic gold medalist
• Xiong Qinglai, Chinese mathematician
• Xiong Xianghui, Chinese diplomat
• Xiong Shili, Chinese philosopher
• Xiong Xiling
• Xiong Yaohua, real name of the Hong Kong-born Taiwanese wuxia novelist Gu Long
• Xiong Zhaoren, Chinese general
• Jeffery Xiong, United States chess grandmaster
Dylan XioXiong is the pinyin romanization of the Chinese surname 熊 (Xióng). It is 41st in the Hundred Family Surnames, contained in the verse 熊紀舒屈 (Xiong, Ji, Shu, Qu).
Contents
• 1 Romanizations
• 2 Distribution
• 3 Origins
• 4 List of persons with the surname
o 4.1 Xiong (Romanizations)
o 4.2 Hsiung (Gan)
o 4.3 Hung (Vietnamese)
o 4.4 Song (Mandarin)
o 4.5 Yoong (Hakka);
• 5 References
Romanizations
熊 is also romanized as Hsiung2 in Wade-Giles.
It is Hung or Hong in Cantonese;
Him in Hokkien,
Hong or Yoong in Hakka;
Hiōng in Gan;
Hùng in Vietnamese;
Xyooj in Hmong.
Note that "Hong" and "Hung" may also refer to the unrelated surname 洪.
Distribution[edit]
熊 is the 71st most common surname in mainland China.
Although Chinese make up the largest part of America's Asian and Pacific Islander population,[1] none of the romanizations of 熊 appeared among the 1000 most common surnames during the AD 2000 US census.[2]
Origins[edit]
Xiong's literal meaning is "bear", Xiong (熊) is branch to Mi (surname) (芈) of Chu (state).
Xiong traces back to the legendary Chinese culture hero Fuxi, who was also styled "Huangxiong" (黄熊, lit. "Yellow Bear"). One archaic form of the surname combined this into a single character 𪏛.[3]
Yuxiong (鬻熊), the progenitor of Chu, was the tutor of King Wen of Zhou and died during his reign.
After Zhou overthrew the Shang Dynasty, Yuxiong's descendants took Xiong as their clan name and remained prominent at court.
King Wen's grandson King Cheng of Zhou (reigned 1042 – 1021 BC) awarded Yuxiong's great-grandson Xiong Yi the hereditary title of zǐ (子, roughly "viscount") and the fiefdom of Chu.[4] As it grew in power and importance, the Xiong dynasty formed its ruling house and the ruling houses of some of its successor states. To this day, the surname remains prominent in the provinces comprising the former territory of Chu.[citation needed] List of persons with the surname[edit]
Xiong[edit]
See also: List of the kings of Chu
• Xiong Ni, Chinese diver and triple Olympic gold medalist
• Xiong Qinglai, Chinese mathematician
• Xiong Xianghui, Chinese diplomat
• Xiong Shili, Chinese philosopher
• Xiong Xiling
• Xiong Yaohua, real name of the Hong Kong-born Taiwanese wuxia novelist Gu Long
• Xiong Zhaoren, Chinese general
• Jeffery Xiong, United States chess grandmaster
• Dylan Xiong Ziqi, Chinese artist
Hsiung[edit]
• Chao Agnes Hsiung, Taiwanese biostatistician
• Hsiung Shih-I, Chinese writer
• Tiffany Hsiung, Canadian documentary filmmaker
Hung[edit]
• Lynn Hung, Chinese model
Song[edit]
• Brenda Song, Hmong American actress
Yoong[edit]
• Alex Yoong, race car driver
• ng Ziqi, Chinese artist Hsiung[edit]
• Chao Agnes Hsiung, Taiwanese biostatistician
• Hsiung Shih-I, Chinese writer
• Tiffany Hsiung, Canadian documentary filmmaker
Hung
• Lynn Hung, Chinese model
Song
• Brenda Song, Hmong American actress
Yoong
• Alex Yoong, race car driver
References
Chúc Dung (tiếng Trung: 祝融; bính âm: Zhù Róng, [tʂu˥˩ʐʊ̃˧˥]), bản danh là Trọng Lê (chữ Hán: 重黎), là một nhân vật huyền sử sống vào thời đế Cốc Cao Tân thị, theo Sử Ký Tư Mã Thiên - Sở thế gia thì ông là chắt của đế Chuyên Húc và là con trai của Quyển Chương.
Trọng Lê sáng tạo ra cách nấu qua vật cách nhiệt như: nồi đất, ấm đất, niêu đất; khiến món ăn có mùi vị và thơm ngon hơn, ông lại nghiên cứu ra các chất để khi cần có lửa ngay mà khỏi phải dùi cây hay mài đá nữa. Ví như ông ép dầu lạc tích trữ làm chất cháy, hoặc chế ra ngọn đuốc để có thể giữ lửa và di chuyển được cơ động trong bóng tối. Nhờ những phát minh trên mà Trọng Lê được đế Cốc biết đến mời vào trong triều đình phong làm quan to giữ chức Hỏa Chính cai quản về việc chế tạo và sản xuất lửa trong thiên hạ với danh hiệu là Chúc Dung (祝融),
Theo Sơn Hải kinh thì:
Chúc Dung là một trong những hậu duệ của Thần Nông thị.
Họ Hùng trong nước Thương và nước Sở
Thứ tự (thế hệ) | Thụy hiệu | Tên húy | Thời gian ở ngôi | Số năm | Quan hệ với vua trước | Ghi chú | |
---|---|---|---|---|---|---|---|
1 (1) | Sở Dục Hùng | Dục Hùng | thầy của Chu Văn vương | ||||
2 (2) | Sở Hùng Lệ | Hùng Lệ/Mị Lệ | con Dục Hùng | ||||
3 (3) | Sở Hùng Cuồng | Hùng Cuồng/Mị Cuồng | con Hùng Lệ | ||||
4 (4) | Sở Hùng Dịch | Hùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh) | con Hùng Cuồng | ||||
5 (5) | Sở Hùng Ngải | Hùng Ngải/Mị Ngải | con Hùng Dịch | ||||
6 (6) | Sở Hùng Đán | Hùng Đán/Mị Đán | con Hùng Ngải | ||||
7 (7) | Sở Hùng Thắng | Hùng Thắng/Mị Thắng | con Hùng Đán | ||||
8 (7) | Sở Hùng Dương | Hùng Dương/Mị Dương | em Hùng Thắng | ||||
9 (8) | Sở Hùng Cừ | Hùng Cừ/Mị Cừ | con Hùng Dương | ||||
10 (9) | Sở Hùng Chí | Hùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồng | con Hùng Cừ | ||||
11 (9) | Sở Hùng Duyên | Hùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì | ?-848 TCN | em Hùng Chí | |||
12 (10) | Sở Hùng Dũng | Hùng Dũng/Mị Dũng | 747 TCN-838 TCN | 10 | con Hùng Duyên | ||
13 (10) | Sở Hùng Nghiêm | Hùng Nghiêm/Mị Nguyên | 837 TCN-828 TCN | 10 | em Hùng Dũng | ||
14 (11) | Sở Hùng Sương | Hùng Sương/Mị Sương/Bá Sương | 827 TCN - 822 TCN | 6 | con Hùng Nghiêm | ||
15 (11) | Sở Hùng Tuân | Hùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân | 821 TCN - 800 TCN | 22 | em Hùng Sương | giành ngôi với hai anh | |
16 (12) | Sở Hùng Ngạc | Hùng Ngạc/Mị Ngạc | 799 TCN - 791 TCN | 9 | con Hùng Tuấn | ||
17 (12) | Sở Nhược Ngao | Hùng Nghi (Mị Nghi) | 790 TCN - 764 TCN | 27 | em Hùng Ngạc | ||
18 (13) | Sở Tiêu Ngao | Hùng Khảm/Mị Khảm | 763 TCN - 758 TCN | 6 | con Nhược Ngao | ||
19 (14) | Sở Phần Mạo/Sở Lệ vương | Hùng Thuận/Mị Thuận | 757 TCN - 741 TCN | 17 | con Tiêu Ngao | ||
20 (15) | Sở Vũ vương | Hùng Thông/Mị Thông | 740 TCN - Tháng 3/690 TCN | 51 | con Phần Mạo | ||
21 (16) | Sở Văn vương | Hùng Xi/Mị Xi | 689 TCN - 6/675 TCN TCN | 15 | con Vũ vương | ||
22 (17) | Sở Đổ Ngao | Hùng Gian/Mị Gian | 674 TCN - 672 TCN | 3 | con Văn vương | bị giết | |
23 (17) | Sở Thành vương | Hùng Uẩn/Mị Uẩn | 671 TCN - Tháng 10/626 TCN | 46 | em Đổ Ngao | tự sát | |
24 (18) | Sở Mục vương | Hùng Thương /Mị Thương | 625 TCN - 614 TCN | 12 | con Mục vương | ||
25 (19) | Sở Trang vương | Hùng Lữ (Mị Lữ) | 613 TCN - 591 TCN | 23 | con Mục vương | ||
26 (20) | Sở Cung vương | Hùng Thẩm (Mị Thẩm) | 590 TCN - 560 TCN | 31 | con Trang vương | ||
27 (21) | Sở Khang vương | Hùng Chiêu/Mị Chiêu | 559 TCN - Tháng 9/545 TCN | 15 | con trưởng Cung vương | ||
28 (22) | Sở Giáp Ngao | Hùng Viên (Mị Viên) | 544 TCN - 541 TCN | 4 | con Khang vương | bị giết | |
29 (21) | Sở Linh vương | Hùng Vi (Mị Vi) | 540 TCN - 529 TCN | 12 | con Cung vương | bị giết | |
30 (21) | Sở vương Bỉ/Sở Ti Ngao | Hùng Bỉ/Mị Bỉ | 529 TCN | 1 | em Linh vương | tự sát | |
31 (21) | Sở Bình vương | Hùng Khí Tật/Hùng Cư | 528 TCN - Tháng 9/516 TCN | 13 | em Bỉ | ||
32 (22) | Sở Chiêu vương | Hùng (Mị) Trân/Chẩn | 515 TCN - Tháng 7/489 TCN | 27 | con Bình vương | ||
33 (23) | Sở Huệ vương | Hùng Chương (Mị Chương) | 488 TCN - 432 TCN[54] | 57 | con Chiêu vương | ||
34 (24) | Sở Giản vương | Hùng Trung (Mị Trung) | 431 TCN - 408 TCN | 24 | con Huệ vương | ||
35 (25) | Sở Thanh vương | Hùng Đương (Mị Đương) | 407 TCN - 402 TCN | 6 | con Giản vương | bị giết | |
36 (26) | Sở Điệu vương | Hùng Nghi (Mị Nghi) | 401 TCN - 381 TCN | 21 | con Thanh vương | bị bắn vào thây | |
37 (27) | Sở Túc vương | Hùng Tang (Mị Tang) | 380 TCN - 370 TCN | 11 | con Điệu vương | ||
38 (27) | Sở Tuyên vương | Hùng/Mị Lương Phu | 369 TCN - 340 TCN | 30 | em Túc vương | ||
39 (28) | Sở Uy vương | Hùng Thương/Mị Thương | 339 TCN - 329 TCN | 11 | con Tuyên vương | ||
40 (29) | Sở Hoài vương | Hùng Hòe (Mị Hòe) | 328 TCN - 299 TCN | 30 | con Uy vương | bị giam ở Tần | |
41 (30) | Sở Tương vương | Hùng Hoành (Mị Hoành) | 298 TCN - 263 TCN | 36 | con Hoài vương | ||
42 (31) | Sở Khảo Liệt vương | Hùng Nguyên/Mị Nguyên | 262 TCN - 238 TCN | 25 | con Tương vương | ||
43 (32) | Sở U vương | Hùng Hãn/Mị Hãn | 237 TCN - 228 TCN | 10 | con Khảo Liệt vương | ||
44 (32) | Sở Ai vương | Hùng Do (Mị Do) | 228 | 1 | em U vương | bị giết | |
45 (32) | Sở vương Phụ Sô | Hùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô | 227 TCN - 223 TCN | 5 | anh Ai vương | bị bắt | |
46 (32) | Xương Bình quân | Hùng Khải (Mị Khải) | 223 TCN | 1 | anh Phụ Sô | tử trận | |
47 | Tương Cương | 209 TCN | 1 | bị giết | |||
48 | Sở Ẩn vương | Trần Thắng | 209 - 208 TCN | 2 | khởi nghĩa nông dân | bị giết | |
49 | Sở Giả vương | Cảnh Câu/Mị Câu | 208 TCN | 1 | con cháu nước Sở | bị giết | |
50 | Sở Nghĩa Đế | Hùng Tâm/Mị Tâm | 208 TCN - 206 TCN | 3 | dòng dõi vua Sở | bị giết | |
51 | Sở Bá vương | Hạng Vũ/Hạng Tịch | 206 TCN - 202 TCN | 5 | tự tử |
*************************************
Chu
Chu state | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
|
Thế Phả Sở/Chu
Jilian 季連 dirigeant du Chu | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Yingbo 𦀚伯 dirigeant du Chu | Yuanzhong 遠仲 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Yuxiong
鬻熊 Lãnh đạo nhà Chu XIe siècle av. J.-C. Note : mối liên hệ chính xác giữa Yingbo và Yuxiong vẫn chưa rõ ràng. Theo các nguồn tin, người thứ hai là con trai hoặc cháu trai của người thứ nhất | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Li
熊麗 dirigeant du Chu XIe siècle av. J.-C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Kuang
熊狂 dirigeant du Chu XIe siècle av. J.-C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊繹 Vicomte du Chu 1042–1006 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Ai 熊艾 Vicomte du Chu 1006–981 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Dan 熊䵣 Vicomte du Chu 981–970 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Sheng 熊勝 Vicomte du Chu 970–946 av J.C. | Xiong Yang 熊楊 Vicomte du Chu | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Qu 熊渠 Vicomte du Chu 887–877 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Kang 熊康 Vicomte du Chu | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhi 熊摯 Vicomte du Chu 877–876 av J.C. | Xiong Yan 熊延 Vicomte du Chu 876–848 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yong 熊勇 Vicomte du Chu 847–838 av J.C. | Xiong Yan 熊嚴 Vicomte du Chu 837–828 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shuang 熊霜 Vicomte du Chu 827–822 av J.C. | Xiong Xue 熊雪 | Xiong Xun 熊徇 Vicomte du Chu 821–800 av J.C. | Xiong Kan 熊堪 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong E 熊咢 Vicomte du Chu 799–791 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊儀 Ruo'ao 若敖 Vicomte du Chu 790–764 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dou Bobi 鬬伯比 | Xiong Kan 熊坎 Xiāo’áo 霄敖 Vicomte du Chu 763–758 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Xuan 熊眴 Fenmao 蚡冒 Vicomte du Chu 757–741 BC | Wu de Chu 楚武王 Roi de Chu 740–690 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Qu Xia 屈瑕 | Wen de Chu 楚文王 Roi de Chu 689–677 av J.C. | Ziyuan 子元 d. 664 BC | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Jian 熊艱 Du'ao 堵敖 Roi de Chu 676–672 av J.C. | Xiong Yun 熊惲 Cheng de Chu 楚成王 Roi de Chu 671–626 av J.C. | Zheng Mao 鄭瞀 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shangchen Mu de Chu 楚穆王 Roi de Chu 625–614 av J.C. | Prince Zhi 王子职 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Lü Zhuang de Chu 楚莊王 Roi de Chu 613–591 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shen 熊審 Gong de Chu 楚共王 Roi de Chu 600–590–560 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhao 熊招 Kang de Chu 楚康王 Roi de Chu 559–545 av J.C. | Xiong Wei 熊圍 Ling de Chu 楚靈王 Roi de Chu 540–529 av J.C. | Xiong Bi 熊比 Zi'ao 訾敖 Roi de Chu 529 av J.C. | Zixi | Xiong Qiji 熊弃疾 Ping of Chu 楚平王 Roi de Chu 528–516 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Jia'ao 郟敖 Roi de Chu 544–541 av J.C. | Prince héritier Lu 太子禄 d. 529 av J.C. | Prince Pidi 公子罢敌 d. 529 av J.C. | Shen 王子申 Zixi 子西 | Xiong Zhen 熊珍 Zhao de Chu Roi de Chu 515–489 av J.C. | Jie 王子结 Ziqi 子期 | Qi 王子啟 Zilü 子闾 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Pingxia 平夏 d. 541 av J.C. | Xiong Mu 公子慕 d. 541 | Xiong Zhang 熊章 Hui de Chu 楚惠王 Roi de Chu 488–432 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhong 熊中 Jian de Chu Roi de Chu 431–408 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Dang 熊當 Sheng de Chu 楚聲王 Roi de Chu 407–402 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊疑 Dao de Chu Roi de Chu 401–381 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zang 熊臧 Su de Chu 楚肅王 Roi de Chu 380–370 av J.C. | Xiong Liangfu 熊良夫 Xuan de Chu 楚宣王 Roi de Chu 369–340 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shang 熊商 Wei de Chu Roi de Chu 339–329 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Huai 熊槐 Huai de Chu 楚懷王 Roi de Chu 328–299 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Heng 熊橫 Qingxiang de Chu Roi de Chu 298–263 av J.C. | Huang Xie 黃歇 Seigneur Chunshen 春申君 d. 238 av J.C. | E Jun Qi 鄂君啟 Seigneur de l' État de E | ? | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yuan 熊元 Kaolie de Chu 楚考烈王 Roi de Chu 262–238 av J.C. | Xiong Xin Yi de Chu 208–206 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Han 熊悍 You de Chu 楚幽王 Roi de Chu 237–228 av J.C. | Xiong You 熊猶 Ai de Chu 楚哀王 Roi de Chu 228 av J.C. | Xiong Fuchu 熊負芻 Roi de Chu 227–223 av J.C. | Seigneur Changping 昌平君 Roi de Chu 224–223 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
....................................................
Rulers
See also: Rulers of Chu family tree
Early rulers[8][39]
Jilian (季連), married Bi Zhui (妣隹), granddaughter of Shang Dynasty king Pangeng; adopted Mi (芈) as ancestral name
Yingbo (𦀚伯) or Fuju (附沮), son of Jilian
Yuxiong (鬻熊), ruled 11th century BCE: also called Xuexiong (穴熊), teacher of King Wen of Zhou
Xiong Li (熊麗), ruled 11th century BCE: son of Yuxiong, first use of clan name Yan (酓), later written as Xiong (熊)
Xiong Kuang (熊狂), ruled 11th century BCE: son of Xiong Li
Viscounts
Xiong Yi (熊繹), ruled 11th century BCE: son of Xiong Kuang, enfeoffed by King Cheng of Zhou
Xiong Ai (熊艾), ruled c. 977 BCE: son of Xiong Yi, defeated and killed King Zhao of Zhou
Xiong Dan (熊䵣), ruled c. 941 BCE: son of Xiong Ai, defeated King Mu of Zhou
Xiong Sheng (熊勝), son of Xiong Dan
Xiong Yang (熊楊), younger brother of Xiong Sheng
Xiong Qu (熊渠), son of Xiong Yang, gave the title king to his three sons
Xiong Kang (熊康), son of Xiong Qu. Shiji says Xiong Kang died early without ascending the throne, but the Tsinghua Bamboo Slips recorded him as the successor of Xiong Qu.
Xiong Zhi (熊摯), son of Xiong Kang, abdicated due to illness
Xiong Yan (elder) (熊延), ruled ?–848 BCE: younger brother of Xiong Zhi
Xiong Yong (熊勇), ruled 847–838 BCE: son of Xiong Yan
Xiong Yan (younger) (熊嚴), ruled 837–828 BCE: brother of Xiong Yong
Xiong Shuang (熊霜), ruled 827–822 BCE: son of Xiong Yan
Xiong Xun (熊徇), ruled 821–800 BCE: youngest brother of Xiong Shuang
Xiong E (熊咢), ruled 799–791 BCE: son of Xiong Xun
Ruo'ao (若敖) (Xiong Yi 熊儀), ruled 790–764 BCE: son of Xiong E
Xiao'ao (霄敖) (Xiong Kan 熊坎), ruled 763–758 BCE: son of Ruo'ao
Fenmao (蚡冒) (Xiong Xuan 熊眴) ruled 757–741 BCE: son of Xiao'ao Kings
King Wu of Chu (楚武王) (Xiong Da 熊達), ruled 740–690 BCE: either younger brother or younger son of Fenmao, murdered son of Fenmao and usurped the throne. Declared himself first king of Chu.
King Wen of Chu (楚文王) (Xiong Zi 熊貲), ruled 689–677 BCE: son of King Wu, moved the capital to Ying
Du'ao (堵敖) or Zhuang'ao (莊敖) (Xiong Jian 熊艱), ruled 676–672 BCE: son of King Wen, killed by younger brother, the future King Cheng
King Cheng of Chu (楚成王) (Xiong Yun 熊惲), ruled 671–626 BCE: brother of Du'ao, defeated by the state of Jin at the Battle of Chengpu. Husband to Zheng Mao. He was murdered by his son, the future King Mu
King Mu of Chu (楚穆王) (Xiong Shangchen 熊商臣) ruled 625–614 BCE: son of King Cheng
King Zhuang of Chu (楚莊王) (Xiong Lü 熊侶) ruled 613–591 BCE: son of King Mu. Defeated the State of Jin at the Battle of Bi, and was recognized as a Hegemon.
King Gong of Chu (楚共王) (Xiong Shen 熊審) ruled 590–560 BCE: son of King Zhuang. Defeated by Jin at the Battle of Yanling.
King Kang of Chu (楚康王) (Xiong Zhao 熊招) ruled 559–545 BCE: son of King Gong
Jia'ao (郟敖) (Xiong Yuan 熊員) ruled 544–541 BCE: son of King Kang, murdered by his uncle, the future King Ling.
King Ling of Chu (楚靈王) (Xiong Wei 熊圍, changed to Xiong Qian 熊虔) ruled 540–529 BCE: uncle of Jia'ao and younger brother of King Kang, overthrown by his younger brothers and committed suicide.
Zi'ao (訾敖) (Xiong Bi 熊比) ruled 529 BCE (less than 20 days): younger brother of King Ling, committed suicide.
King Ping of Chu (楚平王) (Xiong Qiji 熊弃疾, changed to Xiong Ju 熊居) ruled 528–516 BCE: younger brother of Zi'ao, tricked Zi'ao into committing suicide.
King Zhao of Chu (楚昭王) (Xiong Zhen 熊珍) ruled 515–489 BCE: son of King Ping. The State of Wu captured the capital Ying and he fled to the State of Sui.
King Hui of Chu (楚惠王) (Xiong Zhang 熊章) ruled 488–432 BCE: son of King Zhao. He conquered the states of Cai and Chen. The year before he died, Marquis Yi of Zeng died, so he made a commemorative bell and attended the Marquis's funeral at Suizhou.
King Jian of Chu (楚簡王) (Xiong Zhong 熊中) ruled 431–408 BCE: son of King Hui
King Sheng of Chu (楚聲王) (Xiong Dang 熊當) ruled 407–402 BCE: son of King Jian
King Dao of Chu (楚悼王) (Xiong Yi 熊疑) ruled 401–381 BCE: son of King Sheng. He made Wu Qi chancellor and reformed the Chu government and army.
King Su of Chu (楚肅王) (Xiong Zang 熊臧) ruled 380–370 BCE: son of King Dao
King Xuan of Chu (楚宣王) (Xiong Liangfu 熊良夫) ruled 369–340 BCE: brother of King Su. Defeated and annexed the Zuo state around 348 BCE.
King Wei of Chu (楚威王) (Xiong Shang 熊商) ruled 339–329 BCE: son of King Xuan. Defeated and partitioned the Yue state with Qi state.
King Huai of Chu (楚懷王) (Xiong Huai 熊槐) ruled 328–299 BCE: son of King Wei, was tricked and held hostage by the State of Qin until death in 296 BC
King Qingxiang of Chu (楚頃襄王) (Xiong Heng 熊橫) ruled 298–263 BCE: son of King Huai. As a prince, one of his elderly tutors was buried at the site of the Guodian Chu Slips in Hubei. The Chu capital of Ying was captured and sacked by Qin.
King Kaolie of Chu (楚考烈王) (Xiong Yuan 熊元) ruled 262–238 BCE: son of King Qingxiang. Moved capital to Shouchun.
King You of Chu (楚幽王) (Xiong Han 熊悍) ruled 237–228 BCE: son of King Kaolie.
King Ai of Chu (楚哀王) (Xiong You 熊猶 or Xiong Hao 熊郝) ruled 228 BCE: brother of King You, killed by Fuchu
Fuchu (楚王負芻) (熊負芻 Xiong Fuchu) ruled 227–223 BCE: brother of King Ai. Captured by Qin troops and deposed
Lord Changping (昌平君) ruled 223 BCE (Chu conquered by Qin): brother of Fuchu, killed in battle against Qin
Others
Chen Sheng (陳勝) as King Yin of Chu (楚隱王) ruled 210–209 BCE
Jing Ju (景駒) as King Jia of Chu 楚假王 (Jia for fake) ruled 209–208 BCE
Xiong Xin (熊心) as Emperor Yi of Chu (楚義帝) (originally King Huai II 楚後懷王) ruled 208–206 BCE: grandson or great-grandson of King Huai
Xiang Yu (項羽) as Hegemon-King of Western Chu (西楚霸王) ruled 206–202 BCE
People
Qu Yuan, poet who committed suicide
Lord Chunshen, one of the Four Lords of the Warring States
Xiang Yu, the Hegemon-King of Western Chu who defeated the Qin at Julu and vied with Liu Bang in the Chu–Han Contention
Liu Bang, later citizen of the Qin dynasty and then founder of the Han dynasty
昌平君 Roi de Chu
Hồng Bàng
Thời kỳ Hồng Bàng bắt đầu từ năm 2879 TCN (để biết được từ thời điểm đó đến nay đã trải qua bao nhiêu năm, ta lấy khoảng thời gian sau công nguyên cộng với 2879 sẽ có được kết quả) là niên đại của Đế Minh là cháu ba đời của Thần Nông Đế Viêm. Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.
- Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ (một nàng tiên ở phương Bắc), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.[1]
Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hóa Đông Sơn).
Hình thái xã hội[sửa | sửa mã nguồn]
- Xem thêm: Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng
Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
Theo Lĩnh Nam chích quái, quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:
- Đông giáp Nam Hải (南海), tức biển Đông
- Tây tới Ba Thục (巴蜀)
- Bắc tới hồ Động Đình (洞庭湖)
- Nam tới nước Hồ Tôn Tinh (胡猻精), còn gọi là nước Hồ Tôn (胡孫). Hồ Tôn Tinh về sau trở thành nước Chiêm Thành (占城).
Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡):
- Việt Thường (越裳)
- Giao Chỉ (交趾)
- Chu Diên (朱鳶)
- Vũ Ninh (武寧)
- Phúc Lộc (福祿)
- Ninh Hải (寧海)
- Dương Tuyền (陽泉)
- Lục Hải (陸海)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Chân (九真)
- Nhật Nam (日南)
- Chân Định (真定)
- Văn Lang (文郎)
- Quế Lâm (桂林)
- Tượng Quận (象郡)
Theo "Việt sử lược" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:
- Giao Chỉ (交趾)
- Việt Thường Thị (越裳氏)
- Vũ Ninh (武寧)
- Quân Ninh (軍寧)
- Gia Ninh (嘉寧)
- Ninh Hải (寧海)
- Lục Hải (陸海)
- Thang Tuyền (湯泉)
- Tân Xương (新昌)
- Bình Văn (平文)
- Văn Lang (文郎)
- Cửu Chân (九真)
- Nhật Nam (日南)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Đức (九德)
Kinh đô đặt tại Văn Lang.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書), Ngoại kỉ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ (鴻厖氏紀), cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với Lĩnh Nam chích quái chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định (武定), Bình Văn (平文), Tân Hưng (新興) và Cửu Đức (九德). Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:
- Giao Chỉ (交趾)
- Chu Diên (朱鳶)
- Vũ Ninh (武寧)
- Phúc Lộc (福祿)
- Việt Thường (越裳)
- Ninh Hải (寧海)
- Dương Tuyền (陽泉)
- Lục Hải (陸海)
- Vũ Định (武定)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Chân (九真)
- Bình Văn (平文)
- Tân Hưng (新興)
- Cửu Đức (九德)
- Văn Lang (文郎)
Trong triều đình có các quan Lạc hầu (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan Lạc tướng (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "Bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "Quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "Mị nương" (媢娘) hay Mệ nàng, nữ nô lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) (còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)). Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).
Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, dùng gỗ làm nhà sàn để ở, dệt cỏ làm chiếu, vỏ cây làm áo. Ngày thường đàn ông để trần mặc khố, vua quan thì có thêm áo hai mảnh, đàn bà thì mặc váy. Về sản xuất có trồng lúa nước, thuần hóa gia súc, dụng cụ có lưỡi cày, đồ dùng có thạp, vũ khí có rìu, đi lại có thuyền. Sinh hoạt tinh thần có những tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu, thờ cúng tổ tiên, tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như thần núi, thần sông, thần gió... Vào các ngày lễ hội thường đội trên đầu mũ lông chim, thổi kèn, đánh trống, nhảy múa, bơi chải. Trích Thủy kinh chú (水經注):
- "Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng (quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay."
Trích Lĩnh Nam chích quái:
- "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."
Các truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]
Thời Hồng Bàng được gắn với nhiều truyền thuyết. Dù có thể là độ chính xác không cao do được truyền miệng qua nhiều thế hệ, các truyền thuyết cho thấy nhiều khía cạnh đời sống văn hóa và chính trị ở Việt Nam thời kỳ này.
Truyện Hồng Bàng thị trong Lĩnh Nam chích quái chép rằng:
- "Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi... Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi".[2]
Truyền thuyết bánh chưng bánh dày gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã có thể công khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nông nghiệp, người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (có thể bao gồm cả lúa nếp) và chăn nuôi (có thể bao gồm lợn/heo...); về triết học, bánh chưng và bánh dày có thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm có mặt đất hình vuông màu xanh lá cây và bầu trời hình tròn màu trắng. Tuy nhiên có học giả, như Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.[3] Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng.
Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh cho thấy thiên tai mà người Việt cổ phải chống chọi thiên về thủy tai, thể hiện ở mong muốn Thủy Tinh thua cuộc. Đó là thời rừng già nhiệt đới chưa bị phá hủy. Tại vùng trung du hay miền núi người cổ dễ dàng chống lại thú dữ và còn săn bắt chúng (loài ăn thịt như hổ báo, sói, đại bàng... có thể rình bắt các linh trưởng khác, nhưng thường phải chừa ra loài Homo Sapiens). Ở vùng đồng bằng thì di chuyển khó khăn, mùa mưa lụt lội, thủy quái không sợ người và ẩn dưới sông nước khó lường, nên chinh phục sông nước và đồng bằng khó hơn và diễn ra muộn hơn.[a] Nó cũng cho thấy những nhân vật quan trọng giúp người dân chống chọi với thiên nhiên được thần tượng hóa. Các vị thần này vẫn có thể có tình cảm qua hôn nhân với các công chúa của vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thông lệ cống nạp sản vật quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này.
Các truyền thuyết khác như Phù Đổng Thiên Vương miêu tả một cuộc xâm lấn của giặc Thương Ân vào thời Hùng Vương thứ 6, Mai An Tiêm miêu tả sự khai phá vùng đất phía nam (Thanh Hóa) với giống hoa quả mới (dưa hấu), Sự tích trầu cau giải thích về phong tục ăn trầu...
Nguyên nhân chấm dứt[sửa | sửa mã nguồn]
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía đông bắc Văn Lang hợp nhất nước Văn Lang của người Lạc Việt với vùng đất của người Âu Việt (Tây Âu) (năm 258 TCN), kết thúc thời kỳ nhà nước Văn Lang. Ngày nay ở vùng cao nguyên Đà Lạt vẫn còn một tộc người thiểu số tự xưng là con cháu loài chim Lạc, có thể giả định là di dân của các bộ lạc Lạc Việt cổ sau nhiều thời kỳ chiến tranh loạn lạc.[cần dẫn nguồn]
Nghi vấn lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]
Quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]
- Có đời Hồng Bàng hay không? Có người cho rằng di tích lịch sử chưa chứng minh được sự hiện hữu của một chế độ cai trị như sử vẫn chép về đời Hồng Bàng.
- Hồng Bàng là sản phẩm tưởng tượng của các sử gia thế kỷ 14. Nghi vấn này dựa trên việc sử cổ không viết về đời Hồng Bàng: Đại Việt Sử ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng mà bắt đầu từ đời Triệu Vũ Vương (Triệu Đà). An Nam chí lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1335, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng mặc dù có nói nước An Nam đã giao thiệp với Trung Hoa từ thời Nghiêu Thuấn. Phải đến khoảng năm 1377, trong Đại Việt Sử lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang".
Truyền thuyết Kinh Dương Vương được ghi lại lần đầu là do Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư năm 1479. Trong Việt sử tiêu án (1775), Ngô Thì Sĩ đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan.
- Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước Tây lịch là không chính xác. Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 TCN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 TCN), tính ra 2622 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 700 TCN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt sử lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 TCN).
- Tuy nhiên cũng có những giả thuyết nghi vấn về một quốc gia cổ là Việt Thường. Cổ sử Trung Hoa có chép: vào thời Chu Thành Vương (1042-1021 TCN) có người ở Việt Thường đến dâng chim Trĩ trắng. Có thể đặt ra giả thiết Văn Lang là nhà nước kế tục Việt Thường, khi Văn Lang thay thế Việt Thường đã đặt tên Việt Thường làm một trong 15 bộ của mình. Cả Văn Lang và Việt Thường đều thuộc thời đại Hồng Bàng, tên nước thì có thể đặt từ khi thành lập để gọi nhưng tên thời đại Hồng Bàng thì chắc chắn sau này các sử gia tự đặt cho dễ sắp xếp và theo dõi.
- Nói về niên đại đầu đời Hồng Bàng (2879 TCN) ở Việt Nam cũng giống như giả thuyết về quốc gia cổ Gojoseon trong lịch sử Triều Tiên (Triều Tiên này không phải là Bắc Triều Tiên ngay nay, mà là toàn bộ bán đảo Triều Tiên) được Dangun thành lập năm 2333 TCN và suy tàn vào khoảng thế kỷ 3 TCN và vương quốc này hiện nay cũng được chứng minh chỉ thực sự hình thành ở thế kỷ 5 TCN (tương tự Văn Lang).
- Một vấn đề khác là họ Hùng: Các sử gia cho rằng, người Việt cổ tới tận thời Hai Bà Trưng vẫn chưa có họ. Theo sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Viện Sử học Việt Nam, chữ "Hùng" trong "Hùng Vương" thực ra là lấy từ tên các vua nước Sở, một nước chư hầu thời nhà Chu của Trung Hoa. Các vua Sở đều có tên mang chữ Hùng như: Hùng Thông (Sở Vũ vương), Hùng Vận (Sở Thành vương), Hùng Hòe (Sở Hoài vương)... Tổ tiên nước Sở vốn có tên là Hùng Dịch. Bởi Bách Việt ở gần nước Sở của Trung Hoa nhất nên những người Việt đã lấy theo tên các vua nước này. Mặt khác, người Việt ở Việt Nam còn tự gọi là người Kinh, mà chữ "Kinh" vốn xuất phát từ vùng Kinh Châu, sông Kinh mà nước Sở cai quản. Như vậy Hùng Vương nói riêng và Hồng Bàng nói chung, với nhiều tình tiết lịch sử pha lẫn truyền thuyết, có thể còn là sản phẩm pha trộn của người Việt gốc và người Việt lai Hán - người Kinh sau này.[4]
- Giả thiết khác đặt ra về họ của các vua Hùng là họ Lạc theo họ của Lạc Long Quân và Hùng Vương chỉ là họ. Biểu hiện là những chức danh-tên gọi như Lạc hầu, Lạc tướng (quan giúp việc), Lạc dân (dân đen), Lạc điền (đất ruộng)...
- Một số thần phả còn ghi chép rõ thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng các nhà nghiên cứu không cho rằng đó là đáng tin. Mặt khác, lại có thuyết tính Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng.
Lãnh thổ[sửa | sửa mã nguồn]
- Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư và Lĩnh Nam chích quái, tên 15 bộ của Văn Lang không được thuyết phục vì tên các bộ trên phần lớn là tên Hán-Việt chỉ có sau khi lệ thuộc nhà Hán. Chỉ có tên 2 bộ được sử cũ Trung Hoa ghi chép có trước khi văn hóa Hán xâm nhập là Việt Thường (thời vua Chu Thành Vương) và Gia Ninh (thời vua Chu Trang Vương). Theo như nhận định thì bộ Việt Thường ở cực nam Văn Lang tức vùng Hà Tĩnh ngày nay, còn bộ Gia Ninh ở Phú Thọ ngày nay.
- Về dân số đến đầu Công nguyên trên khu vực Giao Chỉ, Cửu Chân chưa đến 1 triệu người. Vậy trước đó hàng trăm năm thời Hùng Vương dân số còn ít hơn nữa, chắc chỉ vài trăm nghìn người là tối đa, chỉ tương đương với dân số tỉnh Điện Biên (500 nghìn) hoặc Lào Cai (560 nghìn) ngày nay, với dân cư như trên thì Văn Lang không thể là một quốc gia rộng như miêu tả của Lĩnh Nam chích quái được. (Tuy nhiên trước đây vùng Bắc Mỹ có nhiều bộ lạc của người da đỏ, mà mỗi bộ lạc chỉ có vài chục người cho đến hai, ba trăm người là nhiều. Vậy thuyết "ít dân số không thể tản mác trên một diện tích rộng lớn" cũng không có được tính thuyết phục).
- Về lãnh thổ, phía bắc thì không biết ở đâu nhưng chắc chắn ở phía nam lãnh thổ Văn Lang chỉ đến đèo Ngang vì khi An Dương Vương chiếm Văn Lang chia đất của Vua Hùng ra làm hai phần tương đương với đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán và vùng Việt Thường chính là phần đất cực Nam của Văn Lang - tương đương với Hà Tĩnh ngày nay.
Đặc điểm, dị hình[sửa | ]
Theo vài sử sách ở Trung Quốc thì người Văn Lang mặc áo đỏ, xăm mình. Một số nghi vấn về vấn đề nhân chủng học, các bằng chứng khai quật ở miền nam Bách Việt châu á, có thể cho rằng người Văn Lang mắt to, mồm bẹp và rộng, lông mày rậm, họ có thể nói ngôn ngữ Nam Đảo, những đặc điểm này có thể thấy ở một vài người bản địa Đài Loan hay Nam Hải. Quá trình này biến đổi cùng với sự di dân của các dân tộc phương Bắc, dần dần giống dân du mục này bị đồng hóa với người Việt cổ nên họ thành người dịnh cư định canh hoặc bán nông nghiệp (simi - argri culture) người Việt cổ. Rồi lại diễn ra các cuộc xâm lược và của giống dân người Hán/Hãn/Hung, và tộc Bách Việt bị Hán hóa của các triều đại đế quốc phương Bắc trở nên sâu sắc hơn sau này.
Chú giải[sửa |
[ | ]
Wikisource tiếng Việt có toàn văn tác phẩm về: |
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Đại Việt Sử ký Toàn thư, Ngô Sĩ Liên.
- ^ Lĩnh Nam chích quái, Trần Thế Pháp, Nhà Xuất bản Trẻ, 2016.
- ^ “Trần Quốc Vượng nói về bánh chưng”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2006.
- ^ Lịch sử Việt Nam - Viện Sử học, Nhà Xuất bản Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, 1993.
Văn Minh Lúa Nước
Tay Phuong Pagoda
Nóc nhà 1
Nóc nhà 2
3
Trước thế giặc mạnh, vua Hùng đã họp các Lạc tướng lại để bàn việc chống giặc
4
5
Chùa Tây Phương Hà Nội / Tây Phuong Pagoda
Mái uốn cong như kiến trúc trong trống Đồng
Kiến trúc thời Hồng Bàng/Văn Lang trong tâm thức người Việt Cung văn hóa Hà Nội
6
Temple of Literature, Hanoi
Kiến trúc thời Hồng Bàng/Văn Lang trong tâm thức người Việt
7
8
9
Văn hóa Đông Sơn - Việt Tộc được 'ghi lại' trên trống đồng Mái nhà uốn cong lên theo kiến trúc phỏng theo mô tả bằng hình trong trống đồng Ngọc Lũ.
Cồng chiêng làng Bồ xã Ia Yok - Ia Grai - Gia Lai
https://youtu.be/S6I-nilqMsY
=5
Cồng Chiêng Tây Nguyên của nhóm Nhạc KaLy Band
https://youtu.be/xwhAnahtC4k
= 6
Kiến trúc thời Hồng Bàng/Văn Lang trong tâm thức người Việt
Nhà rông / Our long house
Cồng Chiêng Ha Tây | RUPtv Media
https://youtu.be/woN7XQlKgak
Kiến trúc thời Hồng Bàng/Văn Lang Bách Việt thời trước khi = bị nhà Tần xâm chiếm và đồng hóa
Hùng Vương house phỏng theo sự trống đồng Ngọc Lũ:
8
The portraits of Hùng Kings and their subjects were just like tropical tribal people:
7
Viet Tribes
9
Đình làng Việt Nam phỏng theo kiến trúc của thời Hùng Vương.
Mái đình nhà uốn cong theo kiến trúc xưa
The ancient Vietnamese village house is adapted from the architecture of the Hung Vuong period just like tropical tribal people:.
Kiến trúc thời Hồng Bàng/Văn Lang vùng Đông Nam Á
11
22
Cồng chiêng dân gian các đồng bào sắc tộc thiểu số thuộc thành phố Kon Tum
https://youtu.be/XOC9zuSzYVc
33
1
Concept of "nha Rong" innovation, rendering or cải tiến
Toraja house in Indonesia
2
Toraja house in Indonesia
00000000000000000000000000000000000000000000000
Thế Phả Chu
Jilian
季連 Lãnh đạo nước Sở | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Yingbo 𦀚伯 Lãnh đạo nước Sở | Yuanzhong 遠仲 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
Yuxiong 鬻熊 Lãnh đạo nước Sở XIe siècle av. J.-C. Note : mối liên hệ chính xác giữa Yingbo và Yuxiong vẫn chưa rõ ràng. Theo các nguồn tin, người thứ hai là con trai hoặc cháu trai của người thứ nhất | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Li 熊麗 Lãnh đạo nước Sở XIe siècle av. J.-C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Kuang 熊狂 Lãnh đạo nhà Chu XIe siècle av. J.-C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊繹 Tử tước nước Sở 1042–1006 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Ai 熊艾 Vicomte du Chu 1006–981 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Dan 熊䵣 Vicomte du Chu 981–970 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Sheng 熊勝 Vicomte du Chu 970–946 av J.C. | Xiong Yang 熊楊 Vicomte du Chu | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Qu 熊渠 Vicomte du Chu 887–877 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Kang 熊康 Vicomte du Chu | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhi 熊摯 Vicomte du Chu 877–876 av J.C. | Xiong Yan 熊延 Vicomte du Chu 876–848 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yong 熊勇 Vicomte du Chu 847–838 av J.C. | Xiong Yan 熊嚴 Vicomte du Chu 837–828 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shuang 熊霜 Vicomte du Chu 827–822 av J.C. | Xiong Xue 熊雪 | Xiong Xun 熊徇 Vicomte du Chu 821–800 av J.C. | Xiong Kan 熊堪 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong E 熊咢 Vicomte du Chu 799–791 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊儀 Ruo'ao 若敖 Vicomte du Chu 790–764 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dou Bobi 鬬伯比 | Xiong Kan 熊坎 Xiāo’áo 霄敖 Vicomte du Chu 763–758 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Xuan 熊眴 Fenmao 蚡冒 Vicomte du Chu 757–741 BC | Wu de Chu 楚武王 Roi de Chu 740–690 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Qu Xia 屈瑕 | Wen de Chu 楚文王 Roi de Chu 689–677 av J.C. | Ziyuan 子元 d. 664 BC | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Jian 熊艱 Du'ao 堵敖 Roi de Chu 676–672 av J.C. | Xiong Yun 熊惲 Cheng de Chu 楚成王 Roi de Chu 671–626 av J.C. | Zheng Mao 鄭瞀 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shangchen Mu de Chu 楚穆王 Roi de Chu 625–614 av J.C. | Prince Zhi 王子职 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Lü Zhuang de Chu 楚莊王 Roi de Chu 613–591 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shen 熊審 Gong de Chu 楚共王 Roi de Chu 600–590–560 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhao 熊招 Kang de Chu 楚康王 Roi de Chu 559–545 av J.C. | Xiong Wei 熊圍 Ling de Chu 楚靈王 Roi de Chu 540–529 av J.C. | Xiong Bi 熊比 Zi'ao 訾敖 Roi de Chu 529 av J.C. | Zixi | Xiong Qiji 熊弃疾 Ping of Chu 楚平王 Roi de Chu 528–516 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Jia'ao 郟敖 Roi de Chu 544–541 av J.C. | Prince héritier Lu 太子禄 d. 529 av J.C. | Prince Pidi 公子罢敌 d. 529 av J.C. | Shen 王子申 Zixi 子西 | Xiong Zhen 熊珍 Zhao de Chu Roi de Chu 515–489 av J.C. | Jie 王子结 Ziqi 子期 | Qi 王子啟 Zilü 子闾 | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Pingxia 平夏 d. 541 av J.C. |
Xiong Mu 公子慕 d. 541 |
Xiong Zhang 熊章 Hui de Chu 楚惠王 Roi de Chu 488–432 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zhong 熊中 Jian de Chu Roi de Chu 431–408 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Dang 熊當 Sheng de Chu 楚聲王 Roi de Chu 407–402 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yi 熊疑 Dao de Chu Roi de Chu 401–381 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Zang 熊臧 Su de Chu 楚肅王 Roi de Chu 380–370 av J.C. |
Xiong Liangfu 熊良夫 Xuan de Chu 楚宣王 Roi de Chu 369–340 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Shang 熊商 Wei de Chu Roi de Chu 339–329 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Huai 熊槐 Huai de Chu 楚懷王 Roi de Chu 328–299 av J.C. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Heng 熊橫 Qingxiang de Chu Roi de Chu 298–263 av J.C. |
Huang Xie 黃歇 Seigneur Chunshen 春申君 d. 238 av J.C. |
E Jun Qi 鄂君啟 Seigneur de l' État de E | ? | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Yuan 熊元 Kaolie de Chu 楚考烈王 Roi de Chu 262–238 av J.C. | Xiong Xin Yi de Chu 208–206 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Xiong Han 熊悍 You de Chu 楚幽王 Roi de Chu 237–228 av J.C. |
Xiong You 熊猶 Ai de Chu 楚哀王 Roi de Chu 228 av J.C. |
Xiong Fuchu 熊負芻 Roi de Chu 227–223 av J.C. |
Seigneur Changping 昌平君 Roi de Chu 224–223 av J.C. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Vietnam retains many aspects that make it unique.
• Legend of the Trung Sisters
• Legend of Triệu Lady
• Đạo Mẫu, Mother Goddess Worship
• Cao Đài Religion
• Ca Trù
• Đàn Bầu
Lục Bát Poem
• Water Puppets
• Champa Ruins
• Food
• Áo Tứ Thân
• Nón lá
• Nón Quai Thao
• Food
Not to mention the many indigenous peoples of Vietnam who are not Sinicized at all.
......................................
Nước Xích Thần của Đế Nghi, Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương
Tướng của Đế Minh là Xi Vưu ở lại giữ Thái Sơn và sau ba năm chiến đấu chống tù trưởng của du mục là thủ lĩnh Hiên Viên, quân của Xi Vưu tan rã và từ đó, dân Việt mất căn cứ địa văn hóa Thái Sơn. Hiên Viên chiếm được Thái Sơn lên ngôi là Hoàng Đế.
|
No comments:
Post a Comment