Sunday, July 3, 2022

Thi nhạc chế

Thi hát "Nhạc chế" Gia Tài Của Mẹ, cả nước ơi. Ai "biến chế" hay nhất sẽ được giải thưởng... Ăn bún bò miễn phí cả năm. Mở hàng là Thánh Rắc Hành. Hãy tham gia chế nhạc, vì người Việt là giống người tài giỏi vô địch, đánh thắng những "đế quốc" sừng sỏ, không lẽ không biết chế nhạc?

Mại vô mại vô, mở hàng đi...
Gia Tài Của Mẹ Theo Phong Cách Của Thánh Rắc Hành Tại Bún Bò Ba Cô Gái.
https://youtu.be/XWHRyjFqNHA




"Một ngàn năm đô hộ giặc tàu"
là nguyên nhân Hà Nội cấm "Gia Tài Của Mẹ" CT ĐẶC BIỆT 2/7/2022:
https://youtu.be/H2-563A2BA0



 

Ôm lấy quá khứ ở thế kỷ 21

Người Mỹ có câu: “Những con chó già không bao giờ thay đổi.” (old dogs never change). Do đó, tôi thường không thích trò chuyện với những người trên 45, hay 50, nhất là những đại trí thức giả. Tôi thất vọng vô cùng khi về lại Việt Nam và gặp toàn những ông cụ non mới trên 20 tuổi đời:
Nhút nhát, cầu an, thụ động, chỉ biết ăn nhậu, đua đòi theo thời thế, hài lòng với cái đủ ăn, đủ mặc. Hoặc những người chỉ biết tìm cách chạy trốn cộng sàn bằng cách đi sống ở nước khác để được hưởng những gì do dân tộc nước đó đã nhọc công tranh đấu đem đến tiện nghi và tân tiến cho họ hưởng, lười vận dụng trí óc, ghét tranh đấu cho đời sống xã hội khá lên nhưng lại thích ganh ghét ai hơn mình và coi thường ai thua mìn, ngại đương đầu để làm thay đổi vận mệnh mình hay cho con cháu sau này.
Họ sống như các ông già đã về hưu, họ nói năng như một con vẹt, lập đi lập lại những giáo điều, khẩu hiệu đã hiện diện hơn trăm năm. Họ làm việc như một con ngựa bị bịt kín đôi mắt để chỉ nhìn thấy con đường một chiều trước mắt. Họ chạy chọt, đút lót để được vào đảng này, đoàn nọ, đội kia... để được đảng bảo kê, che chắn, nâng đỡ, ban phát... sống rút vào đảng như một thứ ký sinh trùng.

Nhìn họ, tôi có cảm tưởng họ vẫn sống và suy nghĩ trong môi trường 100 năm trước. Họ vẫn bàn cãi về những triết thuyết mà nhân loại đã bỏ vào sọt rác một thế kỷ rồi. Trong lãnh vực kinh doanh, phần lớn các doanh nhân vẫn cho rằng bất động sản và khoáng sản là căn bản của mọi tài sản. Họ cho rằng -- Sản xuất gia công và chế biến nông sản vẫn chiếm một tỷ trọng rất lớn trong kim ngạch xuất cảng.

Nhiều người đỗ lỗi cho những thế hệ trước về cách sống gia đình đã kềm kẹp và làm cho thế hệ trẻ này hay ỷ lại và hư hỏng. Cha mẹ vẫn giữ thói quen sắp đặt và quyết định cho các con đã trưởng thành (ngay khi chúng vào tuổi 30, 40..) về những cuộc hôn nhân, công việc làm, ngay cả nhà cửa và cách sinh hoạt. Hậu quả là một thế hệ đáng lẽ phải tự lập và lo tạo tương lai cho mình theo ý thích, thì lại cúi đầu nghe và làm theo những cách suy nghĩ đã lỗi thời và lạc hậu.

Kinh doanh bây giờ đòi hỏi một sáng tạo, mà sáng tạo chỉ đến từ trí tuệ và cách suy nghĩ đổi mới. Trong khi thế giới đang hồi sinh với thế hệ trẻ tự tin, tràn đầy năng lực chấp nhận rủi ro, thất bại và kinh nghiệm mới đầy sống động cho những thử thách của thế kỷ 21, thế nhưng...

Những người trẻ Việt Nam đang lần mò trong bóng tối của quá khứ về tự hào sảng về trò bóng đá, môn thể thao nào đó ở ao làng Đông Nam Á, hay lập đi lập lại cái chuyện đánh thắng các đế quốc sừng sỏ nào đó, họ tự hào về chuyện lãng nhách, lạc quan tếu về kinh tế, về thể thao... cộng lại với sự khuyến khích của các nhóm muốn giữ quyền lực và bổng lộc đảng viên... Sao thanh niên Việt Nam già nua nhanh như vậy? Họ vẫn tin vào cái xác của già Hồ giữa thành phố, họ vẫn tin vào cái chủ thuyết cộng sản nay được núp dưới cái tên mới "xã hội chủ nghĩa dân chủ, cộng hòa" nghĩa là -- cái tư tưởng tạp lục tùm lum: chủ nghĩa xì dầu, trộn nước mắm, trộn catchup nước sốt cà chua... Thế hệ trẻ Việt Nam bây giờ có bị bại não không?

Thân thể tôi dù bị hao mòn (xương khớp lỏng lẻo, tai mắt nhấp nhem...) nhưng trí óc tôi và tinh thần vẫn trẻ hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, nó không bị phân tâm bởi những hóc môn (hormones) về đàn bà, gái gú hay những thứ lăng nhăng đua đòi vật chất khác như các bạn trẻ bây giờ. Do đó, hiệu năng và công suất của sự suy nghĩ trở nên bén nhậy hơn.

Alan Phan


Gia tài của mẹ
- Sáng chế: Nam Lộc và Lê Văn Sơn-
Trình bày: Vân Kim và Giang Tỷ
https://youtu.be/atxFffu5OUQ



GIA TÀI CỦA MẸ
nhạc chế
Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây.
Sau bao năm giải phóng được gì?
Gia tài của Mẹ để lại cho con,
Gia tài của Mẹ là nước Việt buồn.

Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây.
Bao nhiêu năm đảng cướp cầm quyền,
Gia tài của Mẹ, biển rừng tan hoang,
Gia tài của Mẹ, đạo đức tồi tàn.

Bọn buôn dân bán nước làm giàu,
Bọn con ông cháu cha làm vua,
Ôi oán than tràn lan khắp mọi nơi.

Bọn tay sai cướp đất người cày,
Rồi đem dâng bán cho ngoại bang,
Ôi nước non Việt Nam, nay còn gì?

Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây.
Sau bao năm Cộng Sản cầm quyền,
Gia tài của Mẹ, một bọn lưu manh,
Gia tài của Mẹ, một lũ độc tài.

Một ngàn năm nô lệ giặc Tầu,
Một trăm năm đô hộ giặc Tây.
Sau bao năm bọn cướp tràn vào,
Gia tài của Mẹ để lại cho con,
Gia tài của Mẹ, một núi nợ nần.

Mẹ đâu khuyên cướp bóc người nghèo,
Mẹ đâu khuyên bắt oan người dân.
Ôi nhẫn tâm vậy sao lũ Cộng nô?
Mẹ đâu khuyên bắn giết đồng bào,
Mẹ đâu khuyên bán buôn quyền cao,
Con bán luôn tài nguyên cho thằng Tàu.

Ôi nước non Việt Nam, bao hận sầu!”

-----------------

https://youtu.be/wOGC5pomCVQ



Lương Thấp Như Công Nhân, Bác Sĩ Nghỉ Việc Hàng Loạt
10:23 Dừa ở Bến Tre chết ngắc
Ngưng mua dừa ở Bến Tre, Bên Tre đang kêu gọi giải cứu
10:23
https://youtu.be/C1HEW0rtr8o



CT ĐẶC BIỆT 10/7/2022 Kết quả giá trị hỗn tạp của Thiên Đường nghệ sĩ bị dị ứng ở Hải Ngoại
https://youtu.be/96HIp1Xym-E


Bài "Hà Nội giờ Này vắng Cơn Mưa" hay bài "Eo ôi Hà Nội Phố / Em ơi Hà Nội Phở" sẽ không thọ.
Bài hát nó được tâng bốc để đề cao thủ đô Hà Nội Việt cộng bây giờ. Nhưng bài "Hướng Về Hà Nội" của nhạc sĩ Hoàng Dương, Hà Nội trước 1954 mà trai thanh gái lịch khi chưa bị cộng sản nhuộm đỏ nó lại sống lâu hơn vì bài hát có gíá trị về âm nhạc, nhạc thuật, lời ca và lịch sử, hay bài "Nỗi Lòng Người Đi (phải chạy ra khỏi Hà Nội cộng sản" sẽ thọ hơn vì nó đi vào lòng người.
VÔ ĐỀ SÁNG CHỦ NHẬT 10 7 2022
https://youtu.be/0kBNFLhOyGQ



Đài CNN và bọn phản chiến giới truyền thông và giới giải trí đã trở thành quyền lực.
https://youtu.be/ALXmdWJzabY


Đài rfi / BBC / RFA và nhân viên trong ban tiếng Việt

Ý KIẾN CỦA BẠN (1000 KÝ TỰ)

GIỚI THIỆU

MẪU ÁO HOODIE THÊU HÌNH CON THUYỀN NGƯỜI VIỆT CỔ

THÁNG TƯ 22, 2019FINAL RANGER STAFF

Văn hóa Đông Sơn là nguồn cảm hứng cho mẫu áo này. Nói đến văn hóa Đông Sơn người ta thường nghĩ ngay đến trống đồng Đông Sơn, nhưng ngoài trống đồng thì chúng ta còn nhiều hiện vật bằng đồng khác thể hiện cuộc sống cư dân người Việt cổ như lưỡi qua đồng, thạp đồng, tẩu thuốc, dao găm…

Trong những hình trang trí văn hóa đồ đồng Đông Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của con người, hầu hết là những hoạt động tập thể. Đó là những họa tiết hình người khoác áo lông chim, đội mũ cắm lông chim, là những chiến binh cầm mộc, cầm rìu hay đang chèo thuyền trong lễ hội.

Núi Thái Sơn Ở Đâu

admin - 06/07/2021 149 Dù sinh ra ở bất kỳ nơi đâu, sống ở nơi đâu, nhưng hễ đã là người Việt thì ai ai cũng đều thuộc lòng câu ca dao

Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra

Tuy nhiên địa danh “núi Thái Sơn” và “Trong Nguồn” ở đâu thì thì hầu hết ai cũng đều mơ hồ.

Bạn đang xem: Núi thái sơn ở đâu

“Núi Thái Sơn” nằm ở đâu?

Các nghiên cứu cho thấy núi Thái Sơn trong câu ca dao của người Việt nằm ở tỉnh Sơn Đông thuộc Trung Quốc ngày nay, là một dãy núi nằm trong ngũ nhạc (5 dãy núi lớn). Bao gồm

núi Thái Sơn nằm ở phía đông gọi là đông nhạc thuộc tỉnh Sơn đông,

Hành Sơn – Nam nhạc của tỉnh Hồ Nam,

Tung Sơn – Trung nhạc của miền Thiếu Lâm Tự Hà Nam,

Hằng Sơn – Bắc nhạc của vùng Hà Bắc,

và Hoa Sơn – Tây nhạc.

Ngũ nhạc. Ảnh internet

Trong ngũ nhạc thì Thái Sơn là linh thiêng nhất. Tương truyền khi Bàn Cổ khai thiên lập địa thì đầu, thân và tứ chi biến thành Ngũ Nhạc. Thái Sơn chính là đầu của Bàn Cổ hóa thành nên đứng đầu trong Ngũ Nhạc

Phía đông cũng chính là nơi đầu tiên đón nhận nguồn linh khí của mặt trời, trong văn hóa cổ truyền đây được xem là khởi nguồn của vạn vật, là hóa thân của Thần Linh, biểu tượng của sự tái sinh.

Ngũ nhạc Ảnh wikipedia.org

Từ xa xưa người Trung Hoa đều xem núi Thái Sơn là núi Thần, “Thái Sơn yên, bốn bể đều yên”, lại ví Thái Sơn như ơn cha. Các Hoàng Đế Trung Hoa đều phải đến Thái Sơn để tế cáo Thần Linh, dựng miếu thờ, lập bia, đề từ.

Xem thêm: Tổng Hợp Những Câu Nói Hay Về Hy Vọng Và Niềm Tin, Danh Ngôn Về Hy Vọng

Ngắm bình minh ở Vọng Hà Đình thuộc dãy núi Thái Sơn. (Ảnh sưu tầm/Internet)“Trong Nguồn” nằm ở đâu?

Nhà nghiên cứu Đỗ Thành đã cho nhà văn cũng là nhà nghiên cứu Hà Văn Thùy biết rằng:

“Trong Nguồn” là tiếng Việt gọi vùng đồng bằng miền trung của sông Hoàng Hà. Hiện nay tên Hán Việt là Trung Nguyên.

Nhiều địa danh Việt trên đất Trung Hoa vẫn được ghi theo lối nói chính trước, phụ sau của người Việt:

Sơn Đông – vùng đất ở phía đông núi;

Sơn Tây – vùng đất phía tây núi hay Hà Bắc, Hà Nam…

Vùng đồng bằng miền trung sông Hoàng Hà, người Việt gọi là Trong Nguồn.

Khi người Mông Cổ vào chiếm rồi con cháu họ là người Hoa Hạ, chỉ cần “phang ngang” Trong” thành “ Trung”; “Nguồn” thành “Nguyên” là có địa danh Hán Việt: Trung Nguyên.

Các chữ như: “Trung Nguyên” 中原 hay Nguyên (nguồn) 源 đều là từ đồng âm với nhau

Địa danh Trong Nguồn xưa kia chính là Trung Nguyên ngày nay – (được tô màu đỏ trên bản đồ Trung Quốc). Ảnh wikipedia.org

Ông Đỗ Thanh cũng cho biết“Sở dĩ người Việt gọi vùng đất này là Trong Nguồn là do có con sông Nguồn hay Ngọn Nguồn. Do người Hoa Hạ không nói được phụ âm “ng” nên gọi trại là sông Hon hay Hòn theo giọng cao thấp khác nhau. Sau này chuyển hóa dần Hon, Hòn thành Hớn rồi thành Hán Thủy vào thời Đường. Vì vậy, trên bản đồ Trung Quốc hiện nay không có sông Nguồn cũng như Trong Nguồn mà chỉ có Trung Nguyên với Hán Thủy.”

Như vậy theo kết quả của nhà nghiên cứu Đỗ Thành thì con sông Nguồn xưa kia nay là sông Hán Thủy còn gọi là Hán Giang.

Sông Hán Thủy bắt nguồn từ miền tây nam tỉnh Thiểm Tây (khu vực huyệ Ninh Cường) chảy tới tỉnh Hồ Bắc, Nó tiếp nhận nước của các sông như Tư Thủy Hà, Đổ Hà, Đan Giang, Đường Bạch Hà rồi đổ vào sông Dương Tử tại Vũ Hán – thủ phủ tỉnh Hồ Bắc. Sông có chiều dài khoảng 1.532 km. Diện tích lưu vực của nó khoảng 174.300 km²

Trong khi các con sông khác nhận nước từ tuyết tan trên các dãy núi thì sông Ngọn Nguồn nhận mạch nước từ lòng đất của dãy Tần Lĩnh chảy theo nhiều con suối tạo thành.

Xem thêm: Xôn Xao Hoa 3000 Năm Mới Nở 1 Lần? Sự Thật Về Hoa Ưu Đàm 3

Bản đồ lưu vực sông Hán Thủy. Ảnh dẫn từ wikipedia.org

Trong các chi lưu làm nên sông Nguồn có dòng Đan Giang dài 800 km, nước xanh đen nên ngày xưa tiếng Việt gọi là sông Đen (Đen Giang), sau này người Hoa gọi trại đi thành Đan Giang. Nhưng sau khi đổ vào sông Nguồn (Hán Thủy ngày nay) thì nước trở nên trong suốt và cho đến nay, Hán Thủy là con sông ít bị ô nhiễm nhất ở Trung Quốc.

Chiếc nôi của người Việt cổ

Theo nghiên cứu của nhà văn Hà Văn Thùy thì khu vực núi Thái Sơn và Trong Nguồn xưa kia là chiếc nôi của người Việt Cổ sinh sống, nhưng trước việc xâm lấn của người Hoa Hạ, người Việt lúc đó đã phải lên thuyền xuôi theo sông Hoàng Hà ra biển về phương nam đến tận Rào Rum-Ngàn Hống (Nghệ An ngày nay), Ngàn Hống chính là tên gọi tiếng Việt xưa kia của núi Hồng Lĩnh. Đây là thời điểm v

ào năm 2698 trước công nguyên

Trong Ngọc phả Hùng Vương cũng có ghi chép rằng:

“Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.”

Người Việt vẫn nhớ đến cội nguội của mình từ núi Thái Sơn, Trong Nguồn, vì thế mà câu ca dao trên được lưu truyền lại nhằm nhắc nhở con cháu ngàn đời luôn nhớ về cội nguồn dân tộc

Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước Trong nguồn chảy ra

Để bảo đảm ngàn đời sau này không quên ông cha đã khắc câu ca này thành bia miệng truyền lại đời đời về sau:


1



2



3



4



5



6




Vietnamese at a glance

  • Native name: tiếng việt [tĭəŋ vìəˀt] / [tǐəŋ jìək]
  • Language family: Austroasiatic, Vietic, Viet-Muong
  • Number of speakers: c. 76 million
  • Spoken in: Vietnam, China, Cambodia, Laos
  • First written: 13th century
  • Writing system: Chữ-nôm script, Latin script
  • Status: official language in Vietnam. Recognised minority language in the Czech Republic

Traditionally Vietnamese is classified as a member of the Mon-Khmer branch of the Austroasiatic language family. However, recently linguists have proposed that Vietnamese and Muong should be classified as a separate branch of that family, called Vietic or Viet-Muong.

Vietnamese is the official language of Vietnam, and is spoken by the majority of the population as a native language. Ethnic minority groups speak it as a second language. Vietnamese is also recognised as a minority language in the Czech Republic

Vietnamese is also known as Annamese, Ching, Gin, Jing, Kinh or Viet. The native name is tiếng việt ("Vietnamese language"). The main dialects are Northern, Central and Southern, and in each region there are numerous subdialects.


[top]

Written Vietnamese

During the period when Vietnam was dominated by China (939-1919) the main written language used, at least at first, was Classical Chinese (chữ nho), while Vietnamese was an oral language. Chinese texts were read with Vietnamese pronunciation, and many Chinese words were borrowed into Vietnamese, to create a Sino-Vietnamese form of language.

From about the 13th century, Vietnamese was written with a script adapted from Chinese known as Chữ-nôm (𡨸喃) or Nôm (喃). At first most Vietnamese literature was essentially Chinese in structure and vocabulary. Later literature developed a more Vietnamese style, but was still full of Chinese loan words.

The greatest literary work in Vietnamese is Đoạn Trường Tân Thanh (斷腸新聲) or "A New Cry From a Broken Heart", which is better known as Truyện Kiều (傳翹) or "The Tale of Kiều". It is an epic poem written by Nguyễn Du [阮攸;] (1765-1820) [More details].

Chữ-nôm was used until the 20th century. Courses in the Chữ-nôm script were available at Ho Chi Minh University until 1993, and the script is still studied and taught at the Han-Nôm Institute in Hanoi, which has recently published a dictionary of all the nôm characters.

During the 17th century, Roman Catholic missionaries introduced a Latin-based orthography for Vietnamese, Quốc Ngữ (national language),which has been used ever since. Until the early 20th century, Quốc Ngữ was used in parallel with Chữ-nôm. Today only Quốc Ngữ is used.

[top]

Vietnamese alphabet and pronunciation

Vietnamese alphabet and pronunciation

Notes

  • The letters "F", "J", "W" and "Z" are not part of the Vietnamese alphabet, but are used in foreign loan words. "W" (vê-đúp)" is sometimes used in place of "Ư" in abbreviations. In informal writing, "W", "F", and "J" are sometimes used as shorthands for "QU", "PH" and "GI" respectively.
  • The digraph "GH" and the trigraph "NGH" are basically replacements for "G" and "NG" that are used before "I", in order to avoid confusion with the "GI" digraph. For historical reasons, they are also used before "E" or "Ê".
  • G = [ʒ] before i, ê, and e, [ɣ] elsewhere
  • D and GI = [z] in the northern dialects (including Hanoi), and [j] in the central, southern and Saigon dialects.
  • V is pronounced [v] in the northern dialects, and [j] in the southern dialects.
  • R = [ʐ, ɹ] in southern dialects

Tones

Northern varieties of Vietnamese have the following six tones:

Vietnamese tones

In central and southern varieties of Vietnamese, the nặng tone, which is pronounced [˨˧], and the ngã tone is replaced with the hỏi tone by many people.

Download an alphabet chart for Vietnamese (Excel)

Hear the Vietnamese alphabet and pronunciation:

You can also hear how to pronounce the Vietnamese letters and tones at:
www.seasite.niu.edu/Vietnamese/Guide_to_Pronunciation/alphabet/alphabet_system.htm


[top]

https://omniglot.com/writing/vietnamese.htm

d


https://huynhhieutravel.com/wp-content/uploads/2018/06/kinh-duong-vuong.jpg



Vietnamese Alphabet – Pronunciation – Phonology – Tones

POSTED ON AUGUST 4, 2016 BY ADMIN

Vietnamese is a very ancient-origin language and has undergone a very long development process, full of vitality. That is expressed throughout the durable struggle of a nation that built, preserved, and developed a national language and national literature. Vietnamese Alphabet is a national standard script known as Chữ Quốc Ngữ in Vietnamese. It is a modern writing system that used the Latin script. A full twenty-nine alphabets are shown as follow:

Each letter has two normal and capitalizing forms of writing. A single letter no longer used anymore is ( ). This letter had been used to describe a consonant /β/ of the old Vietnamese language before the 19th century. It was now transformed into consonants “b” and “v” in the modern Vietnamese.

Vietnamese Alphabet Phonology

Consonants in the Vietnamese Language

Chữ Quốc ngữ has now 17 consonants including b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x and

11 compounds indicating consonants in which there are 10 digraphs consisting of

ch, gh, gi, kh, ng, nh, ph, qu, th, tr; and only trigraph “ngh”.

There are four compounds indicating consonants not used in the modern Vietnamese anymore:

• tl: Indicate double consonants / tl / of the Middle Vietnamese. It was transformed into a consonant “p” of the modern Vietnamese.

• bl: Indicate double consonants / ɓl / of the Middle Vietnamese. It was transformed into consonants “p”, “gi” of the modern Vietnamese.

• ml: Indicate double consonants/ml / of the Middle Vietnamese. It was transformed into a consonant “nh” of the modern Vietnamese.

• mnh: Indicates double consonants / mɲ / of the Middle Vietnamese. It was transformed into the consonant “nh” of the modern Vietnamese.

Four letters “f”, “j”, “w” and “z” are not part of the Vietnamese alphabet, now they are used in foreign loan words. They are all rooted in French, for example, “f” is from “effe” /ɛf/, “j” is from “ji” /ʒi/, “w” is from “double vé” /dubləve/, “z” is from “zède” /zɛd/.

The special digraph “gh” and the trigraph “ngh” are almost basically used before vowels of “i”, “e”, “ê”.

Vowels in Vietnamese the Language

Vietnamese Alphabet has 11 single vowels a, ă, â, e, ê, i, y, o, ô, ơ, u and ư. Besides, there are 32 diphthongs such as ai, ao, au, âu, ay, ây, eo, êu, ia, iê/yê, iu, oa, oă, oe, oi, ôi, ơi, oo, ôô, ua, uâ, ưa, uê, ui, ưi, uo, uô, uơ, ươ, ưu and uy and 13 triphthongs such as iêu/yêu, oai, oao, oeo, uao, uây, uôi, ươi, ươu, uya, uyê, uyu.

Notably, 12 vowels: ă, â, iê, oă, oo, ôô, uâ, uă, uô, ươ, uyê, yê must be added final syllables following rules as below:

• Plus final vowel or consonant: â, iê, uâ, uô, ươ, yê.

• Plus final consonant: ă, oă, oo, ôô, uă, uyê.

4 vowels “oa, oe, ue, uy” can stand alone or add first and final syllables.

29 vowels are not allowed to be added final syllables including ai, ao, au, âu, ay, ây, eo, êu, ia, iêu/yêu, iu, oi, ôi, ơi, oai, oao, oay, oeo, ưa, ui, ưi, ưu, uơ, uai, uây, uôi, ươi, ươu, uya and uyu.

Vietnamese Alphabet Tones

Vietnamese is a tonal language. The Northern Vietnamese has 6 tones and the Southern Vietnamese has 5 tones. These six tones are noted as follows:

• Level (không dấu): a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y

• Acute accent (dấu sắc): á. ắ, ấ, é, ế, í, ó, ố, ớ, ú, ứ, ý

• Grave accent (dấu huyền): à, ằ, ầ, è, ề, ì, ò, ồ, ờ, ù, ừ, ỳ

• Hook (dấu hỏi): ả, ẳ, ẩ, ẻ, ể, ỉ, ỏ, ổ, ở, ủ, ử, ỷ

• Tilde (dấu ngã): ã, ẵ, ẫ, ẽ, ễ, ĩ, õ, ỗ, ỡ, ũ, ữ, ỹ

• Dot below (dấu nặng): ạ, ặ, ậ, ẹ, ệ, ị, ọ, ộ, ợ, ụ, ự, ỵ

Tips To Learn Vietnamese

POSTED ON AUGUST 4, 2016 BY ADMIN

If you now study, travel, or make your own business in Vietnam for long time, it is very necessary to learn Vietnamese. Viet Vision Travel lists some advices below and hopes that you can quickly become a good speaker.

Learn Vietnamese with an own native teacher

The Vietnamese may be not difficult to read and write because of its Romanized standard script. Letters “a”, “b”, “c” is similar to English language so it is easy to learn and remember Vietnamese Alphabet. However, its pronunciation and combination of letters and words are completely different so you need a native teacher who will first teach you how to spell them and fix if you are wrong immediately. That is aim to help you that you will not end up reinforcing the wrong pronunciation into your mind. On the other hand, the Vietnamese is a tonal language, which makes it become one of the most difficult languages for foreign visitors to learn. A tone of a word determines its meaning. So it is very important to have a good local teacher, and we can sure that this is easy to find because a lot of Vietnamese people also would like to learn English from you. Exchange and support from two sides are always a perfect choice.

Learn Vietnamese at University

If you intend to stay in Vietnam for a long time, you should sign up in a Vietnamese short or long course at a Vietnamese University now. Three universities offering the most quality Vietnamese language course are Hanoi National University of Education, University of Social Sciences and Humanities, University of Languages and International Studies. So their facilities in the other cities do. Besides the advantage of learning vocabulary and grammar, you can be immersed into Vietnamese culture and history. That is a great method to know the Vietnamese in its formation and development.

Learn Vietnamese on streets

A way to learn a foreign language well always is to speak to the natives. Vietnamese people are very open-hearted and friendly so that you can easily make friends in Vietnam streets and parks then talk with them all what you can. Through your conversation, you can recognize and learn more Vietnamese vocabulary, even local dialects; surely you will tout de suite improve your Vietnamese in advance.

Learn Vietnamese through travelling

Vietnamese proverbs say that “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” (Travelling forms a young man). If you eager to both improve your Vietnamese and experience traditional culture and beautiful landscapes, you need prepare a luggage to go around all parts of this amazing country. Travel and meet new local people, listen and talk different dialects of different places. This is absolutely a useful and great adventure.

Dialects contribute not only to create each region’s special color but also to enrich Vietnamese vocabulary. Let learn some popular words which maybe you did not know that they have been used widely in an old Sai Gon and now still in daily life of Southern speakers.

Old Saigon dialect Standard Vietnamese English glosses

Âm binh = Nghịch ngợm, phá phách = Mischievous

Áo thun ba lá = Áo ba lỗ = Tank top

Bá chấy = Quá = Too

Ba ke, ba xạo = Nói xạo, nói không đúng sự thật = Say unreal things

Bành ki = Bự, = lớn = Big

Bặc co = tay đôi = Đánh nhau tay đôi = Duel

Bề bề hội đồng = Hiếp dâm tập thể = Gang rape

Băm trợn = Hung dữ, dữ dằn = Ferocious

Bí lù = Không biết để trả lời = Not know to answer

Bí xị = Buồn = Sad

Bo bo xì = Nghỉ chơi, không chơi cùng nhau nữa = Not be together anymore with somebody

Cà kê dê ngỗng = Dài dòng, nhiều chuyện = Prolix

Cà na xí muội = Chuyện không đâu vào đâu = Meaningless things

Cà nhỗng = Rảnh rỗi, không có việc làm = Be free and do nothing

Cà rá = Cái nhẫn = Ring

Chồm hỗm, chùm hum = Ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chỗ không nhúc nhích = Squat

Chì = Giỏi giang, xuất sắc = Excellent

Chàng hãng chê hê = Ngồi banh chân = Bestride

Chèn đét ơi, mèn đét ơi Ôi, ngạc nhiên chưa = Oh, Surprise

Đá cá lăn dưa = Lưu manh = Lumpen

Lên hơi Bực tức, tức giận = Angry

Làm nư = Lì lợm, cứng đầu = Hard-headed, stubborn

Lán cón Bảnh bao = Spruce

Lô Đồ giả, đồ kém phẩm chất = Fake, weak quality

Hầm Nóng Hot

Mình ên = Một mình = Alone

Khóm = Dứa, thơm = Pineapple

Tầy quầy, tùm lum tùm la = Bừa bãi lộn xộn, không ngăn nắp = Messy, untidy

Thưa rĩnh thưa rang = Lưa thưa, lác đác = Scattered

sãnh sẹ = Làm điệu,

xí xọn Showy, dressy

Fun Vietnamese Vocabulary In Old Sai Gon


22


Vietnamese language

Vietnamese (tiếng việt / 㗂越)

Vietnamese is a member of the Vietic branch of the Austroasiatic language family. It is spoken mainly in Vietnam, where it is the national and official language. It is the native language of the Vietnamese (Kinh) people, as well as a first or second language for the many ethnic minorities of Vietnam. As a result of Vietnamese emigration and cultural influence, Vietnamese speakers are found throughout the world, notably in East and Southeast Asia, North America, Australia and Western Europe.There are also significant numbers of Vietnamese speakers in France, Australia, and the USA. In 2007 there were about 75 million speakers of Vietnamese.

Vietnamese at a glance:

Native name: tiếng việt [tĭəŋ vìəˀt] / [tǐəŋ jìək]Linguistic affliation: Austroasiatic, Vietic, Viet-Muong Number of speakers: c. 75 millionSpoken in: Vietnam, China, Cambodia, Laos First written: 13th century Writing system: Chữ-nôm script, Latin script Status: official language in Vietnam. Vietnamese is also recognised as a minority language in the Czech Republic.

Traditionally Vietnamese is classified as a member of the Mon-Khmer branch of the Austroasiatic language family. However, recently linguists have proposed that Vietnamese and Muong should be classified as a separate branch of that family, called Vietic or Viet-Muong.

Its vocabulary has borrowings from Chinese, and it formerly used a modified set of Chinese characters called Chữ Nôm given vernacular pronunciation. The Vietnamese alphabet (chữ quốc ngữ) in use today is a Latin alphabet with additional diacritics for tones and certain letters. There are 29 letters in the Vietnamese alphabet.

The term "Vietic" was proposed by Hayes (1992), who proposed to redefine Viet–Muong as referring to a subbranch of Vietic containing only Vietnamese and Muong. The term "Vietic" is used, among others, by Gérard Diffloth, with a slightly different proposal on subclassification, within which the term "Viet–Muong" refers to a lower subgrouping (within an eastern Vietic branch) consisting of Vietnamese dialects, Muong dialects, and Nguồn (of Quảng Bình Province).

Links:

Information about the Vietnamese language:

http://www.seasite.niu.edu/vietnamese/VNMainpage/vietsite/vietsite.htm

http://www.public.asu.edu/~ickpl/

http://en.wikipedia.org/wiki/Vietnamese_language

Written Vietnamese

During the period when Vietnam was dominated by China (939-1919) the main written language used, at least at first, was Classical Chinese (chữ nho), while Vietnamese was an oral language. Chinese texts were read with Vietnamese pronunciation, and many Chinese words were borrowed into Vietnamese, to create a Sino-Vietnamese form of language.

From about the 13th century, Vietnamese was written with a script adapted from Chinese known as Chữ-nôm (𡨸喃) or Nôm (喃). At first most Vietnamese literature was essentially Chinese in structure and vocabulary. Later literature developed a more Vietnamese style, but was still full of Chinese loan words.

The greatest literary work in Vietnamese is Đoạn Trường Tân Thanh (斷腸新聲) or "A New Cry From a Broken Heart", which is better known as Truyện Kiều (傳翹) or "The Tale of Kiều". It is an epic poem written by Nguyễn Du [阮攸;] (1765-1820) [More details].

Chữ-nôm was used until the 20th century.

During the 17th century, Roman Catholic missionaries introduced a Latin-based orthography for Vietnamese, Quốc Ngữ (national language), which has been used ever since. Until the early 20th century, Quốc Ngữ was used in parallel with Chữ-nôm. Today only Quốc Ngữ is used.

Vietnamese alphabet and pronunciation

Notes

• The letters "F", "J", "W" and "Z" are not part of the Vietnamese alphabet, but are used in foreign loan words. "W" (vê-đúp)" is sometimes used in place of "Ư" in abbreviations. In informal writing, "W", "F", and "J" are sometimes used as shorthands for "QU", "PH" and "GI" respectively.

• The digraph "GH" and the trigraph "NGH" are basically replacements for "G" and "NG" that are used before "I", in order to avoid confusion with the "GI" digraph. For historical reasons, they are also used before "E" or "Ê".

• G = [ʒ] before i, ê, and e, [ɣ] elsewhere

• D and GI = [z] in the northern dialects (including Hanoi), and [j] in the central, southern and Saigon dialects.

• V is pronounced [v] in the northern dialects, and [j] in the southern dialects.

• R = [ʐ, ɹ] in southern dialects

Tones

Vietnamese have six tones in varieties:

Vietnamese (tiếng việt / 㗂越)

Vietnamese is a member of the Vietic branch of the Austroasiatic language family. It is spoken mainly in Vietnam by about 73.6 million people. There are another 3.2 million Vietnamese speakers in other countries, including 1.4 million in the USA, 817,800 in Cambodia, 277,000 in Australia, 194,000 in Taiwan, 156,000 in Canada and 101,000 in Malaysia [source].

Vietnamese at a glance

• Native name: tiếng việt [tĭəŋ vìəˀt] / [tǐəŋ jìək]

• Language family: Austroasiatic, Vietic, Viet-Muong

• Number of speakers: c. 76 million

• Spoken in: Vietnam, China, Cambodia, Laos

• First written: 13th century

• Writing system: Chữ-nôm script, Latin script

• Status: official language in Vietnam. Recognised minority language in the Czech Republic

• An introduction to Vietnamese

• Written Vietnamese

• Vietnamese alphabet (Quốc Ngữ)

• Vietnamese cursive script (mẫu chữ thảo tiếng việt)

• Sample text in Vietnamese

• Sample videos in Vietnamese

• Links to more information

• Vietnamese Chữ-nôm script

• Vietnamese phrases (thành ngữ)

• Colours in Vietnamese (màu sắc)

• Vietnamese numbers (con số)

• Telling the time in Vietnamese (noi giơ)

• Family words in Vietnamese (gia đình)

• Tower of Babel in Vietnamese (Tháp Ba-bên)

• Vietnamese learning materials

• Constructed scripts for Vietnamese

Traditionally Vietnamese is classified as a member of the Mon-Khmer branch of the Austroasiatic language family. However, recently linguists have proposed that Vietnamese and Muong should be classified as a separate branch of that family, called Vietic or Viet-Muong.

Vietnamese is the official language of Vietnam, and is spoken by the majority of the population as a native language. Ethnic minority groups speak it as a second language. Vietnamese is also recognised as a minority language in the Czech Republic

Vietnamese is also known as Annamese, Giao Chỉ, Jing = Kinh or Viet. The native name is tiếng việt ("Vietnamese language"). The main dialects are Northern, Central and Southern, and in each region there are numerous subdialects.

________________________________________ [top]

Written Vietnamese

During the period when Vietnam was dominated by China (939-1919) the main written language used, at least at first, was Classical Chinese (chữ nho), while Vietnamese was an oral language. Chinese texts were read with Vietnamese pronunciation, and many Chinese words were borrowed into Vietnamese, to create a Sino-Vietnamese form of language.

From about the 13th century, Vietnamese was written with a script adapted from Chinese known as Chữ-nôm (𡨸喃) or Nôm (喃). At first most Vietnamese literature was essentially Chinese in structure and vocabulary. Later literature developed a more Vietnamese style, but was still full of Chinese loan words.

The greatest literary work in Vietnamese is Đoạn Trường Tân Thanh (斷腸新聲) or "A New Cry From a Broken Heart", which is better known as Truyện Kiều (傳翹) or "The Tale of Kiều". It is an epic poem written by Nguyễn Du [阮攸;] (1765-1820)

Chữ-nôm was used until the 20th century.

During the 17th century, Roman Catholic missionaries introduced a Latin-based orthography for Vietnamese, Quốc Ngữ (national language),which has been used ever since. Until the early 20th century, Quốc Ngữ was used in parallel with Chữ-nôm. Today only Quốc Ngữ is used.

Vietnamese alphabet and pronunciation

Notes

• The letters "F", "J", "W" and "Z" are not part of the Vietnamese alphabet, but are used in foreign loan words. "W" (vê-đúp)" is sometimes used in place of "Ư" in abbreviations. In informal writing, "W", "F", and "J" are sometimes used as shorthands for "QU", "PH" and "GI" respectively.

• The digraph "GH" and the trigraph "NGH" are basically replacements for "G" and "NG" that are used before "I", in order to avoid confusion with the "GI" digraph. For historical reasons, they are also used before "E" or "Ê".

• G = [ʒ] before i, ê, and e, [ɣ] elsewhere

• D and GI = [z] in the northern dialects (including Hanoi), and [j] in the central, southern and Saigon dialects.

• V is pronounced [v] in the northern dialects, and [j] in the southern dialects.

• R = [ʐ, ɹ] in southern dialects

Tones

Vietnamese have six tones in varieties:

the nặng tone, which is pronounced [˨˧], and the ngã tone is replaced with the hỏi tone by many people.

Download an alphabet chart for Vietnamese (Excel)

Hear the Vietnamese alphabet and pronunciation

Vietnamese (tiếng việt / 㗂越)

Vietnamese is a member of the Vietic branch of the Austroasiatic language family. It is spoken mainly in Vietnam by about 73.6 million people. There are another 3.2 million Vietnamese speakers in other countries, including 1.4 million in the USA, 817,800 in Cambodia, 277,000 in Australia, 194,000 in Taiwan, 156,000 in Canada and 101,000 in Malaysia [source].

Vietnamese at a glance

• Native name: tiếng việt [tĭəŋ vìəˀt] / [tǐəŋ jìək]

• Language family: Austroasiatic, Vietic, Viet-Muong

• Number of speakers: c. 76 million

• Spoken in: Vietnam, China, Cambodia, Laos

• First written: 13th century

• Writing system: Chữ-nôm script, Latin script

• Status: official language in Vietnam. Recognised minority language in the Czech Republic

• An introduction to Vietnamese

• Written Vietnamese

• Vietnamese alphabet (Quốc Ngữ)

• Vietnamese cursive script (mẫu chữ thảo tiếng việt)

• Sample text in Vietnamese

• Sample videos in Vietnamese

• Links to more information

• Vietnamese Chữ-nôm script

• Vietnamese phrases (thành ngữ)

• Colours in Vietnamese (màu sắc)

• Vietnamese numbers (con số)

• Telling the time in Vietnamese (nói giờ)

• Family words in Vietnamese (gia đình)

• Tower of Babel in Vietnamese (Tháp Ba-bên)

• Vietnamese learning materials

• Constructed scripts for Vietnamese

Traditionally Vietnamese is classified as a member of the Mon-Khmer branch of the Austroasiatic language family. However, recently linguists have proposed that Vietnamese and Muong should be classified as a separate branch of that family, called Vietic or Viet-Muong.

Vietnamese is the official language of Vietnam, and is spoken by the majority of the population as a native language. Ethnic minority groups speak it as a second language. Vietnamese is also recognised as a minority language in the Czech Republic

Vietnamese is also known as Annamese, Giao Chỉ, Jing = Kinh or Viet. The native name is tiếng việt ("Vietnamese language"). The main dialects are Northern, Central and Southern, and in each region there are numerous subdialects.

________________________________________

Written Vietnamese

During the period when Vietnam was dominated by China (939-1919) the main written language used, at least at first, was Classical Chinese (chữ nho), while Vietnamese was an oral language. Chinese texts were read with Vietnamese pronunciation, and many Chinese words were borrowed into Vietnamese, to create a Sino-Vietnamese form of language.

From about the 13th century, Vietnamese was written with a script adapted from Chinese known as Chữ-nôm (𡨸喃) or Nôm (喃). At first most Vietnamese literature was essentially Chinese in structure and vocabulary. Later literature developed a more Vietnamese style, but was still full of Chinese loan words.

The greatest literary work in Vietnamese is Đoạn Trường Tân Thanh (斷腸新聲) or "A New Cry From a Broken Heart", which is better known as Truyện Kiều (傳翹) or "The Tale of Kiều". It is an epic poem written by Nguyễn Du [阮攸;] (1765-1820) .

Chữ-nôm was used until the 20th century.

. During the 17th century, Roman Catholic missionaries introduced a Latin-based orthography for Vietnamese, Quốc Ngữ (national language), which has been used ever since. Until the early 20th century, Quốc Ngữ was used in parallel with Chữ-nôm. Today only Quốc Ngữ is used. [top]

Vietnamese alphabet and pronunciation

https://omniglot.com/writing/vietnamese.htm

Notes

• The letters "F", "J", "W" and "Z" are not part of the Vietnamese alphabet, but are used in foreign loan words. "W" (vê-đúp)" is sometimes used in place of "Ư" in abbreviations. In informal writing, "W", "F", and "J" are sometimes used as shorthands for "QU", "PH" and "GI" respectively.

• The digraph "GH" and the trigraph "NGH" are basically replacements for "G" and "NG" that are used before "I", in order to avoid confusion with the "GI" digraph. For historical reasons, they are also used before "E" or "Ê".

• G = [ʒ] before i, ê, and e, [ɣ] elsewhere

• D and GI = [z] in the northern dialects (including Hanoi), and [j] in the central, southern and Saigon dialects.

• V is pronounced [v] in the northern dialects, and [j] in the southern dialects.

• R = [ʐ, ɹ] in southern dialects

Tones

Vietnamese have six tones:

In central and southern varieties of Vietnamese, the nặng tone, which is pronounced [˨˧], and the ngã tone is replaced with the hỏi tone by many people.

Vietnamese official cursive script (mẫu chữ thảo tiếng việt)

This script was officially adopted in June 2002, and it is taught in schools in Vietnam. It is referred to as the 'Decision 31' Vietnamese cursive script.

==========================

Hùng Tảo

熊蚤,

Hùng LỆ 熊麗

Thụ phong ở đất Kinh

Xiong Yi (熊繹)

Xiong Yi

Viscount of Chu

Reign 11th century BC

Full name

Family name: Mǐ (羋)

Clan name: Xióng (熊)

Given name: Yì (繹)

Tên thật

Hùng Dịch (熊繹)

Chính quyền nước Sở

Thân phụ Sở Hùng Cuồng

Mất 1006 TCN

Nước Sở - đất Kinh

ông là vị quân chủ đầu tiên của nước Sở.

Ông là con trai của Sở Hùng Cuồng[1], người được xem là vị vua thứ ba của nước Sở.

Chu Thành Vương đã phong cho ông chính thức cai quả đất Kinh, kiến đô lập quốc, với tước hiệu Sở tử. Từ đây, đất Kinh được gọi là Kinh Sở, hay nước Sở, trong thế hàng ngũ chư hầu của nhà Chu.


https://youtu.be/EZpWP_85lYk


=============
1

https://omniglot.com/images/writing/vietnamese_tones.gif



2

https://static.christinas.vn/2017/1/23/Daily-Vietnamese%20.jpg


===
4

https://i.pinimg.com/736x/b8/ab/40/b8ab40d84e05877719646d2d41424a14--vietnamese-language-vietnamese-alphabet.jpg



5

https://image.slidesharecdn.com/linguisticalintroductiontovietnameselanguage-161123124119/95/linguistical-introduction-to-vietnamese-language-13-638.jpg





8

http://www.hardscrabblefarm.com/images/vietnam/lang-6.gif


Learn Vietnamese: VSL Lesson 1: Bài 1 Chữ Cái Vietnamese Alphabet – Intro

từ xã hội nông nghiệp tới xã hội cơ khí

xúc tác

VSL- Vĩnh Tường (Vietnamese as a Second Language)

VSL Bài 1 Chữ Cái VSL Lesson 1 Vietnamese Alphabet Introduction to Vietnamese Language for English speakers of all ages. Learn to read, speak, and write in Vietnamese. * VSL - VIETNAMESE AS A SECOND LANGUAGE * BY Lee Duong - From U.S.A Copy right©2017 – Author: Lee Duong. All right reserved. This serial of videos: 'VSL -Vietnamese as a second language' is an intellectual property. You can play, watch and learn from it, but absolutely MAY NOT copy, reproduce or download in whole or in part by any way without the written permission from the author. Vietnamese as a Second Language (VSL) Please give us a thumb up and /or click SUBSCRIBE if it helps. You are encouraged to feed back in order to improve the program. Thanks. SHOW LESS

Tay Ethnic Group – The Second Biggest One in Vietnam

POSTED ON AUGUST 5, 2016 BY ADMIN

05 Aug

With the number of around 1.7 million Vietnamese people accounting for 2% of the Vietnamese population, Tay ethnic minority group settles mainly in mountain areas or high lands of the northern and northwestern provinces such as Cao Bang, Lang Son, Bac Kan, Thai Nguyen, Quang Ninh, Ha Giang, smaller numbers in Bac Ninh and Bac Giang. It was considered to present soon in the year 500 BC. This group is also known as Tho, Tai Tho, T’o, Ngan, Phen, Thu Lao, or Pa Di.

Language of Tay Ethnic Group

The Tay people speak the language of Tai-Kadai (Tay – Thai) language group.

The Lifestyle of Tay People

The Tay people live in wooden stilt houses and together with 15 to over a hundred households in a village. They are farmers and mainly cultivate wet rice. They also plant upland rice, other food crops, and fruit trees. Their cattle and poultry husbandry are popular especially keeps going style of grazing animals. In some places, the Tay has a stone dog in front of their house aiming for wishes of protection and chasing bad luck away. Tay household crafts are skillful and valuable. Fair is an often popular economic activity here in the Tay’s physical and spiritual life.

Costume of Tay Ethnic Group

The Tay people’s clothes are quite simple, not colorful and not much of embroidery or decorative patterns, made of cotton and indigo dyed. Women wear high collared, knee-length shirts with 5 buttons on the right side, roomy trousers, and wide belts. They wear silver jewelry on their neck and arms. Men wear as similarly to women with shorter shirts or T-shirts and trousers.

Culture of Tay People

Because of its large population, The Tay ethnic group develops its rich culture. Primarily depend on cultivation; they now still thresh rice on wooden racks also-called as long in the fields, then bringing threshed rice baskets to their home. The Tay is famous for the culture of the diverse folk song such as Luon, Phong Slu, Phuoi pac, Puoi ruoi, Ven eng…, in which, Luon is the most popular one – a duet between lovers. The Tay sings Luon in almost their festivals in particular the Lunar New Year, Lồng Tồng festival (Going down the rice paddy), wedding, and new house ceremony. Another festival in the Tay community is a spirit-calling festival for cows and water buffaloes. It is held on the 6th of June in the lunar calendar.

Customs of Tay Ethnic Group

The Tay people extremely respect the worship of ancestors and supernatural Gods. They worship the House God, Kitchen God, or the Midwife. Their altar is set up in the center of the house. Visitors cannot sit down on the bed in front of the altar. Those attending a funeral must take a bath before feeding animals. Tay’s marriage is based on the “destiny” of both groom and bride and the determination of both sides’ parents. They send together a child’s fortune to read, if the two fortunes are fit, their children are allowed to get married. The bride must stay in her family until being pregnant; then she is going to be picked up to her husband’s home before the day she gives birth. When being pregnant, the Tay wife has to avoid a lot of things to keep her child healthy and keep bad luck away from it. A new mother is not allowed to sit nearby the altar.

https://www.vietnam-tour.biz/tay-ethnic-group-second-biggest-one-viet-nam/


33

https://www.vietnam-tour.biz/wp-content/uploads/2016/08/Tay-Ethnic-Group.jpg



34

https://www.vietnam-tour.biz/wp-content/uploads/2016/08/tay-ethnic-group.jpg



35

https://www.vietnam-tour.biz/wp-content/uploads/2016/08/tay-ethnic-group.jpg



36

https://www.vietnam-tour.biz/wp-content/uploads/2016/08/tay-vietnamese.jpg




https://www.vietnam-tour.biz/differences-vietnamese-language-among-regions/



Chữ-nôm (𡨸喃) or Nôm (喃).

Hán đại lục không phải trung nguyên

================================== Tim Tran · Follow

Vietnamese-born ChineseApr 30

What were the names of the 36 female generals in the Trung sister's army in the Vietnamese battle against the Chinese (around 40 AD)?

Correction: there were 33, not 36, female generals recorded in Vietnamese texts. However, please keep in mind these are all considered unofficial histories (dã sử 野史), not official history (chính sử 正史), as their life stories were only written in their respective shrines and temples. Therefore, they might or might not have been real historical figures.

Thánh Thiên: revolted in Yên Dũng, Bắc Đái (modern-day Bắc Giang). Educated in both brush and sword, she was given the title Princess Thánh Thiên (lit. ‘Heavenly Saint’) by Queen Regnant Trưng, the position of Supreme General Bình Ngô (lit. ‘Suppressing Eastern Wu’), leading the defensive army at Nam Hải (modern-day Hải Nam). She’s now enshrined in Ngọc Lâm, Yên Dũng, and Bắc Ninh.

Lê Chân: revolted in An Biên, Hải Phòng, was titled Princess Đông Triều (lit. ‘Eastern Waves’) by Queen Regnant Trưng, the position of Supreme General Trấn Đông (lit. ‘Eastern Defense’), leading the army at Nam Hải. She’s now enshrined in Nghè Shrine in An Biên, Hải Phòng.

Vũ Thị Thục: revolted in Tiên La (Thái Bình), titled General Bát Nạn (lit. ‘Eight Tribulations’), Supreme General of Uy Viễn, & Princess Trinh Thục (lit. ‘Virginal Thục’) by Queen Regnant Trưng. She’s now enshrined in Phượng Lâu (Phú Thọ) & Tiên La

Vương Thị Tiên: titled Princess Ngọc Quang (lit. ‘Bright Gem’) by Queen Regnant Trưng, now enshrined in Sầy Shrine & other shrines in Gia Sinh, Gia Viễn, Ninh Bình. Legend said she fought alongside the Trưng Sisters & took her own life in Hữu Bị, Nam Định. During a famine, Emperor Lí Thái Tông asked heaven for rain, and she appeared in his dream, saving the people. Hence, he added to her title, making it Princess Ngọc Quang Thiên Hương (lit. ‘Bright Gem and Fragrant Heaven’).

Lady Nội: revolted in Bạch Hạc (modern-day Việt Trì, Phú Thọ), was given the title of Princess Nhập Nội Bạch Hạc Thuỷ (lit. ‘Entering the Waters of Bạch Hạc’) by Queen Regnant Trưng, now enshrined in Việt Trì City.

Lê Thị Hoa: revolted in Nga Sơn (Thanh Hoá), was given the title of Princess Nga Sơn by Queen Regnant Trưng, the position of Supreme General Bình Nam (lit. ‘Suppressing the South’), co-lead an army in Cửu Chân. She’s now enshrined in Nga Sơn.

Hồ Đề: revolted in Lão Mai Cave (Thái Nguyên), was given the title of Princess Đề Nương (lit. ‘Lady Đề’) by Queen Regnant Trưng, the position of Vice Marshal, Supreme General Trấn Viễn. She’s now enshrined in Đông Cao Communal Temple at Yên Lập (Phú Thọ).

Lady Xuân (the Trưng Sisters’ sister-in-law): revolted in Tam Nông (Phú Thọ), titled Princess Đông Cung (lit. ‘Eastern Palace’) by Queen Regnant Trưng, the position of Senior Cabinet Official of Incoming Military Secrets. She’s now enshrined in Hưng Nha (Tam Nông), Phú Thọ.

Ladies Quỳnh and Quế: revolted in Đại Man Province (Tuyên Quang), titled Princesses Nghi Hoà (lit. ‘Peace’) by Queen Regnant Trưng, positioned as Supreme Generals Hổ Oai (lit. ‘Majestic Tigresses’), lead Nhật Nam army to defend northern Nam Hải. They’re now enshrined in Tuyên Quang.

Lady Trương Tử: Trưng Sisters' Navy Admiral. She died fighting Ma Yuan at Thần Phù waterfront (Ninh Bình). The Sisters posthumously titled her Goddess Trinh Thục Đoan Trang Anh Túc (lit. ‘Virginal and Modest Poppy Flower’), and enshrined her at Bà Tía Communal Temple, Hà Nội.

Đàm Ngọc Nga: revolted in Thanh Thuỷ, Phú Thọ, titled Princess Nguyệt Điện Tế Thế (lit. ‘Earthly Sacrifice of the Moon Palace’) by Queen Regnant Trưng, positioned as Left General Tiền Đạo (lit. ‘Front Path’), co-lead Nam Hải army. She’s now enshrined in Qujiang, China.

Trần Thị Phương Châu: took her own life in Qujiang (China) in 39AD, titled Princess Nam Hải (lit. ‘Southern Sea’) by Queen Regnant Trưng, now enshrined in Qujiang. In 1288, Emperor Trần Nhân Tông ordered Mandarin Đoàn Nhữ Hài to go to Qujiang, China, to repair her shrine.

Ladies Đinh Bạch and Đinh Tĩnh: Born in Hoa Lư Valley (Ninh Bình), then followed the Trưng Sisters to revolt, now enshrined in Đông Ba Communal Temple in Đông Ba Village, Thượng Cát, Bắc Từ Liêm, Hà Nội.

Thiều Hoa: revolted in Tam Thanh, Phú Thọ, was given the title of Princess Đông Cung (lit. ‘Eastern Palace’), the position of Right General Tiên Phong (lit. ‘Vanguard’). She’s now enshrined in Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ.

Quách A: revolted in Bạch Hạc, Phú Thọ, titled Princess Khâu Ni (lit. ‘Buddhist nun’) by Queen Regnant Trưng (due to her Buddhist background), the position of Right General Tiên Phong (lit. ‘Vanguard’), viceroy of Luy Lâu. She’s now enshrined in Nhật Chiêu (Phú Thọ)

Vĩnh Huy: revolted in Tiên Nha (Phú Thọ), was given the title of Princess Vĩnh Hoa (lit. ‘Eternal Brilliance’) by Queen Regnant Trưng, position of Inner Court General. She successfully destroyed Eastern Wu armies in Yunnan, Guangdong, and Hainan in China. She’s now enshrined in Nghênh Tiên Communal Temple in Vĩnh Phúc.

Lê Ngọc Trinh (also named Ả Chạ): revolted in Lũng Ngòi, Vĩnh Phúc, titled Princess Ngọc Phượng (lit. ‘Phoenix Gem’) by Queen Regnant Trưng, position of Supreme General Chinh Thảo (lit. ‘Conquer the Grassland’), co-lead army in Quế Lâm. She’s enshrined in Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc

Lê Thị Lan: revolted in Đường Lâm, Sơn Tây, was titled Princess Nhu Mẫn by Queen Regnant Trưng, positioned as General Trấn Tây (lit. ‘Western Defense’), co-lead Hán Trung army. She’s now enshrined in Hạ Hoà, Vĩnh Phúc.

Phật Nguyệt: revolted in Thanh Ba, Phú Thọ, was titled Princess Phật Nguyệt (lit. ‘Moon Buddha’) by Queen Regnant Trưng, positioned as Left Navy General Thao Giang, Supreme General Chinh Bắc (lit. ‘Conquer the North’), viceroy of Dongting & Changsha regions. She defeated Ma Yuan, Liu Long, and Duan Zhi at Dongting Lake (modern-day Hunan, China), and was the one who gave the most damage to Eastern Wu. She’s now enshrined in Jianguo Shrine in Changsha City, Hunan, China, and on Tiantai Mountain of Nanling Mountain Range, China.

Trần Thiếu Lan: Enshrined next to Dongting lake (modern-day Hunan, China). Many Vietnamese ambassadors of the past visited her shrine when they traveled to China.

Phương Dung: revolted in Lang Tài (Bắc Ninh), known as very intelligent and strategic, was titled Princess Đăng Châu (lit. ‘Ascending Pearl’) by Queen Regnant Trưng, positioned as Supreme General Trấn Nam, lead the army in Giao Chỉ. When attacking the north, she was positioned as strategist; when setting up the royal court in Lĩnh Nam, Queen Regnant Trưng promoted her as chancellor.

Trần Năng: revolted in Thượng Hồng (Hải Dương), was titled Princess Hoàng (lit. ‘Imperial’) and Supreme General Vũ Kị, positioned as Commander of Central Army. She’s now enshrined in Yên Lãng, Vĩnh Phúc.

Trần Quốc (also called Lady Quốc): revolted in Gia Lâm, Hà Nội, titled as Princess Gia Hưng (lit. ‘Flourishing Excellence’) and Supreme General Trung Dũng (lit. ‘Loyal Bravery’) by Queen Regnant Trưng, positioned Admiral, navy commander that defended northern Nam Hải. She had an illustrious victory in the naval battle at Uất Lâm (modern-day Guangxi). She’s now enshrined as a Dragon Goddess descending on earth in Hoàng Xá, Kiêu Kị, Gia Lâm (Vietnam) as well as in China’s Guangdong, Fujian, and Hainan.

Three Ladies: three sisters Lady Đạm, Lady Hồng, and Lady Thanh were titled Princess Quất Lưu, Princess An Bình, and Princess Bình Xuyên, respectively, by Queen Regnant Trưng, leading the cavalry in Lĩnh Nam. They’re all enshrined in Quất Lưu Communal Temple, Vĩnh Phúc.

Quý Lan: revolted in Lũng Động, Chí Linh (Hải Dương), was titled Princess An Bình (lit. ‘Peace’) by Queen Regnant Trưng, positioned as Inner Court General. She’s now enshrined in Liễu Sơn, Lập Thạch, Vĩnh Phúc.

Holy Lady Bầu: revolted in Lập Thạch, Vĩnh Phúc. She’s now enshrined in Lập Thạch, Sơn Dương.

Sa Giang: born as a Han Chinese in Changsha, China, she moved to Lĩnh Nam and helped in the revolt, was titled Princess Lĩnh Nam by Queen Regnant Trưng. She’s enshrined in Fengdu County, Sichuan in China.

Phùng Thị Chính: revolted in Tuấn Xuyên, Vạn Thắng, Ba Vì, was titled Commanding General of the Inner Court by Queen Regnant Trưng, famous for her battle in Lãng Bạc, where she gave birth during the fight, then killed enemies with one hand while holding her child in the other (however, after the Trưng Sisters took their own lives, she also killed herself and her child, so not exactly mother of the year). She’s now enshrined in Tuấn Xuyên Village, Vạn Thắng, Ba Vì, Hà Nội.

3.6K viewsView 78 upvotesView 3 shares Profile photo for Thi Nguyen Profile photo for Bảo Thiên Ngô Bảo Thiên Ngô · Apr 30

Would be cool to see this enacted in a drama. 😆 Profile photo for Tim Tran Tim Tran · Apr 30

There's an upcoming movie about it Profile photo for Dan Le Dan Le · Thu The whole Vietnam history has been enacted as drama series in the Vietnamese historical lessons. Nobody care about the real history from the respected historian Ta Chi Dai Truong! Profile photo for Derius Li Derius Li · May 2

I hear they failed and their heads hung in front of the gate🙄

Profile photo for Tim Tran Tim Tran · May 2

That's the Chinese version. The Vietnamese version had them jump into a river and died

Profile photo for Wei Shi Wei Shi · May 3 They are not mutual exclusive (heads could be harvest not mater they died or alive.). Profile photo for Wei Shi Wei Shi · May 3 Vietnam talk big about those women, but the Trưng Sisters took their own lives against grand total of less than 18,000 Chinese. Profile photo for Tim Tran Tim Tran · May 3 No one said the Sisters were powerful. They're revered for their spirits of rebellion against China. Profile photo for Wei Shi Wei Shi · May 3

They won’t need to died (or in trouble in the first place.) if they not repeat abuse the Power belong to Emperor alone (power of live & death over subjects excess the written law.). You might not understand, but until Mongol conquest, China was country rule by Law which apply to everyone up to Prince (but not same as western rule of law.)!

From the eye of then Chinese governor, the Sisters were murders of their fellow lower class Vietnamese (which has no legal right in the eye of sisters.) against written Chinese law & trial, Chinese officers would not see it as heroic act.

Profile photo for Tim Tran Tim Tran · May 3

No one cares what the Chinese think about Trung Sisters my dude.

Profile photo for Wei Shi Wei Shi · May 3

If move against head wind is the only way you could walk, best luck.

I mere point out the early Charge issued against sisters before the rebellion (those murdered/death were not Han Chinese, and sisters displayed some Vietnamese life just value lot less than other Vietnamese!), other than few rare case, We don’t input race/nation as part of consideration when deciding judgement.

Profile photo for Tim Tran Tim Tran · May 3

None of what you said negate what I posted…

Profile photo for Mt Nguyen Mt Nguyen · May 4

the event was big enough to be writen into official history of the Han dynasty. And the fact also writen that all 4 districts with over 60 cities in Lingnan was liberated and join with the Queen (as those people in Lingnan in this time are closer in bloodlink against the Han). The shrines to Lady Trungs & her lady warlords still found in southern China provinces (Lingnan) until recently

Profile photo for Philip Ha Philip Ha · May 3

This is a sick mentality that Chinese tribes maintained in their history about killing and mutilating their enemy's bodies. This explained the millions of Chinese killed since the CCP took over the country in 1949. For those who have never been thru the war, talking about these atrocities is meaningless to their mind. Trust that if you guys went thru a real war, or political crisis, I guess that many of these living room warriors will piss in their pants or call for their mothers for safety and help.….

Profile photo for Wei Shi Wei Shi · May 4

Yes, after all, most of current generation are single child, they don’t expect to risk their live. but let us hope you are made of stronger material should you be put on test.

Profile photo for Borjigin Chuluun ᠪᠣᡵᠵᡳᡤᡳᡨ ᠴᠢᠯᠠᠭᠤᠨ Borjigin Chuluun ᠪᠣᡵᠵᡳᡤᡳᡨ ᠴᠢᠯᠠᠭᠤᠨ · May 5 Ah yes, the “evil Chinese” and “good Vietnamese”. Lol whatever you say, talking all of this sh*t about Chinese. Profile photo for Philip Ha Philip Ha · May 3

Thank you for writing about the history part of these female generals who follow the Trưng sisters in the rebellion against the Mongolian feudal reign. The Chinese people suffered worse than the people of Vietnam during this period.

Profile photo for Tim Tran Tim Tran · May 3

The Trưng Sisters fought against the Han. The Mongols came about 1000 years later.

Profile photo for Philip Ha Philip Ha · May 3 My mistake. Thank you for your correction. Profile photo for Nguyen Huu Phuoc Nguyen Huu Phuoc · May 4

Linh Nam is not Vietnam today and not China today. It is history country. The region of Trung sisters’ uprising is Southern Viet (Nanyue Kingdom) which was includes Guangdong, Guangxi and Northern Vietnam. Many evidences shows that we can see Trung sisters’ temple in Guangdong, Guangxi too.

Profile photo for Dan Le Dan Le

The whole Vietnam history has been enacted as drama series in the Vietnamese historical lessons. Nobody care about the real history from the respected historian Ta Chi Dai Truong!

Profile photo for Saitdark Asexual Saitdark Asexual · May 2

Holy, Did you really translate all these?

Though I have some suggestions for the title translation. E.g. Phật Nguyệt should be Buddha’s Moon I think. (as in Phật Quang). lưỡng cực

What if ancient Vietnamese survived Han invasion and adopted Indic system of governance, then what would change Vietnamese identity compare to real timeline?

Question: What if ancient Vietnamese survived the Han invasion and adopted the Indic system of governance, then what would change Vietnamese identity compared to the real timeline Answer: It is impossible to answer your hypothetical question. However, the history of Ancient Champa state located in Southern Central Vietnam today may have many similarities with your hypothetical conditions.

The Ancient Champa Kingdom of Vietnam – A Rich History & Heritage: A Rich History & Heritage[1]

There are many Champa states had been existed in Central Vietnam from Ho Ton Tinh State (Equivalent to the second Vietnamese state: Au Lac 258BC-180BC), Lam Ap 192AD after regaining independence from the Chinese Han Empire, Hoan Vuong, Champa, and Hoa Anh until being annexed into the Great Viet Kingdom in the 17th century.

Champa religious temple in Vietnam

After regaining independence from the Chinese Han Empire, the Cham people built their state closer to the Indian civilization. Their ancient Champa culture had been strongly influenced by the Indian culture and their writing system is similar to the Indianized states in the Southeast Asian region.

Champa writing script

From your hypothetical conditions, I think the Vietnamese culture and the Vietnamese identity should have been closer to Cambodia, and Thailand than it is today. Lucia Millar.

What were the names of the 36 female generals in the Trung sister's army in the Vietnamese battle against the Chinese (around 40 AD)?


35

https://qph.fs.quoracdn.net/main-qimg-78fe621cb3581d904360de9a8e7bc7a2



36

https://qph.fs.quoracdn.net/main-qimg-ab2e63e47248c3a4b714be9fed522a07



37

https://qph.fs.quoracdn.net/main-qimg-6544675fc17e89f4df8f1ba9d536632d



38

https://qph.fs.quoracdn.net/main-qimg-d004d49a8de1fbfb1493e03e7d3b5f64




Justin Poon , lives in Los Angeles Answered Nov 26, 2018 Related

Why do Vietnamese admire Chinese culture?

Obviously China does not care about Vietnam's admiration or denial of Chinese culture, but Vietnam must learn Chinese in order to understand the history of Vietnam. Look at the words written on Vietnamese history books, cultural relics and monuments. 18 5 Add Comment Louis Nguyen · 3y

This might have been true, say, 100+ years ago. Not so much as of today. Vietnamese history books had been basically translated to the current Vietnamese version for a while. Unless you’re talking about ultra old and somewhat specialized such as Chinese medicine or some arcane Chinese astrology, then it probably holds some water, not so much for 99% of our history books.

2 Reply Michael Yas · 3y Why do Vietnamese celebrate Chinese New Year. At least the folk in calif do. Westminster city has a huge Vietnamese pop and Chinese new is a big event. You not Chinese. Why celebrate their New Years?

Also thanks to China and Russia your country is a communist run country.

Yet you celebrate Chinese New Year. It puzzles me. Am I missing something?

1 Reply Louis Nguyen · 3y

I understand what you’re saying. However, if you read our history, you’ll see that we’re heavily influenced by the Chinese culture as far back as 1K years ago. Therefore, most of what’s considered VN culture usually comes from them. I’m not in the camp that denies history. Whatever we learned or took from them, I’ll acknowledge. There’s no shame in that.

As for the war, cultural history usually doesn’t follow political history that much since regimes can always switch side. I’m from the South as you probably can imagine from my avatar. We lost the war. As a result, VN is now under the Commie rule. China had every reason to support the Viet Commie just as the US supported us. That being said, although I certainly don’t like the outcome of the war, I still can’t deny the fact that we borrowed/learned a lot of stuffs from the Chinese. Lunar New Year is one of them.

1 Reply Michael Yas · 3y

Got it Louis. However I think you all should dump that culture. I met many many mainland Chinese that tell me they hate Vietnamese and many times they hate Vietnamese more than Japanese. Met a few that would watch Japanese tv shows and sometime even have Japanese boyfriends and yet they hate Vietnamese when it seems like your people have done nothing to deserve that hate.

Thats why if I was Vietnamese I prob say screw Chinese New Year. I’m not Vietnam though so maybe I don’t understand how much Chinese culture has a grip on your people.

2 Reply Tiên Trương · 3y

Actually, 98% Vietnamese know how to read or write Chinese. We don`t need to learn Chinese just to understand our history. If some Vietnamese learnt Chinese It would be learnt as foreign language.

Reply China is literally invading all countries having sovereignty on South China Sea islands, including Vietnam, the Phillipines, Malaysia, etc. etc.


Gỏi cuốn



con số

http://www.hardscrabblefarm.com/images/vietnam/lang-6.gif


Dấu giọng
Tone name



https://omniglot.com/images/writing/vietnamese_tones.gif
55

66

==========================

Character Word Gloss Character derivation
𤾓 (⿱百林) trăm hundred compound of 'hundred' and lâm
𢆥 (⿰南年) năm year compound of nam and 'year'
𥪞 (⿺竜內) trong in compound of long and 'inside'
cõi world character of near-homophone Sino-Vietnamese quĩ/quỹ 'prime minister; to guess, estimate'
𠊛 (⿰㝵人) người person compound of abbreviated ngại and 'person'
ta our character of homophone Sino-Vietnamese ta 'little, few; rather, somewhat'
𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
tài talent Sino-Vietnamese word
𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
mệnh destiny Sino-Vietnamese word
khéo clever character of near-homophone Sino-Vietnamese khiếu 'pit, cellar'
𦉼 (⿱罒大) be abbreviated form of 'be', using the character of near-homophone Sino-Vietnamese la 'net for catching birds'
ghét hate compound of 'heart' classifier and cát
nhau each other character of near-homophone Sino-Vietnamese nhiêu 'bountiful, abundant, plentiful'


-------------------

ỳỳỳ bộ óc làm việc = não bộ hoạt động
mạch máu hoạt động
- Han (漢) Hua (華), là giả tạo, phục vụ cho mục đích xây dựng thương hiệu, không có từ nào trong số này đề cập đến bất cứ điều gì.
Người Hán là một trang điểm tùy tiện cộng lại một loạt các mặt hàng hoàn toàn.
- Han (漢)Hua(華), are artificial, serving for a branding purpose, none of these words are referring to anything Han Chinese is an arbitrarily make up that adds up a bunch of items altogether.
Bird-worm_seal_script
bird-worm



Vịnh Hạ Long bị tàn phá khủng khiếp
HOUSTON P2 16/8/2022:
https://youtu.be/NjhFnieabDg
  • ^ Vũ Thế Khôi (2009).
    中土 đông á đại lục
    Quoc Ngu, the phoneticized system of the Viet spoken language became standard in Vietnam.
    áo bà ba is typically a long-sleeved, button-down silk shirt with a scooped neck paired with silk pants.
    The shirt is long and split at the waist sides, forming two flaps customarily with two pockets.
    phù bình (浮平),
    trầm bình (沈平),
    phù thượng (浮上),
    trầm thượng (沈上),
    phù khứ (浮去),
    trầm khứ (沈去),
    phù nhập (浮入),
    trầm nhập (沈入).

    Như vậy, tổng cộng có 8 thanh bậc:
    phù 浮 và
    trầm 沈
    âm 陰
    dương 陽).
    thanh 清
    trọc 濁;
    thượng 上
    hạ 下;
    bình 平,
    thượng 上,
    khứ 去,
    nhập 入;

    1 Chữ Nôm thường có nhiều nét hơn, phức tạp hơn chữ Hán (do ghép hai chữ Hán lại) nên khó học, khó nhớ hơn chữ Hán.
    2 Để đọc viết được chữ Nôm đòi hỏi phải có vốn hiểu biết chữ Hán.
    3 Hệ thống chữ Nôm cũng không có sự đồng nhất vì chưa được quan tâm toàn diện:
    a có thể có nhiều chữ dùng để ghi cùng một âm tiết, hoặc ngược lại,
    b một chữ có thể có nhiều cách đọc khác nhau.
    c Tình trạng "tam sao thất bản",
    d phần vì trình độ người thợ khắc chữ ngày xưa, phần in mộc bản có phẩm chất không cao (chữ bị nhòe, mất nét).

    Các lý do đó người nói "chữ Nôm phải vừa đọc vừa đoán" vì thế nên gây hoang mang bị lợi dụng chữ nghĩa và do đó bị kết luận sai là "nôm na là cha mách qué".

    Về mặt ngữ âm thì số âm tiết của tiếng Việt nhiều hơn số âm tiết của âm Hán Việt của chữ Hán nên người viết phải dùng dấu nháy [»] hoặc chữ khẩu [口] đặt cạnh một chữ để biểu thị những chữ cận âm.
    Người đọc vì vậy phải giỏi mà đoán cho trúng âm, khiến chữ Nôm khá khó đọc.

    Trong thư tịch cổ tiếng Việt viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, chữ được viết kiểu Tung Thư (viết dọc từ phải sang trái) chứ không viết theo hàng ngang như chữ Latinh, vòng và dấu chấm thường nằm ngoài hàng chữ, bên phải chữ cuối cùng của “câu”.

    阮文𠄼 Nguyễn Văn Năm đặt tên người dùng không quá 10 ký tự bất kể ngôn ngữ

    14 ký tự

    Chữ ghép tạo

    Chữ ghép, còn gọi chữ là chữ hợp thể, là chữ được tạo ra bằng cách ghép hai hoặc nhiều hơn chữ khác thành một chữ. Các chữ cấu thành nên chữ ghép có thể đóng vai trò là thanh phù (bộ phận biểu thị âm đọc của chữ ghép) hoặc nghĩa phù (bộ phận biểu thị ý nghĩa của chữ ghép) hoặc vừa là thanh phù vừa là nghĩa phù hoặc dùng làm phù hiệu chỉnh âm chỉ báo cho người đọc biết chữ này cần phải đọc chệch đi. Chúng có thể được viết nguyên dạng hoặc bị viết tỉnh lược mất một phần hoặc thay bằng chữ giản hóa. Thanh phù luôn có âm đọc giống hoặc gần giống với âm đọc của chữ ghép. Phù hiệu chỉnh âm được dùng trong chữ Nôm là bộ "khẩu" 口 (đặt ở bên trái chữ ghép), dấu "cá" 亇 (bắt nguồn từ chữ "cá" 个 viết theo thể thảo thư, đặt ở bên phải chữ ghép), dấu nháy "𡿨" (đặt ở bên phải chữ ghép), bộ "tư" 厶 (đặt ở bên trên hoặc bên phải chữ ghép), dấu "冫" (đặt bên trái chữ ghép, chỉ thấy dùng trong các bản văn bản Nôm ở vùng Nam Bộ Việt Nam).

    Một số ví dụ về chữ ghép:

    • "chân" 蹎 ("chân" trong "chân tay"): chữ này được cấu thành từ chữ "túc" 足 và chữ "chân" 真. "Túc" 足 có nghĩa là "chân" được dùng làm "nghĩa phù" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. Trong chữ ghép chữ "túc" 足 khi đứng ở bên trái phải viết dưới dạng biến thể gọi là "bàng chữ túc" ⻊. Chữ "chân" 真 ("chân" trong "chân thành") đồng âm với "chân" trong "chân tay" được dùng làm thanh phù biểu thị âm đọc của chữ ghép.
    • "gạch" 𥗳 ("gạch" trong "gạch ngói"): chữ này được cấu thành từ chữ "thạch" 石 và chữ "ngạch" 額. "Thạch" 石 có nghĩa là "đá" được dùng làm nghĩa phù, ý là gạch thì được làm bằng đất đá. "Ngạch" 額 dùng làm thanh phù.
    • "khói" 𤌋: chữ này được cấu thành từ chữ "hỏa" 火 và chữ "khối" 塊 bị tỉnh lược một phần (tỉnh lược bộ "thổ" 土 ở bên trái chữ "khối" 塊). "Hỏa" 火 có nghĩa là lửa, gợi ý nghĩa của chữ ghép (lửa cháy tạo ra khói), "khối" 塊 gợi âm đọc của chữ ghép.
    • "ra" 𦋦: chữ này được cấu thành từ chữ "la" 羅 giản hóa và chữ "xuất" 出. "Xuất" 出 có nghĩa là "ra" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép.
    • "trời" 𡗶: chữ này được cấu thành từ chữ "thiên" 天 có nghĩa là "trời" và chữ "thượng" 上 có nghĩa là "trên", ý là "trời" thì nằm ở trên cao.
    • "lử" 𠢬 ("lử" trong "mệt lử") gồm chữ "vô" 無 có nghĩa là "không có" và chữ "lực" 力 có nghĩa là "sức, sức lực", ý là "lử" là không còn sức lực gì nữa.

    Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:

    • "blăng" 𣎞: "Blăng" hiện nay đã biến đổi thành "trăng, giăng". Chữ "blăng" 𣎞 được cấu thành từ chữ "ba" 巴, chữ "lăng" 夌 và chữ "nguyệt" 月. "Ba" 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất "b" của phụ âm kép "bl", "lăng" 夌 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần của từ "blăng", "nguyệt" 月 có nghĩa là "mặt trăng" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này.
    • "mlời" 𠅜: "Mlời" hiện nay đã biến đổi thành "lời, nhời" ("lời" trong "lời nói"). Chữ "mlời" 𠅜 được cấu thành từ chữ "ma" 麻 (bị tỉnh lược thành "亠") và chữ "lệ" 例. "Ma" 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất "m" của phụ âm kép "ml", "lệ" 例 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần cửa từ "mlời".
    • "tlòn" 𧷺: "Tlòn" hiện nay đã biến đổi thành "tròn". Chữ này được cấu thành từ chữ "viên" 圓 (bị tỉnh lược bộ "vi" 囗 ở phía ngoài thành "員") và chữ "lôn" 侖. "Viên" 圓 có nghĩa là "tròn" được dùng làm nghĩa phù. "Lôn" 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "tl" và phần vần của từ "tlòn".
    • "krông" 滝: "Krông" hiện nay đã biến đổi thành "sông". Chữ này được cấu thành từ bộ "thủy" 水 và chữ "long" 竜. "Thủy" có nghĩa là "sông" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. "Long" 竜 biểu thị phụ âm thứ hai "r" của phụ âm kép "kr" và phần vần của từ "krông".
    • "sláu" 𦒹: "sláu" hiện nay đã biến đổi thành "sáu". Chữ này được cấu thành từ chữ "lão" và chữ "lục". "Lục" 六 là nghĩa phù, có nghĩa là "sáu". "Lão" 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "sl" và phần vần của từ "sláu".
    Toàn quyền Albert Sarraut ban hành năm 1917 quy định ở cấp tiểu học, mỗi tuần dạy Hán tự một giờ rưỡi và dạy tiếng Pháp (lớp nhì và lớp nhất) ít nhất 12 giờ. Ở cấp trung học, mỗi tuần quốc văn (gồm Hán tự và quốc ngữ) dạy 3 giờ trong khi Pháp văn và lịch sử Pháp dạy 12 giờ.[18] Bên cạnh bộ Quốc-văn giáo-khoa thư của nhóm Trần Trọng Kim, Nha Học chính Đông Pháp còn tổ chức và cho sử dụng bộ Hán-văn tân giáo-khoa thư xuất bản lần đầu năm 1928 do Lê Thước và Nguyễn Hiệt Chi biên soạn, đều được dùng rộng rãi cho tới trước năm 1949.

    các sĩ phu vận động ủng hộ chữ Quốc ngữ trong công cuộc phổ biến tân học và lan truyền tư tưởng yêu nước.[18] Các phong trào cải cách như Hội Trí Tri, phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục và ngành báo chí mới hình thành đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chữ Quốc ngữ.

    Ngày nay, tiếng Việt hầu như được viết hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ, trong khi đó chỉ rất ít người, chủ yếu là các học giả, có thể đọc viết được chữ Nôm. Nhưng với cộng đồng người Kinh ở Trung Quốc không bị ảnh hưởng bởi các chính sách thay đổi sang chữ Quốc ngữ của thực dân Pháp ở Việt Nam, họ vẫn nói tiếng Việt và đọc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm như người Việt xưa thay vì chữ Quốc ngữ.[21][22] "Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói, chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và văn hóa tốt đẹp của mình."[29]

    Dùng âm chữ Hán, không dùng nghĩa (giả tá)

    Dùng nghĩa chữ Hán, không dung âm (huấn đọc)

    Sửa đổi phần “Chữ ghép (tạo tự)

  • "lử" 𠢬 ("lử" trong "mệt lử") gồm chữ "vô" 無 có nghĩa là "không có" và chữ "lực" 力 có nghĩa là "sức, sức lực", ý là "lử" là không còn sức lực gì nữa.
  • vô lực {lữ)

    Lược bớt ít nhất là một nét của một chữ Hán nào đó để gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này phải đọc chệch đi. Ví dụ:

    • chữ "ấy" 𧘇: lược nét chấm "丶" trên đầu chữ "ý" 衣. Việc lược bớt nét bút này gợi ý cho người đọc biết rằng chữ này không đọc là "y" hay "ý" (chữ 衣 có hai âm đọc là "y" và "ý") mà cần đọc chệch đi.
    • "khệnh khạng" 𠀗𠀖: chữ "khệnh 𠀗 là chữ "cộng" 共 bị lược bớt nét phẩy "㇒", chữ "khạng" 𠀖 là chữ "cộng" 共 bị lược bớt nét mác "㇔".
    • "khề khà" 𠀫𠀪: chữ "khề" 𠀫 là chữ "kỳ" bị lược bớt nét phẩy "㇒", chữ "khà" 𠀪 là chữ "kỳ" bị lược bớt nét mác "㇔".

    Tiếng Việt hiện đại không có phụ âm kép nhưng trong tiếng Việt từ giai đoạn trung đại trở về trước thì lại có phụ âm kép. Trong chữ Nôm hợp thể để biểu thị các phụ âm kép người ta dùng một hoặc hai chữ làm thanh phù. Nếu dùng hai chữ làm thanh phù thì một chữ sẽ dùng để biểu thị phụ âm thứ nhất của phụ âm kép, chữ còn lại biểu thị phụ âm thứ hai của phụ âm kép. Ví dụ:

    • "blăng" 𣎞: "Blăng" hiện nay đã biến đổi thành "trăng, giăng". Chữ "blăng" 𣎞 được cấu thành từ chữ "ba" 巴, chữ "lăng" 夌 và chữ "nguyệt" 月. "Ba" 巴 biểu thị phụ âm thứ nhất "b" của phụ âm kép "bl", "lăng" 夌 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần của từ "blăng", "nguyệt" 月 có nghĩa là "mặt trăng" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép này.
    • "mlời" 𠅜: "Mlời" hiện nay đã biến đổi thành "lời, nhời" ("lời" trong "lời nói"). Chữ "mlời" 𠅜 được cấu thành từ chữ "ma" 麻 (bị tỉnh lược thành "亠") và chữ "lệ" 例. "Ma" 麻 biểu thị phụ âm thứ nhất "m" của phụ âm kép "ml", "lệ" 例 biểu thị phụ âm thứ hai "l" và phần vần cửa từ "mlời".
    • "tlòn" 𧷺: "Tlòn" hiện nay đã biến đổi thành "tròn". Chữ này được cấu thành từ chữ "viên" 圓 (bị tỉnh lược bộ "vi" 囗 ở phía ngoài thành "員") và chữ "lôn" 侖. "Viên" 圓 có nghĩa là "tròn" được dùng làm nghĩa phù. "Lôn" 侖 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "tl" và phần vần của từ "tlòn".
    • "krông" 滝: "Krông" hiện nay đã biến đổi thành "sông". Chữ này được cấu thành từ bộ "thủy" 水 và chữ "long" 竜. "Thủy" có nghĩa là "sông" biểu thị ý nghĩa của chữ ghép. "Long" 竜 biểu thị phụ âm thứ hai "r" của phụ âm kép "kr" và phần vần của từ "krông".
    • "sláu" 𦒹: "sláu" hiện nay đã biến đổi thành "sáu". Chữ này được cấu thành từ chữ "lão" và chữ "lục". "Lục" 六 là nghĩa phù, có nghĩa là "sáu". "Lão" 老 là thanh phù, biểu thị phụ âm thứ hai "l" của phụ âm kép "sl" và phần vần của từ "sláu".
    So sánh cách gọi tên của các chữ phần nguyên âm trong ba thứ tiếng Anh, Pháp, và Việt trong các chữ: A, K, H, U và Q

     

    A
    K
    H
    U
    Q
    Anh
    [el]
    [kel]
    [eltS]
    [jU]
    [kjU]
    Pháp
    [a]
    [ka]
    [aS]
    [ỹ]
    [kỹ]
    Việt
    [a]
    [ka]
    [hat]
    |u|
    [ku]

    Chữ A, K, Q, trong ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt

     

    • the Nôm character 𧘇 (ấy 'that', 'those') is a simplified form of the Chinese character (Sino-Vietnamese reading: ý).[75]
    • the Nôm character (làm 'work', 'labour') is a simplified form of the Chinese character (Sino-Vietnamese reading: lạm) ( > > ).[76]

    • ------------------------
    • the Nôm character 𠬠 (một 'one') comes from the right part of the Chinese character (Sino-Vietnamese reading: một).[77]

    Example

    As an example of the way Chữ Nôm was used to record Vietnamese, the first two lines of the Tale of Kieu (1866 edition), written in the traditional six-eight form of Vietnamese verse, consist of the following 14 characters:[78]

    character word gloss character derivation
    𤾓 (⿱百林) trăm hundred compound of 'hundred' and lâm
    𢆥 (⿰南年) năm year compound of nam and 'year'
    𥪞 (⿺竜內) trong in compound of long and 'inside'
    cõi world character of near-homophone Sino-Vietnamese quĩ/quỹ 'prime minister; to guess, estimate'
    𠊛 (⿰㝵人) người person compound of abbreviated ngại and 'person'
    ta our character of homophone Sino-Vietnamese ta 'little, few; rather, somewhat'
    𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
    tài talent Sino-Vietnamese word
    𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
    mệnh destiny Sino-Vietnamese word
    khéo clever character of near-homophone Sino-Vietnamese khiếu 'pit, cellar'
    𦉼 (⿱罒大) be abbreviated form of 'be', using the character of near-homophone Sino-Vietnamese la 'net for catching birds'
    ghét hate compound of 'heart' classifier and cát
    nhau each other character of near-homophone Sino-Vietnamese nhiêu 'bountiful, abundant, plentiful'


    -------------------

    This is translated as 'A hundred years—in this life span on earth, talent and destiny are apt to feud.'[79]

    Most common nôm's characters

    The website chunom.org gives a frequency table of the 586 most common characters in Nom literature. According to this table, the most common 50 characters are as follows, with the modern spelling given in italics:[80]



    ..................................

    50 characters in Nom literature and chữ quốc Ngữ Tiếng Việt spelling given in italics with English translation
    1. to be
    2. and
    3. các each; every
    4. một one
    5. there is
    6. 𧵑 của of
    7. được to get, to obtain
    8. 𥪝 trong in
    9. 𤄯 trong clear
    10. 𠊛 (or 𠊚) người people
    11. những (plural marker)
    12. học to learn
    13. như as
    14. từ word
    15. hội to meet
    16. hay or, good
    17. không not
    18. thể body
    19. four
    20. cũng also
    21. 𠇍 với, mấy with
    22. cho to give
    23. society, company
    24. này, nơi place
    25. để to place
    26. quan frontier, barrier, gate
    27. quan to see
    28. trường school
    29. bản, vốn, composition, financial capital
    30. 𧗱 về to return; about
    31. kinh classic works, sutra
    32. hàng, hãng, hành, hạnh company, firm
    33. hàng sail; navigate
    34. sản, sẵn to give birth, to be prepared
    35. 𠚢 ra to get out
    36. thế world; era
    37. thế to replace
    38. thế position, power; like that, so
    39. thường frequent; common, normal, usual
    40. sự matter; event
    41. đó there; that
    42. tế to cross
    43. tế border
    44. đầu head; top (of a multitude)
    45. đầu to throw, to send
    46. 𦓡 but
    47. loại class, group
    48. khác another, different; further
    49. nhất first
    50. đến arrive, reach


    Cách chuyển đổi tượng hình thành tượng thanh trong chữ Nôm Truyện Kiều
    The way Chữ Nôm was used to record Vietnamese, Tale of Kieu
    character word gloss character derivation
    𤾓 (⿱百林) trăm hundred compound of 'hundred' and lâm
    𢆥 (⿰南年) #fed năm year compound of nam and 'year'
    𥪞 (⿺竜內) trong in compound of long and 'inside'
    cõi world character of near-homophone Sino-Vietnamese quĩ/quỹ 'prime minister; to guess, estimate'
    𠊛 (⿰㝵人) người person compound of abbreviated ngại and 'person'
    ta our character of homophone Sino-Vietnamese ta 'little, few; rather, somewhat'
    𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
    tài talent Sino-Vietnamese word
    𡦂 (⿰字字) chữ word doubling of tự 'character'
    mệnh destiny Sino-Vietnamese word
    khéo clever character of near-homophone Sino-Vietnamese khiếu 'pit, cellar'
    𦉼 (⿱罒大) be abbreviated form of 'be', using the character of near-homophone Sino-Vietnamese la 'net for catching birds'
    ghét hate compound of 'heart' classifier and cát
    nhau each other character of near-homophone Sino-Vietnamese nhiêu 'bountiful, abundant, plentiful'


    -------------------




    .................................

     

    Bính âm Hán ngữ

    Pinyin
    Tiếng Trung拼音
    Lược đồ cho bảng chữ cái ngữ âm tiếng Trung
    Giản thể汉语拼音方案
    Phồn thể漢語拼音方案

    ==================


    Scheme for the Chinese Phonetic Alphabet #b0c4de
    Simplified Chinese 汉语拼音 方案
    Traditional Chinese漢語 拼音 方案




    HOW TO STREAM LIVE WITH YOUR iOS DEVICE LIKE A PRO!
    https://youtu.be/ZvxQpVeSTpg


    Better Sound on iPhone Videos - Use a USB Audio Interface
    https://youtu.be/spTM7_IBsLA
    Vĩnh San (Duy Tân) as a child Emperor and as a grown-up French Resistance fighter





     

    Vietnamese cuisine

    Phở bò (beef noodle soup) from the city of Hội An – different regions have different recipes for their phở.
    Bún chả, a dish of grilled pork and noodle and herbs
    Bún bò Huế, a spicy, lemongrass rice vermicelli noodle soup served with fresh herbs and vegetables

    Vietnamese cuisine encompasses the foods and beverages of Vietnam. Meals feature a combination of five fundamental tastes (ngũ vị): sweet, salty, bitter, sour, and spicy. The distinctive nature of each dish reflects one or more elements (nutrients, colors, et cetera), which are also based around a five-pronged philosophy. Vietnamese recipes use ingredients like lemongrass, ginger, mint, Vietnamese mint, long coriander, Saigon cinnamon, bird's eye chili, lime, and Thai basil leaves.[1] Traditional Vietnamese cooking has often been characterised as using fresh ingredients, not using much dairy nor oil, having interesting textures, and making use of herbs and vegetables. The cuisine is also low in sugar and is almost always naturally gluten-free, as many of the dishes are rice-based instead of wheat-based, made with rice noodles, papers and flour.[2]

    Kikkoman, a leading soy sauce manufacturer, did market research confirming that fish sauce (nước mắm) is the predominant table sauce in Vietnamese homes, where it captures over 70% of the market, while the share for soy sauce is under 20%.[3]

    Historical influences[edit]

    Mì vằn thắn (wonton noodles soup) influenced by Southern Chinese migrants
    Bò kho (beef stew) and bánh mì (Vietnamese baguette) influenced by the French
    Cà ri gà (chicken curry with coconut milk) influenced by South East Asian cuisine

    Besides indigenous Vietnamese influences, which are the major core of Vietnamese food, owing to historical contact with China and some centuries of sinicization, some Vietnamese dishes share similarities with Chinese cuisine. In culinary traditions, the Chinese introduced to Vietnam several dishes, including vằn thắn/hoành thánh (wonton), xá xíu (char siu), há cảo (har gow), hủ tiếu (shahe fen), (wheat noodles), bò bía (popiah), bánh quẩy (youtiao), mooncake and bánh pía (Suzhou style mooncake), bánh tổ (nian gao), sủi dìn (tang yuan), bánh bò, bánh bao (baozi), cơm chiên Dương Châu (Yangzhou fried rice), and mì xào (chow mein). The Vietnamese adopted these foods and added their own styles and flavors to the foods. Ethnic minorities in the mountainous region near the China–Vietnam border also adopted some foods from China. Ethnic Tày and Nùng in Lạng Sơn Province adopted thịt lợn quay (roasted pork) and khâu nhục (braised pork belly) from China. Some New World vegetables, such as chili peppers and corn (maize), also made their way to Vietnam from the Ming dynasty.

    The French introduced baguettes to Vietnam, which were combined with Vietnamese stuffing to become a popular fast food in Vietnam called bánh mì thịt, known overseas as "Vietnamese baguettes". Bánh mì is just the bread, whereas thịt implies meat or stuffing. The French also introduced Vietnam to onions, cauliflower, lettuce, potatoes, tarragon, carrot, artichoke, asparagus, and coffee.

    The western introduced ingredients often have a name derived from a similar native Vietnamese ingredient, then adding the word tây (meaning western). Onions are called hành tây (literally "western shallots"), asparagus as măng tây (western bamboo shoots) and potatoes are called khoai tây (western yam) in Vietnamese, which reflects their origin before arriving in Vietnam. French-influenced dishes are numerous and not limited to: sa lát (salad), pâté, patê sô (a Brittany pasty called "pâté chaud"), bánh sừng trâu (croissant), bánh flan, ya ua (yogurt), rôti (rotisserie), (butter), vịt nấu cam (duck à l'orange), ốp lết (omelette), ốp la (œufs au plat), phá xí (farcies), bít tết (beefsteak), sốt vang (cooking with wine), dăm bông (jambon), and xúc xích (saucisse). Owing to influences from French colonial rule, the French Indochinese countries of Laos, Vietnam, and Cambodia have several shared dishes and beverages, including baguettes and coffee. The French also introduced the use of dairy products in Vietnamese-French fusion dishes.

    Vietnamese cuisine also has influences from Champa, Malaysia and Cambodia. The use of coconut milk and various central dishes such as bánh khọt were influenced by Cham cuisine. Spices including curries were also introduced to Vietnam by Malay and Indian traders.[4] Though not common in the north, cà ri is a quite popular dish in central and southern Vietnam. The most common form is chicken curry, and to a lesser extent, goat curry. Chicken curry is an indispensable dish in many social gathering events, such as weddings, funerals, graduations, and the yearly death anniversary of a loved one. Similar to Cambodia, curry in Vietnam is eaten either with bread, steamed rice, or round rice noodles (rice vermicelli). Mắm bồ hóc or prahok, adopted from ethnic Khmer in Southern Vietnam, is used as a central ingredient of a Vietnamese rice noodle soup called bún nước lèo which originated with ethnic Khmers in Vietnam and is not found in Cambodia.

    Owing to contact with previous communist countries from Eastern Europe, the Vietnamese adopted dishes such as stuffed cabbage soup, sa lát Nga (Russian salad) and bia Tiệp (Czech beer).

    Regional cuisines[edit]

    Chả cá Lã Vọng, a specialty of Hanoi

    The mainstream culinary traditions in all three regions of Vietnam share some fundamental features:

    • Freshness of food: Most meats are only briefly cooked. Vegetables are eaten fresh; if they are cooked, they are boiled or only briefly stir-fried.
    • Presence of herbs and vegetables: Herbs and vegetables are essential to many Vietnamese dishes and are often abundantly used.
    • Variety and harmony of textures: Crisp with soft, watery with crunchy, delicate with rough.
    • Broths or soup-based dishes are common in all three regions.
    • Presentation: The condiments accompanying Vietnamese meals are usually colorful and arranged in eye-pleasing manners.

    While sharing some key features, Vietnamese culinary tradition differs from region to region.[5]

    In northern Vietnam, a colder climate limits the production and availability of spices. As a result, the foods there are often less spicy than those in other regions.[6] Black pepper is used in place of chilies as the most popular ingredient to produce spicy flavors. In general, northern Vietnamese cuisine is not bold in any particular taste—sweet, salty, spicy, bitter, or sour. Most northern Vietnamese foods feature light and balanced flavors that result from subtle combinations of many different flavoring ingredients. The use of meats such as pork, beef, and chicken were relatively limited in the past. Freshwater fish, crustaceans, and mollusks, such as prawns, squids, shrimps, crabs, clams, and mussels, are widely used. Many notable dishes of northern Vietnam are crab-centered (e.g., bún riêu). Fish sauce, soy sauce, prawn sauce, and limes are among the main flavoring ingredients. Being the cradle of Vietnamese civilization,[7][citation needed] northern Vietnam produces many signature dishes of Vietnam, such as bún riêu and bánh cuốn, which were carried to central and southern Vietnam through Vietnamese migration.[8] Other famous Vietnamese dishes that originated from the north, particularly from Hanoi include "bún chả" (rice noodle with grilled marinated pork), phở gà (chicken soup with rice noodles), chả cá Lã Vọng (rice noodle with grilled fish).

    The abundance of spices produced by Central Vietnam's mountainous terrain makes this region's cuisine notable for its spicy food, which sets it apart from the two other regions of Vietnam, where foods are mostly not spicy. Once the capital of the last dynasty of Vietnam, Huế's culinary tradition features highly decorative and colorful food, reflecting the influence of ancient Vietnamese royal cuisine. The region's cuisine is also notable for its sophisticated meals consisting of many complex dishes served in small portions. Chili peppers and shrimp sauces are among the frequently used ingredients. Some Vietnamese signature dishes produced in central Vietnam are bún bò Huế and bánh khoái.

    The warm weather and fertile soil of southern Vietnam create an ideal condition for growing a wide variety of fruits, vegetables, and livestock. As a result, foods in southern Vietnam are often vibrant and flavorful, with liberal uses of garlic, shallots, and fresh herbs. Sugar is added to food more than in the other regions.[9] The preference for sweetness in southern Vietnam can also be seen through the widespread use of coconut milk in southern Vietnamese cuisine. Vast shorelines make seafood a natural staple for people in this region. Some signature seafood dishes from southern Vietnam include bánh khọt and bún mắm.[10][11]

    The Mekong Delta cuisine relies heavily on fresh products which is abundant in the new land with heavy use of palm sugar, fermented fishes, seafoods and wild herbs and flowers. The history of the region being a newly settled area reflects on its cuisine, with Ẩm thực khẩn hoang or Settlers cuisine means dishes are prepared fresh from wild and newly-caught ingredients. The cuisine is also influenced by Khmer, Cham and Chinese settlers.

    The cuisine of the Northern and Central Highlands regions is influenced by tribal traditions, with items such as thắng cố (Hmong horse stew), dried meats, cơm lam and rượu cần.

    Relation to Vietnamese philosophy[edit]

    Vietnamese cuisine always has five elements which are known for its balance in each of these features.

    • Many Vietnamese dishes include five fundamental taste senses (ngũ vị): spicy (metal), sour (wood), bitter (fire), salty (water) and sweet (earth), corresponding to five organs (ngũ tạng): gall bladder, small intestine, large intestine, stomach, and urinary bladder.
    • Vietnamese dishes also include five types of nutrients (ngũ chất): powder, water or liquid, mineral elements, protein, and fat.
    • Vietnamese cooks try to have five colours (ngũ sắc): white (metal), green (wood), yellow (earth), red (fire) and black (water) in their dishes.
    • Dishes in Vietnam appeal to gastronomes via the five senses (năm giác quan): food arrangement attracts eyes, sounds come from crisp ingredients, five spices are detected on the tongue, aromatic ingredients coming mainly from herbs stimulate the nose, and some meals, especially finger food, can be perceived by touching.[12]

    Five-element correspondence[edit]

    Raw ingredients to make filling of nem rán before mixing together. They represent the five-element principle of Vietnamese cuisine.

    Vietnamese cuisine is influenced by the Asian principle of five elements and Mahābhūta.

    Correspondence Elements[13]
    Wood Fire Earth Metal Water
    Spices (ngũ vị) Sour Bitter Sweet Spicy Salty
    Organs (ngũ tạng) Gall bladder Small intestine Stomach Large intestine Urinary bladder
    Colors (ngũ sắc) Green Red Yellow White Black
    Senses (ngũ giác) Visual Taste Touch Smell Sound
    Nutrients (ngũ chất) Carbohydrates Fat Protein Minerals Water

    Yin-yang balance[edit]

    The principle of yin and yang (Vietnamese: Âm dương) is applied in composing a meal in a way that provides a balance that is beneficial for the body. While contrasting texture and flavors are important, the principle primarily concerns the "heating" and "cooling" properties of ingredients. Certain dishes are served in their respective seasons to provide contrasts in temperature and spiciness of the food and environment.[14] Some examples are:[15]

    • Duck meat, considered "cool", is served during the hot summer with ginger fish sauce, which is "warm". Conversely, chicken, which is "warm", and pork, which is "hot", are eaten in the winter.
    • Seafoods ranging from "cool" to "cold" are suitable to use with ginger ("warm").
    • Spicy foods ("hot") are typically balanced with sourness, which is considered "cool".
    • Balut (trứng vịt lộn), meaning "upside-down egg" ("cold"), must be combined with Vietnamese mint (rau răm) ("hot").

    Food in relation to lifestyle[edit]

    A platter of different boiled pork offal
    A number of Vietnamese condiments including nước mắm
    A variety of Vietnamese fruits

    Vietnamese cuisine is reflective of the Vietnamese lifestyle, from the preparation to how the food is served. Going through long phases of war and political conflict, as well as cultural shifts, the vast majority of the Vietnamese people have been living in poverty. Therefore, the ingredients for Vietnamese food are often very inexpensive but nonetheless, the way they are cooked together to create a yin–yang balance makes the food simple in appearance but rich in flavor.

    Because of economic conditions, maximizing the use of ingredients to save money has become a tradition in Vietnamese cooking. In earlier decades and even nowadays in rural areas, every part of a cow is used, from the muscle meat to the intestines; nothing is wasted. The higher quality cuts from farmed animals (cows, pigs) would be cooked in stirfry, soup or other dishes, while the secondary cuts would be used in blood sausages or soup. The same goes for vegetables like scallions: the leafy part is diced into small bits which are used to add flavor to the food while the crunchy stalk and roots are replanted.

    Nước mắm (fish sauce) is the most commonly used and iconic condiment in Vietnamese cooking. It is made from fermented raw fish and is served with most of the Vietnamese dishes. Vietnamese cuisines are not known for ingredients with top quality, but rather for the very inexpensive and simple scraps that are creatively mixed to create dishes with bold flavor. A traditional southern Vietnamese meal usually includes cơm trắng (plain white rice), cá kho tộ (catfish in a clay pot), canh chua cá lóc (sour soup with snakehead fish), and it would be incomplete without fish sauce served as a condiment. Dishes are prepared less with an appearance in mind but are served family-style to bring everyone together after a long day of work.

    Despite being a small country in Southeast Asia, the foods from each region in Vietnam carry their distinctive and unique characteristics that reflect the geographical and living conditions of the people there. The traditional southern Vietnamese meal is made up of fresh ingredients that only the fertile Mekong Delta could provide, such as cá lóc, and a wide range of tropical fruit like mangosteen, mango, and dragon fruit. The southern-style diet is very 'green', with vegetables, fish and tropical fruits as the main ingredients.

    Central Vietnam is the region in which food is prepared with the strongest, boldest flavors. This region is constantly under harsh weather conditions throughout the year, so people there do not have as many green ingredients as others do in the north and south of Vietnam. Instead, the coastline around the central Vietnam area is known for its salt and fish sauce industries; these two condiments are central to their daily diets.

    Northern Vietnamese cuisine has a strong Chinese influence, and its iconic dish is phở. While rice is a staple in the southern Vietnamese diet, the north has a preference for noodles. Owing to the drastic differences in climate and lifestyles throughout the three main regions of Vietnam, the foods vary. Northern Vietnamese cooking is the least bold and spicy in flavor compared to the foods from central and southern Vietnam.

    Typical Vietnamese family meal[edit]

    Typical modern Vietnamese family meal served on a round metal tray. Dishes cooked from various native and introduced ingredients which include pork ribs, tofu, potatoes, tomato, gourd, basella alba and fish sauce with chilli

    Daily meals of Vietnamese people quite differ from Vietnamese foods served in restaurants or stalls. A typical meal for the average Vietnamese family would include:[16]

    • Cơm trắng: Cooked white rice
    • Món mặn or main dishes to eat with rice: Fish/seafood, meat, tofu (grilled, boiled, steamed, stewed or stir-fried with vegetables)
    • Rau: Sauteed, boiled or raw fresh green vegetables
    • Canh (a clear broth with vegetables and often meat or seafood) or other kinds of soup
    • Nước chấm: Dipping sauces and condiments depending on the main dishes, such as pure fish sauce, ginger fish sauce, tamarind fish sauce, soy sauce, muối tiêu chanh (salt and pepper with lime juice) or muối ớt (salt and chili)
    • Small dish of relishes, such as salted eggplant, pickled white cabbage, pickled papaya, pickled garlic or pickled bean sprouts
    • Tráng miệng or Desserts: Fresh fruits, drinks or sweets, such as chè.

    Except individual bowls of rice, all dishes are communal and are to be shared in the middle of the table. It is also customary for younger people to ask/wait for the elders to eat first and the woman who sits right next to the rice pot serve rice for other people. People should "invite" the others to enjoy the meal (somehow similar to saying "Enjoy your meal"), in order from the elders to younger people. They also pick up food for each other as an action of care.

    Feast[edit]

    A typical feast for one table (6–8 diners) in an engagement ceremony (Ăn hỏi) of regional Northern Vietnam

    A feast (Vietnamese: cỗ, tiệc) is a significant event for families or villages, usually up to 12 people for each table. A feast is prepared for weddings, funerals, and festivals, including the longevity wishing ceremony. In a feast, ordinary foods are not served, but boiled rice is still used.

    A Vietnamese feast has two courses: the main course (món mặn – salty dish) and dessert (món ngọt – sweet dish). All dishes, except for individual bowls of rice, are enjoyed collectively. All main course dishes are served simultaneously rather than one after another. The major dish of the main course is placed in the center of the tables, usually big pots of soup or a hot pot.

    A basic feast (cỗ một tầng) consists of 10 dishes: five in bowls (năm bát): bóng (fried fish belly), miến (cellophane noodles), măng (bamboo shoot), mọc (meatball), chim or gà tần (bird or chicken stew dishes) and five on plates (năm đĩa): giò (Vietnamese sausage), chả, or vịt luộc (boiled chicken or duck), nộm (Vietnamese salad) and xào (stir-fried dishes). This kind of feast is traditional and is organized only in northern Vietnam. Other variations are found in central and southern Vietnam.

    Four dishes essential in the feast of Tết are chả giò(spring rolls), nem (in northern Vietnam, nem refers to a spring roll called nem cuon or nem ran; in southern Vietnam, nem mainly refer to nem chua, fermented pork rolls), ninh (stew dishes) and mọc (noodle soup). At this time, the feast for offering ancestors includes sticky rice, boiled chicken, Vietnamese rice wine, and other preferred foods by ancestors in the past. Gifts are given before guests leave the feast.

    Royal cuisine[edit]

    Nem công (peacock spring-rolls) is a well-known royal dish in Huế

    In the Nguyễn dynasty, the 50 best chefs from all over the kingdom were selected for the Thượng Thiện board to serve the king. There were three meals per day—12 dishes at breakfast and 66 dishes for lunch and dinner (including 50 main dishes and 16 sweets). An essential dish was bird's nest soup (tổ yến). Other dishes included shark fin (vi cá), abalone (bào ngư), deer's tendon (gân nai), bears' hands (tay gấu), and rhinoceros' skin (da tê giác). Water had to come from the Hàm Long well, the Báo Quốc pagoda, the Cam Lồ well (near the base of Thúy Vân mountain), or from the source of the Hương River. Rice was the de variety from the An Cựu imperial rice field. Phước Tích clay pots for cooking rice were used only a single time before disposal. No one was allowed to have any contact with the cooked dishes except for the cooks and Thượng Thiện board members. The dishes were first served to eunuchs, then the king's wives, after which they were offered to the king. The king enjoyed meals (ngự thiện) alone in a comfortable, music-filled space.[17]

    Cultural importance[edit]

    Salt is used as the connection between the worlds of the living and the dead. Bánh phu thê is used to remind new couples of perfection and harmony at their weddings. Food is often placed at the ancestral altar as an offering to the dead on special occasions (such as Lunar New Year). Cooking and eating play an extremely important role in Vietnamese culture.

    Proverbs[edit]

    The word ăn (to eat) is included in a great number of proverbs and has a large range of semantic extensions.

    • Ăn trông nồi, ngồi trông hướng ("Checking the status of the rice pot when eating, watch where/what direction you are sitting.") = Be careful of possible faux pas.
    • Ăn theo thuở, ở theo thì = living in accordance to one's limit and social circumstance
    • Cha ăn mặn, con khát nước ("The father eats salty food, the children go thirsty.") = Bad actions will later bring bad luck/consequences to descendants.
    • Nhai kĩ no lâu, cày sâu tốt lúa ("Chewing carefully [makes one] feel full longer, ploughing deep is good for the rice") = Careful execution brings better results than hasty actions.
    • Học ăn, học nói, học gói, học mở ("Learning how to eat, how to speak, how to wrap, how to open") = Everything needs to be learned, even the simplest, start from "how to eat" politely.

    Many Vietnamese idioms reflect the sex-is-eating mapping:

    • Ông ăn chả, bà ăn nem ("He eats meatballs, she eats springrolls") = Both husband and wife have secret lovers.
    • Chán cơm thèm phở ("Tired of rice, craving noodle soup") = A man gets bored of his wife and find another girl.
    • Ăn bánh trả tiền ("You eat snack, you pay money") = Having sex with prostitutes. (Long story short, bánh in here is snack)
    • Ăn vụng không biết chùi mép ("Eating on the sly without cleaning your mouth") = Committing adultery but left trace

    International popularity[edit]

    Outside of Vietnam, Vietnamese cuisine is widely available in countries with strong Vietnamese immigrant communities, such as Australia, the United States, Canada, and France. Vietnamese cuisine is also popular in Japan, Korea, the Czech Republic, Slovakia, Germany, United Kingdom, Poland, Philippines and Russia, and in areas with dense Asian populations.

    Television shows featuring Vietnamese food have increased in popularity. Luke Nguyen from Australia currently features a television show, Luke Nguyen's Vietnam, dedicated on showcasing and instructing how to cook Vietnamese dishes.

    On The Great Food Truck Race, a Vietnamese sandwich truck called Nom Nom Truck received the most money in the first five episodes.

    Anthony Bourdain wrote:[18]

    You don't have to go looking for great food in Vietnam. Great food finds you. It's everywhere. In restaurants, cafes, little storefronts, in the streets; carried in makeshift portable kitchens on yokes borne by women vendors. Your cyclo-driver will invite you to his home; your guide will want to bring you to his favorite place. Strangers will rush up and offer you a taste of something they're proud of and think you should know about. It's a country filled with proud cooks—and passionate eaters.

    Gordon Ramsay visited Vietnam in his reality show Gordon's Great Escape - S02E02 (2011) and fell in love with the taste of the culinary here. Especially the dish called Hủ tiếu Mì by Mrs. Dì Hai, prepped and served on a small boat in Cái Răng floating market, Cần Thơ. He even praised it as "The greatest dish I have ever eaten" when he brought it up as one of the dishes for the elimination challenge for the top 5 finalists of American MasterChef season 4 episode 21.

    Vietnam is also well known for its street food.

    The popularity of Vietnamese cuisine is seen all over YouTube. Many YouTubers vlog their adventures experiencing new Vietnamese street foods, rating and trying different Vietnamese dishes, and even creating their own spin-offs of Vietnamese delicacies.

    Cooking techniques[edit]

    Cutting dough and rán quẩy
    Xào (stir-fry)
    Thịt nướng (grilled pork)
    Bánh tẻ is boiled (luộc) after wrapped in a leaf (gói lá)
    Tráng (spread rice flour on a steamed cloth) bánh tráng

    Some common Vietnamese culinary terms include:

    • Rán, chiên – fried dishes
      • Chiên nước mắm – fried then tossed with fish sauce
      • Chiên bột – battered then deep-fried
    • Rang – dry-fried dishes with little to no oil
    • Áp chảo – pan-fried then sautéed
    • Xào – stir fry, sautéing
      • Xào tỏi – stir fry with garlic, very common way of cooking vegetables
      • Xào sả ớt – sautéed with lemongrass and chili pepper
      • Xào lăn – pan searing or stir frying quickly to cook raw meat
      • Xáo măng – braised or sautéed with bamboo shoots
    • Nhồi thịt – stuffed with minced meat before cooking
    • Sốt chua ngọt – fried with sweet and sour sauce
    • Kho – stew, braised dishes
      • Kho khô – literally dried stew (until the sauce thickens)
      • Kho tiêu/kho gừng/kho riềng – stewed with peppercorns/ginger/galangal
    • Nấu – means cooking, usually in a pot
    • Hầm/ninh – slow-cook with spices or other ingredients
    • Canh – broth-like soup to be served over rice
    • Rim – simmering
    • Luộc – boiling with water, usually fresh vegetables and meat
    • Chần – blanche
    • Hấp – steamed dishes
      • Hấp sả – steamed with lemongrass
      • Hấp Hồng Kông or hấp xì dầu – "Hong Kong-style" steamed dish (i.e.: with scallion, ginger and soy sauce)
    • Om – clay pot cooking of northern style
      • Om sữa – cooked in clay pot with milk
      • Om chuối đậu – cooked with young banana and tofu
    • Gỏi – salad dishes, usually with meat, fish
    • Gói lá – wrap raw ingredients by a leaf (often banana) to form shape and enhance fragant
    • Nộm – salads, usually meatless
    • Nướng – grilled dishes
      • Nướng xiênskewered dishes
      • Nướng ống tre – cooked in bamboo tubes over fire
      • Nướng mọi/nướng trui/thui – char-grilled over open fire
      • Nướng đất sét/lá chuối – cooked in a clay mould or banana leaves wrap, or recently, kitchen foil, hence the method has evolved into nướng giấy bạc
      • Nướng muối ớt – marinated with salt and chili pepper before being grilled
      • Nướng tỏi – marinated with garlic then grilled
      • Nướng mỡ hành – grilled then topped with melted lard, peanuts, and chopped green onions
    • Bằm – sauteed mix of chopped ingredients
    • Cháocongee dishes
    • Súpsoup dishes (not canh or clear broth soup)
    • Rô ti – roasting then simmering meat, usually with strong spices
    • Tráng – spreading ingredient into a thin layer on a steamed/hot surface
    • Cà ri – curry or curry-like dishes
    • Quay – roasted dishes
    • Lẩuhot pot dishes
    • Nhúng dấm – cooked in a vinegar-based hot pot, some variations include vinegar and coconut water-based hot pot
    • Cuốn – any dish featuring rice paper wraps with bún and fresh herbs
    • Bóp thấu/tái chanh – raw meat or seafood prepared with lime or vinegar

    Vietnamese utensils[edit]

    A traditional set of serving utensils used in Northern Vietnam up to the 20th century include: wooden tray, 'small bottom' bowls (bát chiết yêu), stoneware dishes, flat chopsticks (for portioning rice), chopsticks and ladle (for sharing soup)
    • Mill (cối xay gạo)
    • Mortar (cối giã)
    • Pestle (chày)
    • Plate (dĩa or đĩa)
    • Pot, various kinds (nồi and niêu)
    • Spoon (thìa in northern Vietnam or muỗng in southern Vietnam)
    • Teacup (tách or chén uống trà)
    • Teapot (ấm pha trà)
    • Tray, various kinds (mâm and khay)

    Common ingredients[edit]

    Vegetables[edit]

    A vegetable stand in a Hanoi market

    Fruits[edit]

    A fruit stand in Da Nang

    Herbs (rau thơm)[edit]

    Herbs and vegetables were displayed in Ben Thanh Market

    Condiments and sauces[edit]

    Condiments[edit]

    Vietnamese usually use raw vegetables, rau sống, or rau ghém (sliced vegetable) as condiments for their dishes to combine properly with each main dish in flavour. Dishes in which rau sống is indispensable are bánh xèo and hot pot. The vegetables principally are herbs and wild edible vegetables gathered from forests and family gardens. Leaves and buds are the most common parts of vegetables used. Most of the vegetables have medicinal value.[19]

    Rau sống includes lettuce, raw bean sprout, herbs, shredded banana flower, green banana, water spinach, mango bud and guava leaves.

    Herbs and spices[edit]

    Vietnamese hot chili peppers are added to most foods, especially in central and southern Vietnam.
    • Coriander and green onion leaves can be found in most Vietnamese dishes.
    • A basic technique of stir-frying vegetable is frying garlic or shallot with oil before putting the vegetable into the pan.
    • In northern Vietnam, dishes with fish may be garnished with dill.
    • In central Vietnam, the mixture of ground lemongrass and chili pepper is frequently used in dishes with beef.
    • In southern Vietnam, coconut water is used in most stew dishes.
    • The pair culantro (ngò gai) and rice paddy herb (ngò om or ngổ) is indispensable in all kinds of sour soups in the southern Vietnam.
    • Spearmint is often used with strongly fishy dishes.
    • Perilla is usually used with crab dishes.

    Pairing[edit]

    • Chicken dishes are combined with lime leaves.
    • Crab and seashell dishes are combined with fishy-smelling herb and perilla.
    • Dishes reputed as "cold" or "fishy-smelling", such as catfish, clams, or snails, are combined with ginger or lemongrass.
    • Beef dishes are combined with celeries or pineapples.

    Sauces[edit]

    Food colourings[edit]

    Xôi ngũ sắc (five colours sticky rice) is coloured with plant-based ingredients

    Traditionally, the colouring of Vietnamese food comes from natural ingredients, however today there's an increase in the use of artificial food dye agents for food colouring, in Vietnam.

    • Red – usually from beetroot or by frying annatto seed to make oil (dầu điều)
    • Orange – for sticky rice, comes from gac
    • Yellow – from turmeric
    • Green – from pandan leaf or katuk
    • Purple – from magenta plant (lá cẩm)
    • Black – in banh gai is from ramie leaf (lá gai)
    • Dark brown – for stew dishes, uses nước màu or nước hàng, which is made by heating sugar to the temperature above that of caramel (170 °C).

    Colourings can be absorbed by mixing ground colourings or colouring liquid or wrapping before boiling to get the extracts. When colouring dishes, the tastes and smells of colourings must also be considered.

    Popular dishes[edit]

    When Vietnamese dishes are referred to in English, it is generally by the Vietnamese name without the diacritics. Some dishes have gained descriptive English names, as well.

    Popular Vietnamese dishes include:

    Noodle soups[edit]

    Bánh đa cua (Crab red noodle soup)
    Bún mắm (Mix seafood noodles soup)

    Vietnamese cuisine boasts a huge variety of noodle soups, each with distinct influences, origins and flavours. A common characteristic of many of these soups is a rich broth.[20]

    Name Description
    Bún bò Huế Spicy beef noodle soup originated from the royal city of Huế in Central Vietnam. Beef bones, fermented shrimp paste, lemongrass, and dried chilies give the broth its distinctive flavors. Often served with mint leaves, bean sprouts, and lime wedges. Pig's feet are also common ingredients at some restaurants.[clarification needed]
    Bún măng vịt Bamboo shoots and duck noodle soup.[21]
    Bún ốc Vermicelli with snails (freshwater snails with noodles, tomato pork bone broth, tofu and herbs)
    Bánh canh A thick tapioca/rice noodle soup with a simple broth, often includes pork, crab, chicken, shrimp, spring onions and fresh onions sprinkled on top
    Bún riêu A noodle soup made of thin rice noodles, topped with crab and shrimp paste, served in a tomato-based broth and garnished with bean sprouts, prawn paste, herb leaves, tamarind/lime, tofu, water spinach, and chunks of tomato
    (súp mì) A Chinese-influenced wheat (egg) noodle soup.
    Phở A noodle soup with a rich, clear broth made from a long boiling of meat and spices, its many varieties are made with different meats (most commonly beef or chicken) along with beef meatballs. Phở is typically served in bowls with spring onion, (in phở tái) slices of semi-cooked beef (to be cooked by the boiling hot broth), and broth. In the south, bean sprouts and various herbs are also added.[20]
    Phở satế Spicy noodle soup with thinly sliced rare beef steak, satế hot chili sauce, sliced cucumber, tomatoes, and peanut
    Mì vịt tiềm Yellow noodle soup with roasted duck and Chinese broccoli
    Bún chả cá Rice vermicelli soup with fried fishcake
    Hủ tiếu A noodle soup with many varied styles, including a 'dry' (not soup, but with sauce) version, which was brought to Vietnam by way of Chinese (Teochew) immigrants from Cambodia. The noodles are usually egg noodles or rice noodles, but many other types may be used. The soup base is made of pork bones.

    Soup and cháo (congees)[edit]

    Canh chua, sour soup
    Name Description
    Súp măng cua Asparagus and crab soup typically served as the first dish at banquets
    Lẩu (Vietnamese hot pot) A spicy variation of the Vietnamese sour soup with assorted vegetables, meats, seafood, and spicy herbs
    Cháo A variation of congee, it uses a variety of different broths and meats, including duck, offal, fish, etc. When chicken is used, it is called cháo gà.
    Cháo lòng Rice porridge with pork intestine, liver, gizzard, heart, and kidney
    Bò kho Beef stew with carrots, usually served with toasted bread or rice noodles
    Nhúng dấm Fire pot with a combination of sliced rare beef and seafood cooked in sour broth, served with thin rice vermicelli noodles, fresh vegetables, rice spring roll wrapper, and dipping sauce
    Canh chua Vietnamese sour soup – typically includes fish, pineapples, tomatoes, herbs, beansprouts, tamarind, and various kinds of vegetables

    Rice dishes[edit]

    Name Description
    Cơm chiên Dương Châu A Chinese fried rice dish, named after the Yangzhou region in China, it is a well-known dish in Vietnam.
    Cơm gà rau thơm (chicken and rice with mint) This dish is rice cooked in chicken stock and topped with fried then shredded chicken, with mint and other herbs. The rice has a unique texture and taste that the fried mint garnish enhances. It is served with a special herb sauce on the side.
    Cơm hến Rice with clams – a popular, inexpensive dish in the city of Huế and its vicinity
    Cơm chiên cá mặn Fried rice with salty fermented fish and chopped snow pea and chicken
    Cá/thịt kho A traditional family dish of fish or pork braised in a clay pot and served with sweet and sour soup (canh chua)
    Gà xào gừng Chicken sauteed with ginger and fish sauce
    Bò lúc lắc Cubed beef sauteed with cucumber, tomatoes, onion, pepper, and soy sauce
    Cơm lam Rice (often glutinous rice) cooked in a bamboo tube either boiled or steamed
    Cơm tấm In general, grilled pork (either ribs or shredded) is mixed with (thinly shredded pork mixed with cooked and thinly shredded pork skin and fried ground rice) over com tam ("broken rice") and is served with sweet and sour fish sauce. Other types of meat, prepared in various ways, may be served with the broken rice. Barbecued beef, pork, or chicken are common choices and are served with the broken rice. The rice and meat are accompanied by various greens and pickled vegetables, along with a prawn paste cake (chả tôm), steamed egg (trứng hấp) and grilled prawns.

    Sticky rice dishes[edit]

    Name Description
    Bánh chưng Sticky rice wrapped in banana leaves and stuffed with mung bean paste, lean pork and black pepper, it is traditionally eaten during the Lunar New Year(Tết). Bánh chưng is popular in the North, while the similar bánh tét is more popular in the South. Bánh tét has the same content, except it is cylindrical in shape, and lean pork is substituted with fatty pork.
    Xôi Sticky rice with coconut milk, cooked the same way as one cooks rice, or steamed for a firmer texture and more flavorful taste, in a number of varieties

    Bánh[edit]

    The Vietnamese name for pastries is bánh. Many of the pastries are wrapped in various leaves (bamboo, banana, dong, gai) and boiled or steamed. One of the historic dishes, dating to the mythical founding of the Vietnamese state is bánh chưng. As it is a savory dish and thus not a true pastry, bánh chưng and the accompanying bánh dày are laden with heaven and earth symbolism. These dishes are associated with offerings around the Vietnamese New Year (Tết). Additionally, as a legacy of French colonial rule and influence, bûche de Noël is a popular dessert served during the Christmas season.[citation needed]

    Bánh xèo
    Name
    Bánh bao A steamed bun dumpling that can be stuffed with onion, mushrooms, or vegetables, bánh bao is an adaptation from the Chinese baozi to fit Vietnamese taste. Vegetarian banh bao is popular in Buddhist temples. Typical stuffings include slices of marinated barbecued pork from Chinese cooking, tiny boiled quail eggs, and pork.
    Bánh bèo A central Vietnamese dish, it consists of tiny, round, rice flour pancakes, each served in a similarly shaped dish. They are topped with minced shrimp and other ingredients, such as chives, fried shallots, and pork rinds, eaten with nước chấm.
    Bánh bột chiên (fried rice flour dish) A Chinese-influenced pastry, it exists in many versions all over Asia; the Vietnamese version features a special tangy soy sauce on the side, rice flour cubes with fried eggs (either duck or chicken), and some vegetables. This is a popular after-school snack for young students in southern Vietnam.
    Bánh bột lọc A Huế food, it consists of tiny rice dumplings made in a clear rice-flour batter, often in a small, flattish, tube shape, stuffed with shrimp and ground pork. It is wrapped and cooked inside a banana leaf, served often as Vietnamese hors d'œuvres at more casual buffet-type parties.
    Bánh xèo A flat pan-fried dish made of rice flour with turmeric, shrimp with shells on, slivers of fatty pork, sliced onions, and sometimes button mushrooms, fried in oil, usually coconut oil, which is the most popular oil used in Vietnam. It is eaten with lettuce and various local herbs and dipped in nước chấm or sweet fermented peanut butter sauce. Rice papers are sometimes used as wrappers to contain banh xeo and the accompanying vegetables.
    Bánh nậm A Huế food, it is a flat steamed rice dumpling made of rice flour, shallots, shrimp, and seasoned with pepper. It is wrapped and cooked in banana leaves and served with fish sauce.[22]

    Wraps and rolls[edit]

    Gỏi cuốn (rice paper roll or summer roll)
    Name Description
    Bánh cuốn Rice flour rolls stuffed with ground pork, prawns, and wood ear mushroom, they are eaten in a variety of ways with many side dishes, including chả (sausage).
    Bì cuốn Rice paper rolls with the mixture of thinly shredded pork and thinly shredded pork skin tossed with powdered toasted rice, among other ingredients, along with salad; it is similar to summer rolls.
    Bò bía (Vietnamese-style popiah) Stir-fried jicama and carrots are mixed with Chinese sausage and shredded scrambled eggs, all wrapped in a rice paper roll, dipped into a spicy peanut sauce (with freshly roasted and ground peanuts). It is of Chinese (Hokkien/Chaozhou) origin, having been brought over by the immigrants. In Saigon (particularly in Chợ Lớn), it is common to see old Teochew men or women selling bò bía at their roadside stands. The name bò bía phonetically resembles its original name popiah in the Teochew language.
    Chả giò or nem rán (northern) A kind of spring roll (sometimes referred to as egg roll), it is deep-fried flour rolls filled with pork, yam, crab, shrimp, rice vermicelli, mushrooms ("wood ear") and other ingredients. The spring roll goes by many names – as many people actually use (falsely) the word "spring roll" while referring to the fresh transparent rice paper rolls (discussed below as "summer rolls"), where the rice paper is dipped into water to soften, and then rolled up with various ingredients. Traditionally, these rolls are made with a rice-paper wrapper, but in recent years, Vietnamese chefs outside of Vietnam have changed the recipe to use a wheat-flour wrapper.
    Gỏi cuốn Also known as Vietnamese fresh rolls, salad rolls, or summer rolls, they are rice-paper rolls that often include shrimp, herbs, pork, rice vermicelli, and other ingredients wrapped up and dipped in nước chấm or peanut sauce. Spring rolls almost constitute an entire category of Vietnamese foods, as the many different kinds of spring rolls have different ingredients in them.

    Bánh tráng can be understood as either of the following:

    Thin rice flour sheet dried into what is commonly called "rice paper", used in making spring roll (chả giò), and summer rolls (gỏi cuốn) by applying some water to soften the texture
    These are large, round, flat rice crackers, which, when heated, enlarge into round, easily shattered pieces. They can be eaten separately, although they are most commonly added into the vermicelli noodle dishes like cao lầu and mì quảng. Many types of bánh tráng exist, including the clear sesame seed ones, prawn-like cracker with dried spring onions, and sweet milk.

    Sandwiches and pastries[edit]

    Name Description
    Bánh mì kẹp thịt Vietnamese baguette or French bread is traditionally filled with pâté, Vietnamese mayonnaise, cold cuts, jalapeños, pickled white radish, pickled carrot, and cucumber slices. While traditional cold cuts include ham, head cheese, and Vietnamese bologna, varieties of stuffing such as eggs, canned sardines, shredded pork, fried tofu, and grilled meats are common. Sandwiches are often garnished with coriander leaves and black pepper.
    Bánh Pâté chaud A French-inspired meat-filled pastry, it is characterized by flaky crust and either pork or chicken as the filling.
    Bánh mì ốp la[23] Vietnamese-style fried egg sandwich. "Ốp la" means "sunny-side up".

    Meat dishes[edit]

    A platter of pork dishes
    Sliced chả lụa served over bánh cuốn, and garnished with fried shallots
    Name Description
    Bò kho (meat soup) A beef and vegetable stew, it is often cooked with warm, spicy herbs and served very hot with French baguettes for dipping. In northern Vietnam, it is known as bò sốt vang.
    Bò lá lốt A dish of spiced beef rolled in a betel leaf (lá lốt) and grilled
    Bò lúc lắc (shaking beef) French-influenced dish of beef cut into cubes and marinated, served over greens (usually watercress), and sautéed onions and tomatoes, eaten with rice
    Bò 7 món (seven courses of beef) Multi-course meal consisting of seven beef dishes. Developed during the French colonial era when beef became more widely consumed.
    Cá 7 món (seven courses of fish) Similar course arrangement as Bò 7 món substituting beef with fish. Less popular than the original variant.
    Chả lụa or giò lụa A sausage made with ground lean pork and potato starch, it is also available fried; known as chả chiên. Various kinds of chả (sausage) are made of ground chicken (chả gà), ground beef (chả bò), fish (chả cá), or tofu (chả chay, or vegetarian sausage).
    Gà nướng sả Grilled chicken with lemon grass(sả), lemongrass grilled beef and other meats are also popular variations.
    Giò thủ Giò thủ is a brawn made of fresh bacon, pig's ears, garlic, scallions, onions, black fungus, fish sauce and cracked black pepper.
    Nem nướng Grilled meatballs, usually made of seasoned pork, they are often colored reddish with food coloring and with a distinct taste, grilled on skewers like shish kebabs. Ingredients in the marinade include fish sauce.
    Nem nguội A Huế dish and a variation of the Nem nướng meatballs, these also come from central Vietnam. They are chilled, small and rectangular in shape, and stuffed with vermicelli. The reddish meat is covered with peppers and typically a chili pepper. Very spicy, they are eaten almost exclusively as a cocktail snack.

    Seafood dishes[edit]

    Wok-tossed crabs with tamarind sauce
    Name Description
    Bánh Tôm Prawn and sweet potato fritter[24]
    Cá cuốn ho A roll with fish and spring onions
    Cá kho tộ Caramelized fish in clay pot
    Chạo tôm Prawn paste/cake on sugarcane
    Cua rang muối/me Wok-tossed crab with salt and pepper/tamarind

    Salads[edit]

    Nộm tôm xoài (Vietnamese mango salad with shrimp)

    Nộm (Northern dialects) or Gỏi (Southern dialects) is Vietnamese salad; of the many varieties, the most popular include:

    Name Description
    Gỏi đu đủ Vietnamese papaya salad typically with shredded papaya, herbs, various meats such as shrimp, slices of pork, liver, or jerky, herbs, and with a more vinegar-based rendition of nước chấm
    Gỏi Huế rau muống A salad dish originating from Huế (Central Vietnam), including water spinach (rau muống)
    Nộm ngó sen Lotus stem salad, with shrimp and pork or chicken
    Gỏi đậu hủ Tofu salad with shredded cabbage, mint, and soy dressing
    Gỏi nhệch Rice paddy eel salad with shredded vegetables
    Nộm sứa Jellyfish salad with carrot, cucumber, and sesame dressing
    Gỏi chân vịt Duck feet salad with shredded cabbage and sweet and sour fish sauce
    Bò tái chanh Shredded salad with thinly sliced rare beef, fresh lemon, onion, fried onions, and fish sauce
    Gỏi gà bắp cải Chicken and cabbage salad
    Gỏi mít Young jackfruit salad with peanuts, mint, and fish sauce

    Curries[edit]

    • Vietnamese curry is also popular, especially in the center and south, owing to the cultural influence of Indian, Khmer and Malay traders.
    • Another type of well-known Vietnamese curry is beef brisket curry or oxtail curry. The beef curries are often served with French bread for dipping, or with rice.
    • Cà ri gà is a popular Vietnamese curry made with chicken, carrots, sweet potatoes, and peas in a coconut curry sauce. It is also served with rice or baguette.

    Preserved dishes[edit]

    Muối (literally means salting) and chua (literally means sour or fermenting) are Vietnamese term for preserved dishes. Monsoon tropical climate with abundant rainfall gives the Vietnamese a generous year-round supply of vegetables. Animal husbandry never occurred in large scale in Vietnamese history, therefore, preserved dishes are mainly plant-based pickled dishes. Seafood is often made into a fermented form called mắm like fish sauce.

    Dưa chua (Pickled mustard greens and onion)
    Name Description
    Bắp cải muối xổi Quick-Pickled shredded cabbage
    Dưa chua, Dưa cải muối chua Made from a kind of mustard green
    Cà pháo muối Made from Vietnamese eggplant
    Dấm tỏi Pickled garlic cloves in vinegar
    Dưa kiệu Made from Allium chinense, this is a dish of the Tết holiday.
    Dưa hành Made from spring onion bulbs or shallot
    Dưa món Made from carrot, white radish, or green papaya
    Măng muối Made from sliced bamboo shoot with chilies
    Ớt ngâm Pickled chilies in rice vinegar
    Rau cần muối xổi Quick-Pickled water celery
    Tôm chua Sweet and spiced pickled shrimp

    Mắm[edit]

    Mắm is a Vietnamese term for fermented fish, shrimp or other aquatic ingredients. It is used as main course, as an ingredient or as condiment. The types of fish most commonly used to make mắm are anchovies, catfish, snakeheads, and mackerels. The fish flesh remains intact (this is how it is different from nước mắm), and can be eaten cooked or uncooked, with or without vegetables and condiments. Fish sauce is literally called "mắm water" in Vietnamese and is the distilled liquid from the process of fermentation of mắm.

    Mắm tôm (purple colour) and nước mắm (amber colour) in two dipping bowls
    Name Description
    Mắm tôm Fermented shrimp paste
    Mắm cáy Made from Sesarmidae (family of crabs), in north central coast of Vietnam
    Mắm cá thu Made from mackerel fish, usually in Bình Định province
    Mắm nêm Usually made from round scad fish, in central Vietnam
    Mắm ruốc Made from krill, from central Vietnam
    Mắm cá linh Made from a kind of fish that immigrates to the Mekong Delta every flood season from Tonlé Sap, Cambodia
    Nước mắm or mắm mặn General name for all fish sauces but usually refer to pure extracted anchovy fish sauce

    Fermented meat dishes[edit]

    Nem chua, a sweet, sour, salty and spicy fermented pork or beef sausage, usually served with a slice of garlic, bird's eye chili and Vietnamese coriander

    Nem chua, a Vietnamese fermented meat served as is or fried, is made from pork meat, coated by fried rice (thính gạo), mixed with pork skin and then wrapped in country gooseberry leaves (lá chùm ruột) or Erythrina orientalis leaves (lá vông nem).[25] The preservation process takes about three to five days.

    Sausages[edit]

    Vietnamese sausage, giò, is usually made from fresh ground pork and beef. Sausage makers may use the meat, skin or ear. Fish sauce is added before banana leaves are used to wrap the mixture. The last step is boiling. For common sausage, 1 kg of meat is boiled for an hour. For chả quế, the boiled meat mixture will then be roasted with cinnamon.

    Vegetarian dishes[edit]

    Vegetarian dishes at a Buddhist restaurant in Ho Chi Minh city

    Vegetarian dishes in Vietnam often have the same names as their meat equivalents, e.g. phở bò, but with chay (vegetarian) sign in front, those dishes are served with tofu instead of meat. Nearly every soup, sandwich and street food has its vegetarian correspondent. Sometimes you can also see notations like "phở chay", "bánh mì chay" (vegetarian sandwich) or "cơm chay" (vegetarian rice). Vegetarian food in comparison the normal dishes are almost always cheaper, often half of the normal price. Vegetarian restaurants are mostly frequented by religious Vietnamese people and are rarely found in touristic areas. Vegetarian food is also eaten to earn luck during special holiday and festival, especially during Lunar New Year where Vietnamese culture serve vegetarian food regardless of their religion.[26]

    Desserts[edit]

    A street stall selling chè and desserts in Huế
    Vietnamese-style donuts
    Name Description
    Chè A sweet dessert beverage or pudding, it is usually made from beans and sticky rice. Many varieties of chè are available, each with different fruits, beans (for example, mung beans or kidney beans), and other ingredients. Chè can be served hot or cold and often with coconut milk.
    Rau câu This popular dessert is made with a type of red algae called Gracilaria and is flavored with coconut milk, pandan or other flavors. It is eaten cold by itself or added to drinks and Chè.
    Chuối chiên Banana deep-fried in a batter, often served hot with cold ice cream, usually vanilla or coconut
    Bánh flan Influenced by French cuisine and served with caramel or coffee sauce
    Sinh tố A fruit smoothie made with just a few teaspoons of sweetened condensed milk, crushed ice and fresh, local fruits. The smoothies' many varieties include custard apple, sugar apple, avocado, jackfruit, soursop, durian, strawberry, passionfruit, dragonfruit, lychee, mango, and banana.
    Sữa chua Local variant of yogurt, which was brought to Vietnam by French colonists. Made with condensed milk, it has a sweet, tart flavor. It can be eaten in its cool, soft form, or frozen, in which form it is often sold in small, clear bags.
    Bánh bò A sweet and airy sponge cake flavored with coconut milk, made from rice flour, water, sugar, and yeast.
    Bánh da lợn A sweet, soft, steamed layer cake made with rice flour, mung bean, coconut milk, water, and sugar with alternating layers of starch and flavored filling. Taro or durian are typically used for the layers of filling.
    Bánh rán A deep-fried glutinous rice ball dish.

    Mứt[edit]

    A variety of mứt on display in a shop

    Vietnamese use fruits in season. When the season is passing, they make candied fruit, called ô mai and fruit preserves, called mứt. The original taste of ô mai is sour, sweet, salty, and spicy. The most famous kind of ô mai is ô mai mơ, made from apricots harvested from the forest around Perfume Pagoda (Chùa Hương), Hà Tây Province. This ô mai consists of apricot covered by ginger, sugar, and liquorice root slivers.

    Tofu[edit]

    Tofu (đậu phụ) is widely used in Vietnamese cuisine. It is boiled, fried (sprinkled with ground shrimp or oil-dipped minced spring onion) or used as ingredient in a variety of dishes.

    Other soybean products range from soy sauce (nước tương- usually light soy sauce), fermented bean paste (tương), and fermented bean curd (đậu phụ nhự or chao) to douhua (soft tofu sweet soup- tàu hũ nước đường, or tào phớ).

    Exotic dishes[edit]

    Snake is one of Vietnamese varieties of rượu thuốc. The bottle on the left is a cobra wine (rượu rắn).
    Thịt chó (boiled dog meat)
    Tiết canh (blood pudding with cubed meat and herbs) is curing

    The use of ingredients typically uncommon or taboo in most countries is one of the quintessential attributes that make Vietnamese cuisine unique. While unusual ingredients can only be found in exotic restaurants in many countries, Vietnamese cuisine is deemed atypical in that the usage of these ingredients can play a customary role in daily family dishes regardless of social class.[citation needed]

    A common and inexpensive breakfast dish that can be found in any wet market, balut (hột vịt lộn) is a fertilized duck egg with a nearly developed embryo inside, which is boiled and eaten in the shell. It is typically served with fresh herbs: rau răm, salt, and black pepper; lime juice is another popular additive, when available. A more unusual version of balut dish—fetus quail (trứng cút lộn) is a snack favored by many Vietnamese students. Paddy crab and paddy snail are the main ingredients in bún riêu ốc—a popular noodle dish—and in some everyday soup dishes (canh) and braised food (món bung). Family meals with silkworms (nhộng), banana flowers (hoa chuối), sparrows, doves, fermented fish and shrimp (mắm cá, mắm tôm, mắm tép) are not rare sights. Seasonal favorites include ragworms (rươi), which are made into many dishes such as fried rươi omelet (chả rươi), fermented rươi sauce (mắm rươi), steamed rươi (rươi hấp), stir-fried rươi with radish or bamboo shoot (rươi xào củ niễng măng tươi hay củ cải). Three striped crab (ba khía) is popular in several southern provinces, including Cà Mau, Sóc Trăng and Bạc Liêu; it is eaten fermented, stir-fried or steamed.[27]

    Northern Vietnamese cuisine is also notable for its wide range of meat choices. Exotic meats such as dog meat, cat meat,[28] rat meat,[29][deprecated source] snake,[30] soft-shell turtle, deer, and domestic goat are sold in street-side restaurants and generally paired with alcoholic beverages. A taboo in many Western countries and in southern Vietnam, consumption of dog meat and cat meat is common throughout the northern part of the country and is believed to raise the libido in men. Television chef Andrew Zimmern visited northern Vietnam in the 12th episode of his popular show Bizarre Foods with Andrew Zimmern.[31][32] Cobra beating heart and dried bones, silkworms, and bull penis are some of the dishes he sampled. He also tried porcupine.[33]

    Paddy mouse meat—barbecued, braised, stir- or deep-fried—is a delicacy dish that can be found in Southern Vietnamese rural areas or even high-end city restaurants.

    Crocodiles were eaten by Vietnamese while they were taboo and off limits for Chinese.[34]

    Shark fins are imported in massive amounts by Vietnam.[35]

    Anthony Bourdain, the host chef of Travel Channel's Anthony Bourdain: No Reservations, wrote in April 2005: "...everything is used—and nothing wasted in Vietnam."[18] Animal parts that are often disposed of in many Western countries are used fully in Vietnamese cooking. Organs, including lungs, livers, hearts, intestines and bladders of pigs, cattle, and chickens are sold at even higher prices than their meat. Chicken testicles and undeveloped eggs are stir-fried with vegetables and served as an everyday dish.

    Many of the traditional northern Lunar New Year dishes such as thịt đông, giò thủ, and canh măng móng giò involve the use of pig heads, tongues, throats and feet.[36] Pig and beef tails, as well as chicken heads, necks and feet, are Vietnamese favorite beer dishes. Bóng bì, used as an ingredient in canh bóng—a kind of soup, is pig skin baked until popped. Steamed pig brains can be found almost everywhere. Also in the northern part of Vietnam, different kinds of animal blood can be made into a dish called tiết canh by whisking the blood with fish sauce and cold water in a shallow dish along with finely chopped, cooked duck innards (such as gizzards), sprinkled with crushed peanuts and chopped herbs such as Vietnamese coriander, mint, etc. It is then cooled until the blood coagulates into a soft, jelly-like mixture and served raw.

    Coconut worms, or đuông dừa, is a delicacy found widely in the Trà Vinh Province of Vietnam. They are the larvae form of the palm weevil and are eaten live within a salty fish sauce with chili peppers.[37]

    Beverages[edit]

    Cà phê phin (Brewed filtered coffee)


    -------------------------------------------

    Name Description
    Jasmine tea A local tea beverage of Vietnam
    Bia hơi A Vietnamese specialty draft beer produced locally in small batches
    Cà phê sữa đá Strong dark roast iced coffee, served with sweetened condensed milk at the bottom of the cup to be stirred in, is very popular among the Vietnamese.
    Cà phê trứng This beverage translated as Vietnamese egg coffee. This coffee uses egg yolk, whipping cream, condensed milk, and, of course, espresso. Some may use vanilla extract or sugar as a sugar substitute.
    Nước mía Sugar cane juice extracted from squeezing sugar cane plant (sometimes with kumquats to add a hint of citrus flavour), served with ice.
    Rau má Pennywort juice made from blending fresh pennywort leaves with water and sugar until dissolved is a near-transparent green color and served over ice.
    Sữa đậu nành A soybean drink served either hot or cold, sweetened or unsweetened. This beverage is very popular is all Asian countries. In Vietnam, however, the difference between other Asian countries' soy milk and Vietnam's soy milk is the use of pandan leaves. While the use of pandan leaves is very popular with this drink, other countries use a different source of sweetness.
    Rượu đế A distilled liquor made of rice
    Trà đá A kind of iced tea popular for its cheap price, it has a faint lime-yellow color and usually does not have much taste.
    Trà đá chanh Lemon iced tea
    Chanh muối Sweet and sour salty lime drink
    Soda xí muội Sweet and salty plum soda
    Soda hột gà Egg soda
    Sinh tố Vietnamese fruit smoothie with green bean, red bean, avocado, pineapple, strawberry, jackfruit, durian, sapota, or mango with sweet condensed milk
    Nước sắn dây hoa bưởi Made of kudzu and pomelo flower extract


    See also[edit]



    References[edit]

    1. ^ "Vietnamese Ingredients". WokMe. 2011. Retrieved 2 December 2011.
    2. ^ "Healthy Eating: Seven Reasons Why You Should Start Eating Vietnamese Food". HuffPost. 23 April 2014.
    3. ^ Fututame, Nami. "Soy Sauces of Asia [ Soy Sauce Usage in the Philippines, Thailand, and Vietnam ]" (PDF). Kikkoman Cop.
    4. ^ "Food in Vietnam - Vietnamese Food, Vietnamese Cuisine - traditional, popular, dishes, recipe, diet, history, common, meals, rice". Retrieved 26 June 2016.
    5. ^ "Typical Vietnamese Foods". ActiveTravelVIetnam.com. Retrieved 3 December 2011.
    6. ^ "Hanoi Food Guide - The City Lane". 14 July 2013. Retrieved 26 June 2016.
    7. ^ Kiernan, Ben (2017). Việt Nam: A History from Earliest Times to the Present. United Kingdom: Oxford University Press. p. 23. ISBN 9780195160765.
    8. ^ Andrea Nguyen (13 March 2011). "Heaven in a Bowl: The Original Pho". Retrieved 28 December 2011.
    9. ^ "Ho Chi Minh City Food Guide - The City Lane". 16 June 2013. Retrieved 26 June 2016.
    10. ^ Huyền Trần (15 September 2015). "Thăm phố biển Vũng Tàu đừng quên ăn bánh khọt" [When going to Vũng Tàu, don't forget to eat bánh khọt]. Tuoi Tre News. Archived from the original on 4 October 2017. Retrieved 4 October 2017.
    11. ^ Võ Mạnh Lân (4 August 2015). "Hướng dẫn nấu bún mắm đậm đà hương vị miền Tây" [How to cook Mekong Delta-style bún mắm]. Thanh Nien News. Retrieved 4 October 2017.
    12. ^ "Gastronomic Tourism". Vietnam Online. Retrieved 2 December 2011.
    13. ^ "Philosophy of Vietnamese Cuisine". Archived from the original on 22 November 2013. Retrieved 17 November 2013.
    14. ^ "Vietnamese food". Vietnam Travel. Retrieved 3 December 2011.
    15. ^ "Yin – Yang in Vietnamese culinary art". Viet Nam mon pays natal. Archived from the original on 5 April 2012. Retrieved 3 December 2011.
    16. ^ Nguyen Vu Hanh Dung and Phan Dieu Linh. "The Food of Vietnam – Vietnamese Food". GuideVietnam.com. Retrieved 3 December 2011.
    17. ^ "Vietnam Food Tour". vietnamfoodtour.com. Vietnam Tour Company.
    18. ^ a b Anthony Bourdain (18 March 2005). "Hungry for more of Vietnam". Financial Times. Retrieved 27 October 2016.
    19. ^ "Medicinal plants in Viet Nam". apps.who.int. Archived from the original on 27 September 2009. Retrieved 5 February 2017.
    20. ^ a b "What is Pho: A Brief History and How to Eat it". spoonuniversity.com. 10 September 2018. Retrieved 10 April 2022.
    21. ^ Dang, Vinh. "Bún 101". Vietnam Talking Points. One Vietnam Network. Archived from the original on 30 August 2011. Retrieved 16 September 2010.
    22. ^ Annette, Loan Aka (25 February 2015). "The Spices of Life . . .: Bánh Nậm (Flat Steamed Rice Dumpling)". The Spices of Life . . . Retrieved 5 February 2017.
    23. ^ "Banh Mi Op La - Vietnamese Fried Egg Sandwich - VietnaMenu". Retrieved 26 June 2016.
    24. ^ "The Ravenous Couple » Banh Tom (Sweet Potato Shrimp Fritters)". theravenouscouple.com. 24 June 2009. Retrieved 5 February 2017.
    25. ^ "The Ravenous Couple » Nem Chua Recipe Vietnamese Fermented/Cured Pork". theravenouscouple.com. 23 January 2010. Retrieved 5 February 2017.
    26. ^ Stauch, Cameron (28 March 2018). "What It's Like to be Vegetarian in Vietnam". Food Republic.
    27. ^ VIETNAM.COM. "A Tribute to Ba Khia". VIETNAM.COM. Retrieved 11 October 2021.
    28. ^ "9 Countries That Eat Cats and Dogs (Slideshow)". The Daily Meal. 11 April 2014. Retrieved 22 November 2015."9 Countries That Eat Cats and Dogs". The Daily Meal. Archived from the original on 23 November 2015. Retrieved 22 November 2015."Cat Meat". Vietnam Coracle. Archived from the original on 23 November 2015. Retrieved 22 November 2015."The Truth About Cats & Dogs in Vietnam - The Dropout Diaries". The Dropout Diaries. Archived from the original on 23 November 2015. Retrieved 22 November 2015."Where cat sits happily on the menu". Stuff. 25 July 2011. Retrieved 22 November 2015.The Christian Science Monitor (22 July 2010). "Why do Vietnamese keep cats on a leash? (Hint: What's for dinner?)". The Christian Science Monitor. Retrieved 22 November 2015.
    29. ^ "Rats Back on the Menu in Vietnam". Abcnews.go.com. 6 January 2006. Retrieved 10 January 2016."Vietnamese eat rats and are aggressive, Stanford professor says in article, triggering online uproar". Mercurynews.com. February 2013. Retrieved 10 January 2016.Sou Vuthy (12 September 2012). "Rat meat on the menu at the Vietnam border, Lifestyle, Phnom Penh Post". Phnompenhpost.com. Retrieved 10 January 2016.
    30. ^ "The Last Days of the Mekong Snake Hunters". 9 August 2016.
    31. ^ Zimmern, Andrew. "Would You Ever Eat a Rat?". Travel Channel.
    32. ^ Zimmern, Andrew. "Ho Chi Minh City: Rat Hearts & Porcupine Parts". Travel Channel.
    33. ^ "Ho Chi Minh City: Rat Hearts & Porcupine Parts". IMDb. 1 June 2015.
    34. ^ Erica J. Peters (2012). Appetites and Aspirations in Vietnam: Food and Drink in the Long Nineteenth Century. Rowman Altamira. pp. 142–. ISBN 978-0-7591-2075-4.
    35. ^ Beachy, Ben (7 December 2015). "Sharks, Tigers, and Elephants: New Analysis Reveals TPP Threats to Endangered Species". Sierra Club.
    36. ^ "Vietnamese new year food - some traditional food for new year days". Vina.com represents all things about Vietnam. Retrieved 5 February 2017.
    37. ^ vietnamnet.vn. "Coconut worms, specialties of Southwest region - News VietNamNet". english.vietnamnet.vn. Retrieved 29 August 2017.

    Further reading[edit]



    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm


    =======================================

    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Đế Viêm / "flame Emperor's" di Yan 帝 炎 Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Đế Lâm Khôi (臨魁)
    Đế Thừa (承)
    Đế Minh (明) Được coi là cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai được coi là cha của Âu Cơ trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) The last Yan Emperor after 520 years of Đế Viêm Thần Nông reign, Yuwang Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?


    Yellow Emperor's leadership, the newly combined tribes then went to war and defeated Chiyou in the Battle of Zhuolu, and established their cultural and political dominance. flame emperor apparently lapsed after this time, while his tribe's descendants were said to be perpetuated through intermarriage with that of the Yellow Emperor, and Han Chinese and extablished the Hạ Dynasty. To made up for Descendants of combination of two emperiors called Yan and Huang" .

    ...................................................... >>>>>>>>>>>

    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm



    Name Notes
    Shennong / Thần Nông Đế Viêm 神農 Born Jiang Shinian 姜石年
    Linkui / Đế Lâm Khôi / 臨魁
    Cheng / Đế Thừa /
    Ming / Đế Minh / Father of Loc Tuc in Vietnamese mythography
    Zhi / Đế Nghi /
    Li / Đế Lai / or Ke Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang
    Ai / Đế Lai Father of Au Co in Vietnamese haft mythography and history
    Yuwang / Đế Du Võng 榆罔 Defeated by Yellow Emperor at Banquan /




    Thủy tổ của Việt tộc


    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Đế Viêm / "flame Emperor's" di Yan 帝 炎 Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Đế Lâm Khôi (臨魁)
    Đế Thừa (承)
    Đế Minh (明) Được coi là cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai được coi là cha của Âu Cơ trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) The last Yan Emperor after 520 years of Đế Viêm Thần Nông reign, Yuwang Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?


    Sau khi Hiên Viên Hoàng đế đánh bại Đế Viêm trong trận Phản Tuyền, Hiên Viên Hoàng đế đã lãnh đạo cuộc chiến đánh bại Chiyou trong Trận Zhuolu, và Hiên Viên Hoàng đế đã thiết lập sự thống trị văn hóa và chính trị của Đế Viêm và con cháu Đế Viêm (Vua Lửa) sau thời gian này, hậu duệ của bộ lạc của Đế Viêm và Hoàng Đế đã có những cuộc hôn nhân: Viêm và Hoàng, lấy tên là Yan và Huang". Sự pha trộn dòng máu để làm loãng máu địch thủ, và làm tiêu tan địch thủ bằng hôn nhân, thế nhưng ngay cả người Quảng Đông thì lại nhận Hiên Viên Hoàng Đế là thủy tổ của mình và sau đó họ cũng nhận Thần Nông và Si Vưu là thủy tổ của họ nữa.
    Trong khi ngưới H'Mông chỉ nhận Xi Vưu là thủy tổ của họ mà thôi.
    Người Việt chỉ nhận mình là con cháu của Thần Nông là ông tổ của mình mà thôi.

    Hoàng Đế đã chấm dứt triều đại Thần Nông trong trận Zhulu Battle hay còn gọn là trận Trác Lộc. Triều đại Thần Nông đã trị vì được 520 năm.
    Hiên Viên Hoàng Đế lập ra nhà Hạ, con cháu Thần Nông vượt núi Ngũ Lĩnh hợp cùng nhà nước Xích Quỷ, hay Văn Lang triều đại Hồng Bàng với trăm con Việt Tộc / Bách Việt.
    Nhưng họ vẫn nhớ đất xưa qua câu ca dao với núi Thái Sơn, nước trong nguồn.
    Công cha như núi Thái Sơn
    Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chày ra...


    ========================================================


    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm



    Name Notes
    Shennong / Thần Nông Đế Viêm 帝 炎 神農 Born Jiang Shinian 姜石年
    Linkui / Đế Lâm Khôi / 臨魁
    Cheng / Đế Thừa /
    Ming / Đế Minh / Father of Loc Tuc in Vietnamese mythography
    Zhi / Đế Nghi /
    Li / Đế Lai / or Ke Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang
    Ai / Đế Lai Father of Au Co in Vietnamese mythography
    Yuwang / Đế Du Võng 榆罔 Defeated by Yellow Emperor at Banquan /




    Yan Emperor
    Shennong3.jpg
    The first Yan Emperor Shennong tastes herbs to discover their qualities
    炎帝
    Literal meaning Flame Emperor / Đế Viêm


    The Yan Emperor (: 炎帝; pinyin: Yán Dì) or the Flame Emperor /Đế Viêm was a legendary ancient Bai Yue ruler in pre-dynastic times. Modern scholarship has identified the Sheep's Head Mountains (Yángtóu Shān) just north of Baoji in Shaanxi Province as his homeland and territory.[1]

    A long debate has existed over whether or not the Yan Emperor was the same person as the legendary Shennong. An academic conference achieved general consensus that the Yan Emperor and Shennong were the same person.[2] Another possibility is that the term "flame emperor" was a title, held by dynastic succession of tribal lords, with Shennong being known as Yandi perhaps posthumously. Accordingly, the term "flame emperors" would be generally more correct. The succession of these flame emperors, from Shennong, the first Yan Emperor have been some more than 500 years, until the time of the last Yan Emperor's defeat by the Yellow Emperor.[3]



    Historical records[edit]

    Map of tribes and tribal unions in Ancient Bai Yue people, Yan Di (Flame Emperor) and Chiyou.

    No written records are known to exist from the era of Yan Emperor's reign. However, he and Shennong are mentioned in many of the classic works of ancient Yue people. Yan literally means "flame", implying that Yan Emperor's people possibly uphold a symbol of fire as their tribal totems. K. C. Wu speculates that this appellation may be connected with the use of fire to clear the fields in slash and burn agriculture.[4] In any case, it appears that agricultural innovations by Shennong and his descendants contributed to some sort of socioeconomic success that led them to style themselves as di (; 'emperors'), rather than hou (; 'lord'), as in the case of lesser tribal leaders. At this time it appears that there were only the bare beginnings of written language, and that for record keeping a system of knotting strings (perhaps similar to quipu) was in use.[5] The Zuo Zhuan states that in 525 BC, the descendants of Yan were recognized as long having been masters of fire and having used fire in their names.[6] Yan Emperor was known as "Emperor of the South"[7]

    Downfall[edit]

    The last Yan Emperor, Yuwang, met the end of his reign in the third of a series of three battles, known as the Battle of Banquan. The exact location of this battle is disputed among modern historians, due to multiple locations adopting the same name at various points through history. Possible candidates include Zhuolu County and Huailai County in Zhangjiakou, Hebei, Yanqing District in Beijing, Fugou County in Zhoukou, Henan, and Yanhu District in Yuncheng, Shanxi.

    The Yan Emperor, retreating from a recent invasion from the forces of Chiyou, came into territorial conflict with its neighbouring Youxiong tribes, led by the Yellow Emperor. The Yan Emperor was defeated after three successive battles and surrendered to the Yellow Emperor, who assumed the title of overlord (共主) Yanhuang tribe. Under Battle of Zhuolu, and established their cultural and political dominance in Yue people.

    Historicity[edit]

    Since the Battle of Banquan is treated as a historical fact by Sima Qian in his Records of the Grand Historian, it would appear that this is a pivotal transition point between mythology and history. Ironically, Yan Emperor enters history only with his submission to the will of the Yellow Emperor. In any case, the title of flame emperor through intermarriage with that of the Yellow Emperor, normad tribe ".

    In traditional culture[edit]

    A temple dedicated to the worship of Yandi in Baoji, Shaanxi

    Yandi was considered the ancestral to yue culture and people. Also, the tradition of associating a certain color with a particular dynasty may have begun with the Flame Emperors. [8]

    According to the records of ancient history books such as The "Đại Việt sử ký toàn thư", the earliest monarch of Vietnam, Hồng Bàng, was a descendant of Emperor Yan. Because of it, all the ancient Vietnamese dynasties regarded Emperor Yan as their common ancestor.

    List of Flame Emperors / Đế Viêm / Yan di

    This is the most common list given by Huangfu Mi, Xu Zheng, and Sima Zhen:



    ..............................................



    Name Notes
    Shennong 神農 Born Jiang Shinian 姜石年
    Linkui 臨魁
    Cheng
    Ming Considered father of Loc Tuc Vietnamese ancestor
    Zhi
    Li or Ke Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang
    Ai Considered father of Au Co Vietnamese ancestor
    Yuwang 榆罔 Defeated by Yellow Emperor at Banquan

    List provided at the end of the Shan Hai Jing:

    Name Notes
    Yandi 炎帝
    Yanju 炎居 Also possibly known as Zhu
    Jiebing 節並
    Xiqi 戲器
    Zhurong 祝融
    Gonggong 共工
    Shuqi 術器
    Houtu 后土 Brother of Shuqi
    Yeming 噎鳴 Son of Houtu
    Suishi 歳十


    Yến Đế (: 炎帝; bính âm: Yán Dì) hay Hỏa Hoàng / Đế Viêm là một người cai trị Bạch Nguyệt cổ đại huyền thoại trong thời kỳ tiền triều đại. Học bổng hiện đại đã xác định dãy núi Đầu cừu (Yángtóu Shān) ngay phía bắc Baoji thuộc tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông. [1]

    Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Yến Đế có phải là người giống với Thần Nông huyền thoại hay không. Một hội nghị học thuật đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Yến Đế và Thần Nông là cùng một người. [2] Một khả năng khác là thuật ngữ "hoàng đế lửa" là một danh hiệu, được nắm giữ bởi sự kế thừa triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được gọi là Yandi có lẽ đã được truy tặng. Theo đó, thuật ngữ "hoàng đế lửa" nói chung sẽ đúng hơn. Sự kế vị của những ngọn lửa hoàng đế này, từ Thần Nông, Yến Đế đầu tiên đã hơn 500 năm, cho đến thời điểm Diêm Đế cuối cùng bị Hoàng đế đánh bại. 3

    Không có ghi chép bằng văn bản nào được biết là tồn tại từ thời kỳ trị vì của Yến Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của người Nguyệt cổ đại. Yan theo nghĩa đen có nghĩa là "ngọn lửa", ngụ ý rằng người của Yan Emperor có thể duy trì một biểu tượng của lửa như vật tổ của bộ lạc của họ. K. C. Wu suy đoán rằng tên gọi này có thể được kết nối với việc sử dụng lửa để dọn sạch các cánh đồng trong nông nghiệp chém và đốt. [4] Trong mọi trường hợp, có vẻ như những đổi mới nông nghiệp của Thần Nông và con cháu của ông đã góp phần vào một số loại thành công kinh tế xã hội khiến họ tự phong mình là di (帝; 'Hoàng đế'), thay vì Hou (侯; 'Chúa tể'), như trong trường hợp của các thủ lĩnh bộ lạc ít hơn.

    Vào thời điểm này, có vẻ như chỉ có sự khởi đầu trần trụi của ngôn ngữ viết, và để ghi lại, việc giữ một hệ thống dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu) đã được sử dụng. [5] Zuo Zhuan nói rằng vào năm 525 trước Công nguyên, hậu duệ của Yan được công nhận là bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong tên của họ. [6] Yan Emperor được mệnh danh là "Hoàng đế phương Nam"[7]

    Hoàng đế Yan cuối cùng, Yuwang, đã gặp sự kết thúc triều đại của mình trong trận thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là Trận Banquan. Vị trí chính xác của trận chiến này đang bị tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên tại các điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên tiềm năng bao gồm huyện Zhuolu và huyện Hoài Lai ở Trương Gia Khẩu, Hà Bắc, quận Diên Khánh ở Bắc Kinh, huyện Fugou ở Chu Khẩu, Hà Nam và quận Yanhu ở Vân Thành, Sơn Tây.

    Hoàng đế Yan, rút lui khỏi một cuộc xâm lược gần đây từ lực lượng của Chiyou, đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ lạc Youxiong láng giềng, do Hoàng đế lãnh đạo. Hoàng đế Yan đã bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Hoàng đế, người đảm nhận danh hiệu lãnh chúa (共主) bộ lạc Diêm Hoàng. Dưới trận Zhuolu, và thiết lập sự thống trị văn hóa và chính trị của họ ở người Việt.

    Vì Trận Banquan được Tư Mã Thiên coi là một sự thật lịch sử trong Hồ sơ của ông về Đại sử gia, nên có vẻ như đây là một điểm chuyển tiếp quan trọng giữa thần thoại và lịch sử. Trớ trêu thay, Yan Emperor chỉ đi vào lịch sử với sự sắp đặt theo ý muốn Hoàng đế, danh hiệu hoàng đế lửa thông qua sự hôn nhân giữa chủng tộc của Hoàng đế bộ lạc du mục ".

    Yandi được coi là tổ tiên của văn hóa và con người Yue. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu sắc nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu với các Hoàng đế Ngọn lửa. [8]

    Theo ghi chép của các sử sách cổ đại như "Đại Việt sử ký toàn thư", vị vua đầu tiên của Việt Nam, Hồng Bàng, là hậu duệ của Hoàng đế Yan. Vì điều đó, tất cả các triều đại Việt Nam cổ đại đều coi Hoàng đế Yan là tổ tiên chung của họ.

    DANH SÁCH HOÀNG ĐẾ NGỌN LỬA / ĐẾ VIÊM / YAN DI

    Đây là danh sách phổ biến nhất được đưa ra bởi Hoàng Phủ Mi, Từ Chính và Tư Mã Chấn:

    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm


    =======================================

    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Đế Viêm / "flame Emperor's" di Yan 帝 炎 Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Đế Lâm Khôi (臨魁)
    Đế Thừa (承)
    Đế Minh (明) Được coi là cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai được coi là cha của Âu Cơ trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) The last Yan Emperor after 520 years of Đế Viêm Thần Nông reign, Yuwang Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?


    Sự lãnh đạo của Hoàng đế, hoàng đế lửa con cháu của bộ tộc ông đã được nói thông qua việc đánh bại Chiyou trong trận Zhuolu, và thiết lập hôn nhân liên hôn với Hoàng đế Hán Trung Quốc giống tộc du mục và sau đó Hoàng Đế lập ra nhà Hạ.

    Yellow Emperor's leadership, flame emperor his tribe's descendants were said through defeated Chiyou in the Battle of Zhuolu, and established the intermarriage with the Yellow Emperor Han Chinese Hoàng Đế then extablished the Hạ Dynasty.

    ......................................................



    Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm



    Name Notes
    Shennong / Thần Nông Đế Viêm 神農 Born Jiang Shinian 姜石年
    Linkui / Đế Lâm Khôi / 臨魁
    Cheng / Đế Thừa /
    Ming / Đế Minh / Father of Loc Tuc in Vietnamese mythography
    Zhi / Đế Nghi /
    Li / Đế Lai / or Ke Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang
    Ai / Đế Lai Father of Au Co in Vietnamese haft mythography and history
    Yuwang / Đế Du Võng 榆罔 Defeated by Yellow Emperor at Banquan /





    Thủy tổ của Việt tộc

    Tên gọi Ghi chú
    Thần Nông (神農) Đế Viêm / "flame Emperor's" di Yan 帝 炎 Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年)
    Đế Lâm Khôi (臨魁)
    Đế Thừa (承)
    Đế Minh (明) Được coi là cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Trực (直) hay Đế Nghi (宜).
    Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai được coi là cha của Âu Cơ trong huyền sử Việt Nam.[11]
    Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居)
    Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) The last Yan Emperor after 520 years of Đế Viêm Thần Nông reign, Yuwang Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền?







    I. Khởi đầu từ lịch sử

    Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Tàu cũng tự nhận là con cháu Thần Nông?

    Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.

    Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ - mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó (Việt bộ Qua -戈).20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12,400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người.

    Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa (Việt bộ Mễ -粤)! Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử / Trường Giang lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử/Trường Giang ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.

    Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết: “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này.

    Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN...

    Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: Phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh?

    Từ nhiều tài liệu, có thể suy ra -- thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước:

    ᐅ Thần Nông Bắc (xích Thần) của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà,

    ᐅ Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và

    ᐅ Quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện.

    Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Đế Viêm chấp nhận vai trò phụ thuộc.

    Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc. Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái - Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ.

    Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)

    Về Việt Nam, người Núi Thái - Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.

    Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:

    Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết:

    “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.”

    Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước.

    Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.

    Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt:

    a - Giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái - Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân.

    b - Giai đoạn hai: Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta.

    Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông.

    Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, vì bấy giờ Hoa Hạ bị các vương triều Trung quốc chiếm đóng để làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi tên của đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên, Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?

    Họa tiết trên trống đồng Đông Sơn

    II. Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.

    1. Quá trình hình thành

    Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh... Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái - Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi. Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra. Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả.

    Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin. Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói: “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.” Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!”

    Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?

    Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”.

    2. Đôi lời nhận định

    Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” - cách gọi họ theo dòng cha ra đời!

    Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?!

    Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!

    Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy?

    Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên... Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!

    Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau!

    Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:

    Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!

    Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn:

    “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..”

    Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Tàu bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp lục địa Trung quốc. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ?

    Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do -- cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…

    Tôi chỉ làm cái việc trung thực là phát hiện sự việc của quá khứ rồi đặt nó vào đúng chỗ, thưa ông! Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt!

    Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất hẹp Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại "tham bát bỏ mâm". Khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, trong khi một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?!

    Sài Gòn, Vu Lan năm Giáp Ngọ

    Dãy núi Hồng Lĩnh (chữ Hán: 鴻嶺, tên chữ: Hồng Sơn, tên nôm: Ngàn Hống, tên gọi dân gian: Rú Hốống (cũng được đọc là Hống); là dãy núi được cho là nổi tiếng nhất Hà Tĩnh[2] từng được vua Minh Mạng cho khắc vào Anh Đỉnh thuộc Cửu Đỉnh ở Cố đô Huế (9 đỉnh đồng tại Kinh thành Huế)[2]. Dãy núi Hồng Lĩnh cùng với sông Lam là biểu tượng không chính thức của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.[3][4][5]

    Vị trí

    • Dãy núi dài khoảng 30 km (theo hướng Tây Bắc - Đông Nam), nơi rộng nhất chừng 15 km, đỉnh cao nhất tới 678m so với mực nước biển[1][6]

    • Tọa độ từ 105 41’ đến 105 55’ kinh đông và từ 18 28’ đến 18 39’ vĩ bắc[7].

    • Cách thành phố Vinh 1 km về hướng Nam, cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 17 km về hướng Bắc (đo theo google maps).

    • Sườn phía Bắc núi Hồng Lĩnh nằm dọc theo Sông Lam. Dãy núi Hồng Lĩnh là 1 trong 9 địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế (Năm Minh Mạng Thứ 7-1836).

    Sông Lam, Vinh

    Nghi Xuân (một phần),

    Sông Lam, Hồng Lĩnh (một phần) B Biển Đông

    T Dãy núi Hồng Lĩnh Đ N Sông Nghèn

    Can Lộc (một phần)

    Biển Đông

    Đặc điểm

    • Mạch núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam có diện tích khoảng 30km², từ nam bến thuỷ vào đến bắc Cửa Sót. Chia làm 3 nhóm núi: nhóm Thiên Tượng, nhóm Đụn và nhóm Hương Tích[1].

    • Hồng Lĩnh có 60 đỉnh nhô cao lên từ mấy chục mét và cao nhất là 676m. Tính từ tây bắc xuống có các đỉnh: Nam Bàn, Yên Xuân, Đà Hồng, Cột Cờ, Thiên Tượng, Mồng Già (có 2 ngọn), Bạch Tỵ, Hương Tích, Tai Voi, Mũi Rồng, Ông, Tháp Cờ, Chân Tiên, Hàm Rồng, Chẻ Hai, Đá Hang… Nhiều ngọn được mang tên kỳ thú do người đời đặt và lưu truyền.

    • Có 8 cửa truông thuận tiện cho đi lại qua Hồng Lĩnh từ tây sang đông và từ bắc xuống nam, như truông: Cộng Khánh, Vắn (Cố Ghép)... Trong núi có nhiều hang động như: động 12 cửa, động Chẻ Hai, động Đá Hang, động Hàm Rồng... Có đến 26 khe suối chảy từ trong núi ra và ngày nay có hàng mấy chục đập nước ở chân núi Hồng Lĩnh, một số ao hồ ở lưng núi và chân núi như Bàu Tiên, Vực Nguyệt, Ao Núi Lân, Bàu Mỹ Dương.

    Di tích lịch sử - văn hóa[sửa | sửa mã nguồn]

    Dãy núi nhìn từ xã Thuận Lộc

    Các di sản văn hóa - lịch nổi tiếng từ các di tích như

    • Đỉnh Tháp Cờ, nơi hoàng tử, con Mai Thúc Loan xây căn cứ,

    • Núi Lầu có hành cung của Lý Thánh Tông,

    • Lũy Đá của Ngô Quảng nổi lên chống Pháp

    Dãy núi Hồng Lĩnh đã có 7 sắc phong và 1 công lệnh thời Lê[6].

    Nơi đây có khoảng 100 ngôi chùa và đền miếu. Có ngôi rất cổ như:

    • chùa Hương Tích

    • chùa Chân Tiên, nơi được cho là vẫn còn dấu chân người và chân ngựa trên tảng đá (gắn với truyền thuyết Tiên giáng trần).

    • Cụm Quần thể di tích lịch sử văn hóa Tiên Sơn (được nhà nước xếp hạng di tích cấp tỉnh vào đầu năm 2012 và Bằng bảo trợ di tích lịch sử văn hóa của Liên hiệp các hội UNESCO Việt Nam, cụm bao gồm các công trình kiến trúc văn hóa và tín ngưỡng như: đền - chùa Tiên Sơn, đền Thánh Mẫu, đền Bà chúa kho, đền thờ Lục vị Thánh tổ nghề rèn; với các chùa như Thiên Tượng, Hương Tích, Long Đàm)[8][9].

    Truyền thuyết và sự tích[sửa | sửa mã nguồn]

    Truyền thuyết tạo núi[sửa | sửa mã nguồn]

    Tương truyền núi Hồng Lĩnh có tất cả 99 đỉnh được ông Đùng xếp mà thành.

    Thủa hồng hoang khai thiên lập địa, vùng đất Hà Tĩnh và Nghệ An bây giờ núi non mọc ngổn ngang, ngăn cách vùng này với cùng kia. Khi ấy có hai người khổng lồ được dân gian gọi bằng cái tên thân thuộc là ông Đùng và bà Đùng, nhiều lần đã giúp đỡ nhân dân trong vùng.

    Một ngày nọ, ông Đùng tới gặp bà Đùng ngỏ ý kết duyên cùng. Bà Đùng thấy núi non vùng này ngổn ngang, nhân dân không có chỗ trông lúa liền thách ông Đùng rằng: “Ttrước khi gà gáy ngày mai, nếu ông Đùng xếp được 100 ngọn núi thì bà sẽ đồng ý làm vợ”. Nghe xong ông Đùng một mình cặm cụi kéo núi khắp vùng xếp lại đến quên cả ăn quên cả nghỉ. Đến mờ sáng hôm sau, khi đã xếp được 99 ngọn thì đúng lúc bà Đùng tỉnh giấc, thấy ông Đùng đang cặm cụi xếp núi nên đùa vui bằng việc giả tiếng gà gáy. Ông Đùng đang kéo một ngọn núi về cho tròn 100 ngọn, đến bên bờ bắc sông Lam nghe thấy “gà” gáy tưởng thật, nên đứng dậy phủi tay mà đi. Cuối cùng thì bà Đùng cũng chấp nhận đấng phu quân, nhưng do bà Đùng giả tiếng gáy sớm mà dãy núi Hồng Lĩnh chỉ có 99 ngọn núi, còn một ngọn núi đã bị bỏ quên ở bờ bắc sông Lam được người dân gọi là núi Quyết.

    Truyền thuyết 100 con chim Phượng Hoàng bay về tìm chốn đậu[sửa | sửa mã nguồn]

    Thủa xưa, vua Hùng có ý tìm trong cả nước vùng đất thích hợp để lập đô. Lạc Tướng tâu rằng xưa Việt Thường từng đóng đô cũ ở Ngàn Hống. Vua nghe vậy liền cất công tới thị sát xem như thế nào. Khi vua Hùng đến nơi, bỗng đâu trên trời xuất hiện 100 con chim Phượng Hoàng đang bay lượn, trông rất đẹp. Vua Hùng mừng lắm, cho rằng đây đã là nơi đặt kinh đô cho muôn đời. Ngờ đâu 100 con chim Phượng Hoàng bay về núi đậu trên 99 đỉnh của dãy Ngàn Hống, còn con dầu đàn không có chỗ đậu nên bay đi; thấy vậy cả đàn Phượng Hoàng cũng bay theo. Vua Hùng cho rằng đây là điềm của trời không thuận không thể đặt làm kinh đô.

    Hình ảnh núi Hồng Lĩnh được vua Minh Mạng cho khắc vào Anh Đỉnh đặt trong Đại nội Huế

    Những truyền thuyết khác và sự tích khá

    Truyền thuyết về ông Đùng dùng chân bắc cầu cho dân qua sống.

    Truyền thuyết ông Đùng đào quặng sắt trong núi dạy dân Trung Lương làm nghề rèn.

    Truyền thuyết về những nàng tiên trên trời xuống tắm mát mà để lại dấu chân trên đá, nhân dân địa phương liền lập nơi thờ tự gọi là chùa Chân Tiên.

    Truyền thuyết nàng Công chúa Diệu Thiện con vua Sở Trang Vương lên núi Hương Tích thuộc dãy Hồng Lĩnh lập am tu hành, hiến mắt hiến tay cứu cha mình... mà nay là Chùa Hương Tích

    Lễ hội truyền thống[sửa | sửa mã nguồn]

    • Lễ hội chùa Hương Tích ở xã Thiên Lộc, huyện Can Lộc. Nơi đây thờ Phật và con gái vua Sở Trang Vương. Hàng năm vào ngày 18/2 âm lịch, người dân ở mọi nơi đến hội chùa cúng Phật, cầu yên và thăm cảnh của chùa. Năm 1990 chùa được Nhà nước cấp bằng di tích văn hóa - thắng cảnh.

    • Lễ hội chùa Chân Tiên ở xã Thịnh Lộc - Can Lộc được tổ chức vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm.

    • Lễ hội đua thuyền truyền thống đầu xuân 03 04 Tết Nguyên Đán ở xã Trung Lương, Hồng Lĩnh

    • Lễ hội Văn Hóa Tiên Sơn suốt tháng giêng hàng Năm

    • Lễ hội Đền cả (Dinh Đô Quan Hoàng mười): đền được xây dựng vào năm 1060 thời nhà Lý vua Lý Thánh Tông.[10]

    Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

    • Câu lạc bộ bóng đá Hồng Lĩnh Hà Tĩnh

    • Sông Lam

    • Xứ Nghệ

    Tham khảo

    0. ^ a b c “VỀ CHÙA HƯƠNG TÍCH TRÊN DÃY NÚI HỒNG (HÀ TĨNH)” (PDF). Trang web chính thức của Cục Di sản văn hóa. Truy cập 22 tháng 6 năm 2021.
    1. ^ a b “Ông nội vua Hùng dời đô chỉ vì con chim phượng bay đi?”. Trang web chính thức của báo Pháp Luật. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    2. ^ “TIỀM NĂNG”. Trang web chính thức CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ THỊ XÃ HỒNG LĨNH. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    3. ^ “Lịch sử hình thành tỉnh Hà Tĩnh”. Trang web chính thức của CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ TỈNH HÀ TĨNH. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    4. ^ “Biểu tượng địa danh trong ví, giặm Nghệ Tĩnh”. Trang web chính thức của báo Hà Tĩnh. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    5. ^ a b “Lời thỉnh cầu của 99 đỉnh Non Hồng”. Trang web chính thức của báo Câng an nhân dân. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    6. ^ “Về quê tôi núi Hồng – sông La”. Trang web chính thức của báo Hà Tĩnh 24H. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    7. ^ “Cụm di tích lịch sử văn hóa Tiên Sơn đón Bằng bảo trợ của UNESSCO”. Trang web chính thức của báo Đại đoàn kết. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    8. ^ “Đón bằng bảo trợ giá trị di sản UNESCO cho quần thể Di tích Tiên Sơn”. Trang web chính thức của báo Hà Tĩnh. Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.
    9. ^ “Thị xã Hồng Lĩnh (Hà Tĩnh): Đánh thức vùng đất ẩn chứa nhiều tiềm năng du lịch văn hóa”. Trang web chính thức của báo Môi trường và Xã hội.

    Truy cập 21 tháng 6 năm 2021.

    Liên kết ngoài

    • Một cõi tiên cảnh Thể loại: • Núi tại Hà Tĩnh • Xứ Nghệ • Trang này được sửa đổi lần cuối vào ngày 24 tháng 3 năm 2022 lúc 02:18.

    Hình ảnh núi Hồng Lĩnh được vua Minh Mạng cho khắc vào Anh Đỉnh đặt trong Đại nội Huế

    https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/1/11/H%C3%ACnh_%E1%BA%A3nh_n%C3%BAi_H%E1%BB%93ng_L%C4%A9nh_%C4%91%C6%B0%E1%BB%A3c_kh%E1%BA%AFc_v%C3%A0o_Anh_%C4%90%E1%BB%89nh.jpg

    Dãy núi Hồng Lĩnh (chữ Hán: 鴻嶺, tên chữ: Hồng Sơn, tên nôm: Ngàn Hống, tên gọi dân gian: Rú Hốống (cũng được đọc là Hống); là dãy núi được cho là nổi tiếng nhất Hà Tĩnh[2] từng được vua Minh Mạng cho khắc vào Anh Đỉnh thuộc Cửu Đỉnh ở Cố đô Huế (9 đỉnh đồng tại Kinh thành Huế)[2]. Dãy núi Hồng Lĩnh cùng với sông Lam là biểu tượng không chính thức của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.[3][4][5]

    Hồng Lĩnh mountain

    From Wikipedia, the free encyclopedia Jump to navigationJump to search Hồng Lĩnh is a mountain range in Hà Tĩnh Province and Nghệ An Province, Vietnam. Hồng Lĩnh is the tên chữ Sino-Vietnamese name (literally "red mountain range"); the demotic tên nôm folk name is Rú Hống.[1][2]

    The mountains famously have 99 peaks. Nguyễn Huệ built the Trung Đô Citadel on Hồng Lĩnh mountain.[3][4][5] The mountains were the place of retirement of Nguyễn Du.[6] In earlier days villagers went into the Hồng Lĩnh mountains at times of poor crops for hunting and harvesting rattan and leaves to make raincoats and hats.[7] Hồng Lĩnh Mountain is now suffering ecological damage from people harvesting mật nhân (Eurycoma longifolia).[8] References[edit]

    0. ^ Ngọc Khánh Vũ Văn hóa Việt Nam: những điều học hỏi : các bình diện văn hóa Việt Nam -2004 Page 201 "Núi Hổng Lĩnh ớ Nghệ An, có tên nôm là Rú Hông. Chữ "hông" có người giáng là tên gọi một loại chim, sau đó được phát âm là chim hổng (hổng ... nhiểu tên làng, chắc chắn từ góc là một tên nôm, sau được nhà nho đổi thành tên chữ nghĩa." 1. ^ Ngọc Khánh Vũ -Chuyện kể địa danh Việt Nam 2000 - Page 17 "Núi Hông Lĩnh Ồ Nghệ An, có tên nôm là Rú Hông. Chữ "hống" có người giảng là tên gọi một loại chim, sau đó được phát âm là chim hông ... Rất nhiểu tên làng, chắc chắn từ gốc là một tên nôm, sau được nhà nho đổi thành tên chữ-nghĩa." 2. ^ Khôi Hoàng The Hồ Chí Minh trail - Page 38 2001 "Nguyễn Huệ built the Trung Đô Citadel on the Hồng Lĩnh mountain (part of the Trường Sơn in Nghệ Tĩnh)." 3. ^ Như Ý Nguyẽ̂n, Huy Chu, Thié̂t Bùi Dictionary of Vietnamese cultural place names and scenic spots 2004 Page 1184 4. ^ Vietnam geographical data - Page 201 Tu Lap Vu - 1979 "Hong Linh was formerly one of the most spectacular sights of Nghe Tinh province, with its thick forest and varied fauna ; but the forest has been destroyed"

    5. ^ Vận hội mới - Volumes 1-12 - Page 221 Friendship Association of the Diocese of Vinh (San Jose, Calif.) - 1982 "To Nguyến Du loyalty also meant attachment to the Lê Dynasty, nostalgia after its end and aversion to Serving a different master:... From then on he led a secluded life with two young disciples in the Hồng Lĩnh mountains, hunting and growing crops around his cottage."

    6. ^ Hà Tĩnh, trên đường phát triẻ̂n - Page 200 Công ty cỏ̂ phà̂n thông tin kinh té̂ đó̂i ngoại - 2004 "Once upon a time, when living standard was low, villagers went to Hong Linh for hunting and taking rattan and leaves to thread raincoats and hats. Mountains could be a treasure for them at the hardest time and years of bad crops." 7. ^ Hong Linh Mountain destroyed because people thirsty for panacea

    Sông Lam hay sông Rum • 14:31 07/09/2016

    Bấy lâu kể cả trong lẫn ngoài nước nhiều bài viết khi nói về truyền thống khoa bảng Họ Nguyễn Tiên Điền (Nghi Xuân- Hà Tĩnh) thường hay trích câu ca dao Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan, nhưng cũng không ít tác giả lại trích: Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Lam hết nước họ này hết quan! Phải chăng có sự nhầm lẫn chi đây về hai tên sông : Sông Rum hay Sông Lam?

    [caption id="attachment_7423" align="aligncenter" width="600"] Sông Lam[/caption] Xin nói một điều là nơi đây từng tồn tại hai câu ca na ná như nhau, câu này như là biến dị của câu kia, nhưng là câu nào có trước thì người viết bài này chưa dám khẳng định. Câu 1: Bao giờ ngàn Hống hết cây,/Sông Rum hết nước đó đây hết tình. Câu 2:

    Bao giờ Ngàn Hống hết cây,/ Sông Rum hết nước họ này hết quan Thôi,

    cứ cho là câu 1 có trước đi vì tính chất diễn tình của nó gần với ca dao cổ truyền hơn, khi biến dị thành câu 2 có thể do một nho sĩ nào đó trong dòng họ đổi thành để tự hào và khẳng định truyền thống cuả gia tộc, nhưng cũng có thể là lời truyền miệng vần vè của dân gian trong vùng khi nhận xét về dòng họ này. Cả hai trường hợp khi đã truyền được lâu dài từ đời này sang đời khác tất nó đã tuân thủ những quy tắc của thơ ca dân gian về tính hiện thực cũng như tính thẩm mỹ. Tuy nhiên đến câu:

    Bao giờ Ngàn Hống hết cây,
    Sông Lam hết nước họ này hết quan!

    ta thấy có một sự khập khiểng về chi tiết thông qua hai địa danh một tên núi, một tên sông !Trên cơ sở những tương quan về địa-tâm linh đem so sánh câu này với câu trước, chúng ta có thể phân tích tìm được một câu hợp lý hơn. Khi có hai câu ca dao cùng đề cập một nội dung và na ná nhau về hình thức thì sự lựa chọn tất phải chú ý các tiêu chí sau đây: về thời gian (câu nào có trước), về không gian (tính xác thực về địa lí),về đạo lý (phù hợp truỳền thống đạo đức, phong tuc tập quán nhân dân địa phương), về thẩm mỹ (đẹp về ngôn ngữ, hình ảnh). Để hiểu rõ hai câu ca,trứơc hết xin nói đôi điều về địa lý Hà Tĩnh. Sông lớn nhất Hà Tĩnh xưa gọi là sông Cả (hay làNgàn Cả, một trong hai con sông lớn nhất ở Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau đổi thành sông Thanh Long, rồi Sông Lam. Sông bắt nguồn từ vùng Nậm Căn, Lào qua Nghệ An vào Hà Tĩnh. Thượng nguồn Sông Lam là hợp lưu của sông Ngàn Sâu (Hương Khê) và sông Ngàn Phố (Hương Sơn) đổ về xuôi gặp nhau ở Tam Soa (Tây Bắc Đức Thọ), từ đây chảy ra bể có hai đoạn. Đoạn chảy qua huyện Đức Thọ gọi là Sông La (La giang), đoạn qua huyện Nghi Xuân (cũ) (bao gồm một phần đất Đức Thọ và cả một phần đất Hưng Nguyên thuộc Nghệ An bây giờ) cũng gọi là Sông Lam.Tương truyền vào thế kỷ XV trong lần tiến quân ra Nghệ An để đánh đuổi quân Minh, Lê Lợi chiếm được Lam Thành (tên của cái thành ở ven con sông) vì thế nhân dân đã đặt tên cho con sông này là sông Lam.(!?)

    Tuy nhiên, có một khúc sông là đoạn qua Rú Thành xuống gần Hồng Lĩnh, dân gian ở đây thường gọi với cái tên nôm na là sông Rum. Có người giải thích: Sở dĩ có tên gọi như thế là vì người ta căn cứ vào những biến đổi thời tiết của vùng này, cứ vào khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm ở khu vực Bắc miền Trung thường có mưa lớn làm cho nước sông dâng lên và đổi sang màu đỏ tím mà dân gian ở đây gọi là màu “rum”. Hết mùa mưa lũ lại tới mùa nắng hanh, sông lại trở về với màu xanh trong nằm uốn khúc tựa con rồng xanh khổng lồ nên người ta gọi là Thanh Long giang.Theo lời cụ Võ Giáp, người Hội Thống (Nghi Xuân) hiện là chủ tịch Câu lạc bộ Thơ Đường Hà Tĩnh thì Sông Rum hiện nay so với ngày trước đã nắn dòng xê dịch về phía Nam một chặng, khúc sông này ngày trước nước chảy xiết lắm, hằng năm mùa lũ lụt hai bờ bồi lỡ thất thường. Nguyễn Du trong bài thơ về Sông Lam (Lam giang) đã từng miêu tả: “Mùa thu sông Lam nước lên to/... Bờ sông lở ầm ầm nghe như sấm dữ,/ Sóng dâng lên trông như những con quỉ kỳ dị” (Lam giang trướng thu thủy... Dĩ ngạn băng bạo lôi/Hồng đào kiến kì quỉ). Nơi sông Lam đổ ra gặp bể khi xưa gọi là Đan Nhai,nay là Cửa Hội. Ngọn núi qua Hà Tĩnh gọi là núi Hồng Lĩnh, có khi gọi núi Hồng (Núi Hồng Lĩnh còn mịt mù u uất, Sông Nhị Hà còn chưa chất hờn căm...

    - Thơ khuyết danh).Mạch núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, từ nam Bến Thủy vào đến bắc CửaSót. Phía Bắc, Hồng Lĩnh nằm dọc theo Sông Lam. Núi Hồng Lĩnh là một trong số ít các địa danh được khắc vào Cửu đỉnh (cố đô Huế - Năm Minh Mạng Thứ 7-1836). Đoạn núi qua Nghi Xuân gọi là Ngàn Hống (đối diện với Sông Rum). Ngàn Hống, Sông Rum là hai địa danh cũ thuộc địa phận Nghi Xuân. [caption id="attachment_7425" align="aligncenter" width="600"] Núi Hồng sông Lam, đoạn qua huyện Nghi Xuân[/caption] Một thông lệ ta thường gặp,vào văn chương, khi nhắc chung một vùng nào thì người ta thường gọi hai tên sông - núi tiêu biểu cho cả vùng đó, nhưng khi nói về các địa phương, như một huyện nào đó thì người ta chỉ lấy tên khúc sông và đoạn núi đi qua địa phương mà thôi. Thí dụ: Nói đến tỉnh Hà Tĩnh thì người ta thường gọi đất Hồng - Lam, là hoán dụ hai địa danh một sông, một núi tiêu biểu (Núi Hồng - Sông Lam) Nói đến thị xã Hà Tĩnh (cũ) thì Núi Nài - Sông Cụt Nói về Nghi Xuân(cũ) thì Ngàn Hống - Sông Rum Nếu cặp đôi so le một địa danh thuộc địa phương, một thuộc về tỉnh hay về quốc gia, chẳng hạn: Núi Hồng - Sông Rum hoặc Ngàn Hống - Sông Lam, Ngàn Hống - Nhị Hà thì xem như không chỉnh.

    Câu ca dao Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan, tồn tại còn vì một lẽ nữa , ngoài tính hiện thực về địa danh còn có yếu tố đạo lý và thẩm mỹ. Đó là cái nét riêng của vùng đất qua tên gọi nôm na mộc mạc giàu chất địa phương, đồng thời cũng thể hiện sự khiêm tốn về dòng họ. Ví von nói cây, nói nước ở vùng huyện quê là vưà với việc nhiều người làm quan của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, nói ra Sông Lam - Núi Hồng địa danh của tỉnh thì quá lớn ,quá rộng vì nhiều huyện khác cũng có những dòng họ khoa hoạn nối tiếp nhiều đời, nói quá lên Núi Hồng - Sông Nhị (phạm vi cả nước) thì có vẻ hơi lộng ngôn. Câu ca dao, bởi vậy xét về địa lý, về đạo lý ,và thẩm mỹ văn chương đều hay. Ở Nghệ An cũng có câu ca với kết cấu tương tự nói về họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương: Bao giờ Rú Cấm hết cây,/Sông Lường hết nước họ này hết quan cũng theo quy tắc đó. Rú Cấm, Sông Lường hai địa danh của huyện Đô Lương.

    Trở lại câu ca về dòng họ Nguyễn Tiên Điền, qua sưu tầm chúng tôi thấy các sách báo của các tác giả, các Hội Nghề nghiệp,ở vùng Nghệ Tĩnh viết về vùng này đều trích dẫn theo nguyên tác câu ca dao với hai địa danh: Ngàn Hống và Sông Rum.Đọc lên nghe rất gần gũi. Xin trích hai văn bản đáng tin cậy. - Trong tập sách “Kho tàng ca dao Xứ Nghệ” của Hội Văn Nghệ Dân Gian Nghệ An xuất bản 1996, do GS Nguyễn Đổng Chi chủ biên, câu 335 ghi: Bao giờ ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan - Trong bài báo viết về “Địa danh Hà Tĩnh qua ca dao” (báo Hà Tĩnh), tác giả Mai Khuyên cũng trích câu ca dao với hai địa danh trên lấy trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú khi ông nói đến quan lại hiển đạt vùng Nghi Xuân:

    “...khoa giáp nổi trội hơn hẳn, danh thần hiền phụ đứng hàng đầu trong phủ Đức Quang (Hà Tĩnh xưa): Bao giờ ngàn Hống hết cây,/Sông Rum hết nước họ này hết quan”./. CATP HÀ TĨNH

    Sông Lam hay sông Rum

    • 14:31 07/09/2016

    Bấy lâu kể cả trong lẫn ngoài nước nhiều bài viết khi nói về truyền thống khoa bảng Họ Nguyễn Tiên Điền( Nghi Xuân- Hà Tĩnh ) thường hay trích câu ca dao Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan, nhưng cũng không ít tác giả lại trích: Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Lam hết nước họ này hết quan! Phải chăng có sự nhầm lẫn chi đây về hai tên sông : Sông Rum hay Sông Lam?

    [caption id="attachment_7423" align="aligncenter" width="600"] Sông Lam[/caption]

    Xin nói một điều là nơi đây từng tồn tại hai câu ca na ná như nhau, câu này như là biến dị của câu kia, nhưng là câu nào có trước thì người viết bài này chưa dám khẳng định . Câu 1: Bao giờ ngàn Hống hết cây,/Sông Rum hết nước đó đây hết tình. Câu 2: Bao giờ Ngàn Hống hết cây / Sông Rum hết nước họ này hết quan Thôi, cứ cho là câu 1 có trước đi vì tính chất diễn tình của nó gần với ca dao cổ truyền hơn, khi biến dị thành câu 2 có thể do một nho sĩ nào đó trong dòng họ đổi thành để tự hào và khẳng định truyền thống cuả gia tộc, nhưng cũng có thể là lời truyền miệng vần vè của dân gian trong vùng khi nhận xét về dòng họ này.Cả hai trường hợp khi đã truyền được lâu dài từ đời này sang đời khác tất nó đã tuân thủ những quy tắc của thơ ca dân gian về tính hiện thực cũng như tính thẩm mỹ. Tuy nhiên đến câu: Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Lam hết nước họ này hết quan!

    ta thấy có một sự khập khiểng về chi tiết thông qua hai địa danh một tên núi, một tên sông !Trên cơ sở những tương quan về địa-tâm linh đem so sánh câu này với câu trước, chúng ta có thể phân tích tìm được một câu hợp lý hơn. Khi có hai câu ca dao cùng đề cập một nội dung và na ná nhau về hình thức thì sự lựa chọn tất phải chú ý các chỉ tiêu sau đây:

    về thời gian (câu nào có trước),

    về không gian (tính xác thực về địa lý),

    về đạo lý (phù hợp truỳền thống đạo đức,

    phong tuc tập quán nhân dân điạ phương),

    về thẩm mỹ (đẹp về ngôn ngữ, hình ảnh).

    Để hiểu rõ hai câu ca,trứơc hết xin nói đôi điều về địa lý Hà Tĩnh. Sông lớn nhất Hà Tĩnh xưa gọi là sông Cả (hay là Ngàn Cả, một trong 2 con sông lớn nhất ở Bắc Trung Bộ Việt Nam) sau đổi thành sông Thanh Long, rồi Sông Lam. Sông bắt nguồn từ vùng Nậm Căn, Lào qua Nghệ An vào Hà Tĩnh. Thượng nguồn Sông Lam là hợp lưu của sông Ngàn Sâu( Hương Khê) và sông Ngàn Phố (Hương Sơn) đổ về xuôi gặp nhau ở Tam Soa (Tây Bắc Đức Thọ), từ đây chảy ra bể có hai đoạn. Đoạn chảy qua huyện Đức Thọ gọi là Sông La( La giang), đoạn qua huyện Nghi Xuân (cũ) (bao gồm một phần đất Đức Thọ và cả một phần đất Hưng Nguyên thuộc Nghệ An bây giờ) cũng gọi là Sông Lam.Tương truyền vào thế kỷ XV trong lần tiến quân ra Nghệ An để đánh đuổi quân Minh, Lê Lợi chiếm được Lam Thành (tên của cái thành ở ven con sông) vì thế nhân dân đã đặt tên cho con sông này là sông Lam.(!?) Tuy nhiên, có một khúc sông là đoạn qua Rú Thành xuống gần Hồng Lĩnh, dân gian ở đây thường gọi với cái tên nôm na là sông Rum .Có người giải thích:

    Sở dĩ có tên gọi như thế là vì người ta căn cứ vào những biến đổi thời tiết của vùng này, cứ vào khoảng tháng 7, tháng 8 hàng năm ở khu vực Bắc miền Trung thường có mưa lớn làm cho nước sông dâng lên và đổi sang màu đỏ tím mà dân gian ở đây gọi là màu “rum”. Hết mùa mưa lũ lại tới mùa nắng hanh, sông lại trở về với màu xanh trong nằm uốn khúc tựa con rồng xanh khổng lồ nên người ta gọi là Thanh Long giang.Theo lời cụ Võ Giáp, người Hội Thống ( Nghi Xuân) hiện là chủ tịch Câu lạc bộ Thơ Đường Hà Tĩnh thì Sông Rum hiện nay so với ngày trước đã nắn dòng xê dịch về phía Nam một chặng, khúc sông này ngày trước nước chảy xiết lắm, hằng năm mùa lũ lụt hai bờ bồi lỡ thất thường. Nguyễn Du trong bài thơ về Sông Lam (Lam giang) đã từng miêu tả : “Mùa thu sông Lam nước lên to /...

    Bờ sông lở ầm ầm nghe như sấm dữ,/ Sóng dâng lên trông như những con quỉ kỳ dị” (Lam giang trướng thu thuỷ...Dĩ ngạn băng bạo lôi/Hồng đào kiến kì quỉ). Nơi sông Lam đổ ra gặp bể khi xưa gọi là Đan Nhai,nay là Cửa Hội. Ngọn núi qua Hà Tĩnh gọi là núi Hồng Lĩnh, có khi gọi núi Hồng ( Núi Hồng Lĩnh còn mịt mù u uất, Sông Nhị Hà còn chưa chất hờn căm...

    - Thơ khuyết danh).

    Mạch núi chạy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, từ nam Bến Thủy vào đến bắc CửaSót. Phía Bắc, Hồng Lĩnh nằm dọc theo Sông Lam. Núi Hồng Lĩnh là một trong số ít các địa danh được khắc vào Cửu đỉnh (cố đô Huế -Năm Minh Mạng Thứ 7-1836).Đoạn núi qua Nghi Xuân gọi là Ngàn Hống (đối diện với Sông Rum). Ngàn Hống, Sông Rum là hai địa danh cũ thuộc địa phận Nghi Xuân. [caption id="attachment_7425" align="aligncenter" width="600"] Núi Hồng sông Lam, đoạn qua huyện Nghi Xuân[/caption] Một thông lệ ta thường gặp,vào văn chương, khi nhắc chung một vùng nào thì người ta thường gọi hai tên sông - núi tiêu biểu cho cả vùng đó, nhưng khi nói về các địa phương, như một huyện nào đó thì người ta chỉ lấy tên khúc sông và đoạn núi đi qua địa phương mà thôi. Thí dụ: Nói đến tỉnh Hà Tĩnh thì người ta thường gọi đất Hồng - Lam ,là hoán dụ hai địa danh một sông, một núi tiêu biểu (Núi Hồng - Sông Lam) Nói đến thị xã Hà Tĩnh (cũ) thì Núi Nài - Sông Cụt Nói về Nghi Xuân(cũ) thì Ngàn Hống - Sông Rum Nếu cặp đôi so le một địa danh thuộc địa phương, một thuộc về tỉnh hay về quốc gia, chẳng hạn: Núi Hồng - Sông Rum hoặc Ngàn Hống - Sông Lam, Ngàn Hống - Nhị Hà thì xem như không chỉnh. Câu ca dao Bao giờ Ngàn Hống hết cây, Sông Rum hết nước họ này hết quan, tồn tại còn vì một lẽ nữa, ngoài tính hiện thực về địa danh còn có yếu tố đạo lý và thẩm mỹ. Đó là cái nét riêng của vùng đất qua tên gọi nôm na mộc mạc giàu chất địa phương, đồng thời cũng thể hiện sự khiêm tốn về dòng họ. Ví von nói cây, nói nước ở vùng huyện quê là vưà với việc nhiều người làm quan của dòng họ Nguyễn Tiên Điền, nói ra Sông Lam- Núi Hồng địa danh của tỉnh thì quá lớn ,quá rộng vì nhiều huyện khác cũng có những dòng họ khoa hoạn nối tiếp nhiều đời, nói quá lên Núi Hồng - Sông Nhị (phạm vi cả nước) thì có vẻ hơi lộng ngôn.

    Câu ca dao, bởi vậy xét về địa lý, về đạo lý,và thẩm mỹ văn chương đều hay. Ở Nghệ An cũng có câu ca với kết cấu tương tự nói về họ Nguyễn Cảnh ở Đô Lương: Bao giờ Rú Cấm hết cây, Sông Lường hết nước họ này hết quan cũng theo quy tắc đó. Rú Cấm, Sông Lường hai địa danh của huyện Đô Lương. Trở lại câu ca về dòng họ Nguyễn Tiên Điền, qua sưu tầm chúng tôi thấy các sách báo của các tác giả, các Hội Nghề nghiệp,ở vùng Nghệ Tĩnh viết về vùng này đều trích dẫn theo nguyên tác câu ca dao với hai địa danh: Ngàn Hống và Sông Rum. Đọc lên nghe rất gần gũi. Xin trích hai văn bản đáng tin cậy.

    - Trong tập sách “Kho tàng ca dao Xứ Nghệ” của Hội Văn Nghệ Dân Gian Nghệ An xuất bản 1996, do GS Nguyễn Đổng Chi chủ biên, câu 335 ghi:

    Bao giờ ngàn Hống hết cây,/
    Sông Rum hết nước họ này hết quan -

    Trong bài báo viết về “Địa danh Hà Tĩnh qua ca dao” (báo Hà Tĩnh), tác giả Mai Khuyên cũng trích câu ca dao với hai địa danh trên lấy trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú khi ông nói đến quan lại hiển đạt vùng Nghi Xuân:

    “... khoa giáp nổi trội hơn hẳn, danh thần hiền phụ đứng hàng đầu trong phủ Đức Quang (Hà Tĩnh xưa): Bao giờ ngàn Hống hết cây, / Sông Rum hết nước họ này hết quan”. /.

    CATP HÀ TĨNH

    Chiếc nôi của người Việt cổ

    Theo nghiên cứu của nhà văn Hà Văn Thùy thì khu vực núi Thái Sơn và Trong Nguồn xưa kia là chiếc nôi của người Việt Cổ sinh sống, nhưng trước việc xâm lấn của người Hoa Hạ, người Việt lúc đó đã phải lên thuyền xuôi theo sông Hoàng Hà ra biển về phương nam đến tận Rào Rum-Ngàn Hống (Nghệ An ngày nay), Ngàn Hống chính là tên gọi tiếng Việt xưa kia của núi Hồng Lĩnh. Đây là thời điểm vào năm 2698 trước công nguyên.

    Trong Ngọc phả Hùng Vương cũng có ghi chép rằng: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.”

    Người Việt vẫn nhớ đến cội nguội của mình từ núi Thái Sơn, Trong Nguồn, vì thế mà câu ca dao trên được lưu truyền lại nhằm nhắc nhở con cháu ngàn đời luôn nhớ về cội nguồn dân tộc

    Công cha như núi Thái Sơn,
    Nghĩa mẹ như nước Trong nguồn chảy ra

    Để đảm bảo ngàn đời sau này không quên ông cha đã khắc câu ca này thành bia miệng truyền lại đời đời về sau: Trăm năm bia đá cũng mòn
    Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

    Ánh Sáng

    https://www.tindachieu.org/wp-content/uploads/2017/05/song-lam-nui-hong-linh.jpg

    Thủy Tổ Người Việt Thực Sự Ở Đâu?

    Trong bài “Kính gửi ông Tạ Đức và ông Nguyễn Dư” đăng trên Văn hóa Nghệ An, tác giả Phan Lan Hoa có viết: “Thiết nghĩ, khi mà sử sách, địa danh và di chỉ chứng tích đã trùng khớp, cớ sao lại có người còn muốn đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa là vì cớ chi?

    (Đoạn này, xin được gửi cả đến ông Hà Văn Thùy, người khẳng định Kinh Dương Vương và nước Xích Quỷ ở bên Trung Hoa?).”*

    Từ lâu, tôi tâm niệm sẽ làm một khảo cứu nghiêm túc xác định nơi sinh thành của thủy tổ người Việt nhưng vì chưa đủ duyên nên chưa thành. Nay nhân có người “đòi”, xin được trả món nợ.

    Tìm ra chính xác tổ tiên người Việt là việc vô cùng khó vì thế mà suốt 2000 năm qua, dù bỏ bao công sức và tâm trí, chúng ta vẫn đi tìm trong vô vọng. Nhìn lại cuộc tìm kiếm trong quá khứ, ta thấy, cả người xưa, cả hôm nay chỉ có tư liệu từ thời điểm quá gần, khoảng 2000 năm trở lại. Với một ngưỡng thời gian như vậy, không cho phép có cái nhìn xa hơn!

    Tranh vẽ thúc xăm mình của người Việt Cổ

    Sự thực là, muốn biết tổ tiên 5000 năm trước là ai, chỉ có thể đi tới tận cùng lịch sử, để biết con người đầu tiên xuất hiện trên đất Việt là ai?

    I. Khởi đầu từ lịch sử

    Rất nhiều người tin rằng nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương ra đời năm Nhâm Tuất 2879 TCN. Nhưng nếu hỏi: từ đâu có con số đó thì không ai trả lời được! Con số ấy tồn tại như một niềm tin, như cái mốc “quy ước” mà người Việt bám vào để tạo dựng cội nguồn. Dẫu biết rằng niềm tin không đủ làm nên lịch sử thì cũng không ai nỡ cật vấn cái niềm tin ấy! Bởi lẽ, sau cật vấn là sự sụp đổ! Rồi cả Đế Minh cháu ba đời Thần Nông nữa, lấy gì làm chắc? Mà sao người Trung Hoa cũng tự nhận là con cháu Thần Nông? Những hoài nghi ấy, nếu không hóa giải được thì mọi chuyện bàn về tổ tiên chỉ là câu chuyện phiếm! Vì vậy, muốn tìm chính xác tổ tiên, cần phải đi xa hơn cái cột mốc 2879. May mắn là sang thế kỷ này, khoa học thực sự giúp soi sáng cội nguồn.

    Thưa rằng, không phải chỉ từ những mẩu xương và những hòn đá – hiện vật khảo cổ – mà chính từ vết tích được lưu giữ trong máu của toàn dân châu Á, một nhóm nhà khoa học gốc Hán của nhiều đại học nước Mỹ, vào năm 1998 phát hiện rằng: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ đặt chân tới nước ta. Sau khi chung sống 30.000 năm trên đất Việt Nam, người Việt đã đi lên khai phá Trung Hoa. Từ Hòa Bình, tổ tiên chúng ta mang chiếc rìu, chiếc việt đá mới lên nam Dương Tử và gọi mình bằng danh xưng đầy tự hào NGƯỜI VIỆT với tư cách chủ nhân chiếc việt đá mới, công cụ ưu việt của loài người thời đó(Việt bộ Qua –戈).20.000 năm trước, tại Động Người Tiên tỉnh Giang Tây, tổ tiên chúng ta làm ra đồ gốm sớm nhất thế giới và 12400 năm cách nay trồng ra hạt lúa đầu tiên của loài người. Lúc này tổ tiên ta tự gọi mình là NGƯỜI VIỆT, chủ nhân cây lúa (Việt bộ Mễ –粤)!

    Rồi từ đây, người Việt mang cây lúa, cây kê, con gà, con chó làm nên văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước, văn hóa Hà Mẫu Độ 7000 năm trước… Theo đà Bắc tiến, người Việt vượt Dương Tử lên lưu vực Hoàng Hà, xây dựng nền nông nghiệp trồng kê trên cao nguyên Hoàng Thổ. Tại đây, người Việt hòa huyết với người sống du mục trên đồng cỏ bờ Bắc, sinh ra chủng người Việt mới, sau này được khoa học gọi là chủng Mongoloid phương Nam, là chủ nhân văn hóa Ngưỡng Thiều suốt từ Thiểm Tây, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc. Một con sông dài 1500 km từ Thiểm Tây tới Hà Nam, đổ vào Dương Tử ở Vũ Hán, được đặt tên là sông Nguồn. Cùng với chi lưu của nó là Sông Đen, tạo nên đồng bằng Trong Nguồn, là trung tâm lớn của người Việt, nối với Thái Sơn. Đấy là nơi phát tích của người Việt hiện đại chủng Mongoloid phương Nam.

    Vào khoảng 4000 năm TCN, người Việt chiếm hơn 60% nhân số thế giới và xây dựng ở Đông Á nền văn minh nông nghiệp rực rỡ. Để có được thành quả như vậy, người Việt phải chung lưng đấu cật trị thủy hai dòng sông lớn là Hoàng Hà và Dương Tử. Từ những dấu vết mong manh trong truyền thuyết, ta nhận ra, thời gian này người Việt luôn phải đối mặt với những cuộc xâm lăng của người du mục phương Bắc. Trong điều kiện như vậy, những thị tộc phải liên minh với nhau, vừa để trị thủy vừa chống trả quân xâm lăng. Cuộc liên minh dưới sự lãnh đạo của những thị tộc lớn mạnh do những vị anh hùng bán thần dẫn dắt. Một cách tự nhiên nhà nước nguyên thủy ra đời. Đó là nhà nước phương Đông, khác với nhà nước theo định nghĩa kinh điển phương Tây, sản sinh từ chiếm hữu nô lệ và thặng dư lương thực. Điều kiện cho nhà nước nguyên thủy phương Đông ra đời càng thuận lợi hơn khi toàn bộ dân cư khu vực lúc đó cùng cội nguồn, văn hóa và tiếng nói. Kinh Dịch viết “Phục Hy thị một, Thần Nông thị xuất” chính là mô tả thời kỳ này.

    Truyền thuyết cho hay, vua thần Phục Hy xuất hiện khoảng 4000 năm TCN. Tiếp theo là Thần Nông khoảng 3080 năm TCN. Truyền thuyết nói Đế Minh, cháu đời thứ ba của Thần Nông, chia đất, phong vương cho con là Đế Nghi và Kinh Dương Vương, lập nước Xích Quỷ năm 2879 TCN… Trong bối cảnh như vậy, ta thấy, dù không biết xuất xứ từ đâu nhưng cái mốc thời gian ra đời nước Xích Quỷ là hợp lý. Một câu hỏi cần được nêu ra: phải chăng có điều gì đó sâu thẳm trong ký ức mà tổ tiên ta ghi nhớ được một cách tường minh? Từ nhiều tư liệu, có thể suy ra, thời kỳ này trên lục địa Đông Á có ba nhà nước: Thần Nông Bắc của Đế Lai thuộc lưu vực Hoàng Hà, Thần Nông Nam (Xích Quỷ) thuộc lưu vực Dương Tử tới Việt Nam và quốc gia Ba Thục ở phía Tây, gồm vùng Ba Thục qua Thái Lan và Miến Điện.

    Thời gian này, cuộc tranh chấp giữa hai bờ Hoàng Hà trở nên khốc liệt mà bằng chứng là trận Phản Tuyền. Truyền thuyết Trung Hoa nói Hoàng Đế và Viêm Đế là hai thị tộc anh em, lúc đầu Viêm Đế đứng chủ. Sau đó Hoàng Đế mạnh lên, đánh thắng Viêm Đế ở Phản Tuyền, chiếm ngôi thống soái. Viêm Đế chấp nhận vai trò phụ thuộc. Đây chỉ là uyển ngữ do người Hoa Hạ bày đặt để che lấp cuộc xâm lăng, với mục đích gắn Hoàng Đế với Viêm Đế vào cùng chủng tộc để rồi cho ra đời thuyết Hoa Hạ là Viêm Hoàng tử tôn, trong đó Hoàng Đế là chủ soái! Nhưng thực ra đó là cuộc xâm lăng của người bờ Bắc.

    Ta có thể hình dung, chỉ hình dung thôi vì không bao giờ tìm ra chứng cứ xác thực, rằng trước tình thế nguy cấp sau trận Phản Tuyền, Đế Lai liên minh với Lạc Long Quân cùng chống giặc. Nhưng tại trận Trác Lộc năm 2698 TCN, quân Việt thất bại. Đế Lai tử trận, (sau này vì căm hờn Đế Lai, người Hoa Hạ gọi ông là Si Vưu với nghĩa xấu), Lạc Long Quân dẫn đoàn quân dân vùng Núi Thái-Trong Nguồn dùng thuyền xuôi Hoàng Hà ra biển, đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống xứ Nghệ. Gợi cho chúng tôi ý tưởng này là đoạn chép trong Ngọc phả Hùng Vương: “Đoàn người từ biển vào. Họ rất hiền lành tốt bụng, đã giúp dân nhiều việc tốt. Dân bầu người giỏi nhất trong số họ làm vua, hiệu là Hùng Vương, lúc đầu đóng đô ở Rào Rum-Ngàn Hống, sau chuyển lên vùng Ao Việt.” (Chính cái niên đại xảy ra trận Trác Lộc 2698 TCN cũng giúp cho thời điểm năm 2879 lập nước Xích Quỷ trở nên khả tín. Nó cho thấy, một điều hợp lý là những quốc gia của người Việt được lập ra trước cuộc xâm lăng, vì chỉ như vậy mới phù hợp với lịch sử.)

    Về Việt Nam, người Núi Thái-Trong Nguồn hòa huyết với người Việt bản địa da đen Australoid, sinh ra người Mongoloid phương Nam Phùng Nguyên. Việc khảo cổ học phát hiện di cốt người Mongoloid phương Nam tại văn hóa Phùng Nguyên khoảng 4500 năm TCN là bằng chứng xác nhận cuộc di cư này.

    Nếu những điều trình bày trên chưa hài lòng quý vị thì xin dùng chứng lý theo lối quy nạp sau:

    Khoa học xác định mã di truyền của người Việt hôm nay thuộc chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, nếu là thủy tổ của dân tộc Việt, các ngài Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân… cũng phải là người Mongoloid phương Nam. Một câu hỏi được đặt ra: người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất Việt Nam vào thời gian nào? Khảo sát 70 sọ cổ phát hiện ở nước ta, cổ nhân chủng học cho biết: “Suốt Thời Đá Mới, chủng Australoid là dân cư duy nhất sống trên đất nước ta cũng như toàn Đông Nam Á. Sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể dân cư khu vực. Người Austrtaloid biến mất dần, không hiểu do di cư hay đồng hóa.” Khảo cổ học cũng cho thấy, người Mongoloid phương Nam có mặt trên đất nước ta vào thời Phùng Nguyên, khoảng 4500 năm trước.

    Một câu hỏi khác: họ từ đâu tới? Ta thấy, suốt Thời Đồ Đá, trên toàn bộ Đông Nam Á kể cả Việt Nam không có người Mongoloid. Trong khi đó, như phân tích ở trên, người Mongoloid phương Nam xuất hiện tại văn hóa Ngưỡng Thiều và Hà Mẫu Độ (cửa sông Chiết Giang) từ 7000 năm trước. Lẽ đương nhiên, họ chỉ có thể từ hai nơi này xuống Việt Nam. Nhưng do di ngôn của tổ tiên “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra,” ta hiểu, là từ Núi Thái-Trong Nguồn các vị di cư tới Việt Nam.

    Như vậy, có hai giai đoạn hình thành người Việt: giai đoạn đầu, người Australoid từ Việt Nam đi lên khai phá Trung Hoa. Tại Núi Thái-Trong Nguồn, khoảng 7000 năm trước, người Việt hỗn hòa với người Mông Cổ phương Bắc, sinh ra chủng người Việt mới mang mã di truyền Mongoloid phương Nam, đó là tổ tiên của các vị Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân. Khoảng năm 2698 TCN, do thua trận Trác Lộc, người Việt của Lạc Long Quân chạy xuống Việt Nam, lai giống với người Việt tại chỗ, sinh ra người văn hóa Phùng Nguyên, tổ tiên trực tiếp của chúng ta. Vào nam Hoàng Hà, người Mông Cổ chiếm đất và dân Việt, lập vương triều Hoàng Đế. Họ cũng hòa huyết với người Việt, sinh ra người Hoa Hạ, được coi là tổ tiên người Trung Hoa. Nhận được ưu thế từ hai nền văn minh, người Hoa Hạ trở nên lớp người ưu tú của các vương triều Hoàng Đế, góp phần quan trọng làm nên thời Hoàng Kim của văn hóa phương Đông. Nhưng sau thời Chiến quốc, với sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán người Việt thì người Hoa Hạ bị đồng hóa, tan biến trong cộng đồng Việt đông đảo. Hoa Hạ chỉ còn là một danh xưng, bị các vương triều Trung Hoa chiếm dụng làm phương tiện thống trị các tộc người khác. Người Hoa đổi đồng bằng Trong Nguồn thành Trung Nguyên. Sông nguồn thành sông Hòn, sông Hớn rồi thành Hán Thủy. Do mất đất mất tên nên hơn 2000 năm nay, người Việt ngơ ngác không biết Trong Nguồn là đâu?!

    Họa tiết trên trống đồng Đông Sơn

    II.Quá trình hình thành di tích, tài liệu về cội nguồn tổ tiên trên đất Việt.

    1.Quá trình hình thành

    Lớp di dân đầu tiên đổ bộ vào Rào Rum-Ngàn Hống. Theo đà xâm lăng của kẻ thù, nhiều thế hệ người Núi Thái-Trong Nguồn di cư tiếp, tiến vào những khoảng đất cao của đồng bằng sông Hồng vừa được tạo lập là Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh… Chạy giặc, bỏ quê hương tới nơi xa lạ là nỗi đau của người biệt xứ. Có thể, sau hàng vạn năm cách biệt, người Núi Thái-Trong Nguồn không thể ngờ rằng nơi dung dưỡng mình hôm nay lại là đất gốc của tổ tiên xưa. Vì vậy, mặc cảm mất nước luôn nặng nề, dai dẳng. Hướng về nguồn cội là nỗi khắc khoải khôn nguôi.

    Nỗi nhớ thương đã kết đọng thành câu ca Công cha như núi Thái Sơn / Nghĩa mẹ như nước Trong Nguồn chảy ra.

    Có lẽ câu ca lúc đầu chỉ là nỗi lòng của người dân mất nước vọng cố hương nhưng rồi nó thành tấm bia ghi nguồn cội để muôn đời con cháu tìm về. Không dừng lại đó, những người tâm huyết nhất, theo tục xưa, đắp những ngôi mộ gió để từ xa bái vọng tổ tiên Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông, Kinh Dương Vương… Đó là công việc mà ngày nay người dân đảo Lý Sơn vẫn làm để không quên người không trở về sau những chuyến đi! Khi khá giả hơn, những ngôi đền thờ được dựng lên. Khi có chữ, những vị lão thành lục trong trí nhớ những gì “được nghe ông bà kể” về tổ tiên xưa, ghi thành tộc phả, ngọc phả. Sự thật được “thêm mắm dặm muối” cùng những yếu tố huyền ảo để thêm phần linh thiêng, cao cả và đáng tin.

    Đọc một số thần phả, ngọc phả do Đại học sĩ Nguyễn Bính chép, tôi bất giác nghĩ tới chuyện “chạy di tích” thời nay. Lâu ngày mới về quê, gặp dịp làng xã đình đám rước “Bằng công nhận di tích”. Thấy trên giấy vinh danh một vị còn văn tế ở đình tế vị thần khác, tôi hỏi ông chú họ, đầu trò câu chuyện này. Gạn hỏi mãi, ông thú thực: “Lúc đầu viết theo thần tích ông thánh trong đình. Nhưng mấy ông văn hóa tỉnh nói:

    “Tra mãi không thấy ông nào tên như vậy để làm giúp các bác. Chỉ có ông trạng X hơi gần với hồ sơ của các vị. Nếu đồng ý thì chúng tôi giúp.”

    Anh tính, mất bao nhiêu tiền rồi chả nhẽ xôi hỏng bỏng không, đành gật đầu chấp nhận cho họ làm!” Phải chăng, ngày trước, cũng nghe ông bà kể lại, rồi với thứ chữ Nho của thày đồ quê, các vị tiên chỉ trong làng mang đơn lên phủ cậy quan. Sau khi nhận đồng lớn đồng nhỏ vi thiềng, quan phủ đưa hồ sơ lên triều đình. Rồi dựa vào văn bản của địa phương, Đại học sĩ Nguyễn Bính sáng tác hàng loạt ngọc phả, như người vẽ truyền thần. Đó là cái chắc, chỉ có điều ngờ là không biết đại học sĩ có nhận tiền thù lao như hôm nay không?

    Hàng trăm năm qua đi, đám hậu sinh chúng ta có tất cả: những ngôi mộ cổ, những ngôi đền với những pho tượng sơn son thiếp vàng linh thiêng mà cha ông từng đời đời tế tự. Những thần phả, ngọc phả chữ Nho với giấy bản xỉn màu thời gian, gáy mòn, góc vẹt, loáng thoáng lỗ mọt… Và hơn cả là tấm lòng chúng ta hướng về tổ tiên cộng với sự ganh đua của những họ tộc tranh nhau xem họ nào xuất hiện sớm nhất? Thế rồi, với tiền của bá tánh, tiền thuế dân nhận từ dự án, những nấm mộ, những ngôi đền được phục dựng khang trang hoành tráng, cùng với những hội thảo trưng ra vô vàn “bằng chứng lịch sử”…

    2. Đôi lời nhận định

    Người viết bài này có lúc hăm hở theo dõi những “phát hiện mới” với hy vọng tìm được dấu vết khả tín của tổ tiên. Nhưng rồi sớm thất vọng! Cổ Lôi Ngọc Phả chỉ mới ra đời vài trăm năm ghi Phục Hy, Thần Nông vùng Phong Châu làm sao có thể phản bác Kinh Dịch 2500 năm trước viết “Phục Hy thị một, thần Nông thị xuất”? Mấy ngôi đền Phục Hy, Thần Nông… trên đất Phong Châu làm sao phủ định bài vị các ngài được thờ trên lăng mộ ở Thái Sơn? Làm sao có thể tin Phục Hy họ Nguyễn, trong khi cả truyền thuyết lẫn cổ thư đều ghi rõ: Phục Hy thị, Thần Nông thị, Hồng Bàng thị… “Thị” cũng là họ, nhưng đấy là họ theo mẹ của thời mẫu hệ. Qua mẫu hệ hàng nghìn năm mới sang phụ hệ, để “tính” – cách gọi họ theo dòng cha ra đời! Thời đó, con người chỉ được đánh dấu bằng một từ duy nhất chỉ tên hoặc thêm tước “đế” phía trước như Đế Minh, Đế Nghi… Vậy thì làm sao có ông Phục Hy tên là Nguyễn Thận? Làm sao tin những bức tượng sơn son thiếp vàng lòe loẹt trong đền là Phục Hy, Kinh Dương Vương khi trang phục trên người các ngài là của quan lại triều Minh, triều Thanh?! Vì sao sống cách nhau nhiều nghìn năm mà các vị tổ lại tụ họp trong khoảnh đất hẹp vậy? Vì sao, chỉ là tổ người Việt mà truyền thuyết về các vị lan ra rộng khắp từ Quảng Đông tới Ba Thục? Chỉ là tổ của người Việt với lãnh thổ từ Bắc Bộ tới miền Trung mà sao lại có đền thờ Kinh Dương Vương trên Ngũ Lĩnh? Nhiều, nhiều lắm những câu hỏi không thể trả lời!

    Khi không trả lời được những thắc mắc trên, trong trí tôi nảy sinh câu hỏi: Vì sao lại có sự tình như vậy? Phải rất lâu sau, cùng với sự trưởng thành của nhận thức, tôi nhận ra, những ngôi mộ được đắp, những ngôi đền được xây chỉ là việc thu nhỏ một lịch sử từng diễn ra trên địa bàn rộng lớn. Đó chỉ là sự sa bàn hóa một thực tế lịch sử vĩ đại! Tôi bỗng hiểu và thông cảm với tiền nhân. Từ ký ức và tâm nguyện của mình, các vị đã tạo những mộ gió, những ngôi đền bái vọng. Tấm lòng thành của bao kiếp người đã tạo nên một tín ngưỡng dân gian vô cùng nhân văn nhớ về nguồn cội, thờ kính tổ tiên… Nhưng rồi đám cháu con không hiểu cha ông, u mê biến tín ngưỡng dân gian trở thành chính sử, để tự sướng và lừa thiên hạ thì đã là tai họa!

    Những người chủ trương việc này nghĩ rằng mình đã sáng suốt, khám phá lại lịch sử là vì dân tộc, vì kính ngưỡng tổ tiên. Không ai phủ nhận nhiệt huyết, tấm lòng của họ. Nhưng thực tế cuộc sống đã bày ra trước mắt: yêu nhau như thế bằng mười phụ nhau! Trước hết, là xuyên tạc lịch sử:

    Do chủ quan, do ít hiểu biết, họ không hiểu rằng, giang sơn xưa của tổ tiên Việt là khoảng trời, khoảng đất mênh mông toàn cõi Đông Á. Từng hàng chục nghìn năm thống lĩnh hai con sông Đông Á (Hoàng Hà, Dương Tử) và xây dựng trên đó nền văn hóa kỳ vĩ. Việc “quy tập,” co cụm tổ tiên về dải đất hẹp Phong Châu chính là phủ định cả cội nguồn lẫn giang sơn vĩ đại của giống nòi! Đó chính là cái tội chối bỏ lịch sử, cũng đồng thời chối bỏ nguồn cội!

    Không chỉ vậy, khi làm việc này, họ tự tước đi của mình vũ khí mạnh mẽ chống lại những mưu toan xuyên tạc sử Việt. Họ từng biết, người Trung Hoa có cuốn sách “Thông sử thế giới vạn năm” hơn 5000 trang, phủ định toàn bộ lịch sử Việt Nam với những dòng ngạo mạn: “Khoảng 2000 năm TCN, bán đảo Đông Dương bước vào thời kỳ đồ Đá Mới… 1000 năm TCN, những bộ lạc cư trú quanh vùng sông Hồng Hà bắt đầu định cư..” Họ cũng biết, ông giáo sư người Mỹ Liam Kelley chống báng tới cùng sự hiện hữu của Kinh Dương Vương. Ông ta chỉ coi thủy tổ tộc Việt là do đám trí thức Hán hóa thời Trung đại dựa vào cổ thư Trung Hoa bịa tạc ra. Một trong những lý cứ khiến ông ta nghĩ vậy, chính là ở chỗ, truyền thuyết về Kinh Dương Vương phổ biến khắp Trung Hoa. Nếu cứ theo “sa bàn” như quý vị hoạch định hôm nay thì làm sao phản bác được vị giáo sư thông thái nọ? Nhưng nếu nắm được lịch sử trọn vẹn của tổ tiên thì ta có thể nói, chính chứng cứ ông học giả người Mỹ đưa ra đã chống lại ông ta! Đó là do, cộng đồng Việt vốn là khối thống nhất trên toàn đông Á, cùng chung máu mủ, ngôn ngữ và văn hóa. Từ thời Chiến quốc, bị tan đàn xẻ nghé, người Việt mang theo truyền thuyết nguồn đi khắp nơi…

    III. Kết luận

    Có một thời tăm tối, chúng ta được cổ thư Trung Hoa và những vị thầy Tây dạy rằng, người từ Trung Hoa xuống đồng hóa dân Annam mông muội. Dân Việt là lũ Tàu lai. Tất cả văn hóa Việt là sự bắt chước Trung Hoa chưa trọn vẹn. Người Việt không có chữ, phải mượn chữ Trung Hoa, tiếng Việt mượn 70% từ tiếng Hán… Hàng nghìn năm ta tin như thế! Trong cái thời tăm tối ấy, chúng ta tìm mọi cách “thoát Trung” bằng việc viết ra lịch sử riêng của mình. Trong đó có những ý tưởng “quy tụ” tổ tiên về đất Phong Châu để tạo ra một cội nguồn, một lịch sử hoàn toàn độc lập với phương Bắc. Ý tưởng như vậy được nuôi bởi bằng chứng là những ngôi mộ, ngôi đền, những cuốn ngọc phả… khiến không ít người tin vì có nguồn cội “thoát Trung”!

    Nhưng sang thế kỷ này, nhờ khám phá khoa học, ta biết rằng, lịch sử đã diễn ra theo con đường ngược lại: tổ tiên ta từ xa xưa đi lên khai phá Trung Hoa và xây dựng trên toàn bộ Đông Á một nền văn hóa vĩ đại! Không những tiếng Việt, chữ Việt là chủ thể tạo nên tiếng nói và chữ viết Trung Hoa mà nền văn hóa Trung Hoa cũng được xây dựng trên nền tảng văn hóa Việt! Chính đó là cơ sở của ý tưởng từ lâu in sâu trong tâm cảm dân Việt: Trong khi các nhánh khác bị Hán hóa thì người Lạc Việt ở Việt Nam vẫn giữ được giang sơn, đất hương hỏa cuối cùng của tổ tiên.

    Vì vậy, trong những “đồ án phục dựng lịch sử Việt” ra đời lâu nay thì việc sa bàn hóa, quy tập tổ tiên về đất hẹp Phong Châu là sai lầm tai hại nhất. Trong khi những phương án khác chỉ là những ý tưởng trên giấy thì “đồ án” này tác động sâu rộng không chỉ tới lịch sử, tâm linh mà tới cả cuộc sống dân tộc.

    Thưa ông Phan Lan Hoa, thời trẻ làm báo, tôi chỉ viết sự thực cho dù có rước lấy tai họa. Nay vào tuổi cổ lai hy, tôi chỉ viết sử theo sự thật vì biết rằng, chỉ sự thật là còn lại. Vì vậy, tôi không hề dám làm cái việc bạo thiên nghịch địa là “đẩy đưa thủy tổ người Việt sang bên Trung Hoa” như ông ghép tội. Phải đâu là chuyện cá ao ai nấy được? Tôi chỉ làm cái việc trung thực là phát hiện sự việc của quá khứ rồi đặt nó vào đúng chỗ, thưa ông! Theo thiển ý, nếu như có ngôi mộ nào sớm nhất của tổ tiên trên đất Việt thì chỉ có thể là mộ Lạc Long Quân ở Rào Rum-Ngàn Hống hay tại kinh đô Ao Việt!

    Đáng buồn và đáng sợ là, những người “quy tập” tổ tiên về đất hẹp Phong Châu không ngờ rằng mình đang làm cái việc nguy hại tham bát bỏ mâm. Trong khi hất đi cái mâm thật, không chỉ đầy của cải quý giá mà còn có cả văn tự ghi quyền sở hữu giang sơn vĩ đại của tổ tiên xưa thì quý vị ôm lấy cái bát ảo! Cái mâm quẳng đi rồi, một khi cái bát được chứng minh là giả, không hiểu quý vị tính sao?!

    Sài Gòn, Vu Lan năm Giáp Ngọ

    Hà Văn Thùy tác giả của bài viết rất nổi tiếng về việc luận bàn Triệu Đà là người Việt?

    =============================

    Không Thể Chối Bỏ Triệu Đà Và Nước Nam Việt?

    Tuy là chuyện của quá khứ nhưng lịch sử luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống hiện tại. Những nhận thức và quyết định không thỏa đáng về lịch sử đưa tới những di họa khó lường.


    https://hinhanhvietnam.com/wp-content/uploads/2014/07/ban-do-Nam-Viet.jpg
    Những ai quan tâm tới lịch sử dân tộc Việt đều biết rằng, khi nhà Tần diệt nước Thục, giết vua và thái tử Thục ở núi Bách Lộc năm 316 TCN, Thục Chế cùng di duệ nhà Thục chạy xuống tá túc trên đất của vua Hùng. Nhiều lần Chế tấn công Hùng Duệ Vương nhưng không thành, tới đời con ông là Thục Phán đã diệt vua Hùng, lập nước Âu Lạc.

    Năm 257 TCN, Triệu Đà vua nước Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt. Quốc sử của ta, từ đời Nguyễn về trước, đều ghi nhận Âu Lạc và Nam Việt là nhà nước chính thống của người Việt. An Dương Vương và Triệu Vũ Đế đều được ghi công lớn. Không những thế, Triệu Đà còn được suy tôn là vị vua mở đầu của lịch sử đất nước. Tuy nhiên, giới sử gia miền Bắc vào thập niên 1960 phán quyết rằng Triệu Đà là ngoại xâm nên bỏ Kỷ nhà Triệu khỏi chính sử.

    Từ đó tới nay, trong dư luận xã hội cũng như học giới có nhiều ý kiến không đồng tình với việc làm trên, đưa ra nhiều bằng chứng cùng luận cứ cho thấy nhà Triệu là nhà nước của người Việt. Bản thân người viết cũng hơn một lần lên tiếng về việc này. Nay xin trình bày những di hại của việc trục xuất nhà Triệu khỏi chính sử.

    Truyền thuyết cũng như chính sử Việt Nam ghi rằng, Xích Quỷ là nhà nước đầu tiên tiên của người Việt được thành lập năm 2879 TCN. Sau này, nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng hình thành trên cương vực của nước Xích Quỷ. Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở… Tần Thủy Hoàng diệt nước Sở, sáp nhập đất đai cùng dân cư nước Văn Lang cũ vào đế chế Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu Đà, một viên huyện lệnh người Việt đã lãnh đạo dân Việt phía nam Dương Tử lập nước Nam Việt. Việc Nam Việt diệt An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào mình, về bản chất lịch sử không khác gì việc Quang Trung diệt nhà Lê Trịnh để lập Đại Việt thống nhất bao gồm cả vùng đất phía Nam. Dù gì đi nữa, cũng không thể bác bỏ sự thật là, trong một thế kỷ tồn tại, Nam Việt là cái cầu, là sợi dây nhau cuối cùng kết nối Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt.

    Vì vậy, việc trục xuất nhà Triệu khỏi sử Việt đưa tới những hệ lụy nghiêm trọng sau:

    Tước bỏ tư cách thừa kế của người Việt Nam với quá khứ của đại tộc Việt. Từ những phát hiện của di truyền học đầu thế kỷ XXI cho thấy, người Việt không chỉ sinh sống lâu đời ở Nam Dương Tử mà hàng vạn năm trước là chủ nhân của đất Trung Hoa. Trên đất này, đại tộc Việt đã làm nên những nền văn hóa rực rỡ.

    Tước bỏ vai trò chủ nhân Việt đối với ngôn ngữ gốc mà người Trung Hoa đang sử dụng hiện nay. Trong tám phương ngữ được xác định trên đất Trung Hoa thì tiếng Việt Quảng Đông được coi là ngôn ngữ gốc. Trong khi đó, nguồn cội của ngôn ngữ Quảng Đông chính là ngôn ngữ vùng Nghệ An, Hà Tĩnh, trung tâm của người Việt khoảng 15.000 năm trước. Tước bỏ vai trò sáng tạo chữ Giáp cốt của người Việt. Chữ Giáp cốt được phát hiện đầu tiên vào thời nhà Ân ở Hà Nam. Nhưng khảo cổ học xác định rằng tại văn hóa Giả Hồ 9000 năm trước đã có ký tự hình vẽ trên yếm rùa. Cuối năm 2011, tại di chỉ Cảm Tang tỉnh Quảng Tây phát hiện ký tự tượng hình khắc trên xẻng đá có tuổi 4000 tới 6000 năm trước. Những ký tự kiểu Giáp cốt này xuất hiện trước khi người Hoa Hạ ra đời. Do vậy nó hoàn toàn là sản phẩm sáng tạo của người Vịệt.

    Tước bỏ mối liên hệ huyết thống và văn hóa với những bộ tộc người Việt đang sống trên đất Trung Hoa.

    Những khám phá lịch sử cho thấy, trước cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng thì phần lớn đất Trung Hoa do người Việt làm chủ:

    Thục và Ba phía tây nam;

    Ngô, Sở, Việt ở trung tâm và phía đông;

    Văn Lang phía nam.

    Do cuộc xâm lăng của Tần Thủy Hoàng, phần lớn đất đai và dân cư Việt bị sáp nhập vào đế chế Tần. Trong phần đất bị chiếm, đại bộ phận người Việt bị Hán hóa. Tuy nhiên, có không ít nhóm Việt không chịu đồng hóa, đã lui sâu vào cư trú trong vùng rừng núi.

    Lâu dần, từ người Lạc Việt – tộc đa số trong dân cư - họ bị thiểu số hóa. Những nhóm người như tộc Thủy, Bố Y ở Quý Châu vẫn giữ nhiều nét văn hóa Việt cổ, có thể nói đó là nền văn hóa Việt hóa thạch. Nếu nghiên cứu văn hóa của những tộc người bà con này, chắc chắn sẽ khám phá lại nhiều điều quý giá của văn hóa Việt cổ, đặc biệt tộc Thủy với 340.000 người vẫn giữ được sách Thủy (Thủy thư - 水书) viết bằng chữ Thủy (Thủy tự), loại chữ tượng hình gần gũi Giáp cốt văn nhưng hành văn theo cách nói xuôi của người Việt, một loại văn tự hóa thạch sống, được Trung Quốc coi là bảo vật.

    Mất quyền thừa kế với truyền thống và văn hóa Nam Việt.

    Sáp nhập đất đai và dân cư Âu Lạc, Nam Việt thành quốc gia lớn trong khu vực.

    Trái với quan niệm phổ biến cho đến nay là Triệu Đà dùng kế sách “nội đế ngoại vương” (bên trong xưng đế nhưng đối với nhà Hán thì xưng vương), suốt đời mình, Triệu Đà xưng danh hiệu Triệu Vũ Đế và cháu ông cũng xưng đế mà bằng chứng là chiếc ấn bằng vàng, kich thước 310 x 310 mm (lớn hơn mọi con ấn của vua Hán) khắc bốn chữ Văn Đế hành tỷ (文帝行璽) tìm thấy trong lăng mộ.

    Sau khi phát hiện lăng mộ Triệu Văn Đế, người Trung Hoa đã lập khu trưng bày di tích này với khoảng 2500 hiện vật đặc sắc, trong đó đại đa số là thuộc văn hóa Việt. Do coi đây là của người Trung Hoa nên giới sử học Việt chưa hề có nghiên cứu nào về di chỉ quan trọng này.

    Để mất những mối liên hệ trên, không chỉ là nỗi đau của người Việt Nam, dòng cuối cùng của Bách Việt còn độc lập và giữ được cương thổ. Nguy hại hơn, nó cắt đứt mối liên hệ với quá khứ, khiến cội nguồn, lịch sử và văn hóa Việt trở nên chông chênh trên không chằng, dưới không rễ!

    Từng có cuộc tranh biện giữa học giả hai nước Trung Việt về trống đồng Vạn Gia Bá và Đông Sơn, cái nào có trước? Do từ chối Nam Việt nên học giả Việt Nam bỏ mặt trận, thúc thủ lui về biên giới Việt Nam hiện tại, để rồi cố sức một cách vô vọng cho rằng trống Đông Sơn có trước! Nếu không tự từ bỏ Nam Việt, học giả Việt Nam có thể dõng dạc tuyên bố:

    “Với công nghệ định tuổi đồ đồng hiện nay cùng tình trạng cổ vật khi thu hồi, không thể định tuổi chính xác hai loại trống đồng trên. điều này không thật có ý nghĩa vì trống Đông Sơn cũng như Vạn Gia Bá đều là sản phẩm sáng tạo của người Lạc Việt, tổ tiên chúng tôi trên đất đai mênh mông của người Lạc Việt từ nam Dương Tử tới miền Trung Việt Nam, ở thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên!”

    Tuy là chuyện của quá khứ nhưng lịch sử luôn gắn bó mật thiết với cuộc sống hiện tại. Những nhận thức và quyết định không thỏa đáng về lịch sử đưa tới những di họa khó lường. Bởi vậy, thiết nghĩ, chúng ta cần có những nghiên cứu nghiêm túc và kĩ càng về vấn đề này và các vấn đề khác của lịch sử dân tộc.

    HÀ VĂN THÙY (TẠP CHÍ VĂN HÓA NGHỆ AN)





    Question: During the 1000 years of Chinese occupation in Vietnam, did the Vietnamese consider themselves a separate people from the Chinese, or did they think of themselves as similar in heritage?

    Answer: Surely, No-one could answer your question which could persuade all of us much due to lack of evidence or historical documents. In each period of Vietnamese history, especially 1000 years of being occupied and colonized by China, China, and the Chinese Empires have tried to erase all the Vietnamese identity and assimilate the Vietnamese into the Chinese Han but failed miserably. However, through the indirect evidence and also indirectly historical documents, We see that the concept of the Vietnamese identity has always attached tightly with the concept of the Southern nation - Vietnam in contrary to the Northern Nation - China which led to countless rebellions of the Vietnamese against the Chinese colonization within around 1000 years. There are some points to confirm that the Vietnamese (Southern people) consider themselves a separate people from the Chinese (Northern people)

    ❖ Firstly, the Vietnamese have always seen their first state - Van Lang led by the Hung Kings Hong Bang Dynasty 2879–258 BC not the Chinese Xia Dynasty 2070–1600 BC. From generation to generation of the Vietnamese have always been taught that they are descendants of the Lac Hong, of the Hung Kings instead of the Chinese Huaxia.

    After 1000 years of being occupied by China, the exchange of culture between the two nations is unavoidable which led to the similarities. But the Vietnamese have never identified themselves as having the same heritage as the Chinese even though they have learned much from the Chinese civilization. Just as now, Vietnam also has learned much from the western civilization but they have never seen themselves as the westerners.

    ❖ Secondly, The Vietnamese language and the Chinese language are different and even have not the same root. The Vietnamese people at that time speak their own language - the Vietic language instead of the Chinese language. So, about language, the Vietnamese often see themselves as different from the Chinese.

    According to Google, the Vietnamese language is classified as the Austro-Asiatic language family and the Chinese belong to the Sino-Tibetan language family.

    ❖ Thirdly, There are countless rebellions and uprisings of the Vietnamese against the Chinese colonial rules during the Chinese occupation era such as:

    ᐅ Trung Sister's revolt against the Chinese Han occupation and restored the independence of Vietnam and ruled Vietnam briefly until 43 AD. The Trung Sisters Kings only retook the short independent period for Vietnam with Linh Nam Kingdom but it has inspired the next and next rebels of the Vietnamese against the Chinese rules until completely restoring full independence in 938AD.

    “…with a single cry [the Trưng sisters] led the prefectures of Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố, and 65 strongholds heed their call. They… proclaimed their rule as easily as their turning over their hands. It awakened all of us that we can be independent… in the span of more than one thousand years, men of this land only bowed their heads and accepted the fate of servitude to the people from the North”.

    (Vietnam was under the Chinese Han colonial rule

    After defeating the rebellion, the Han forces also appear to have massacred most of the Lạc Việt aristocracy, beheading five to ten thousand people and deporting several hundred families to China. After the Trưng sisters were dead, Ma Yuan spent most of the year 43 building up the Han administration in the Red River Delta and preparing the local society for direct Han rule.[20]

    General Ma Yuan aggressively sinicized the culture and customs of the local people, removing their tribal ways, so they could be more easily governed by Han China. He melted down the Lac bronze drums, their chieftains' symbol of authority, to cast a statue of a horse, which he presented to Emperor Guangwu when he returned to Luoyang in the autumn of 44 AD. In Ma Yuan’s letter to his nephews, while campaigning in Jiaozhi, he quoted a Chinese saying: “If you do not succeed in sculpting a swan, the result will still look like a duck”.

    ᐅ Lady Trieu's revolt 248 AD

    She is quoted as saying: "I'd like to ride storms, kill orcas in the open sea, drive out the aggressors, reconquer the country, undo the ties of serfdom, and never bend my back to be the concubine of whatever man.

    ᐅ Ly Bi revolt in 542 – 545 AD and restored another short period of independence of Vietnam from 545 – 602AD with his early Ly Dynasty.

    ᐅ Mai Hac De revolt 713 – 722AD

    ᐅ Phung Hung revolt 776 – 794 AD

    ᐅ Khuc Thua Dua revolt 905 – 906 AD and retook the autonomous right for Vietnam.

    ᐅ Duong Dinh Nghe revolt against the first Chinese Southern Han invasion and retook the autonomous right for Vietnam 930–931 AD.

    ᐅ Ngo Quyen revolt against the second Chinese Southern Han invasion and officially restored the full independence for Vietnam in 938, established the fourth Dynasty of the Vietnamese - Ngo Dynasty 939 – 965AD after the Hong Bang Dynasty 2879–258BC

    Thuc Dynasty 258 – 180BC, the Early Ly Dynasty 545 – 602AD, and ended about 1000 years of the Chinese domination from 180BC-938AD.

    The question is that if at that time, the Vietnamese considered themselves as the Chinese Han, Why the Chinese states and rulers must try to erase the Vietnamese culture and customs, assimilate the Vietnamese people?

    In conclusion: From What I have said above, the Vietnamese identity has been attached to the establishment and development of the Vietnamese states and the Vietnamese nation which is always perceived as different from the Chinese states and the Chinese nation even during the period of being Chinese domination about 1000 years. So, we could conclude that during the 1000 years of Chinese occupation in Vietnam, the Vietnamese or the people in Vietnam consider themselves separate people from the Chinese.

    Another attempt of the Chinese state trying to erase the Vietnamese identity happened around 1407–1428, the fourth and also last period of the Chinese domination of Vietnam.

    An entry in the Ming Shilu (traditional Chinese: 明實錄; simplified Chinese: 明实录) dated 15 August 1406 recorded an imperial order from Emperor Yongle that instructed for Vietnamese records such as maps and registers to be saved and preserved by the Chinese army:

    己未敕征討安南總兵官成國公朱能等曰師入安南下郡邑凡得文籍圖志皆勿毀。[24]

    In addition, according to Yueqiaoshu (Chinese: 越嶠書, Vietnamese: Việt kiệu thư), on August 21, 1406, the Yongle Emperor issued an order to Ming soldiers in Annam:

    兵入。除釋道經板經文不燬。外一切書板文字以至俚俗童蒙所習。如上大人丘乙已之類。片紙隻字悉皆燬之。其境內中國 所立碑刻則存之。但是安南所立者悉壞之。一字不存。 [25] "Once our army enters Annam, except Buddhist and Taoist text; all books and notes, including folklore and children book, should be burnt. The stelae erected by China should be protected carefully, while those erected by Annam, should be completely annihilated. Do not spare even one character."

    On the 21st day of the 5th lunar month of the following year, Emperor Yongle issued another order to Ming soldiers in Annam:

    屢嘗諭爾凡安南所有一切書板文字。以至俚俗童蒙所習。如上大人丘乙已之類。片紙隻字及彼處自立碑刻。見者即便毀壞勿存 。今聞軍中所得文字不即令軍人焚毀。必檢視然後焚之。且軍人多不識字。若一一令其如此。必致傳遞遺失者多。爾今宜一如前敕。號令軍中但遇彼處所有一應文字即便焚毀。毋得存留。[25] "I have repeatedly told you all to burnt all Annamese books, including folklore and children books and the local stelae should be destroyed immediately upon sight. Recently I heard our soldiers hesitated and read those books before burning them. Most soldiers do not know how to read, so it will be a waste of our time. Now you have to strictly obey my previous command, and burn all local books upon sight without hesitation.

    The Chinese colonists encouraging the Ming Confucian ideology, bureaucratic and Classical Chinese study to the local Vietnamese people, forced the Vietnamese to wear Chinese-style clothes.[26][8] The Ming forbid the local customs such as tattooing, unmarried boys and girls to cut short hair, and banned women to wear short skirts, in "order to change customs in conformity with the north."[27][28] Cultural incorporation was pursued with the new Jiaozhi administration advising to the Ming court:

    The yi people of Annam venerate the law of the Buddha, but do not know to worship or sacrifice the spirits. We should establish altars for sacrifice to the spirits of the wind, clouds, thunder and rain... so that the people become familiar with the way to express gratitude to the spirits through sacrifice.[29]

    In 1416, a large number of Confucian school, Yin-yang schools and medical schools were established within the province. Examinations for local bureaucracy were formalised in 1411. Chinese mourning rites and mourning leave were instituted among the official of Jiaozhi in 1419.[29] For the first time, Đại Việt experienced the sustained influence of Neo-Confucian ideology, which not only included the traditional doctrines of filial piety but also demanded an “activist, state-oriented service” based on officials’ absolute loyalty to the dynasty and on the moral superiority of the “civilized” over the “barbarian” as the Ming viewed the Vietnamese as barbarians.[26] Yongle brought Vietnamese students to the National Institution at the Ming capital and appointed more natives to the minor local offices in Jiaozhi.[8] The Ming also destroyed or brought to the north many Vietnamese vernacular writing, historical and classic texts.[30]

    After regained independence, Vietnamese monarch Lê Thánh Tông issued royal edict in 1474 to forbid Vietnamese from adopting foreign languages, hairstyles and clothes like the Laotians, Chams and the Ming Chinese, abolished the Ming forced customs.

    The Mongol, Cham, and Ming invasions of 13th - 15th centuries destroyed many Vietnamese important sites, buildings, artifacts, and archives of the Postclassical period.

    Đại Nội Huế

    Đại Nội (大内) or Hoàng Thành (皇城)

    Hoàng Thành Nhà Thanh

    Dànèi (大内) or Huángchéng (皇城)

    Both have the Meridian Gate (午門) as the main gate.

    Ngọ Môn (午門)

    Wǔmén (午門) One major difference between them is Vietnam’s is much smaller than China’s.

    The China Forbidden City was built by a Vietnamese architect

    Nguyen An is a native of Jiaozhi, born in 1381 in Ha Dong (now Hanoi City) in the Tran Dynasty of Vietnam. In 1400, Hu Jiyak usurped the throne of the Chen/Trần Dynasty and established the Hu Dynasty.

    In 1407, the Ming Dynasty dispatched Zhang Fu to invade and annex Vietnam on the grounds that the Hu clan usurped the throne. Zhang Fu castrated some beautiful Vietnamese teenagers and sent them to Yanjing, the capital of the Ming Dynasty, including Ruan An. Ming Chengzu liked these Annan people very much, and ordered someone to teach them to read.

    Năm 1407, nhà Minh phái Trương Phụ xâm lược và sáp nhập Việt Nam với lý do gia tộc họ Hồ chiếm đoạt ngai vàng. Zhang Fu đã thiến một số thanh thiếu niên Việt Nam xinh đẹp và gửi họ đến Diêm Kinh, thủ đô của triều đại nhà Minh, bao gồm cả Ruan An/Nguyễn An. Ming Chengzu rất thích những người An Nam này, và ra lệnh cho ai đó dạy họ đọc.

    In 1436, Ming Yingzong ordered Ruan An/Nguyen An to improve the city of Beijing and build nine gates in the inner city of the capital. From 1437 to 1439, Ruan An/Nguyen An was responsible for the establishment of nine gates including Xizhimen, Pingzemen (Fuchengmen), Dongzhimen, Chaoyangmen, Deshengmen, and Zhengyangmen. Thereafter, in 1445, Ruan Anyou was ordered to rebuild some of the halls in the Forbidden City and fortify the walls of Beijing.

    Research made by the University of Cambridge clearly states that “the chief architect was an Annamese eunuch named Juan An/Nguyen An (d. 1453) who also played a major role in rebuilding Peking,” (Mote & Twitchett, 1988: 241). Annam is what Vietnam was referred to by the Chinese during this period, even though that was never our official name.

    No comments:

    Post a Comment