Saturday, November 18, 2023

Imperial family of the Nguyễn dynasty

 




Imperial family of the Nguyễn dynasty
Country Nam Hà / Đàng Trong
Nguyễn dynasty
French protectorates of Annam and Tonkin
Empire of Vietnam
Domain of the Crown
Founded1558
Final rulerBảo Đại
Titles
TraditionsBuddhism, Confucianism and Catholicism
Deposition1945 (Abdication of Bảo Đại)
Cadet branchesTôn Thất

The House of Nguyễn Phúc (Nguyen Gia Mieu) had historically been founded in the 14th century in Gia Miêu village, Thanh Hóa Province, before they came to rule southern Vietnam from 1558 to 1777, then became the ruling dynasty of the entire Vietnam.

Traditionally, the family traces themselves to Nguyễn Bặc (?–979), the first duke of Đại Việt. Princes and male descendants of Gia Long are called Hoàng Thân, while male lineal descendants of previous Nguyen lords are named Tôn Thất. Grandsons of the emperor were Hoàng tôn. Daughters of the emperor were called Hoàng nữ, and always earned the title công chúa (princess).

Their succession practically is according to the law of primogeniture, but sometimes conflicted. The first succession conflict arose in 1816 when Gia Long was designing for an heir. His first prince Nguyễn Phúc Cảnh died in 1802. As a result, two rival factions emerged, one support Nguyễn Phúc Mỹ Đường, the eldest son of Prince Cảnh, as the crown prince, while other support Prince Đảm (later Minh Mang).[240] The second conflict was the 1847 succession when two young princes Nguyễn Phúc Hồng Bảo and Hồng Nhậm were dragged by the ill-failing Emperor Thiệu Trị as a potential heir. At first, Thiệu Trị apparently chose Prince Hồng Bảo because he was older, but after hearing advice from two regents Trương Đăng Quế and Nguyễn Tri Phương, he revised the heir at last minute and choose Hồng Nhậm as the crown prince.[241]

Emperors]

The following list is the emperors' era names, which have meaning in Chinese and Vietnamese. For example, the first ruler's era name, Gia Long, is the combination of the old names for Saigon (Gia Định) and Hanoi (Thăng Long) to show the new unity of the country; the fourth, Tự Đức, means "Inheritance of Virtues"; the ninth, Đồng Khánh, means "Collective Celebration".


Portrait/Photo Temple name Posthumous name Personal name Lineage Reign Regnal name Tomb Events
Portrait of Gia Long Thế Tổ Khai Thiên Hoằng Đạo Lập Kỷ Thùy Thống Thần Văn Thánh Vũ Tuấn Đức Long Công Chí Nhân Đại Hiếu Cao Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ánh Nguyễn lords 1802–20 (1) Gia Long Thiên Thọ lăng Defeated the Tây Sơn and unified Vietnam.
Portrait of Minh Mang Thánh Tổ Thể Thiên Xương Vận Chí Hiếu Thuần Đức Văn Vũ Minh Đoán Sáng Thuật Đại Thành Hậu Trạch Phong Công Nhân Hoàng Đế Nguyễn Phúc Đảm Son 1820–41 (2) Minh Mệnh (Minh Mạng) Hiếu Lăng Annexed Cambodia after the Siamese–Vietnamese War (1831–1834). Annexed Muang Phuan after the Lao rebellion. Suppressed the Lê Văn Khôi revolt. Annexed the remaining Panduranga kingdom after the Ja Thak Wa uprising, renamed the country Đại Nam (Great South), suppressed Christianity.
Hiến Tổ Thiệu Thiên Long Vận Chí Thiện Thuần Hiếu Khoan Minh Duệ Đoán Văn Trị Vũ Công Thánh Triết Chượng Chương Hoàng Đế Nguyễn Phúc Miên Tông Son 1841–47 (3) Thiệu Trị Xương Lăng Carried out policies of isolationism. Pulling troops from Cambodia.
Portrait of Tự Đức Dực Tông Thể Thiên Hanh Vận Chí Thành Đạt Hiếu Thể Kiện Đôn Nhân Khiêm Cung Minh Lược Duệ Văn Anh Hoàng Đế Nguyễn Phúc Hồng Nhậm Son 1847–83 (4) Tự Đức Khiêm Lăng Suppressed Đoàn Hữu Trưng's rebellion. Facing French invasions. Ceded Cochinchina to France after the Cochinchina campaign. Fought against French invasions of 1873 and 1882–1883.
Dục Đức's tomb Cung Tông Huệ Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Chân Nephew (adopted son of Tự Đức) 1883 (5) Dục Đức An Lăng Three-day emperor (20–23 July 1883), deposed and poisoned by Tôn Thất Thuyết
Portrait of Hiệp Hòa Văn Lãng Quận Vương Nguyễn Phúc Hồng Dật Uncle (son of Thiệu Trị) 1883 (6) Hiệp Hòa Four-month emperor (30 July – 29 November 1883), poisoned by the order of Tôn Thất Thuyết.
Portrait of Kiến Phúc Giản Tông Thiệu Đức Chí Hiếu Uyên Duệ Nghị Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Đăng Nephew (son of Hiệp Hòa's brother) 1883–84 (7) Kiến Phúc Bồi Lăng (within Khiêm Lăng) Eight-month emperor (2 December 1883 – 31 July 1884). Signing of the Treaty of Huế (1884).
Portrait of Hàm Nghi Nguyễn Phúc Ưng Lịch Younger brother 1884–85 (8) Hàm Nghi Thonac Cemetery, France Resisting against French rule under the Cần Vương movement. Dethroned after one year, continuing his rebellion until captured in 1888 and exiled to Algeria until his death in 1943.
Portrait of Đồng Khánh Cảnh Tông Hoằng Liệt Thống Thiết Mẫn Huệ Thuần Hoàng Đế Nguyễn Phúc Ưng Kỷ Older brother 1885–89 (9) Đồng Khánh Tư Lăng Suppress Hàm Nghi's Cần Vương movement
Portrait of Thành Thái Hoài Trạch Công Nguyễn Phúc Bửu Lân Cousin (son of Dục Đức) 1889–1907 (10) Thành Thái An Lăng Exiled to Réunion Island due to anti-French activities
Portrait of Duy Tân Nguyễn Phúc Vĩnh San son 1907–16 (11) Duy Tân An Lăng Rebelled against the French and exiled to Réunion Island in 1916.
Portrait of Khải Định Hoằng Tông Tự Đại Gia Vận Thánh Minh Thần Trí Nhân Hiếu Thành Kính Di Mô Thừa Liệt Tuyên Hoàng Đế Nguyễn Phúc Bửu Đảo Cousin (son of Đồng Khánh) 1916–25 (12) Khải Định Ứng Lăng Collaborated with the French, and was a political figurehead for French colonial rulers. Unpopular to the Vietnamese people.
Portrait of Bảo Đại Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy Son 1926–45 (13) Bảo Đại Cimetière de Passy, France Head of the Empire of Vietnam under Japanese occupation during World War II; abdicated and transferred power to the Viet Minh in 1945, ending the Vietnamese monarchy. Installed as head of state of the State of Vietnam, ousted by Ngo Dinh Diem after the 1955 referendum.

After the death of Emperor Tự Đức (and according to his will), Dục Đức ascended to the throne on 19 July 1883. He was dethroned and imprisoned three days later, after being accused of deleting a paragraph from Tự Đức's will. With no time to announce his dynastic title, his era name was named for his residential palace.

Lineage[edit]

1
Gia Long
1802–1819
 
 
2
Minh Mệnh
1820–1840
 
 
3
Thiệu Trị
1841–1847
 
 
         
4
Tự Đức
1847–1883
  Thoại Thái Vương   Kiên Thái Vương   6
Hiệp Hòa
1883
   
             
5
Dục Đức
1883
  9
Đồng Khánh
1885–1889
  8
Hàm Nghi
1884–1885
  7
Kiến Phúc
1883–1884
   
10
Thành Thái
1889–1907
  12
Khải Định
1916–1925
 
   
11
Duy Tân
1907–1916
  13
Bảo Đại
1926–1945
 

Note:

  • Years are reigning years.

Family tree

Simplified family tree of the Nguyen Phuc dynasty:

  • - Lords of Cochinchina (1550s–1777)
  • - Emperors of the independent Vietnamese monarchy (1802–1883)
  • - Emperors of French Annam and Tonkin/Emperor of Empire of Vietnam (1885–1945)


------------------------------------------

Nguyễn Phúc family tree
Nguyễn Công Duẩn [vi]
Nguyễn Văn Lỗ [vi]
Nguyễn Văn Lang [vi]
Nguyễn Hoằng Dụ [vi][242]
Nguyễn Kim
Nguyễn HoàngNguyễn UôngNguyễn Thị Ngọc Bảo
Nguyễn Phúc Nguyên
Nguyễn Phúc Lan
Nguyễn Phúc Tần
Nguyễn Phúc Thái
Nguyễn Phúc Chu
Nguyễn Phúc Trú
Nguyễn Phúc Khoát
Nguyễn Phúc LuânNguyễn Phúc HiệuNguyễn Phúc Thuần
Gia Long (1)
r. 1802–20
Nguyễn Phúc Dương
Nguyễn Phúc CảnhMinh Mạng (2)
r. 1820–41
Nguyễn Phúc Mỹ ĐườngNguyễn Phúc Miên ThẩmNguyễn Phúc Miên ĐịnhThiệu Trị (3)
r. 1841–47
Nguyễn Phúc Miên Bửu
Nguyễn Phúc Tăng DuNguyễn Phúc Hồng BảoNguyễn Phúc Hồng YTự Đức (4)
r. 1848–83
Hiệp Hòa (6)
r. August–December 1883
Nguyễn Phúc Hồng Cai
Cường ĐểDục Đức (5)
r. 20–23 July 1883
Đồng Khánh (9)
r. 1885–89
Kiến Phúc (7)
r. December 1883–July 1884
Hàm Nghi (8)
r. July 1884–85
Thành Thái(10)
r. 1889–1907
Khải Định (12)
r. 1916–25
Duy Tân (11)
r. 1907–16
Bảo Đại (13)
r. 1925–45
Bảo Ngọc (Georges Vĩnh San) (b. 1933)Bảo Long (1934 – 2007)Bảo Thăng (1944 – 2017)


---------------------------------

Succession line[edit]

Symbols[edit]

Flags[edit]

The Nguyễn dynasty's national flag or the Imperial flag first appeared during the reign of Gia Long. It was a yellow flag with a single or three horizontal red stripes, sometimes in 1822, it was entirely blank yellow or white.[243] The emperor's personal flag was a golden dragon spitting fire, surrounded by clouds, a silver moon, and a black crescent on a yellow background.[243]

Seals[edit]

The Nguyễn dynasty's seal are rich and diverse in types and had strict rules and laws that regulated their manipulation, management, and use.[244] The common practice of using seals was clearly recorded in the book "Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ" on how to use seals, how to place them, and on what kinds of documents, which was compiled by the Cabinet of the Nguyễn dynasty in the year Minh Mạng 3 (1822).[244] The various types of seals of the Nguyễn dynasty had different names based on their function, namely Bảo (寶), Tỷ (璽), Ấn (印), Chương (章), Ấn chương (印章), Kim bảo tỷ (金寶璽), Quan phòng (關防), Đồ ký (圖記), Kiềm ký (鈐記), Tín ký (信記), Ấn Ký (印記), Trưởng ký (長記), and Ký (記).[245][244]

Seals in the Nguyễn dynasty were overseen by a pair of agencies referred to as the Office of Ministry Seals Management - Officers on Duty (印司 - 直處, Ấn ty - Trực xứ), this is a term that refers to two agencies which were established within each of the Six Ministries, these agencies were tasked with keeping track of the seals, files, and chapters of their ministry.[246] On duty of the Office of Ministry Seals Management were the correspondents of each individual ministry that received and distributed documents and records of a government agency.[246] These two agencies usually had a few dozen officers who would import documents from their ministry.[246] Usually the name of the ministry is directly attached to the seal agency's name, for example "Office of Civil Affairs Ministry Seals Management - Civil Affairs Ministry Officers on Duty" (吏印司吏直處, Lại Ấn ty Lại Trực xứ).[246]

Since the Nguyễn dynasty period seals have a fairly uniform shape (with or without a handle), the uniform description of these seals in Vietnamese are:[247]

  • Thân ấn - The geometric block, or body, of the seal.[247]
  • Núm ấn - The handle for pressing the seal down on texts. In case the seal is shaped like a pyramid, there is no knob.[247]
  • Mặt ấn - Where the main content of the seal (symbol or word) is engraved, this area is usually in the face down position. The stamp surface is often used up to engrave letters or drawings.[247]
  • Lưng ấn - The face of the seal, where other information about the seal is engraved, usually in the supine position. In the case of the flat-head pyramid seal (ấn triện hình tháp đầu bằng), the flat head is the back.[247]
  • Hình ấn - A word used to indicate the impression of the seal on a text.[247]

Seals were also given to people after they received a noble title.[248] For example, after Léon Louis Sogny received the title of "Baron of An Bình" (安平男) in the year Bảo Đại 14 (保大拾肆年, 1939) he was also given a golden seal and a Kim Bài (金牌) with his noble title on it. The seal had the seal script inscription An Bình Nam chi ấn (安平男之印).[249]

In its 143 years of existence, the government of the Nguyễn dynasty had created more than 100 imperial seals.[250] These imperial seals were made of jade, bronze, silver, gold, ivory, and meteorite.

Sun, moon, auspicious clouds, and the Yin-Yang symbol[edit]

A silver Tự Đức Thông Bảo (嗣德通寶) coin depicting an imperial sun symbol.

Like Imperial China and Royal Korea, the Vietnamese used the sun as the "Symbol of the Empire" and auspicious clouds and the Taijitu as "Symbols of the State".[251] The heraldic systems of both the Later Lê and Nguyễn dynasties were similar to those found in China during the Ming and Qing dynasties.[251] The sun symbol as a flaming disc in Vietnam dates back to the 11th century and during the Nguyễn dynasty period this symbol was often depicted with pointed rays.[251] The moon symbolised the state, the sun the empire, stars the sovereigns, and clouds the heaven.[251]

The "Achievement of the Empire" and the "Achievement of the State" were identical to their Imperial Chinese counterparts, the "Achievement of the Empire" first appeared in Vietnam during the 11th century and were identical during the Later Lê and Nguyễn periods consisting of two Dragons surrounding a flaming sun, while the "Achievement of the State" is known to have been used as early as the Trần dynasty period and this early Trần version consists of two Dragons surrounding a lotus flower (a symbol of Buddhism).[251] During the Nguyễn dynasty period the "Achievement of the State" typically consisted of two dragons surrounding a moon or two dragons surrounding a Taijitu, this symbol was commonly found on the caps of high-ranking mandarins.[251] The two dragons surrounding the moon implies that the emperor, or "sovereign", (represented by the dragons) was also the head of state (represented by either the moon or a Yin-Yang symbol).[251] During the period of French domination (法屬, Pháp thuộc) these symbols could be interpreted as the French National Assembly (that is: the French people) was the sovereign over the Empire (the dragons), the Nguyễn Emperor now merely being the head of state (moon or Yin-Yang symbol).[251] Moons also appeared on the shields of common Nguyễn dynasty soldiers representing the state, while soldiers of the imperial guards sometimes had shields depicting a red sun showcasing that they were a function of the empire.[251]

Dragons[edit]

Dragon motifs appeared on many state symbols during the Nguyễn dynasty period including on imperial edicts, coins, buildings, and the badges of the Imperial Guard.[251] During the Minh Mạng period (1820–1841) dragons on silver Tiền coins were often depicted facing dexter (to the right), while during the Thiệu Trị period (1841–1847) and later these coins depicted dragons guardant (facing forwards).[251] Dragons were considered to be one of the four sacred animals together with the Phượng hoàng (Phoenix), Kỳ lân (Unicorn), and the Linh quy (Sacred turtle).[252] During the Nguyễn dynasty period the depiction of dragons in Vietnamese art reached their zenith and the quality and variety of Nguyễn dynasty dragons was much higher than those of earlier dynasties.[252]

In the third month of the year Bính Tý, or Gia Long 15 (1816), Emperor Gia Long instructed the court to create special clothes, hats, and seals for himself and the crown prince to denote independence from China.[253] These regalia all depicted five-clawed dragons (蠪𠄼𤔻, rồng 5 móng), in Chinese symbolism (including Vietnamese symbolism) five-clawed dragons are symbols of an Emperor, while four-clawed dragons are seen as symbols or kings.[253] To denote the high status of Emperor all monarchial robes, hats, and seals were adorned with five-clawed dragons and ordered the creation of new seals with five-clawed dragons as their seal knobs to showcase imperial legitimacy.[253] Meanwhile, the wardrobes and other symbols of vassals and princes were adorned with four-clawed dragons symbolising their status as "kings".[254][253]

The two national coats of arms of the French protectorate of Annam would also consist of golden dragons with one being a sword per fess charged with a scroll inscribed with two Traditional Chinese characters Đại Nam (大南) and supported by a single Vietnamese dragon and the other being a golden five-clawed dragon positioned affronté.[255][251]

Gallery of symbols[edit]

Dragon motifs are found everywhere in imperial buildings.

 

*************************************************************

 

Nguyễn dynasty

Đại Việt
大越
(1802–1804)
Việt Nam
越南
(1804–1839; 1945)
Đại Nam
大南
(1839–1945)
1802–1945
Flag of Nguyễn dynasty
Court flag
(c. 1920s–1945)
Anthem: Đăng đàn cung
("The Emperor Mounts His Throne")
Heirloom Seal of the Southern Realm
Đại Nam thụ thiên vĩnh mệnh truyền quốc tỷ
大南受天永命傳國璽

(1846–1945)
Administrative divisions of Việt Nam in 1838 during the reign of Emperor Minh Mạng.
Administrative divisions of Việt Nam in 1838 during the reign of Emperor Minh Mạng.
Administrative divisions of Đại Nam (yellow and red) within French Indochina in 1937 during the reign of Emperor Bảo Đại.
Administrative divisions of Đại Nam (yellow and red) within French Indochina in 1937 during the reign of Emperor Bảo Đại.
StatusInternal imperial system within Chinese tributary (1802–1883)[1][2]
French protectorate (1883–1945)[3][4]
Puppet state of the Empire of Japan (1945)[5][6]
CapitalPhú Xuân (now Huế)
16°28′N 107°36′E / 16.467°N 107.600°E / 16.467; 107.600
Official languagesVietnamese
Văn ngôn
French (from 1884)
Religion
State ideology:
Ruism
Minority:
Mahayana Buddhism, Caodaism, Christianity, Folk religion, Hòa Hảo, Hinduism, Islam, and Taoism
GovernmentAbsolute monarchy
Emperor 
• 1802–1820 (first)
Gia Long
• 1847–1883 (last independent)
Tự Đức
• 1926–1945 (last)
Bảo Đại
Regent 
• 1818–1820
Minh Mạng
• 1884–1885
Tôn Thất Thuyết & Nguyễn Văn Tường
Prime Minister 
• 1945
Trần Trọng Kim
LegislatureNone (rule by decree)
Historical eraModern era, World War II
• Coronation of Gia Long Emperor
1 June 1802
20 July 1802
1 September 1858
5 June 1862
25 August 1883
6 June 1884
11 March 1945
25 August 1945
Area
1830557,000 km2 (215,000 sq mi)
Population
• 1830
10,500,000
• 1858
12,031,000
• 1890
14,752,000
• 1942
25,552,000
CurrencyZinc and copper-alloy cash coins (denominated in phần, văn, mạch, and quán)
Silver and gold cash coins and ingots (denominated in phân, nghi, tiền, and lạng / lượng)
French Indochinese piastre (from 1885)


Preceded by
Succeeded by
Tây Sơn dynasty
Nguyễn lords
1862:
Cochinchina
1883:
Annam
1883:
Tonkin
1945:
North Vietnam
Today part ofVietnam
China
Laos
Cambodia

The Nguyễn dynasty (chữ Nôm: 茹阮, Vietnamese: Nhà Nguyễn; chữ Hán: 阮朝, Vietnamese: Nguyễn triều) was the last Vietnamese dynasty, which was preceded by the Nguyễn lords and ruled the unified Vietnamese state independently from 1802 to 1883 before being under French protectorate. During its existence, the empire expanded into modern-day southern Vietnam, Cambodia, and Laos through a continuation of the centuries-long Nam tiến and Siamese–Vietnamese wars. With the French conquest of Vietnam, Nguyễn dynasty was forced to give up the sovereignty over parts of Southern Vietnam by France in 1862 and 1874, and after 1883 the Nguyễn dynasty only nominally ruled the French protectorates of Annam (in Central Vietnam) as well as Tonkin (in Northern Vietnam). They later canceled treaties with France and were the Empire of Vietnam for a short time until 25 August 1945.

The Nguyễn Phúc family established feudal rule over large amounts of territory as the Nguyễn lords (1558-1777, 1780-1802) by the 16th century before defeating the Tây Sơn dynasty and establishing their own imperial rule in the 19th century. The dynastic rule began with Gia Long ascending the throne in 1802, after ending the previous Tây Sơn dynasty. The Nguyễn dynasty was gradually absorbed by France over the course of several decades in the latter half of the 19th century, beginning with the Cochinchina Campaign in 1858 which led to the occupation of the southern area of Vietnam. A series of unequal treaties followed; the occupied territory became the French colony of Cochinchina in the 1862 Treaty of Saigon, and the 1863 Treaty of Huế gave France access to Vietnamese ports and increased control of its foreign affairs. Finally, the 1883 and 1884 Treaties of Huế divided the remaining Vietnamese territory into the protectorates of Annam and Tonkin under nominal Nguyễn Phúc rule. In 1887, Cochinchina, Annam, Tonkin, and the French Protectorate of Cambodia were grouped together to form French Indochina.

The Nguyễn dynasty remained the formal emperors of Annam and Tonkin within Indochina until World War II. Japan had occupied Indochina with French collaboration in 1940, but as the war seemed increasingly lost, overthrew the French administration in March 1945 and proclaimed independence for its constituent countries. The Empire of Vietnam under the Bảo Đại Emperor was a nominally independent Japanese puppet state during the last months of the war. It ended with the Bảo Đại Emperor's abdication following the surrender of Japan and August Revolution by the anti-colonial Việt Minh in August 1945. This ended the 143-year rule of the Nguyễn dynasty.[7]

Names[edit]

Việt Nam[edit]

Country of Vietnam
A Việt Nam Nguyên Bảo (越南元寶), gold sycee of 10 taels produced during the Minh Mạng period.
Vietnamese alphabetNước Việt Nam
Hán-Nôm

The name Việt Nam (Vietnamese pronunciation: [viə̀t naːm], chữ Hán: 越南) is a variation of Nam Việt (南越; literally "Southern Việt"), a name that can be traced back to the Triệu dynasty of the second century BC.[8] The term "Việt" (Yue) (Chinese: ; pinyin: Yuè; Cantonese Yale: Yuht; Wade–Giles: Yüeh4; Vietnamese: Việt) in Early Middle Chinese was first written using the logograph "戉" for an axe (a homophone), in oracle bone and bronze inscriptions of the late Shang dynasty (c. 1200 BC), and later as "越".[9] At that time it referred to a people or chieftain to the northwest of the Shang.[10] In the early eighth century BC, a tribe on the middle Yangtze were called the Yangyue, a term later used for peoples further south.[10] Between the seventh and fourth centuries BC Yue/Việt referred to the State of Yue in the lower Yangtze basin and its people.[9][10] From the third century BC the term was used for the non-Chinese populations of south and southwest China and northern Vietnam, with particular ethnic groups called Minyue, Ouyue, Luoyue (Vietnamese: Lạc Việt), etc., collectively called the Baiyue (Bách Việt, Chinese: 百越; pinyin: Bǎiyuè; Cantonese Yale: Baak Yuet; Vietnamese: Bách Việt; "Hundred Yue/Viet"; ).[9][10][11] The term Baiyue/Bách Việt first appeared in the book Lüshi Chunqiu compiled around 239 BC.[12] By the seventeenth and eighteenth centuries, educated Vietnamese called themselves and their people as người Việt and người Nam, which combined to become người Việt Nam (Vietnamese people). However, this designation was for the Vietnamese themselves and not for the whole country.[13]

The form Việt Nam (越南) is first recorded in the 16th-century oracular poem Sấm Trạng Trình. The name has also been found on 12 steles carved in the 16th and 17th centuries, including one at Bao Lam Pagoda in Hải Phòng that dates to 1558.[14] In 1802, Nguyễn Phúc Ánh (who later became Emperor Gia Long) established the Nguyễn dynasty. In the second year of his rule, he asked the Jiaqing Emperor of the Qing dynasty to confer on him the title 'King of Nam Việt / Nanyue' (南越 in Chinese character) after seizing power in Annam. The Emperor refused because the name was related to Zhao Tuo's Nanyue, which included the regions of Guangxi and Guangdong in southern China. The Qing Emperor, therefore, decided to call the area "Việt Nam" instead.[15] Between 1804 and 1813, the name Vietnam was used officially by Emperor Gia Long.[a]

Đại Nam[edit]

Empire of Đại Nam
Vietnamese alphabetĐại Nam Quốc
Chữ Hán

In 1839, under the rule of Emperor Minh Mạng's, the official name of the empire was Đại Việt Nam (大越南, which means "Great Vietnam"), and it was shortened to Đại Nam (大南, which means "Great South").[17][18]

Nam Triều[edit]

During the 1930s its government used the name Nam Triều (南朝, Southern dynasty) on its official documents.[19]

Other names[edit]

Westerners in the past often called the kingdom Annam[20][21] or the Annamite Empire.[22] However, in Vietnamese historiography, modern historians often refer to this period in Vietnamese history as Nguyễn Vietnam,[23] alternatively spelled as Nguyễn Vietnam, or simply Vietnam to distinguish with the pre-19th century Đại Việt kingdom.[24]

History[edit]

Background and establishment[edit]

Origin of Nguyễn clan[edit]

The Nguyễn clan, which originated in the Thanh Hóa Province had long exerted substantial political influence and military power throughout early modern Vietnamese history through one form or another. The clan's affiliations with the ruling elites dated back to the tenth century when Nguyễn Bặc was appointed the first grand chancellor of the short-lived Đinh dynasty under emperor Đinh Bộ Lĩnh in 965.[25] Another instance of their influences materializes through Nguyễn Thị Anh, the empress consort of emperor Lê Thái Tông; she served as the official regent of Đại Việt for her son, the child emperor Lê Nhân Tông between 1442 and 1453.[26]

The Mạc dynasty (pink) and Lê dynasty (restored) under Nguyễn-Trịnh alliance (yellow) and kingdom of Champa (green) in 1540.
Lê dynasty's loyal vassal[edit]

In 1527, Mạc Đăng Dung, after defeating and executing the Lê dynasty's vassal, Nguyễn Hoằng Dụ in a rebellion, emerged as the intermediate victor and established the Mạc dynasty. He did this by deposing the Lê emperor, Lê Cung Hoàng, taking the throne for himself, effectively ending the once prosperous but declining later Lê dynasty. Nguyễn Hoằng Dụ's son, Nguyễn Kim, the leader of the Nguyễn clan with his allies, the Trịnh clan remained fiercely loyal to the Lê dynasty. They attempted to restore the Lê dynasty to power, igniting an anti-Mạc rebellion, in favor of the loyalist cause.[27][28] Both the Trịnh and Nguyễn clan again took up arms in Thanh Hóa province and revolted against the Mạc. However the initial rebellion failed and the loyalist forces had to fled to the kingdom of Lan Xang, where king Photisarath allows them to establish an exiled loyalist government in Xam Neua (modern day Laos). The Lê loyalists under Lê Ninh, a descendant of the imperial family, escaped to Muang Phuan (today Laos). During this exile, the Marquis of An Thanh, Nguyễn Kim summoned those who were still loyal to the Lê emperor and formed a new army to begin another revolt against Mạc Đăng Dung. In 1539, the coalition returned to Đại Việt beginning their military campaign against the Mạc in Thanh Hóa, capturing the Tây Đô in 1543.

Nguyễn's dominion in the south[edit]

In 1539, the Lê dynasty was restored in opposition to the Mạc in Thăng Long, this occurred after the loyalist's capture of Thanh Hoá province, reinstalling the Lê emperor Lê Trang Tông on the throne. However, the Mạc at this point still controls most of the country, including the capital, Thăng Long. Nguyễn Kim, who had served as leader of the loyalists throughout the 12 years of the Lê–Mạc War (from 1533 to 1545) and throughout the Northern and Southern dynasties period, was assassinated in 1545 by a captured Mạc general, Dương Chấp Nhất. Shortly after Nguyễn Kim's death, his son-in-law, Trịnh Kiểm, leader of the Trịnh clan, killed Nguyễn Uông, the eldest son of Kim in order to take over the control of the loyalist forces. The sixth son of Kim, Nguyễn Hoàng, fears that his fate will be like his elder brother; therefore, he tried to escape the capital to avoid the purges. Later, he asks his sister, Nguyễn Thị Ngọc Bảo (the wife of Trịnh Kiểm) to ask Kiểm to appoint him to be the governor of far-south frontier of Đại Việt, Thuận Hóa (modern Quảng Bình to Quảng Nam provinces). Trịnh Kiểm, thinking of this proposal as an opportunity to remove the power and influence of Nguyễn Hoàng away from the capital city, agreed to the proposal.

In 1558, Lê Anh Tông, emperor of the newly-restored Lê dynasty appointed Nguyễn Hoàng to the lordship of the Thuận Hóa, the territory which have been previously conquered during the 15th century from the Champa kingdom. This event of Nguyễn Hoàng leaving Thăng Long laid the foundation for the eventual fragmentation and division of Đại Việt later down the road as the Trịnh clan would solidify their power in the North, establishing a unique political system where the emperors would reign (as figureheads) yet the Trịnh lords would rule (wielding actual political power). Meanwhile the descendants of the Nguyễn clan, through the bloodline of Nguyễn Hoàng would rule in the South; the Nguyễn clan, just like their Trịnh relatives in the north, recognize the authority of the Lê emperors over Đại Việt yet at the same time solely exercise political power over their own territory.[29] The official schism of the two families however, would not begin until 1627, the first war between the two.

The division of Trịnh- (purple) and Nguyễn (green) in 1560.

Nguyễn Phúc Lan chose the city of Phú Xuân in 1636 as his residence and established the dominion of the Nguyễn lord in the southern part of the country. Although the Nguyễn and Trịnh lords ruled as de facto rulers in their respective lands, they paid official tribute to the Lê emperors in a ceremonial gesture, and recognize Lê dynasty as the legitimacy of Đại Việt.

Nguyễn-Trịnh confrontation[edit]

Nguyễn Hoàng and his successors started to engage in rivalry with the Trịnh lords, after refusing to pay tax and tribute to the central government in Hanoi as Nguyễn lords tried to create the autonomous regime. They expanded their territory by making parts of Cambodia as protectorate, invaded Laos, captured the last vestiges of Champa in 1693 and ruled in an unbroken line until 1776.[30][31][32]

Tây Sơn–Nguyễn war (1771–1802)[edit]

The end of the Nguyễn lords' reign[edit]

Red, pink and white book cover
The cover of Tân Dân Tử's (1875–1955) 1930 book, Gia Long tẩu quốc, depicted the exile of Nguyễn Ánh.

The 17th-century war between the Trịnh and the Nguyễn ended in an uneasy peace, with the two sides creating de facto separate states although both professed loyalty to the same Lê dynasty. After 100 years of domestic peace, the Nguyễn lords were confronted with the Tây Sơn rebellion in 1774. Its military had had considerable losses in manpower after a series of campaigns in Cambodia and proved unable to contain the revolt. By the end of the year, the Trịnh lords had formed an alliance with the Tây Sơn rebels and captured Huế in 1775.[33]

Nguyễn lord, Nguyễn Phúc Thuần fled south to the Quảng Nam province, where he left a garrison under co-ruler Nguyễn Phúc Dương. He fled further south to the Gia Định Province (around modern-day Ho Chi Minh City) by sea before the arrival of Tây Sơn leader Nguyễn Nhạc, whose forces defeated the Nguyễn garrison and seized Quảng Nam.[34]

In early 1777 a large Tây Sơn force under Nguyễn Huệ and Nguyễn Lữ attacked and captured Gia Định from the sea and defeated the Nguyễn Lord forces. The Tây Sơn received widespread popular support as they presented themselves as champions of the Vietnamese people, who rejected any foreign influence and fought for the full reinstitution of the Lê dynasty. Hence, the elimination of the Nguyễn and Trinh lordships was considered a priority and all but one member of the Nguyễn family captured at Saigon were executed.

Nguyễn Ánh escapes[edit]

In 1775, the 13-year-old Nguyễn Ánh escaped and with the help of the Vietnamese Catholic priest Paul Hồ Văn Nghị soon arrived at the Paris Foreign Missions Society in Hà Tiên. With Tây Son search parties closing in, he kept on moving and eventually met the French missionary Pigneau de Behaine. By retreating to the Thổ Chu Islands in the Gulf of Thailand, both escaped Tây Sơn capture.[35][36][37]

Pigneau de Behaine decided to support Ánh, who had declared himself heir to the Nguyễn lordship. A month later the Tây Sơn army under Nguyễn Huệ had returned to Quy Nhơn. Ánh seized the opportunity and quickly raised an army at his new base in Long Xuyên, marched to Gia Định and occupied the city in December 1777. The Tây Sơn returned to Gia Định in February 1778 and recaptured the province. When Ánh approached with his army, the Tây Sơn retreated.[38]

By the summer of 1781, Ánh's forces had grown to 30,000 soldiers, 80 battleships, three large ships and two Portuguese ships procured with the help of de Behaine. Ánh organized an unsuccessful ambush of the Tây Sơn base camps in the Phú Yên province. In March 1782 the Tây Sơn emperor Thái Đức and his brother Nguyễn Huệ sent a naval force to attack Ánh. Ánh's army was defeated and he fled via Ba Giồng to Svay Rieng in Cambodia.

Nguyễn–Cambodian agreement[edit]

Ánh met with the Cambodian King Ang Eng, who granted him exile and offered support in his struggle with the Tây Sơn. In April 1782 a Tây Sơn army invaded Cambodia, detained and forced Ang Eng to pay tribute, and demanded, that all Vietnamese nationals living in Cambodia were to return to Vietnam.[39]

Chinese Vietnamese support for Nguyễn Ánh[edit]

Support by the Chinese Vietnamese began when the Qing dynasty overthrew the Ming dynasty. The Han Chinese refused to live under the Manchu Qing and fled to Southeast Asia (including Vietnam). Most were welcomed by the Nguyễn lords to resettle in southern Vietnam and set up business and trade.

In 1782, Nguyễn Ánh escaped to Cambodia and the Tây Sơn seized southern Vietnam (now Cochinchina). They had discriminated against the ethnic Chinese, displeasing the Chinese-Vietnamese. That April, Nguyễn loyalists Tôn Thất Dụ, Trần Xuân Trạch, Trần Văn Tự and Trần Công Chương sent military support to Ánh. The Nguyễn army killed grand admiral Phạm Ngạn, who had a close relationship with the Emperor Thái Đức, at Tham Lương bridge.[39] Thái Đức, angry, thought that the ethnic Chinese had collaborated in the killing. He sacked the town of Cù lao (present-day Biên Hòa), which had a large Chinese population,[40][41] and ordered the oppression of the Chinese community to avenge their assistance to Ánh. Ethnic cleansing had previously occurred in Hoi An, leading to support by wealthy Chinese for Ánh. He returned to Giồng Lữ, defeated Admiral Nguyễn Học of the Tây Sơn and captured eighty battleships. Ánh then began a campaign to reclaim southern Vietnam, but Nguyễn Huệ deployed a naval force to the river and destroyed his navy. Ánh again escaped with his followers to Hậu Giang. Cambodia later cooperated with the Tây Sơn to destroy Ánh's force and made him retreat to Rạch Giá, then to Hà Tiên and Phú Quốc.

Nguyễn – Siam allianceedit

Following consecutive losses to the Tây Sơn, Ánh sent his general Châu Văn Tiếp to Siam to request military assistance. Siam, under Chakri rule, wanted to conquer Cambodia and southern Vietnam. King Rama I agreed to ally with the Nguyễn lord and intervene militarily in Vietnam. Châu Văn Tiếp sent a secret letter to Ánh about the alliance. After meeting with Siamese generals at Cà Mau, Ánh, thirty officials and some troops visited Bangkok to meet Rama I in May 1784. The governor of Gia Định Province, Nguyễn Văn Thành, advised Ánh against foreign assistance.[42][43]

Nguyễn Ánh (sitting, 2nd row) in audience with King Rama I in Phra Thinang Amarin Winitchai, Bangkok, 1782.

Rama I, fearing the growing influence of the Tây Sơn dynasty in Cambodia and Laos, decided to dispatch his army against it. In Bangkok, Ánh began to recruit Vietnamese refugees in Siam to join his army (which totaled over 9,000).[44] He returned to Vietnam and prepared his forces for the Tây Sơn campaign in June 1784, after which he captured Gia Định. Rama I nominated his nephew, Chiêu Tăng, as admiral the following month. The admiral led Siamese forces including 20,000 marine troops and 300 warships from the Gulf of Siam to Kiên Giang Province. In addition, more than 30,000 Siamese infantry troops crossed the Cambodian border to An Giang Province.[45] On 25 November 1784, Admiral Châu Văn Tiếp died in battle against the Tây Sơn in Mang Thít District, Vĩnh Long Province. The alliance was largely victorious from July through November, and the Tây Sơn army retreated north. However, Emperor Nguyễn Huệ halted the retreat and counter-attacked the Siamese forces in December. In the decisive battle of Rạch Gầm–Xoài Mút, more than 20,000 Siamese soldiers died and the remainder retreated to Siam.[46]

Ánh, disillusioned with Siam, escaped to Thổ Chu Island in April 1785 and then to Ko Kut Island in Thailand. The Siamese army escorted him back to Bangkok, and he was briefly exiled in Thailand.

French assistance

The war between the Nguyễn lord and the Tây Sơn dynasty forced Ánh to find more allies. His relationship with de Behaine improved, and support for an alliance with France increased. Before the request for Siamese military assistance, de Behaine was in Chanthaburi and Ánh asked him to come to Phú Quốc Island.[47] Ánh asked him to contact King Louis XVI of France for assistance; de Behaine agreed to coordinate an alliance between France and Vietnam, and Ánh gave him a letter to present at the French court. Ánh's oldest son, Nguyễn Phúc Cảnh, was chosen to accompany de Behaine. Due to inclement weather, the voyage was postponed until December 1784. The group departed from Phú Quốc Island for Malacca and thence to Pondicherry, and Ánh moved his family to Bangkok.[48] The group arrived in Lorient in February 1787, and Louis XVI agreed to meet them in May.

On 28 November 1787, de Behaine signed the Treaty of Versailles with French Minister of Foreign Affairs Armand Marc at the Palace of Versailles on behalf of Nguyễn Ánh.[49] The treaty stipulated that France provide four frigates, 1,200 infantry troops, 200 artillery, 250 cafres (African soldiers), and other equipment. Nguyễn Ánh ceded the Đà Nẵng estuary and Côn Sơn Island to France.[50] The French were allowed to trade freely and control foreign trade in Vietnam. Vietnam had to build one ship per year which was similar to the French ship which brought aid and give it to France. Vietnam was obligated to supply food and other aid to France when the French were at war with other East Asian nations.

On 27 December 1787, Pigneau de Behaine and Nguyễn Phúc Cảnh left France for Pondicherry to wait for the military support promised by the treaty. However, due to the French Revolution and the abolition of the French monarchy, the treaty was never executed. Thomas Conway, who was responsible for French assistance, refused to provide it. Although the treaty was not implemented, de Behaine recruited French businessman who intended to trade in Vietnam and raised funds to assist Nguyễn Ánh. He spent fifteen thousand francs of his own money to purchase guns and warships. Cảnh and de Behaine returned to Gia Định in 1788 (after Nguyễn Ánh had recaptured it), followed by a ship with the war materiel. Frenchmen who were recruited included Jean-Baptiste Chaigneau, Philippe Vannier, Olivier de Puymanel, and Jean-Marie Dayot. A total of twenty people joined Ánh's army. The French purchased and supplied equipment and weaponry, reinforcing the defense of Gia Định, Vĩnh Long, Châu Đốc, Hà Tiên, Biên Hòa, Bà Rịa and training Ánh's artillery and infantry according to the European model.[51]

Qing China - Lê alliance against Tây Sơn[edit]

Color-coded map of Vietnam
Vietnam at the end of the 18th century. The Tây Sơn army, including Nguyễn Huệ, ruled the north (purple); Nguyễn Nhạc the middle (yellow), and Nguyễn Ánh the south (green).

In 1786, Nguyễn Huệ led the army against the Trịnh lords; Trịnh Khải escaped to the north but got captured by the local people. He then committed suicide. After the Tây Sơn army returned to Quy Nhơn, subjects of the Trịnh lord restored Trịnh Bồng (son of Trịnh Giang) as the next lord. Lê Chiêu Thống, emperor of the Lê dynasty, wanted to regain power from the Trịnh. He summoned Nguyễn Hữu Chỉnh, governor of Nghệ An, to attack the Trịnh lord at the Imperial Citadel of Thăng Long. Trịnh Bồng surrendered to the Lê and became a monk. Nguyễn Hữu Chỉnh wanted to unify the country under Lê rule, and began to prepare the army to march south and attack the Tây Sơn. Huệ led the army, killed Nguyễn Hữu Chỉnh, and captured the later Lê capital. The Lê imperial family were exiled to China, and the later Lê dynasty collapsed.

At that time, Nguyễn Huệ's influence became stronger in northern Vietnam; this made Emperor Nguyễn Nhạc of the Tây Sơn dynasty suspect Huệ's loyalty. The relationship between the brothers became tense, eventually leading to battle. Huệ had his army surround Nhạc's capital, at Quy Nhơn citadel, in 1787. Nhạc begged Huệ not to kill him, and they reconciled. In 1788, Lê emperor Lê Chiêu Thống fled to China and asked for military assistance. Qing emperor Qianlong ordered Sun Shiyi to lead the military campaign into Vietnam. The campaign failed, and later on, the Qing recognized the Tây Sơn as the legitimate dynasty in Vietnam. However, with the death of Huệ (1792), the Tây Sơn dynasty began to weaken.

Franco-Nguyễn alliance against Tây Sơn[edit]

Nguyễn Ánh's counter-attack[edit]

Ánh began to reorganize a strong armed force in Siam. He left Siam (after thanking King Rama I), and returned to Vietnam.[52][53] During the 1787 war between Nguyễn Huệ and Nguyễn Nhạc in northern Vietnam, Ánh recaptured the southern Vietnamese capital of Gia Định. Southern Vietnam had been ruled by the Nguyễns and they remained popular, especially with the ethnic Chinese. Nguyễn Lữ, the youngest brother of Tây Sơn (who ruled southern Vietnam), could not defend the citadel and retreated to Quy Nhơn. The citadel of Gia Định was seized by the Nguyễn lords.[54]
In 1788 de Behaine and Ánh's son, Prince Cảnh, arrived in Gia Định with modern war equipment and more than twenty Frenchmen who wanted to join the army. The force was trained and strengthened with French assistance.[55]

Defeat of the Tây Sơn[edit]

After the fall of the citadel at Gia Định, Nguyễn Huệ prepared an expedition to reclaim it before his death on 16 September 1792. His young son, Nguyễn Quang Toản, succeeded him as emperor of the Tây Sơn and was a poor leader.[56] In 1793, Nguyễn Ánh began a campaign against Quang Toản. Due to conflict between officials of the Tây Sơn court, Quang Toản lost battle after battle. In 1797, Ánh and Nguyễn Phúc Cảnh attacked Qui Nhơn (then in Phú Yên Province) in the Battle of Thị Nại. They were victorious, capturing a large amount of Tây Sơn equipment.[57] Quang Toản became unpopular due to his murders of generals and officials, leading to a decline in the army. In 1799, Ánh captured the citadel of Quy Nhơn. He seized the capital (Phú Xuân) on 3 May 1801, and Quang Toản retreated north. On 20 July 1802, Ánh captured Hanoi and end the Tây Sơn dynasty, all of the members of the Tây Sơn was captured. Ánh then executed all the members of the Tây Sơn dynasty that year.

Imperial rule (1802–1883)[edit]

Overview[edit]

In Vietnamese historiography, the independent period is referred to as the Nhà Nguyễn thời độc lập period. During this period the Nguyễn dynasty's territories comprised the present-day territories of Vietnam and parts of modern Cambodia and Laos, bordering Siam to the west and Manchu Qing dynasty to the north. The ruling Nguyễn emperors established and ran the first well-defined imperial administrative and bureaucratic system of Vietnam and annexed Cambodia and Champa into its territories in the 1830s. Together with Chakri Siam and Konbaung Burma, it was one among three major Southeast Asian powers at the time.[58] The emperor Gia Long was relatively friendly toward Western powers and Christianity. After his reign that of Minh Mạng brought a new approach, he ruled for 21 years from 1820 to 1841, as a conservative and Confucian ruler; introducing a policy of isolationism which kept the country from the rest of the world for nearly 40 years until the French invasion in 1858. Minh Mạng tightened control over Catholicism, Muslim, and ethnic minorities, resulting in more than two hundred rebellions across the country during his twenty-one-year reign. He also further expanded Vietnamese imperialism in modern-day Laos and Cambodia.

Minh Mạng's successors, Thiệu Trị (r. 1841–1847) and Tự Đức (r. 1847–1883) would be assailed by serious problems that ultimately decimated the Vietnamese state. In the late 1840s, Vietnam was struck by the global cholera pandemic that killed roughly 8% of the country's population, while the countries isolationist policies damaged the economy. France and Spain declared war on Vietnam in September 1858. Faced with these industrialised powers, the hermit Nguyễn dynasty and its military crumbled, the alliance capturing Saigon in early 1859. A series of unequal treaties followed with first the 1862 Treaty of Saigon, and then the 1863 Treaty of Huế which gave France access to Vietnamese ports and increased control of its foreign affairs. The Treaty of Saigon (1874) concluded the French annexation of Cochinchina that had begun in 1862.

The last independent Nguyễn emperor of note was Tự Đức. Upon his death a succession crisis followed, as the regent Tôn Thất Thuyết orchestrated the murders of three emperors in a year. This presented an opportunity to the French. The Huế court was forced to sign the Harmand Convention in September 1883, which formalised the handover of Tonkin to the French administration. After the Treaty of Patenôtre was signed in 1884, France finished its annexation and partitioning of Vietnam into three constituent protectorates of French Indochina, and turned the Nguyễn into a vassal monarchy.[59] Finally, the Treaty of Tientsin (1885) between the Chinese Empire and the French Republic was signed on 9 June 1885 recognising French dominion over Vietnam.[60] All emperors after Đồng Khánh were chosen by the French, and only ruled symbolically.

Gia Long period[edit]

Nguyễn Phúc Ánh united Vietnam after a three-hundred-year division of the country. He celebrated his coronation at Huế on 1 June 1802 and proclaimed himself emperor (Vietnamese: Hoàng Đế), with the era name Gia Long (嘉隆). This title emphasized his rule from "Gia" Định region (modern-day Saigon) in the far south to Thăng "Long" (modern-day Hanoi) in the north.[61] Gia Long prioritized the nation's defense and worked to avoid another civil war. He replaced the feudal system with a reformist Doctrine of the Mean, based on Confucianism.[62][63] The Nguyen dynasty was founded as a tributary state of the Qing Empire, with Gia Long receiving an imperial pardon and recognition as the ruler of Vietnam from the Jiaqing Emperor for recognizing Chinese suzerainty.[1][64] The envoys sent to China to acquire this recognition cited the ancient kingdom of Nanyue (Vietnamese: Nam Việt) to Emperor Jiaqing as the countries name, this displeased the emperor who was disconcerted by such pretentions, and Nguyễn Phúc Ánh had to officially rename his kingdom as Vietnam the next year to satisfy the emperor.[65][61] The country was officially known as 'The (Great) Vietnamese state' (Vietnamese: Đại Việt Nam quốc),[66]

Gia Long asserted that he was reviving the bureaucratic state that was built by King Lê Thánh Tông during the fifteenth-century golden age (1470–1497), as such he adopted a Confucian-bureaucratic government model, and sought unification with northern literati.[67] To ensure stability over the unified kingdom, he placed two of his most loyal and Confucian-educated advisors, Nguyễn Văn Thành and Lê Văn Duyệt as viceroys of Hanoi and Saigon.[68] From 1780 to 1820, roughly 300 Frenchmen served Gia Long's court as officials.[69] Seeing the French influence in Vietnam with alarm, the British Empire sent two envoys to Gia Long in 1803 and 1804 to convince him to abandon his friendship with the French.[70] In 1808, a British fleet led by William O'Bryen Drury mounted an attack on the Red River Delta, but was soon driven back by the Vietnamese navy and suffered several losses. After the Napoleonic war and Gia Long's death, the British Empire renewed relation with Vietnam in 1822.[71] During his reign, a system of road connecting Hanoi, Hue, and Saigon with postal stations and inns was established, several canals connecting the Mekong River to the Gulf of Siam were constructed and finished.[72][73] In 1812, Gia Long issued the Gia Long Code, which was instituted based on the Ch'ing Code of China, replaced the previous Thánh Tông's 1480 Code.[74][75][69] In 1811, a coup d'état broke out in the Kingdom of Cambodia, a Vietnamese tributary state, forcing the pro-Vietnamese King Ang Chan II to seek support from Vietnam. Gia Long sent 13,000 men to Cambodia, successfully restoring his vassal to his throne,[76] and beginning a more formal occupation of the country for the next 30 years, while Siam seized northern Cambodia in 1814.[77]

Gia Long died in 1819 and was succeeded by his fourth son, Nguyễn Phúc Đảm, who soon became known as Emperor Minh Mạng (r. 1820–1841) of Vietnam.[78]

Rise and expansion under Minh Mạng

Portrait of Minh Mạng by John Crawfurd, the year 1828.
Đại Nam (Nguyễn dynasty) under the reign of Emperor Minh Mạng.

Minh Mạng was the younger brother of prince Nguyễn Phúc Cảnh and fourth son of Emperor Gia Long. Educated in Confucian principles from youth,[79] Minh Mạng became the Emperor of Vietnam in 1820, during a deadly cholera outbreak that ravaged and killed 200,000 people across the country.[80] His reign mainly focused on centralizing and stabilizing the state, by abolishing the Viceroy system and implementing a new full bureaucracy-provincial-based administration.[81] He also halted diplomacy with Europe, and cracked down on religious minorities.[82]

Minh Mạng shunned relations with the European powers. By 1824, after the death of Jean Marie Despiau, no Western advisors who had served Gia Long remained in Minh Mạng's court. The last French consul of Vietnam, Eugene Chaigneau, was never able to obtain audience with Minh Mạng. After he left, France ceased attempts at contact.[83] In the next year he launched an anti-Catholicism propaganda campaign, denouncing the religion as "vicious" and full of "false teaching." In 1832 Minh Mạng turned the Cham Principality of Thuận Thành into a Vietnamese province, the final conquest in a long history of colonial conflict between Cham and Vietnam.[84] He coercively fed lizard and pig meat to Cham Muslims and cow meat to Cham Hindus in violation of their religions to forcibly assimilate them to Vietnamese culture.[85] The first Cham revolt for independence took place in 1833–1834 when Katip Sumat, a Cham mullah who had just returned to Vietnam from Mecca declared a holy war (jihad) against the Vietnamese emperor.[86][87][88][89] The rebellion failed to gain the support of the Cham elite and was quickly suppressed by the Vietnamese military.[90] A second revolt began the following year, led by a Muslim clergy named Ja Thak with supports from the old Cham royalty, highland people, and Vietnamese dissents. Minh Mạng mercilessly crushed the Ja Thak rebellion and executed the last Cham ruler Po Phaok The in early 1835.[91]

In 1833, as Minh Mạng had been trying to take firm control over the six southern provinces, a large rebellion led by Lê Văn Khôi (an adopted son of the Saigon viceroy Lê Văn Duyệt) broke out in Saigon, attempting to place Minh Mang's brother Prince Cảnh on the throne.[92] The rebellion lasted for two years, gathering much support from Vietnamese Catholics, Khmers, Chinese merchants in Saigon, and even the Siamese ruler Rama III until it was crushed by the government forces in 1835.[93][94][84] In January, he issued the first country-wide prohibition of Catholicism, and began persecuting Christians.[95][96] 130 Christian missionaries, priests and church leaders were executed, dozens of churches were burned and destroyed.[78]

Execution of French missionary Pierre Borie, 1838.

War with Siam and invasion of Cambodia[edit]

Minh Mạng also expanded his empire westward, putting central and southern Laos under Cam Lộ Province, and collided with his father's former ally-Siam in Vientiane and Cambodia.[97][98] He backed the revolt of Laotian king Anouvong of Vientiane against the Siamese, and seized Xam Neua and Savannakhet in 1827.[98]

In 1834, the Vietnamese Crown fully annexed Cambodia and renamed it to Tây Thành Province. Minh Mạng placed the general Trương Minh Giảng as the governor of the Cambodian province, expanding his forcible religious assimilation to the new territory. King Ang Chan II of Cambodia died in the next year and Ming Mang installed Chan's daughter Ang Mey as Commandery Princess of Cambodia.[99] Cambodian officials were required to wear Vietnamese-style clothing, and govern in Vietnamese style.[100] However the Vietnamese rule over Cambodia did not last long and proved draining to Vietnams economy to maintain.[101] Minh Mạng died in 1841, whilst a Khmer uprising was in progress with Siamese support, putting an end to the Tây Thành province and Vietnamese control of Cambodia.[102][103]

Decline of the Nguyễn dynasty

Over the next forty years, Vietnam was ruled by two further independent emperors Thiệu Trị (r. 1841–1847) and Tự Đức (r. 1848–1883). Thiệu Trị or Prince Miên Tông, was the eldest son of Emperor Minh Mạng. His six-year reign showed a significant decrease in Catholic persecution. With the population growing fast from 6 million in the 1820s to 10 million in 1850,[104] the attempts at agricultural self sufficiency were proving unworkable. Between 1802 and 1862, the court had faced 405 minor and large revolts of peasants, political dissents, ethnic minorities, Lê loyalists (people that were loyal to the old Lê Duy dynasty) across the country,[105] this made responding to the challenge of European colonisers significantly more challenging.

In 1845, the American warship USS Constitution landed in Đà Nẵng, taking all local officials hostage with the demands that Thiệu Trị free imprisoned French bishop Dominique Lefèbvre.[106][107][108] In 1847, Thiệu Trị had made peace with Siam, but the imprisonment of Dominique Lefebvre offered an excuse for French and British aggression. In April the French navy attacked the Vietnamese and sank many Vietnamese ships in Đà Nẵng, demanding the release of Lefèbvre.[109][110][111] Angered by the incident, Thiệu Trị ordered all European documents in his palace to be smashed, and all European caught on Vietnamese land were to immediate execution.[112] In autumn, two British warships of Sir John Davis arrived in Đà Nẵng and attempted to force a commercial treaty on Vietnam, but the emperor refused. He died a few days later of apoplexy.[113]

Tự Đức, or Prince Hồng Nhậm was Thiệu Trị's youngest son, well-educated in Confucian learning, he was crowned by minister and co-regent Trương Đăng Quế. Prince Hồng Bảo-the elder brother of Tự Đức, the primogeniture heir rebelled against Tự Đức on the day of his accession.[114] This coup failed but he was spared execution on the intervention of Từ Dụ, with his sentence being reduced to life imprisonment.[115] Aware of the rise of Western influences in Asia, Tự Đức confirmed his grandfathers isolationist policy towards the European powers, prohibiting embassies, forbidding trade and contact with foreigners and renewing the persecution of Catholics his grandfather had orchestrated.[116] During Tự Đức's first twelve years, Vietnamese Catholics faced harsh persecution with 27 European missionaries, 300 Vietnamese priests and bishops, and 30,000 Vietnamese Christians executed and crucified from 1848 to 1860.[112]

In the late 1840s, another cholera outbreak hit Vietnam, having travelled from India. The epidemic quickly spread out of control and killed 800,000 people (8%–10% of Vietnam's 1847 population) across the Empire.[117] Locusts plagued northern Vietnam in 1854, and a major rebellion in the following year damaged much of the Tonkin countryside. These various crises weakened the empires control over Tonkin considerably.[112]

In the 1850-1870s, a new class of liberal intellectuals emerged in the court as persecution relaxed, many of them Catholics who had studied abroad in Europe, most notably Nguyễn Trường Tộ, who urged the emperor to reform and transform the Empire following the Western model and open Vietnam to the west.[118] Despite their efforts the conservative Confucian bureaucrats and Tự Đức himself had literal interest in such reforms.[119][120] The economy remained largely agricultural, with 95% of the population living in rural areas, only mining offered potential to the modernists dreams of a western style state.

French conquest[edit]

The Alliance (France-Spain) army capture of Saigon in 1859.
Treaty of Saigon (1862).

In September 1858, Napoleon III orchestrated a Franco-Spanish army bombardment and invaded Đà Nẵng to protest against the executions of two Spanish Dominican missionaries. Seven months later, they sailed to the south to attack Saigon and the rich Mekong Delta.[121] The Alliance troops held Saigon for two years, while a rebellion of Lê loyalists led by Catholic bishop Pedro Tạ Văn Phụng, who proclaimed himself to be a Lê prince, broke out in the north and escalated.[122][123] Alongside the pretext of avenging the death of the missionaries the French invasion was designed to prove to Europe that France wasn't a second rate power, and 'civilise' the area. February 1861, French reinforcement and 70 warships led by General Vassoigne arrived and overwhelmed the Vietnamese strongholds. Facing the Alliance invasion and internal rebellion, Tự Đức chose to cede three Southern provinces to France in order to deal with the coinciding rebellion.[124][125]

Vietnamese delegation to France in 1863 for peace treaty negotiation, Head of foreign minister Phan Thanh Giản (first row, middle) in 20/9/1863.
Vietnamese mission to Napoleon III's court at Tuileries Palace (1863).

In June 1862, the Treaty of Saigon was signed, resulting in Vietnam losing three southern provinces; Gia Định, Mỹ Tho, Biên Hòa which became the basis of French Cochinchina. In the Treaty of Huế (1863) the island of Poulo Condoræ would allow Catholicism, three ports would be open to French trade, and the sea opened to allow French expansion into Kampuchea. and war reparations were required to be sent to France. Despite the religious elements of this treaty, France would not intervene in the Christian revolt in Northern Vietnam, even with their missionaries urging them to. To the Queen dowager, Từ Dụ, the court, and the people, the 1862 treaty was a national humiliation. Tự Đức once again sent a mission to French Emperor Napoleon III, in which he called to revise the 1862 treaty. In July 1864, another draft treaty was signed. France returned the three provinces to Vietnam, but still held control over three important cities Saigon, Mỹ Tho, and Thủ Dầu Một.[126] In 1866, France convinced Tự Đức to hand over the southern provinces of Vĩnh Long, Hà Tiên, and Châu Đốc. Phan Thanh Giản, the governor of the three provinces immediately resigned. Without resistance, in 1867, the French annexed the provinces and turned their attention to the northern provinces.[127]

By the late 1860s, pirates, bandits, remnants of the Taiping rebellion in China, fled to Tonkin and turned Northern Vietnam into a hotbed for their raid activities. The Vietnamese state was too weak to fight against the pirates.[128] These Chinese rebels eventually formed their own mercenary armies as the Black Flags had done and cooperated with local Vietnamese officials to interfere with French business interests. As France was looking to acquire Yunnan and Tonkin, when in 1873, a French merchant-adventurer named Jean Dupuis was intercepted by local Hanoi authority, the French Cochinchina government responded by sending out a new attack without talking with the Hue court.[129] A French army led by Francis Garnier arrived at Tonkin in November. Because local administrators had allied with the Black Flags and mistrusting of Hanoi governor Nguyễn Tri Phương, in late November the French and Lê loyalists opened fire at the Vietnamese citadel of Hanoi. Tự Đức immediately sent delegations to negotiate with Garnier, but Prince Hoàng Kế Viêm, governor of Sơn Tây, had enlisted the Chinese Black Flags militia of Liu Yongfu to attack the French.[130] Garnier was killed on 21 December by the Black Flag soldiers at the Battle of Cầu Giấy [vi].[131] A peace negotiation between Vietnam and France was reached on 5 January 1874.[132] France formally recognized Vietnam's full independence from China; France would pay off Vietnam's Spanish debts; French force returned Hanoi to the Vietnamese; the Vietnamese military in Hanoi had to disband and be reduced to a simple police force; total religious and trade freedom was ensured; Vietnam was compelled to recognise all six southern provinces as French territories.[133][134]

End of independence (1874–1885)[edit]

French victory in Thuận An, August 1883.

Just two years after French recognition, Tự Đức sent an embassy to Qing China in 1876 and re-provoked the tributary relationship with the Chinese (the last mission was in 1849). In 1878, Vietnam renewed relations with Thailand.[135] In 1880, Britain, Germany, and Spain were still debating the fate of Vietnam, and the Chinese Embassy in Paris openly rejected the 1874 Franco-Vietnamese agreement. In Paris, Prime minister Jules Ferry proposed a direct military campaign against Vietnam to revise the 1874 treaty. Because Tự Đức was too preoccupied to keep the French out of his Empire without directly engaging against them, he requested assistance from the Chinese court. In 1882, 30,000 Qing troops flooded into the northern provinces and occupied cities. The Black Flags had also been returning, together, collaborating with local Vietnamese officials and harassing French businesses. In March, the French responded by sending a second expedition led by Henri Rivière to the north to deal with these various problems, but had to avoid all international attention, particularly from China.[136] On 25 April 1882, Rivière took Hanoi without facing any resistance.[137][138] Tự Đức informed the Chinese court that their tributary state was being attacked. In September 1882, 17 Chinese divisions (200,000 men) crossed the Sino-Vietnamese borders and occupied Lạng Sơn, Cao Bằng, Bac Ninh, and Thái Nguyên, under the pretext of defending against the French aggression.[139]

Backed by the Chinese army and the prince Hoàng Kế Viêm, Liu Yongfu, and the Black Flags decided to attack Rivière. On 19 May 1883, the Black Flags ambushed and beheaded Rivière at the Second Battle of Cầu Giấy.[140] When news of Rivière's death reached France, there was immediate outcry and demands for a response. The French Parliament quickly voted for the conquest of Vietnam. Tens of thousands of French and Chinese reinforcements poured into the Red River Delta.[141]

Tự Đức died on 17 July.[142] Succession trouble temporarily paralyzed the court. One of his nephews Nguyễn Phúc Ưng Ái was crowned as Emperor Dục Đức but was, however, imprisoned and executed after three days by the three powerful regents Nguyễn Văn Tường, Tôn Thất Thuyết and Tran Tien Thanh for unknown reasons. Tự Đức's brother Nguyễn Phúc Hồng Dật succeeded on 30 July as Emperor Hiệp Hòa.[143] The senior Censorate official of the court Phan Đình Phùng denounced the three regents for their irregular handling of Tự Đức's succession. Tôn Thất Thuyết excoriated Phan Đình Phùng and sent him from the court to his home territory, where later he led a nationalist resistance movement against the French for ten years.[144]

To knock Vietnam out of the war, France decided to take a direct assault on the city of Huế. The French army split up itself into two parts: the smaller under General Bouët stayed in Hanoi and waited for reinforcement from France while the French fleet led by Amédée Courbet and Jules Harmand sailed to Thuận An, the sea gate of Hue on August 17. Harmand demanded the two regents Nguyễn Văn Tường and Tôn Thất Thuyết surrender Northern Vietnam, North-Central Vietnam (Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh) and Bình Thuận Province to French possession, and to accept a French résident in Huế who could demand imperial audiences. He sent an ultimatum to the regents that "The name Vietnam will no longer exist in history" if they did not comply with this.[145][146]

On 18 August, French battleships began shelling Vietnamese positions in the Thuận An citadel. Two days later, at dawn, Courbet and the French marines landed on the shore. By the next morning, all Vietnamese defenses in Huế were overwhelmed by the French. Emperor Hiệp Hòa dispatched mandarin Nguyễn Thượng Bắc to negotiate.[147]

On 25 September, two court officials, Trần Đình Túc and Nguyễn Trọng Hợp signed a twenty-seven-article treaty known as Harmand Convention.[148] The French were granted Bình Thuận; Đà Nẵng and Qui Nhơn were opened for trade; the ruling sphere of the Vietnamese monarchy was reduced to Central Vietnam while Northern Vietnam became a French Protectorate. In November, Emperor Hiệp Hòa and Trần Tiễn Thành were executed by Nguyễn Văn Tường and Tôn Thất Thuyết for their perceived pro-French sympathies. 14-year-old Nguyễn Phúc Ưng Đăng was crowned as Emperor Kiến Phúc. After achieving peace with China through the Tientsin Accord in May 1884, on 6 June the French Ambassador in China Jules Patenôtre des Noyers signed with Nguyen Van Tuong the Protectorate Treaty of Patenôtre, which confirmed French dominion over Vietnam.[149][59] On 31 May 1885, France appointed the first governor of all Vietnam.[150] On 9 June 1885, Vietnam ceased to exist after 83 years as an independent state.[60] The leader of the pro-war faction, Tôn Thất Thuyết and his supporters revolted against the French in July 1885, but were forced to retreat to the Laotian highlands with the young emperor Hàm Nghi (Nguyễn Phúc Ưng Lịch.) Meanwhile the French installed his pro-French brother Nguyễn Phúc Ưng Kỷ as emperor Đồng Khánh.[151] Thuyết called up the nobility, loyalists and nationalists to arm for the resistance against the French occupation (Cần Vương movement).[152] The movement lasted for 11 years (1885–1896) and Thuyết was forced to exile in China in 1888.[153]

French protectorates of Annam and Tonkin (1883–1945)[edit]

The 1883 Treaty of Huế led to the rest of Vietnam becoming French protectorates, divided into the Protectorates of Annam and Tonkin. The terms were, however, considered overly harsh in French diplomatic circles and never ratified in France. The following 1884 Treaty of Huế provided a softened version of the previous treaty.[154] The 1885 Treaty of Tientsin, which reaffirmed the 1884 Tientsin Accord and ended the Sino-French War, confirmed Vietnam's status as French protectorates and severed Vietnam's tributary relationship with the Qing dynasty by requiring that all of Vietnam's foreign affairs be conducted through France.[155]

After this the Nguyễn dynasty only nominally ruled the two French protectorates. Annam and Tonkin were combined with Cochinchina and the neighboring Cambodian protectorate in 1887 to form the Union of French Indochina, of which they became administrative components.[154]

French rule also added new ingredients to Vietnam's cultural stew: Catholicism and a Latin-based alphabet. The spelling used in the Vietnamese transliteration was Portuguese-based, because the French relied on a dictionary compiled earlier by a Portuguese cleric.[154]

World War I]

While seeking to maximize the use of Indochina's natural resources and manpower to fight World War I, France cracked down on Vietnam's patriotic mass movements. Indochina (mainly Vietnam) had to provide France with 70,000 soldiers and 70,000 workers, who were forcibly drafted from villages to serve on the French battlefront. Vietnam also contributed 184 million piastres in loans and 336,000 tons of food.

These burdens proved heavy, since agriculture experienced natural disasters from 1914 to 1917. Lacking a unified nationwide organization, the vigorous Vietnamese national movement failed to use the difficulties France had as a result of war to stage significant uprisings.

In May 1916, sixteen-year-old emperor Duy Tân escaped from his palace to participate in an uprising of Vietnamese troops. The French were informed of the plan, and its leaders were arrested and executed. Duy Tân was deposed and exiled to the island of Réunion in the Indian Ocean.

World War II

Nationalist sentiment intensified in Vietnam (especially during and after the First World War), but uprisings and tentative efforts failed to obtain concessions from the French. The Russian Revolution greatly impacted 20th-century Vietnamese history.

For Vietnam, the outbreak of World War II on 1 September 1939 was as decisive as the 1858 French seizure of Đà Nẵng. The Axis power of Japan invaded Vietnam on 22 September 1940, attempting to construct military bases to strike against Allied forces in Southeast Asia. This led to a period of Indochina under Japanese occupation with cooperation of the collaborationist Vichy French, who still retained administration of the colony. During this time the Viet Minh, a communist resistance movement, developed under allied support. During a 1944–1945 famine in northern Vietnam, over one million people starved to death.

Empire of Vietnam (1945)

In March 1945, after the liberation of France and heavy setbacks in the war, the Japanese in a last ditch effort to gather support in Indochina overthrew the French administration, imprisoned their civil servants and proclaimed independence for Cambodia, Laos and Vietnam, which became the Empire of Vietnam with Bảo Đại as its Emperor.[5][6] The Empire of Vietnam was a puppet state of the Empire of Japan.[5] After the Surrender of Japan, Bảo Đại abdicated on 25 August 1945 after the Viet Minh launched the August Revolution.[156]

This ended the 143-year reign of the Nguyễn dynasty.

National administration[edit]

Government[edit]

Emperor[edit]

The Nguyễn dynasty retained the bureaucratic and hierarchic system of previous dynasties. The emperor was the head of state who wielded absolute authority. Under the emperor was the Ministry of Interior (which worked on papers, imperial messages and recording) and four Grand Secretariats (Vietnamese: Tứ trụ Đại thần), later renamed the Ministry of Secret Council.[157][158][159]

The mandarins at Nam Giao ceremony
The mandarins of Nguyễn dynasty
Mandarins at temple
Mandarin at Nam Giao ceremony
Mandarins in Hanoi
Oil painting "Les Mandarins et les Autorites Françaises Attendant L’Arrivée de l’Empereur Thanh Thai” by Trần D. Trọng (1903).

The Emperor of the Nguyễn dynasty was an absolutist ruler, which means he was both the head of state and the head of government.[160] The Gia Long Code in 1812 declared the Vietnamese monarch as the universal ruler of all Vietnam; using the Confucian concept Mandate of Heaven to provide monarchs absolute power. Their reign and popular images were judged based on how prosperous the livelihood (民生, dân sinh) of the people and the Confucian concept of chính danh (rectification of names), according to the Confucian biblical Analects, everything has to stay in its right order.[161][162] Gia Long also perceived the ancient Chinese conception of Hua-Yi and in 1805 he confessed his Empire as Trung Quốc (中國, "the Middle Kingdom"), the Vietnamese term which often refers to China but now was taken by Gia Long to emphasis his Son of Heaven status and the devaluation of China.[163][164] Following next decades, Confucianism and the Mandate of Heaven theory gradually lost their positions within the Vietnamese officials and intellectuals. When the fourth emperor, Tự Đức, ceded Southern Vietnam to France and called all Southern officials to give up arms, many ignored, disobeyed the Son of Heaven, and continued to fight against invaders. Many dissents viewed him as surrendering and frightened of France. Rebellions against Tự Đức erupted every year from 1860 until he died in 1883.[165]

A dual theory of sovereignty existed in Vietnam. All the Nguyễn monarchs were addresses as hoàng đế (黃帝, Sino-Vietnamese title for "Emperor") in the court while referring himself the first person honorific trẫm (he who give the order). They also used the concept of thiên tử (天子, "Son of Heaven", which is borrowed from China) to demonstrate that the ruler was descended and commissioned by heaven to rule the kingdom.[161] However, in most cases, Nguyen rulers were formally called vua (𪼀, the Vietnamese title for "monarch" or " sovereign ruler") by the ordinary Vietnamese folks.[166][167] The concept of a divine Son of Heaven has not been dogmatically practiced, and the monarch's divinity was not absolute due to the dual theory. For example, Xu Jiyu, a Chinese geographer, reported that the bureaucrats in the Vietnamese court sat down and even felt free to search themselves for body lice during the court audiences. Gia Long once told the son of J. B. Chaigneau, one of his advisors, that the use of Son of Heaven in Vietnam was an "absurdity" and "at least in mixed Vietnamese-European Company."[167] Once the young crown prince being chosen to succeed, his obligation was to be filial with parents, being well-educated in politics and classics, internalise the morals and ethics of a ruler.[168]

After the 1884 Treaty of Huế was signed, the Nguyễn dynasty became two protectorates of France and the French installed their own administrators.[169] Although the Emperors of the Nguyễn dynasty were still nominally in control of the protectorates of Annam and Tonkin, the Resident-Superior of Annam gradually gained more influence over the imperial court in Huế.[169] In 1897 the Resident-Superior was granted the power to appoint the Nguyễn dynasty Emperors and presided over the meetings of the Viện cơ mật.[169] These moves incorporated French officials directly into the administrative structure of the Imperial Huế Court and further legitimised French rule in the legislative branch of the Nguyễn government.[169] From this period onwards any imperial edicts issued by the Emperors of Đại Nam had to be confirmed by the Resident-Superior of Annam giving him both legislative and executive power over the Nguyễn government.[169]

In the year 1898 the federal government of French Indochina took over the financial and property management duties of the Nguyễn dynasty's imperial court meaning that the Nguyễn dynasty Emperor (at the time Thành Thái) became a salaried employee of the Indochinese colonial structure, reducing their power to being only a civil servant of the Protectorate government.[169] The Resident-Superior of Annam also took over the management of provincial mandarins and was a member of the Supreme Council (Conseil supérieur) of the Government-General of French Indochina.[169]

Civil service and bureaucracy


*
Rank Civil position Military position
Upper first rank (Bậc trên nhất phẩm) Imperial Clan Court (Tông Nhân Phủ, Tôn nhân lệnh)
Three Ducal Ministers (Tam công):
* Grand Preceptor (Thái sư)
* Grand Tutor (Thái phó)
* Grand Protector (Thái bảo)
Same
First senior rank (Chánh nhất phẩm) Left Right Imperial Clan Court (Tôn nhân phủ, Tả Hữu tôn chính")
Three Vice-Ducal Ministers (Tam Thiếu)
* Vice Preceptor (Thiếu sư)
* Vice Tutor (Thiếu phó)
* Vice Protector (Thiếu bảo)
Same
First junior rank (Tòng nhất phẩm) Council of State (Tham chính viện)
House of Councillors (Tham Nghị viện)
Grand Secretariat (Thị trung Đại học sĩ)
Banner Unit Lieutenant General, General-in-Chief, Provincial Commander-in-Chief
Second senior rank (Chánh nhị phẩm) 6 ministries (Lục bộ):
* Ministry of Personnel (Bộ Lại)
* Ministry of Rites (Bộ Lễ)
* Ministry of Justice (imperial China) (Bộ Hình)
* Ministry of Finance (Bộ Hộ)
* Ministry of Public Works (Bộ Công)
* Ministry of Defense (Bộ Binh)
Supreme Censorate (Đô sát viện, Tả Hữu Đô ngự sử)
Banner Captain General, Commandants of Divisions, Brigade General
Second junior rank (Tòng nhị phẩm) 6 Ministerial Advisors (Lục bộ Tả Hữu Tham tri)
Grand coordinator and provincial governor (Tuần phủ)
Supreme Vice-Censorate (Đô sát viện, Tả Hữu Phó đô ngự sử)
Major General, Colonel
Third senior rank (Chánh tam phẩm) Senior Head of 6 Ministries (Chánh thiêm sự)
Administration Commissioner (Cai bạ)
Surveillance Commissioner (Ký lục)
State Auxiliary Academician of Secretariat (Thị trung Trực học sĩ)
Court Auxiliary Academician (Trực học sĩ các điện)
Court academician (Học sĩ các điện)
Provincial governor (Hiệp trấn các trấn)
Brigadiers of Artillery & Musketry, Brigadier of Scouts, Banner Division Colonel
Third junior rank (Tòng tam phẩm) Junior Head of Six Ministries (Thiếu thiêm sự)
Senior Palace Administration Commissioner (Cai bạ Chính dinh)
Chargé d'affaires (Tham tán)
Court of Imperial Seals (Thượng bảo tự)
General Staff (Tham quân)
Banner Brigade Commander
Fourth senior rank (Chánh tứ phẩm) Provincial Education Commissioner of Guozijian (Quốc tử giám Đốc học)
Head of six ministries (Thiếu thiêm sự)
Junior Court of Imperial Seals (Thượng bảo thiếu Khanh)
Grand Secretaries (Đông các học sĩ)
Administration Commissioner of Trường Thọ palace (Cai bạ cung Trường Thọ)
Provincial Advisor to Defense Command Lieutenant Governor (Tham hiệp các trấn)
Lieutenant Colonel of Artillery, Musketry & Scouts Captain, Police Major
Fourth junior rank (Tòng tứ phẩm) Provincial Vice Education Commissioner of Guozijian (Quốc tử giám phó Đốc học), Prefect (Tuyên phủ sứ), Captain, Assistant Major in Princely Palaces
Fifth senior rank (Chánh ngũ phẩm) Inner Deputy Supervisors of Instruction at Hanlin Institutes, Sub-Prefects Police Captain, Lieutenant or First Lieutenant
Fifth junior rank (Tòng ngũ phẩm) Assistant Instructors and Librarians at Imperial and Hanlin Institutes, Assistant Directors of Boards and Courts, Circuit Censors Gate Guard Lieutenants, Second Captain
Sixth senior rank (Chánh lục phẩm) Secretaries & Tutors at Imperial & Hanlin Institutes, Secretaries and Registrars at Imperial Offices, Police Magistrate Bodyguards, Lieutenants of Artillery, Musketry & Scouts, Second Lieutenants
Sixth junior rank (Tòng lục phẩm) Assistant Secretaries in Imperial Offices and Law Secretaries, Provincial Deputy Sub-Prefects, Buddhist & Taoist priests Deputy Police Lieutenant
Seventh senior rank (Chánh thất phẩm) None City Gate Clerk, Sub-Lieutenants
Seventh junior rank (Tòng thất phẩm) Secretaries in Offices of Assistant Governors, Salt Controllers & Transport Stations Assistant Major in Nobles' Palaces
Eighth senior rank (Chánh bát phẩm) None Ensigns
Eighth junior rank (Tòng bát phẩm) Sub-director of Studies, Archivists in Office of Salt Controller First Class Sergeant
Ninth senior rank (Chánh cửu phẩm) None Second Class Sergeant
Ninth junior rank (Tòng cửu phẩm) Prefectural Tax Collector, Deputy Jail Warden, Deputy Police Commissioner, Tax Examiner Third Class Sergeant, Corporal, First & Second Class Privates

Taxes[edit]

Nine coins, with pictures of their respective emperors
Nguyễn dynasty coins

Vietnam's monetary subunit was the quan (貫). One quan equaled 10 coins, equivalent to 600. Officials received the following taxes (Vietnamese: thuế đầu người):

  • First senior rank (Chánh nhất phẩm): 400 quan; rice: 300 kg; per-capita tax: 70 quan
  • First junior rank (Tòng nhất phẩm): 300 quan; rice: 250 kg; tax: 60 quan
  • Second senior rank (Chánh nhị phẩm): 250 quan; rice: 200 kg; tax: 50 quan
  • Second junior rank (Tòng nhị phẩm): 180 quan; rice: 150 kg; tax: 30 quan
  • Third senior rank (Chánh tam phẩm): 150 quan; rice: 120 kg; tax: 20 quan
  • Third junior rank (Tòng tam phẩm): 120 quan; rice: 90 kg; tax: 16 quan
  • Fourth senior rank (Chánh tứ phẩm): 80 quan; rice: 60 kg; tax: 14 quan
  • Fourth junior rank (Tòng tứ phẩm): 60 quan; rice: 50 kg; tax: 10 quan
  • Fifth senior rank (Chánh ngũ phẩm): 40 quan; rice: 43 kg; tax: 9 quan
  • Fifth junior rank (Tòng ngũ phẩm): 35 quan; rice: 30 kg; tax: 8 quan
  • Sixth senior rank (Chánh lục phẩm): 30 quan; rice: 25 kg; tax: 7 quan
  • Sixth junior rank (Tòng lục phẩm): 30 quan; rice: 22 kg; tax: 6 quan
  • Seventh senior rank (Chánh thất phẩm): 25 quan; rice: 20 kg; tax: 5 quan
  • Seventh junior rank (Tòng thất phẩm): 22 quan; rice: 20 kg; tax: 5 quan
  • Eighth senior rank (Chánh bát phẩm): 20 quan; rice: 18 kg; tax: 5 quan
  • Eighth junior rank (Tòng bát phẩm): 20 quan; rice: 18 kg; tax: 4 quan
  • Ninth senior rank (Chánh cửu phẩm): 18 quan; rice: 16 kg; tax: 4 quan
  • Ninth junior rank (Tòng cửu phẩm): 18 quan; rice: 16 kg; tax: 4 quan

Political organization[edit]

Education system[edit]

Colonial education[edit]

Pension

When mandarins retired, they could receive one hundred to four hundred quan from the emperor. When they died, the imperial court provided twenty to two hundred quan for a funeral.[citation needed]

Administrative divisions

Under Gia Long

During the reign of Gia Long, the kingdom was divided into twenty-three quasi-militant protectorates trấn and four military departments doanh.[170] Each protectorate, besides having their own separated regional governments, was under patrol of one greater, powerful unit called Overlord of Citadel, or the Viceroy. For examples, the northern protectorates had Bắc thành Tổng trấn (Viceroy of Northern Protectorates) in Hanoi, and southern protectorates had Gia Định thành Tổng trấn (Viceroy of Gia Định Protectorates) resides in Saigon.[171] Two famously viceroys during Gia Long's reign were Nguyễn Văn Thành (Hanoi) and Lê Văn Duyệt (Saigon). By 1802, these were:

  • 16 protectorates under joint-governance from the Viceroys.
  1. Sơn Nam Thượng (Hanoi)
  2. Sơn Nam Hạ (Nam Định)
  3. Sơn Tây
  4. Kinh Bắc (Bắc Ninh)
  5. Hải Dương
  6. Tuyên Quang
  7. Hưng Hoá
  8. Cao Bằng
  9. Lạng Sơn
  10. Thái Nguyên
  11. Quảng Yên
  12. Gia Định or Phiên An
  13. Biên Hoà
  14. Vĩnh Thanh (later became Vĩnh Long and An Giang
  15. Định Tường (Tiền Giang)
  16. Hà Tiên
  • 7 Central protectorates
  • 4 departments surrounding Huế, directly ruled by Gia Long.
  1. Quảng Đức
  2. Quảng Bình
  3. Quảng Trị
  4. Quảng Nam

Minh Mạng and later[edit]

In 1831, Minh Mạng reorganised his kingdom by converting all these protectorates into 31 provinces (tỉnh). Each province had a series of smaller jurisdictions: the prefecture (phủ), the subprefecture (châu, in areas whereas having a significant population of ethnic minorities). Under prefecture and subprefecture, there was the district (huyện), the canton (tổng). Under district and canton, the bundle of hamlets around one common religious temple or social factor point, the village (làng or the commune ) was the lowest administrative unit, which one respected person nominally took care of village administrative, which called lý trưởng.[172]

Two nearby provinces were combined into a pair. Every pair had a governor-general (Tổng đốc) and a governor (Tuần phủ).[173] Frequently, there were twelve governor-generals and eleven governors, although, in some periods, the Emperor would appoint a "commissioner in charge of patrolled borderlands" (kinh lược sứ) that supervising entire northern of the southern part of the kingdom.[174] In 1803, Vietnam had 57 prefectures, 41 subprefectures, 201 districts, 4,136 cantons and 16,452 villages, and then by the 1840s its had been increased to 72 prefectures, 39 subprefectures and 283 districts, which an average 30,000 people per district.[172] Cambodia had been absorbed into the Vietnamese administrative system, bore the name Tây Thành Province from 1834 to 1845.[175] With areas having minority groups like Tày, Nùng, Mèo (Hmong people), Mường, Mang and Jarai, the Huế court imposed the co-existing tributary and quasi-bureaucratic governance system, while allowing these people to have their own local rulers and autonomy.[176]

Map of 1883 Indochina Peninsula, shows three Vietnamese regions and client territories (Pays des Mois and Royme de Tran-ninh) of the Vietnamese Crown.

In 1832, there were:

  • Three regions and 31 provinces (encompassed modern-day Vietnam):[177]
  • Client/dependent territories:[178]
  1. Luang Phrabang
  2. Vientine
  3. Cambodia
  4. Jarai chiefdoms
  • Chief cities:
  1. Huế, capital city, population (1880): 30,000
  2. Hanoi, major city, population (1880): 120,000
  3. Saigon, major city, population (1880): 100,000

Economyedit

Society

Culture and Cultural Discrimination[edit

The Nguyễn dynasty viewed cultures that were "non-Chinese" as barbaric and called themselves the Central Kingdom (Trung Quốc, 中國).[179] This includes the Han Chinese under the Qing dynasty who were viewed as "non-Chinese". As the Qing have caused the Chinese to not be "Han" anymore. Chinese were referred to as "Thanh nhân" (清人). This occurred after Vietnam had sent a delegate to Beijing, whereupon a diplomatic disaster caused Vietnam to view other "non-Chinese" as barbaric in much the same way as the Qing.[180] By the Nguyễn dynasty the Vietnamese themselves were ordering Cambodian Khmer to adopt Vietnamese culture by ceasing "barbarous" habits like cropping hair and ordering them to grow it long besides making them replace skirts with trousers.[181] Han Chinese Ming dynasty refugees numbering 3,000 came to Vietnam at the end of the Ming dynasty. They opposed the Qing dynasty and were fiercely loyal to the Ming dynasty. Vietnamese women married these Han Chinese refugees since most of them were soldiers and single men. They did not wear Manchu hairstyle unlike later Chinese migrants to Vietnam during the Qing dynasty.[182]

Vietnamisation of ethnic minorities[edit]

A Đồng Khánh period text regarding the demographics of the Hưng Hóa Province referring to the ethic groups as "Hán (-Vietnamese)" (漢), "Thanh" (清), and "Thổ" (土). This indicates that during the beginning of the period of French domination the Vietnamese still maintained the "Hoa-Di distinction" while the indigenous peoples and the subjects of the Manchu Qing (Thanh) dynasty were viewed as "less civilised".

Under emperor Minh Mạng sinicisation of ethnic minorities became state policy. He claimed the legacy of Confucianism and China's Han dynasty for Vietnam, and used the term "Han people" (漢人, Hán nhân) to refer to the Vietnamese.[183][184] According to the emperor, "We must hope that their barbarian habits will be subconsciously dissipated, and that they will daily become more infected by Han [Sino-Vietnamese] customs."[185] These policies were directed at the Khmer and hill tribes.[186] Nguyễn Phúc Chu had referred to the Vietnamese as "Han people" in 1712, distinguishing them from the Chams.[187] The Nguyễn lords established colonies after 1790. Gia Long said, "Hán di hữu hạn" ( , "The Vietnamese and the barbarians must have clear borders"), distinguishing the Khmer from the Vietnamese.[188] Minh Mang implemented an acculturation policy for minority non-Vietnamese peoples.[189] "Thanh nhân" ( referring to the Qing dynasty) or "Đường nhân" (唐人 referring to the Tang dynasty) were used to refer to ethnic Chinese by the Vietnamese, who called themselves "Hán dân" () and "Hán nhân" (漢人 referring to the Han dynasty) during 19th-century Nguyễn rule.[190] Since 1827, descendants of Ming dynasty refugees were called Minh nhân (明人) or Minh Hương ( ) by Nguyễn rulers, to distinguish with ethnic Chinese.[191] Minh nhân were treated as Vietnamese since 1829.[192][193]: 272  They were not allowed to go to China, and also not allowed to wear the Manchu queue.[194]

Costumeedit

The Nguyễn dynasty popularized Qing-influenced clothing.[195][196][197][198][199][200] Trousers were adopted by female White H'mong speakers,[201] replacing their traditional skirts.[202] The Qing-influenced tunics and trousers were worn by the Vietnamese. The áo dài was developed in the 1920s, when compact, close-fitting tucks were added to predecessor of the áo dài, áo ngũ thân.[203] Chinese-influenced trousers and tunics were ordered by lord Nguyễn Phúc Khoát during the 18th century, replacing traditional Vietnamese áo tràng vạt dervied from Chinese jiaoling youren (Chinese: 交領右衽).[204] Although the Chinese-influenced trousers and tunic were mandated by the Nguyen government, skirts were worn in isolated north Vietnamese hamlets until the 1920s.[205] Chinese style clothing was ordered for the Vietnamese military and bureaucrats by Nguyễn Phúc Khoát.[206]

An 1841 polemic, "On Distinguishing Barbarians", was based on the Qing sign "Vietnamese Barbarians' Hostel" (越夷會館) on the Fujian residence of Nguyen diplomat and Hoa Chinese Lý Văn Phức.[207][208][209][210] It argued that the Qing did not subscribe to the neo-Confucianist texts from the Song and Ming dynasties which were learned by the Vietnamese,[211] who saw themselves as sharing a civilization with the Qing.[212] This event triggered a diplomatic disaster. The consequence was that non-"Han Chinese highland tribes" and other non-Vietnamese peoples living near (or in) Vietnam were called "barbarian" by the Vietnamese imperial court.[213][214] The essay distinguishes the Yi and Hua, and mentions Zhao Tuo, Wen, Shun and Taibo.[215] Kelley and Woodside described Vietnam's Confucianism.[216]

Emperors Minh Mạng, Thiệu Trị and Tự Đức, were opposed to French involvement in Vietnam, and tried to reduce the country's growing Catholic community. The imprisonment of missionaries who had illegally entered the country was the primary pretext for the French to invade (and occupy) Indochina. Like Qing China, a number of incidents involved other European nations during the 19th century.

Religion[

Buddhist monks in South Vietnam, 1828

Although the previous Nguyễn lords were faithful Buddhists, Gia Long was not a Buddhist. He adopted Neo-Confucianism and actively restricted Buddhism. Scholars, elites, and officials attacked Buddhist doctrines and criticized them as superstitious and useless. The third emperor, Thiệu Trị, elevated Confucianism as the true religion and while regarding Buddhism as superstition.[217]

Church of Sơn Tây in 1884.

Building new Buddhist pagodas and temples were forbidden. Buddhist clergies and nuns were forced to join public works in order to limit the influence of Buddhism and promote Confucianism as the sole dominant belief of the society. However, such embracing a Sinic Confucian culture among the Vietnamese populace whom lived amidst a Southeast Asian infrastructure, widening the distance between the population and the court far away.[218] Buddhism is still prevalence in the mainstream society and had its presence within the imperial palace. Empress mother, queens, princess, and concubines were devout Buddhists, despite the patriarchy prohibition.

Confucianism itself was the ideology of the Nguyen court, also provided the basic core of classical education and civil examination every year. Gia Long pursued Confucianism to create and maintain a conservative society and social structures. Confucian rituals and ideas were circulations based within ancient Confucian teaching such as The Analects and Spring and Autumn Annals in Vietnamese-script collections.[219] The court rigidly imported these Chinese books from Chinese merchants. Confucian rituals such as cầu đảo (offering heaven for wind and rain during a drought) that the emperor and court officials perform for wishing heaven to rain down his kingdom.[220] If the offer went successful, they had to conduct lễ tạ (thanksgiving ritual) to heaven. In addition, the emperor believed that holy spirits and natural goddesses of his country can also make rain. In 1804, Gia Long built the Nam Hải Long Vương Temple (Temple of Southern Ocean Dragon King) in Thuận An, northeast of Hue in his faithfulness to the god of Thuận An (Thần Thuận An), the place where most of cầu đảo ritual was performed.[221] His successor, Minh Mạng, continued to build several temples dedicated to the Vũ Sư (Rainmaking god) and altars for Thần Mây (Cloud God) and Thần Sấm (Thunder God).[222]

Vietnamese Buddhist monks in Hanoi

Nguyễn Trường Tộ, a prominent Catholic and reformist intellectual, launched an attack on Confucian structures in 1867 as decadent. He wrote to Tự Đức: "the evil that has been brought on China and on our country by the Confucian way of life." He criticized the court's Confucian education as dogmatic and unrealistic, promoted for his education reform.[223]

During Gia Long's years, Catholicism was peacefully worshipped without any restriction. Began with Minh Mạng, who considered Christianity as a heterodox religion for its rejection of ancestor worship, the important belief of the Vietnamese monarchy. After reading the Bible (Old and New Testament), he considered the Christianity religion irrational and ridiculous, and praised Tokugawa Japan for its notorious policies on Christians. Minh Mạng also was influenced by anti-Christian propaganda written by Vietnamese Confucian officials and literati, which described the mixing of men and women and liberal society among the Church. The most thing he worried about Christianity and Catholicism was writing texts that proved that Christianity was a means for Europeans to take over foreign countries. He also praised the anti-Christian policy in Japan.[224] Churches were destroyed and many Christians were imprisoned. The persecution got intense during the reign of his grandson Tự Đức, when most of the state efforts were to annihilate Vietnamese Christianity. Unironically, even during the height of the anti-Catholic campaign, many Catholic scholars were still permitted to hold high positions in the imperial court.

After an imperial edict in late 1862, Catholicism was officially recognized and worshippers of the faith obtained state protection. It is estimated that late-19th century Vietnam had about 600,000 to 700,000 Catholic Christians.

Demography

Traditional Pharmacy in Tonkin, Vietnam

Before the French conquest, the Vietnamese population was very sparse due to the agricultural backbones economy of the country. The population in 1802 was 6.5 million people and had only grown to 8 million by 1840.[225] Rapid industrialization after the 1860s ushered in massive population growth and rapid urbanization in the late 19th century. Many peasants left tenant farms and poured into cities, they were hired by French-owned factories. By 1880 the Vietnamese were estimated back then as high as 18 million people,[226] while modern estimates by Angus Maddison have suggested a lower figure of 12.2 million people.[227] Vietnam under the Nguyễn dynasty was always a multiethnic complex. Nearly 80% percent of the Empire's population were ethnic Vietnamese (called Annamites then),[228] whom language belonged to the Mon-Khmer (Mon—Annamite then) stock,[229] and the rest were Cham, Chinese, Khmer, Mường, Tày (called Thô then), and other 50 ethnic minorities such as the Mang, Jarai, Yao.[230]

Children playing a traditional game in Quỳ Châu, Nghệ An province, 1920

The Annamites are distributed across the lowland of the country from Tonkin to Cochichina. The Chams live in central Vietnam and the Mekong Delta. The Chinese particularly concentrated in urbanised areas such as Saigon, Chợ Lớn, and Hanoi.[231] The Chinese tended to be divided into two groups called Minh Hương (明鄉) and Thanh nhân (清人).[232] The Minh Hương were Chinese refugees that had migrated and settled down in Vietnam earlier during the 17th century, who married with Vietnamese women, had been substantially assimilated to local Vietnamese and Khmer populaces, and loyal to the Nguyen,[233] compared to the Thanh nhân that recently arrived in Southern Vietnam, dominated the rice trade. During the reign of Minh Mạng, a restriction against the Thanh nhân was issued in 1827, Thanh nhân could not access to the state bureaucracy and had to be integrated into Vietnamese population like the Minh Hương.[234]

The Mường people inhabited on the hills west of the Red River Delta, although subordinate to the central authority, they were also permitted to bear arms, a privilege not accorded to any other subjects of the court of Huế. The Tày and the Mang live in the northern highlands of Tonkin, both submitted to Huế court along with taxes and tribute, but are allowed to have their hereditary chiefs.[235]

Photography[edit]

The first photographs of Vietnam were taken by Jules Itier in Danang, in 1845.[236] The first photos of the Vietnamese were taken by Fedor Jagor in November 1857 in Singapore.[237] Due to the forbidden contact to foreigners, photography returned to Vietnam again during the French conquest and had shots taken by Paul Berranger during the French invasion of Da Nang (September 1858).[238] Since the French seizure of Saigon in 1859, the city and southern Vietnam had been opening to foreigners, and photography entered Vietnam exclusively from France and Europe.[239]

Military[edit]

Gallery[edit]



Hoàng đế nhà Nguyễn
Bảo Đại
保大
Vua Việt Nam
Hoàng đế nhà Nguyễn
Trị vì6 tháng 11 năm 192530 tháng 8 năm 1945
(19 năm, 297 ngày)
Đăng quang8 tháng 1 năm 1926
Tiền nhiệmKhải Định
Kế nhiệmChế độ quân chủ sụp đổ. Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
Hoàng thái tử nhà Nguyễn
Tại vị28 tháng 4 năm 19225 tháng 11 năm 1925
(3 năm, 191 ngày)
Kế nhiệmNguyễn Phúc Bảo Long
Hoàng đế Đế quốc Việt Nam
Trị vì9 tháng 3 năm 194530 tháng 8 năm 1945
(174 ngày)
Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam
Tại nhiệm13 tháng 6 năm 194926 tháng 10 năm 1955
(6 năm, 135 ngày)
Tiền nhiệmNguyễn Văn Xuân
(Thủ tướng Chính phủ Lâm thời)
Kế nhiệmNgô Đình Diệm
(Tổng thống Việt Nam Cộng hòa)
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
Tại nhiệm14 tháng 7 năm 194921 tháng 1 năm 1950
(191 ngày)
Tiền nhiệmNguyễn Văn Xuân
Thông tin chung
Sinh(1913-10-22)22 tháng 10, 1913
Huế, Đại Nam, Liên bang Đông Dương
Mất31 tháng 7, 1997(1997-07-31) (83 tuổi)
Val-de-Grâce, Paris, Pháp
An táng06 tháng 8 năm 1997
Nghĩa trang Passy
Vợ
Hậu duệ
Tên húy
Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞)
Niên hiệu
Bảo Đại (保大)
Triều đạiNhà Nguyễn
Thân phụKhải Định
Thân mẫuTừ Cung Hoàng thái hậu
Tôn giáoPhật giáo
Công giáo
Chữ kýChữ ký của Bảo Đại

Bảo Đại (chữ Hán: 保大, 22 tháng 10 năm 191331 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị vua cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn, cũng là vị hoàng đế cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam.

Bảo Đại vốn là niên hiệu của ông, tục lệ các vị Hoàng đế nhà Nguyễn chỉ giữ một niên hiệu nên dân gian hay dùng niên hiệu để gọi vị Hoàng đế đó. Ông lên ngôi năm 1925 khi Đại Nam vẫn còn dưới thời Pháp thuộc. Đến năm 1945, dưới sự sắp xếp của phát xít Nhật, ông công bố Tuyên cáo Việt Nam độc lập và là Hoàng đế đầu tiên của Đế quốc Việt Nam. Trong Cuộc Cách mạng Tháng Tám vào cùng năm, Bảo Đại ban bố chiếu thoái vị, chấm dứt triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 cũng như sự thống trị của dòng họ Nguyễn (Phúc) từ năm 1558. Ông nhận làm Cố vấn tối cao cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, nhưng sau đó ông lại bỏ sang Hồng Kông.

Giữa bối cảnh Chiến tranh Đông Dương đang diễn ra, năm 1948, với sự liên lạc của mật thám Pháp tại Hồng Kông, Bảo Đại đứng ra đại diện cho các đảng phái quốc gia để thành lập nên Quốc gia Việt Nam hợp tác với Liên hiệp Pháp để chống lại chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Là Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam (19491955), Bảo Đại đã bị Tòa án Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kết án phản quốc với cáo trạng đã hợp tác với Liên hiệp Pháp, chống lại phong trào kháng chiến của dân tộc Việt Nam. Năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm phế truất ông để thành lập Việt Nam Cộng hòa. Từ đó, Bảo Đại đến sống lưu vongPháp tới khi qua đời.

Tiểu sử

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, tên tục lúc bé là Mệ Vững, sinh ngày 22 tháng 10 năm 1913[1] tại kinh thành Huế, là con trai duy nhất của vua Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc. Về thân thế của Bảo Đại cho đến nay vẫn còn nhiều dấu chấm hỏi lớn, vì theo các ghi chép lịch sử, vua Khải Định bị cho là vô sinh và không thích gần đàn bà.[2]

Ngày 28 tháng 4 năm 1922, khi được 9 tuổi, ông được xác lập làm Đông cung Hoàng Thái tử.[3] Ngày 15 tháng 6 năm 1922, ông cùng Khải Định sang Pháp để tham gia cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille. Đây là lần đầu tiên ông đi sang một quốc gia ở miền Tây Âu.

Thời niên thiếu tại Pháp

Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung KỳJean François Eugène Charles nhận làm con nuôi và học ở trường Lycée Condorcet.

Tháng 2 năm 1924, ông về nước để dự Lễ tứ tuần đại khánh của Khải Định, đến tháng 11 trở lại nước Pháp để tiếp tục học trường Hattemer.

Ngày 6 tháng 11 năm 1925, Khải Định mất, Vĩnh Thụy về nước thọ tang. Ngày 8 tháng 1, khi mới 12 tuổi, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm hoàng đế kế nhiệm, ông lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục du học.

Triều đình cử một bậc túc nho đi theo sang Pháp để dạy Vua học thêm chữ Hán và các khuôn phép phương đông nhưng các ông thầy người Pháp đã nhanh chóng cách ly ông. Sau này, khi ông về nước cầm quyền, chính Bảo Đại thú nhận rằng bản thân gần như hoàn toàn không biết gì về lịch sử triều đại đã dẫn đến việc quyền hành bị nước ngoài thâu tóm như thế nào.

Một viên chức cao cấp người Pháp chịu trách nhiệm trông nom dạy dỗ. Ông Charles chính là cựu Khâm sứ Pháp tại Huế, thay mặt nhà nước bảo hộ tại kinh đô An Nam, thời thơ ấu của Nhà vua. Khi Bảo Đại quay về Pháp, vua cha Khải Định đã uỷ thác cho ông Charles trông nom con trai. Hàng ngày, cứ vào buổi trưa, đi học về, Bảo Đại đến nhà của ông Charles ở phố Rue des Bourdonnais và ở đó không được đi đâu cho đến chiều tối.

Ngoài việc theo dõi từng bước việc học tập tại trường mà trong dịp còn đưa Bảo Đại đi nghỉ ở Vichy hay tại nhà riêng ở Prades. Có thể nói ông Charles coi Bảo Đại gần như con cháu trong nhà. Thời khoá biểu trong những năm niên thiếu của Bảo Đại đã được quy định chặt chẽ, chính xác, thích hợp với việc dạy làm vua trong tương lai. Ngoài giờ lên lớp buổi sáng, thời gian còn lại là làm những bài tập rất chuyên cần cùng với vài người đồng hương.

Từ niên khóa 1930, Bảo Đại vào học trường Sciences Po. Bảo Đại sống trong một căn nhà dành riêng cho mình tại số 13 phố Lamballe. Theo báo L'Asie Nouvelle (Châu Á mới) kể lại, ngoài thời gian học, Bảo Đại chơi thể thao. Đây là một điều mới mẻ, một cuộc cách mạng với hoàng tộc. Những ảnh chụp thời đó cho thấy Bảo Đại mặc trang phục quần vợt, quần soóc, áo thun trắng, hay trang phục của người chơi golf, trượt tuyết. Lúc nào chàng thanh niên cũng ăn mặc chỉnh tề, trau chuốt, lịch sự, điển trai, hợp với những thú vui Paris hơn là hoạt động chính trường.

Chàng thanh niên thích thú với cách sống như vậy cho đến năm 1932, và chúng đã trở thành thói quen đến mức không dễ dàng thay đổi. Trong lúc bố cáo đã được niêm yết ở cửa Ngọ môn báo tin Hoàng đế hồi loan khiến hàng triệu người dân Việt ngóng trông thì ông vẫn còn do dự vì hình như là ông chưa dứt khoát quyết định rằng sẽ trở về nước.

Bảo Đại là người say mê chơi ô tô, ở tuổi 16 đã sở hữu trong tay nhiều kiểu ôtô. Cậu thanh niên có các xe tốc độ cao để đi vào các đường phố thủ đô hay đi trên đường cao tốc từ Cannes đến Deauville. Bản thân ông là người có năng khiếu, lái xe giỏi và nhanh, thoải mái, bình tĩnh mỗi khi tăng tốc độ, biết sử dụng tính năng của động cơ, không mất thời gian để gây ấn tượng như những tay chơi kiểu cách nhưng đôi khi cũng suýt gây tai nạn khi quành một chỗ rẽ.[4]

Chính phủ Pháp không phải là không biết tính Bảo Đại chẳng ham thích gì trách nhiệm của vị đế vương. Về thái độ không mấy hăng hái trở về, ông Chatel, thư ký của Phủ Toàn quyền viết: “Tôi tự hỏi không biết ông Bảo Đại có luôn luôn tìm cách trì hoãn thêm nữa việc trở về nước không. Nếu tôi tin vào tâm sự của một số người gần gũi với ông ta thì quả là ông ta tỏ ra không sốt sắng lắm, không vội vã trở về để trị vì[5]

Các hồ sơ lưu trữ của Phủ Toàn quyền Pháp cho biết cùng thời gian đó triều đình Huế cũng sôi sục những mưu toan thủ đoạn thầm lén. Các quan thượng thư trong triều cũng không ngồi yên. Công việc điều hành nhiếp chính trở nên khó khăn. Quan đại thần đứng đầu Viện cơ mật cũng gây không ít khó khăn cho chính quyền bảo hộ.

Tổng thư ký Phủ Toàn quyền Đông Dương là Eugène Chatel ngày càng tỏ ra bực bội trước những do dự của Bảo Đại. Chatel đã viết nhiều báo cáo về Bộ Thuộc địa, biện hộ sự cần thiết cần có nghi thức thật tráng lệ huy hoàng, đòi chi thêm tiền, thêm điều kiện dễ dàng. Tương lai của triều đại phụ thuộc một phần vào các điều kiện vật chất và tinh thần cho việc trở về. Ông viết trong báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931: “Chúng ta nên cố gắng, không tiếc sức…” Các kế hoạch đề đạt đã được thông qua ở cấp cao nhất.[6]

Lúc này, Ban Thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp họp kín tại 120 phố Chateaudun. Tám người có mặt, một người Âu và bảy người Việt. Trong chương trình nghị sự có mục: “Hoàng đế trở về nước và việc ám sát Bảo Đại”. Tất cả mọi người có mặt đều tuyên bố ủng hộ việc xử tử Bảo Đại. Sẽ tổ chức bốc thăm, ai trúng sẽ được giao thi hành nhiệm vụ. Một người tên là Phạm Văn Điều được chỉ định thực hiện bản án tử hình Bảo Đại ở Paris. Một người Việt khác tên là Nguyễn Đình Tính tức “Blinov” có trách nhiệm tổ chức một vụ thứ hai, lần này ở Marseille khi Nhà vua bước lên cầu tàu thủy.[7]

Về nước

Tháng 9 năm 1932, Bảo Đại bắt đầu cuộc đại hành trình về nước. Bộ trưởng Thuộc địa khi đó là Albert Sarraut đã đại diện chính phủ đến Marseille để đưa tiễn. Sau đó là những nơi tàu ghé lại đều tổ chức đón tiếp linh đình, trừ ở Penang, Malaysia là nơi Sở mật thám được tin mật báo có vụ mưu sát. Đây là vụ thứ ba được phát hiện. Sau hai lần trước định tổ chức ở Paris và Marseille không thành công, người ta dự định sẽ tổ chức vụ ám sát khủng bốbán đảo Mã Lai. Ngày hôm đó, con tàu xuyên đại dương mang tên Président Doumer đã phải âm thầm thả neo ở xa nơi tổ chức lễ đón tiếp. Nhưng hung thủ, người của ban Thuộc địa Đảng Cộng sản Pháp đã không xuất đầu lộ diện. Con tàu khách đi tiếp vào lãnh hải Việt Nam, thả neo ở mũi Saint-Jacques (Vũng Tàu ngày nay) xung quanh có các tàu chiến bảo vệ.[8]

Tại đây Bảo Đại rời tàu khách chuyển sang tàu chiến: Đó là tàu Dumont d’Urville sẽ đưa ông đến Đà Nẵng. Đến đó Vua mới thật sự cập bến để bước chân lên đất liền thuộc lãnh thổ An Nam. Đoàn tàu hộ tống ngoài chiếc Dumont d’Urville còn có thêm hai tàu nữa. Từng loạt đại bác nổ vang khi Vua rời khỏi tàu khách vượt qua vài sải nước để bước lên tàu. Các tàu đỗ trong vịnh đều treo cờ. Đến cảng Đà Nẵng ông lại chuyển sang pháo thuyền ngược sông Hàn cập bến thành phố. Cuối cùng ông bước lên xe lửa đặc biệt đi thêm 100 cây số nữa mới đến Huế. Sau này. Ông viết trong hồi ký: “Sau nhiều năm sống tự do tôi có cảm tưởng từ nay bước vào nơi giam cầm…[9]

Sự nghiệp

Hoàng đế Đại Nam (19251945)

Ngày 10 tháng 9, Nhà Vua ra quyết định nhằm vào những tập tục lâu đời mang tính hình thức đang cột chặt lối sống và nếp nghĩ của Triều đình. Vị vua hai mươi tuổi chủ toạ buổi chầu truyền thống trong đó các vị quan lại đầu ngành trong bộ máy hành chính nhà nước đến chúc mừng Nhà vua mới trở về sau một thời gian dài vắng mặt.

Trước hết, Vua phát biểu bằng tiếng Pháp. Điều này đã xúc phạm các vị quan trẻ có tinh thần dân tộc lẫn các vị quan lớn tuổi thấm nhuần nền văn hoá Trung Hoa. Bảo Đại đã cải cách công việc trong triều như sắp xếp lại việc nội chính, hành chính. Ông đã cho bỏ một số tập tục mà các vua nhà Nguyễn trước đã bày ra như thần dân không phải quỳ lạy mà có thể ngước nhìn vua khi lễ giá tới, mỗi khi vào chầu các quan Tây không phải chắp tay xá lạy mà chỉ bắt tay vua, các quan ta cũng không phải quỳ lạy.

Trong thời gian vua vắng mặt, các bà nội, bà ngoại của vua, thái hoàng thái hậu – mê mải cờ bạc, đã chi tiêu những khoản tiền quá lớn. 25 nghìn đồng bạc trong quỹ riêng của Nhà vua đã phải trích ra để trả nợ mà vẫn không đủ. Rồi các bà đòi thăng quan tiến chức cho những người được các bà che chở. Đứng đầu chủ nợ lại là một ông lão nguyên là người đứng đầu Hội đồng thượng thư (Nội các).

Bảo Đại muốn xoá bỏ những thói hối lộ trong bộ máy cai trị của triều đình và đổi mới các quy tắc thừa hưởng của người Trung Hoa. Ông tin ở hiệu năng của cuộc cải cách. Ông áp dụng không băn khoăn do dự những biện pháp do ông khâm sứ Chatel đã soạn thảo công phu và còn tự mình bổ sung những điểm mới. Nhà Vua cho giảm bớt các lễ thức chào hỏi cung kính, tôn thờ. Bớt những đồ đạc bài trí chỉ gây tò mò mà vô bổ. Bỏ hẳn thói quen để móng tay dài quá mức, để râu dài ở các cụ cao tuổi, chỉ dám nhìn dưới đất chứ không ngẩng mặt lên nhìn vào người đối thoại. Bỏ cả thói quen chọc tiết khi giết mổ bò.

Ngày 19 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại ra đạo dụ số một tuyên cáo chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ Đại Nam hoàng triều. Văn bản này hủy bỏ "Quy ước" ngày 16 tháng 11 năm 1925 lập ra sau khi Khải Định mất không lâu. Từ nay Nhà vua sẽ quản lý công việc đất nước, quan tâm đến bước tiến của đế chế. Nhà cầm quyền bảo hộ Pháp hoan nghênh. Trước đây việc cai trị do một hội đồng được người Pháp bổ nhiệm, vì vậy hoàn toàn phụ thuộc vào chính quyền bảo hộ Pháp. Vua không tham dự công việc của hội đồng, không dính líu vào các quyết định và chỉ giới hạn trong vai trò thuần tuý trang trí.

Thực tế, một điều khoản mới quy định Khâm sứ Trung Kỳ do Paris bổ nhiệm có quyền phủ quyết mọi quyết định của Nhà vua ngay cả đối với quyết định ít quan trọng nhất. Vậy là bộ máy lãnh đạo đất nước vẫn y nguyên. Hơn nữa quan chức người Pháp có chân trong nội các – hội đồng thượng thư – có thể đồng ý hay không đồng ý với quyết định của nội các tức là ông ta quyết định mọi việc. Trái lại, những biện pháp cải cách này dần dà sẽ như là một bước lùi so với hiệp ước bảo hộ năm 1884.

Chỉ mấy tháng sau ngày trở về, Bảo Đại đã có chuyến đi thăm các tỉnh trong xứ An Nam, một việc trước đây các Hoàng đế tiền nhiệm chưa bao giờ làm. Nhà vua tuyên bố thẳng không chút quanh co úp mở rằng ông có ý định một mình cầm quyền không cần thủ tướng, qua đó muốn nói lên ý muốn nắm quyền thực sự chứ không chỉ bằng lòng với vai trò danh dự. Một vài biện pháp canh tân, ít quan trọng, mức độ vừa phải đã được Bảo Đại đề ra. Ông cố gắng thay đổi phương hướng hoạt động của nền cai trị cũ, cải tổ giáo dục, thông qua bộ luật hình sự và dân sự mới, đưa đất nước dần dần đi đến một nền quân chủ lập hiến. Đặc biệt ông cải tổ Viện dân biểu Trung Kỳ. Chủ tịch Viện được tham gia các cuộc họp nội các. Sau cùng ông cải tổ chế độ quan trường, gây nên sự chống đối của Ngô Đình Diệm.

Các khoản thuế đều do nhà nước bảo hộ Pháp phân bổ, thu và tự ý sử dụng. Điều này ở Bắc Kỳ đã thi hành từ lâu rồi. Toà Khâm sứ Trung Kỳ sẽ ấn định ngân sách chi tiêu của chính phủ Nam triều và trợ cấp cho triều đình một khoản tiền để trả lương hàng tháng. Tất cả những người Nhà vua đã gặp từ khi về nước, những người phục vụ, những người lính hộ vệ hoàng cung, những nhạc công và vũ nữ Nhã Nhạc Cung Đình đều chỉ sống bằng một khoản lương có chữ ký duyệt của một quan chức bảo hộ. Tất cả đều do người Pháp trả lương.

Nhà vua có một khoản phụ cấp hàng năm tính vào ngân sách của Trung Kỳ mà chính ông cũng không được quyền quyết định phụ cấp ấy là bao nhiêu và hàng tháng phải có chữ ký duyệt của Toà Khâm sứ Pháp mới được lĩnh để chi dùng. Kể cả các khoản chi tiêu cá nhân. Bảo Đại vì tính tự trọng danh dự không bao giờ dám trực tiếp khiếu nại điều gì. Ông chỉ hé lộ qua người khác, những nhu cầu, ý muốn của ông. Kế toán thuộc địa tỉ mỉ đến từng chi tiết. Hồ sơ lưu trữ còn giữ lại dấu tích của các cuộc đấu tranh đó nhiều khi rất khốn khổ. Từ việc đóng sách, làm khung ảnh đến làm một cuốn sưu tập tem thư tại một cửa hiệu nổi tiếng của bà Renoux nào đó ở Hà Nội cũng đều được ghi chép trong sổ sách. Bảo Đại muốn đóng một tập album thật sang ngoài bìa khảm da, bên trong lụa vàng để lưu giữ các huy hiệu của ông. Chi phí hết 250 đồng bạc cũng phải làm tới ba tờ hoá đơn có chữ ký của viên chức nhà nước bảo hộ Pháp cùng trao đổi với giám đốc tài vụ, cuối cùng mới được duyệt chi, tính vào mục 20 khoản 2 của tổng ngân sách ghi rõ mục quà tặng ngoại giao. Việc đi lại giao du với các cận thần trong triều cũng không được tự do thoải mái. Nhà vua trẻ héo hắt dần, tự giam mình trong tư thất, chỉ còn chăm chỉ giao du với ông bà Charles sống trong tư dinh Điện Kiến Trung.

Nhà vua cam kết tôn trọng các thoả ước ngoại giao hiện hành với nước Pháp. Nếu ông ta không tôn trọng các điều khoản đã ký tức là bị "coi như từ bỏ vương quyền".[10] Nói một cách khác nếu Nhà vua không đồng ý với Toàn quyền Pháp, dù là trong phạm vi điều hành việc nước cho đến mua bộ khuy bấm cổ tay áo sơ mi, thì ông có thể sẽ bị người Pháp truất ngôi.

Bảo Đại nhận ra rằng điều thay đổi nhiều nhất là các thói quen của bản thân và gia đình ông. Đó là hậu quả đầu tiên và chủ yếu của nhiều năm học tập ở châu Âu. Ông thiết lập những tục lệ mới. Khi mùa mưa đến, ông tránh không khí ẩm thấp ở Huế, đi Đà Lạt để được hưởng khí hậu mát mẻ dễ chịu ở vùng núi cao. Ông cho xây dựng ở Đà Lạt một biệt điện mới.

Ngày 8 tháng 4 năm 1933, Bảo Đại đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình DiệmBùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại.[11]

Ông thành lập Viện Dân biểu để trình bày nguyện vọng lên nhà vua và quan chức bảo hộ Pháp và cho phép Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ được thay mặt Nam triều trong việc hợp tác với chính quyền bảo hộ Pháp, tháng 12 năm 1933, Bảo Đại ra Bắc kỳ thăm dân chúng.



Hoàng đế Đế quốc Việt Nam (1945)

Thành lập Đế quốc Việt Nam

Sau khi Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương, bộ máy hành chính của thực dân Pháp tan rã, vì thế việc thành lập chính phủ mới được Nhật đặt ra như một đòi hỏi cấp bách và Đế quốc Việt Nam ra đời trong bối cảnh đó.[12] Theo sự sắp xếp của quân đội Nhật, ngày 11 tháng 3 năm 1945, vua Bảo Đại gặp cố vấn tối cao của Nhật là Đại sứ Yokoyama Masayuki tại điện Kiến Trung để ký bản "Tuyên cáo Việt Nam độc lập" [13] (bản tuyên cáo này do Nhật Bản soạn sẵn và họ đã gây sức ép để các quan đại thần nhà Nguyễn phải ký vào đêm hôm trước). Tuyên cáo do Bảo Đại ký có nội dung chính là tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, thống nhất Bắc Kỳ, Trung KỳNam Kỳ, bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ và bất bình đẳng với Pháp trước đây. Tuy nhiên, đoạn sau của Tuyên cáo được Nhật cài thêm khẩu hiệu về Khối Thịnh vượng chung Đại Đông Á, theo đó quân Nhật có quyền trưng dụng tài sản trên toàn Việt Nam:[14]

Ngày 7 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng Kim. Ngày 12 tháng 5 ông giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ[15]. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam, lấy cờ quẻ Ly làm quốc kỳ.

Ngày 16 tháng 8 năm 1945, khi Đế quốc Nhật Bản đầu hàng khối Đồng minh, Trần Trọng Kim tuyên bố bảo vệ nội các Đế quốc Việt Nam, và ngày 18 tháng 8 tạo ra một Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Theo lời khuyên của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Bảo Đại gửi thông điệp cho các nước Đồng Minh (Tổng thống Truman, vua nước Anh, Thống chế Tưởng Giới Thạch, Tướng de Gaulle) đề nghị công nhận Đế quốc Việt Nam. Ngày 18 tháng 8, Bảo Đại gửi một thông điệp đến De Gaulle đề nghị công nhận Đế quốc Việt Nam. Tuy nhiên De Gaulle không quan tâm đến đề nghị của Bảo Đại, bởi ông ta đã thỏa hiệp với Nhật Bản, kẻ thù của Pháp. De Gaulle dự kiến sẽ hậu thuẫn cho một chế độ quân chủ mà người đứng đầu không phải là Bảo Đại, mà là Vĩnh San (vua Duy Tân), được xem như là một người "Gaullist" (người ủng hộ nhiệt tình De Gaulle).[16] Tất cả mọi bức thư mà Bảo Đại gửi cho những nước khác (Mỹ, Trung Quốc, Anh...) cũng đều không được hồi âm, vì theo Tuyên bố Cairo, các nước Đồng Minh sẽ không công nhận bất cứ chính phủ nào do Đế quốc Nhật Bản thành lập ở các vùng chiếm đóng, mà Đế quốc Việt Nam là một trong số đó.

Đến 24 tháng 8, khi Cách mạng Tháng Tám đã nổ ra khắp cả nước, được sự vận động của ông Phạm Khắc Hòe, Bảo Đại đã trả lời Hội đồng Cơ mật rằng ông quyết định thoái vị "để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước".[17]

Thoái vị

Từ tháng 3 năm 1945, Việt Nam rơi vào một tình trạng hỗn loạn do khoảng trống về quyền lực chính trị quá lớn. Người Nhật đang lo chống đỡ các đòn tấn công của quân đội đồng minh Anh-Mỹ. Cả chính phủ của Trần Trọng Kim lẫn triều đình của Bảo Đại đều không đủ lực lượng quân sự và uy tín chính trị để kiểm soát tình hình. Theo Peter A. Pull, chỉ có Việt Minh là lực lượng có tổ chức duy nhất có khả năng nắm được quyền chính trị.[18] Chiến tranh đã làm kiệt quệ nền kinh tế, nước Nhật cạn kiệt nguyên liệu nên quân Nhật chiếm lấy lúa gạo và các sản phẩm khác, bắt dân Việt phá lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, cộng thêm thiên tai, nạn đói (Nạn đói Ất Dậu) đã xảy ra tại Bắc kỳTrung kỳ. Người ta ước tính rằng đã có khoảng hai triệu người chết vì nạn đói này.

Ngày 17/8, quần chúng Hà Nội hạ cờ quẻ Ly xuống, treo cờ đỏ sao vàng lên, biến cuộc mít tinh của Tổng hội Công chức Đông Dương ủng hộ vua Bảo Đại thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Hai ngày sau, quần chúng Hà Nội chiếm dinh Khâm sai Bắc bộ, thành lập chính quyền cách mạng. Cuộc tổng khởi nghĩa do Việt Minh lãnh đạo nhanh chóng lan ra khắp các tỉnh, thành trong cả nước.[19]

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam giao quyền lực cho họ. Trước tình thế đó, theo lời khuyên của quan đại thần Phạm Khắc Hòe, Bảo Đại quyết định thoái vị. Bảo Đại không rõ phải liên lạc với ai ở Hà Nội, nên gửi một điện tín tới "Ủy ban nhân dân Cứu quốc" ở Hà Nội: "Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban sớm tới Huế, để nhận bàn giao".[20]

Ngày 22 tháng 8, được tin Việt Minh đã chiếm chính quyền ở Hà Nội và nhiều nơi khác trong nước, nhà vua vẫn hy vọng có thể giữ được ngôi báu bằng cách giao cho Việt Minh thành lập nội các mới. Ông ban chiếu mời thủ lĩnh Việt Minh vào Huế lập nội các.[21]

Sáng ngày 23 tháng 8, hai phái viên của Việt Minh là Trần Huy LiệuCù Huy Cận đến cung điện Huế. Theo lời yêu cầu của hai người này, chiều ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín và bảo kiếm, quốc bảo của hoàng triều cho Trần Huy Liệu. Ông trở thành công dân Vĩnh Thụy. Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông tuyên bố thoái vị với lý do "Chiếu đà tiến dân chủ đang đẩy mạnh ở miền Bắc nước ta, Trẫm e ngại rằng một sự tranh chấp giữa miền Bắc với miền Nam khó tránh được, nếu Trẫm đợi sau cuộc trưng cầu dân ý, để quyết định thoái vị. Trẫm hiểu rằng, nếu có cuộc tranh chấp đó, đưa cả nước vào hỗn loạn đau thương, lại thuận lợi cho người ngoài lợi dụng". Ông mong chính phủ mới đối xử ôn hoà với các đảng phái đối lập để họ có thể góp sức kiến thiết quốc gia và để chứng tỏ chính thể mới xây đắp trên sự đoàn kết quốc dân. Ông có câu nói "Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ".[22]

Lễ thoái vị vừa kết thúc, Hoàng đế và Hoàng hậu họp tất cả những gia nhân, hầu cận, thị vệ thị nữ để họ thu dọn đồ đạc, giao lại hoàng cung cùng tài sản công của Triều đình cho chính quyền cách mạng, đại bộ phận cho về gia đình quê hương bản quán. Ông chỉ giữ lại những đồ dùng cá nhân, quà biếu có thể mang theo. Vua đã thoái vị, triều đình đã không còn, nền quân chủ đã sụp đổ.

Chiều ngày 31 tháng 8, bà hoàng thái hậu Từ Cung cùng mẹ con bà Nam Phương và gia nhân đã dọn hết đồ đạc tài sản riêng về An Cựu ở trong cung An Định trước đây là nơi nghỉ hè của hoàng gia. Trong lúc Bảo Đại còn đang hoàn thành việc bàn giao thì ông Tôn Quang Phiệt, chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế chuyển đến cho cựu hoàng một bức điện khẩn:

"Chính phủ lâm thời mời công dân Vĩnh Thuỵ ra Hà Nội làm cố vấn tối cao cho chính phủ. Nếu nhận lời, sẽ có những chỉ dẫn cần thiết để ông cố vấn có thể ra Hà Nội sớm nhất.
Ký tên: Hồ Chí Minh".

Ông đọc đi đọc lại bức điện, mặt tái đi, nghĩ đây có phải là một cuộc đi đày trá hình chăng. Một lần nữa Vĩnh Thuỵ lại nhún vai, đưa bàn tay trái lên ngang cổ, lẩm bẩm nói một câu tiếng Pháp: "Đã đến cổ rồi có lên thêm một chút nữa cũng chẳng can chi".[23]

Ngày 2 tháng 9, năm giờ sáng, hai ngày sau lễ thoái vị, công dân Vĩnh Thuỵ rời Huế ra Hà Nội, với chức vụ cố vấn của chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh đang chờ ông. Đoàn gồm hai xe ôtô. Xe thứ nhất chở Vĩnh Thuỵ được Bộ trưởng Lao động Lê Văn Hiến tháp tùng. Xe kia chở hoàng thân Vĩnh Cẩn. Phái đoàn Trần Huy Liệu sau khi nhận ấn, kiếm đã lên đường ra Hà Nội từ hôm trước. Nhà nước mới chưa có xe, đoàn dùng hai chiếc xe riêng của cựu hoàng. Hành trình sáu trăm cây số từ Huế ra Hà Nội đã được thực hiện trên hai chiếc xe tiện nghi nhất lúc đó là các xe Mercury và Packard.

Trên đường ra Bắc, phái đoàn được dân chúng nhiều nơi nghênh đón không phải chỉ nhằm Bộ trưởng Lê Văn Hiến, cựu chính trị Phạm Kontum mà cả cựu hoàng Bảo Đại từ nay được gọi là Cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ. Ông vốn là người ít nói, nhất là lần đầu tiên tiếp xúc với quảng đại quần chúng mạnh dạn hồ hởi chứ không phải quan lại, chức dịch chỉ sụp lạy không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào mặt vua. Bộ trưởng Văn Hiến kể lại:

"Có lẽ tính ông Vĩnh Thuỵ hơi nhút nhát... Ông ta chẳng biết gì về cách mạng, ông hỏi tôi Hồ Chí Minh là ai. Tôi cho ông biết đó chính là Nguyễn Ái Quốc, ông có vẻ hài lòng. Hôm đầu tiên khi ông được biết Hồ Chí Minh và Nguyễn Ái Quốc là một. Ông nhớ lại câu sấm truyền Nam Đàn sinh thánh", ông đã thốt ra: "Thế thì thoái vị cũng đáng".[24]

Tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

Sau khi thoái vị, Bảo Đại được chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khoản đãi rất tốt, chu cấp về tài chính. Ngày 4 tháng 9 năm 1945 Vĩnh Thụy tới Hà Nội. Ngày 5 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Lâm thời, nghênh tiếp Cựu hoàng Bảo Đại tại Bắc Bộ Phủ từ 8h đến 9h. Và ngày 10 tháng 9, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 23/SL cử Vĩnh Thụy làm "Cố vấn tối cao Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam". Ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Vĩnh Thụy được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[25]

Sống ở Trung Quốc

Ngày 7 tháng 3, ký Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp được một ngày, ông luôn luôn ở bên cạnh chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp chính thức đại biểu Pháp Sainteny và đến thăm đáp lễ ông ta. Ngày 8 tháng 3 năm 1946, Hội đồng chính phủ họp quyết định cử một phái bộ thân thiện đi Trùng Khánh đồng thời cũng cử một phái đoàn thân thiện đi Pháp.

Ngày 11 tháng 3, hội đồng chính phủ lại quyết định cố vấn Vĩnh Thuỵ dẫn đầu phái đoàn đi Trùng Khánh. Trong đoàn còn có Nghiêm Kế Tổ, người của Việt Nam Quốc dân đảng, Thứ trưởng Ngoại giao, Nguyễn Công Truyền, đại biểu Việt Minh, uỷ viên tuyên truyền thuộc Ủy ban nhân dân Bắc Bộ, Hà Phú Hương, đại biểu Đảng Dân chủ Việt Nam (trong Việt Minh), uỷ viên tuyên truyền thuộc Uỷ ban nhân dân Trung Bộ. Phái bộ sẽ để lại một đại diện ở lại Trung Hoa làm đại diện thường trú cho phái bộ. Hội đồng chính phụ còn xác định nhiệm vụ của phái bộ là tỏ rõ cho chính phủ Trung Hoa là các đảng phái đã đoàn kết rồi, hỏi Trung Hoa có thể giúp ta những gì, yêu cầu ta những gì, tỏ cảm tình với Trung Hoa, trao đổi ý kiến chứ không cam kết gì. Phái bộ còn được phép để lại Trung Hoa một đại diện cho phái bộ.[26]

Ngày 16 tháng 3 năm 1946, Vĩnh Thụy được cử tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa.

Nhưng sau đó ông không trở về nước, mà tách khỏi đoàn để tới Côn Minh rồi Hương Cảng (Hồng Kông). Cố vấn Vĩnh Thuỵ nhận lời đi Trùng Khánh nhưng với tư cách cựu hoàng đi du lịch chứ không lãnh đạo phái đoàn. Vì vậy Nghiêm Kế Tổ là người của Việt Nam Quốc dân đảng làm trưởng đoàn. Đúng ngày lên đường, 16 tháng 3 năm 1946, Vĩnh Thuỵ nói với ông Phạm Khắc Hòe cựu tổng lý văn phòng của ông: "Sau khi tôi lên đường đi Trung Hoa, ông có thể vui lòng đi Huế một lần nữa mời bà Nam Phương đưa các con ra Hà Nội không. Cụ Hồ cũng đã đồng ý với đề nghị này".[27]

Sau này chính ông Phạm Khắc Hòe còn được Hồ Chủ tịch cử đi Hông Kông để vận động Bảo Đại trở về nhưng sắp đi thì được tin Bảo Đại đã nhận lời về với Pháp nên ông Hòe không đi nữa. Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh còn phái một nhân viên cao cấp trong chính phủ tên là Hồ Đức Linh mang vàng và ngoạí tệ sang cho Bảo Đại và thuyết phục ông về nước nhưng không thành công.[28]

Tại Hồng Kông, Bảo Đại đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại tướng George Marshall, đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Ông cũng thường lui tới các sòng bạc và sàn nhảy tại Hồng Kông với cái tên "Wang Kunney tiên sinh". Ông đã nhiều lần khiến các sòng bạc phải kinh ngạc vì những khoản tiền cược rất lớn trong các ván bạc.[29]

Dù biết việc này nhưng Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ông, cho rằng ông có lý do riêng nên không chịu về nước. Đầu tháng 12/1946, chính phủ còn cử bác sĩ Phạm Ngọc Thạch đem tiền và vàng qua Hồng Kông cho Cố vấn Vĩnh Thụy chi tiêu. Đến trước tháng 8/1947, trả lời phỏng vấn của báo chí, Hồ Chí Minh không ngần ngại đáp rằng: "Chúng tôi xa mặt chứ không cách lòng. Chính phủ và nhân dân Việt Nam hoàn toàn tin tưởng vào sự trung thành của Cố vấn Vĩnh Thụy hiện đang ở nước ngoài nhưng vẫn tiếp tục làm việc cho chính phủ quốc gia mà Cố vấn vẫn là thành viên”.[30]

Theo cơ quan tình báo Pháp thì chính Bảo Đại đã yêu cầu họ giúp đỡ sau khi đã tiêu pha sạch tiền bạc khi ở Hồng Kông. Thấy Bảo Đại chịu nhận tiền, các phái viên Pháp tiếp tục hỗ trợ tài chính cho ông, cứ mỗi tháng Pháp lại cấp cho Bảo Đại 5.000 đôla Hongkong. Bảo Đại trở lại cuộc sống xa hoa giàu có. Ông mua một tòa nhà rất đẹp theo phong cách kiến trúc Anh, gần bờ biển Stanley Beach, thường hay tiếp khách ở Causeway Bay, cho họ nghỉ tại Hongkong Hotel hoặc ở Paramount hay Saint-Francis. Về sau, khi bán tài sản riêng ở Hongkong, ông được một khoản tiền đến một triệu đồng Đông Dương. Nhân viên tình báo Cousseau, người phụ trách cấp tiền, nói với nhà báo Lucien Bodard: "Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất, không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ [...]. Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn..." [31]

Ít lâu sau, Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nhận xét "Bác Hồ rất tin tưởng cố vấn Vĩnh Thụy, nhưng cố vấn Vĩnh Thụy vốn rất nhu nhược, không vượt qua được sự túng thiếu về tài chính và các cạm bẫy của mật thám Pháp và các thành phần thân Pháp nên ông đã bị đẩy vào cái thế phải trở lại làm bù nhìn cho thực dân Pháp, phản bội lại chính nghĩa của quốc gia, chống lại kháng chiến giải phóng dân tộc, đối đầu với Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ đã cưu mang và tin tưởng ông".[32]

Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam

Đàm phán với chính phủ Pháp

Đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu tập về nước do bị người Việt Nam và các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản PhápĐảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier - một đại biểu Xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: "Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó" và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải với "những đại diện chân chính" của Việt Nam.[33]

Để hậu thuẫn cho Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam, các lực lượng chính trị bao gồm Cao Đài, Hoà Hảo, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảngViệt Nam Quốc dân Đảng liên kết thành lập Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp.[34] Ngay sau đó, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp quyết định sẽ ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam. Tháng 5/1947, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp cử phái đoàn đến Hồng Kông gặp Bảo Đại để thuyết phục ông này thành lập một Chính phủ Trung ương và đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam.[35] Bảo Đại được Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp bao gồm các lực lượng chính trị Cao Đài, Hòa Hảo, Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội, Đại Việt Quốc dân đảngViệt Nam Quốc dân Đảng hậu thuẫn.[34]

Nam tước Didelot, anh rể của Nam Phương hoàng hậu đã ở lại Đà Lạt, trong một bức thư viết cho con gái - lá thư bị Sở kiểm duyệt giữ lại - ông nói về Bảo Đại:[36]

"Cha tin vào ông chú của con (chỉ Bảo Đại), ông ta không phải là một vĩ nhân cũng không phải là một thằng ngốc nhưng nếu được biết rõ tình hình, ông ta sẽ có thể nhận định đúng đắn. Ông ta hay bị một số người có đầu óc vụ lợi phỉnh phờ và chịu ảnh hưởng của họ. Trước đây một số người ủng hộ ông thoái vị và hợp tác với Hồ Chí Minh cũng là để cứu vãn vị thế của họ. Bây giờ ở Hà Nội (... Việt Minh đã rút đi, Pháp đã trở lại) có những biểu ngữ, truyền đơn dán trên tường yêu cầu Bảo Đại trở về nước nắm quyền bính...".

Năm 1947, cựu trùm mật thám Pháp ở Đông Dương là Cousseau đã tiếp xúc với Bảo Đại tại Hồng Kông, ngỏ ý mời ông về nước nắm quyền, hình thành nên "giải pháp Bảo Đại". Có ý kiến cho rằng việc này nhằm chống lại cuộc chiến giành độc lập của phong trào Việt Minh,[37] cũng có ý kiến cho rằng giải pháp Bảo Đại được Pháp đưa ra nhằm đối phó với xu hướng quốc tế trao trả độc lập cho các thuộc địa đồng thời nhằm chống lại sự mở rộng ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản tại Đông Dương.[38] Còn bản thân Bảo Đại sau này nhận xét rằng "Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp".[39]

Theo thuyết Domino, trong thời kỳ này Mỹ hỗ trợ những quốc gia đồng minh tại Đông Nam Á vì không hài lòng với điều mà họ cho là "lực lượng cộng sản muốn thống trị châu Á dưới chiêu bài dân tộc".[40] Bằng viện trợ, Mỹ ép Pháp phải nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Chính sách của Mỹ là hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó sẽ ép người Pháp rút lui khỏi Đông Dương.[41] Đáp lại, phía Pháp nhận định là Mỹ quá "ngây thơ", và một người Pháp đã nói thẳng là "những người Mỹ ưa lo chuyện người khác, ngây thơ vô phương cứu chữa, tin tưởng rằng khi quân đội Pháp rút lui, mọi người sẽ thấy nền độc lập của người Việt xuất hiện".[42]

Ngày 7/12/1947, tại cuộc họp trên tàu chiến Pháp ở Vịnh Hạ Long, Bảo Đại và Pháp đàm phán rồi ký kết Hiệp ước Sơ bộ Vịnh Hạ Long. Hiệp ước thể hiện sự đồng thuận của hai bên về việc thành lập Quốc gia Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc độc lập và thống nhất của Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, mặc dù nghĩa chính xác của từ "độc lập" và các quyền hạn cụ thể của chính phủ mới vẫn chưa được xác định. Chính phủ hoạt động dưới một hiến chương lâm thời, chọn cờ vàng ba sọc đỏ làm quốc kỳ và bản "Thanh niên Hành Khúc" với lời nhạc mới làm quốc ca.[43] Quốc gia Việt Nam sẽ có một quân đội riêng tuy nhiên phải "sẵn sàng bảo vệ bất cứ phần nào của Liên hiệp Pháp". Sự độc lập chính trị của nhà nước Quốc gia Việt Nam được quy định trong Hiệp ước Sơ bộ Vịnh Hạ Long quá nhỏ nên hiệp ước này bị Ngô Đình Diệm và cả những chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp chỉ trích.[34]

Do bị các chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp chỉ trích, Bảo Đại chấm dứt đàm phán với Pháp và đi du lịch châu Âu trong 4 tháng. Người Pháp cử các nhà ngoại giao theo Bảo Đại để thuyết phục ông tiếp tục đàm phán và thành lập Chính phủ. Trong cuốn "Bảo Đại - hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam", Daniel Grandclément nhận xét:[44]

Có lẽ ông [Bảo Đại] cũng biết ông chẳng có hậu thuẫn gì đáng kể ở trong nước, càng không đủ sức chống lại kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo, nhưng đã ngập sâu trong cuộc sống phù phiếm hưởng lạc, ông không thể lùi lại được nữa. Phải ký kết. Tháng 1-1948, ông đi gặp Cao ủy Pháp ở Genève…

Tháng 1/1948, Cao ủy Pháp tại Đông Dương E. Bollaert tìm gặp Bảo Đại ở Genève, Thụy Sĩ để thuyết phục ông quay về Việt Nam tiếp tục đàm phán và thành lập Chính phủ. Bảo Đại tuyên bố nếu Hiệp ước Vịnh Hạ Long không được bổ sung ông sẽ không quay về Việt Nam. Sau đó ông đi Cannes, Paris rồi quay về Hồng Kông.[45]

Thành lập Quốc gia Việt Nam

Ngày 24 tháng 4 năm 1948, Thiếu tướng Nguyễn Văn XuânTrần Văn Hữu cũng bay tới Hồng Kông để gặp Bảo Đại xin thành lập Chính phủ Lâm thời cho Việt Nam, ngày 15 tháng 5, Bảo Đại gửi thông điệp cho tướng Xuân, tán thành sự thành lập Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam do tướng Xuân điều khiển "để giải quyết vấn đề Việt Nam đối với Pháp và dư luận Quốc tế".

Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại đã gặp gỡ Cao ủy Pháp Bollaert ở vịnh Hạ Long, trên chiến hạm Duguay Trouin, để đàm phán về việc thành lập chính phủ Quốc gia Việt Nam. Kết quả của cuộc gặp này là Thông cáo chung Vịnh Hạ Long theo đó Pháp công nhận Quốc gia Việt Nam, và Việt Nam gia nhập Liên hiệp Pháp. Tháng 1 năm 1949, Bản tuyên ngôn Việt - Pháp được công bố, theo đó nước Pháp công nhận chính phủ Quốc gia Việt Nam trong khuôn khổ của khối Liên hiệp Pháp.

Việt Minh chỉ trích Bảo Đại là xấu xa, tội lỗi vì đã lấy lại từ người Pháp chữ "độc lập" thần kỳ mà Hồ Chí Minh đã cố gắng giành giật ở Fontainebleu không được. Những người Pháp có tư tưởng thực dân phản đối điều mà họ cho là sự đầu hàng của Bollaert, đồng thời yêu cầu cắt Nam Kỳ ra khỏi phần còn lại của Việt Nam, đòi đưa Việt Nam quay trở lại chế độ Bảo hộ. Các chính trị gia ở Paris ra sức trấn an những người Pháp ủng hộ chủ nghĩa thực dân và đảm bảo với họ rằng sẽ không có gì thay đổi - cuộc chiến tranh của Pháp ở thuộc địa Đông Dương sẽ không chấm dứt. Các lãnh tụ Cộng hòa Bình dân và nhiều người thân cận với Cộng hòa Bình dân lại cho rằng kéo dài chiến tranh sẽ hết sức có lợi và đã đi đến quyết định không để cho cuộc chiến tranh kết thúc sớm.[46]

Sau đó Bảo Đại rút lui khỏi các hoạt động chính trị và đi châu Âu một lần nữa. Ngày 25/8/1948, từ Saint Germain, Bảo Đại báo cho E. Bollaert biết ông sẽ không quay về Việt Nam nếu Pháp không hủy bỏ chế độ thuộc địa tại Nam Kỳ và trao trả Nam Kỳ lại cho Việt Nam cũng như nếu ông không nhận được sự đảm bảo của Pháp cho Việt Nam độc lập.[47]

Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo Đại đã ký Hiệp định Élysée, thành lập một chính quyền Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam, đứng đầu là Bảo Đại. Bảo Đại yêu cầu Pháp trao Nam Kỳ cho Quốc gia Việt Nam và Pháp đã chấp nhận yêu cầu này.

Ngày 24 tháng 4 năm 1949, Bảo Đại về nước. Hai tháng sau, vào ngày 14 tháng 6, Bảo Đại tuyên bố tạm cầm quyền cho đến khi tổ chức được tổng tuyển cử và tạm giữ danh hiệu Hoàng đế để có một địa vị quốc tế hợp pháp. Ngày 20 tháng 6 năm 1949, Thủ tướng Nguyễn Văn Xuân đệ đơn từ chức, Chính phủ Lâm thời Nam phần tuyên bố giải tán. Ngày 21 tháng 6, thỏa ước Elyseé được công bố.

Cuối tháng 6 năm 1949, Việt Nam chính thức thống nhất dưới sự quản lý của Quốc gia Việt Nam.[34] Pháp chuyển giao những chức năng hành chính cho Quốc gia Việt Nam một cách chậm chạp, hai chức năng quan trọng nhất là tài chính và quân đội thì vẫn phụ thuộc vào Pháp.

Trở thành Quốc trưởng

Ngày 1 tháng 7 năm 1949, Chính phủ lâm thời của Quốc gia Việt Nam được thành lập theo sắc lệnh số 1-CP của Thủ tướng, tấn phong Bảo Đại là Quốc trưởng, Trung tướng Nguyễn Văn Xuân làm Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[48] (Có tài liệu ghi Bảo Đại là Quốc trưởng kiêm Thủ tướng, Nguyễn Văn Xuân là Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng[49]). Theo đánh giá của người Mỹ, Bảo Đại ít tham gia vào công việc của chính phủ, giành nhiều thời gian cho nghỉ mát.[50]

Tháng 1 năm 1950, Bảo Đại chỉ định Nguyễn Phan Long làm Thủ tướng. Ngày 27 tháng 4 năm 1950, giải tán chính phủ Nguyễn Phan Long và ủy nhiệm Thủ hiến Trần Văn Hữu thành lập chính phủ mới. Tính đến đầu năm 1950, có 35 quốc gia công nhận Quốc gia Việt Nam.[51]

Từ tháng 6 cho đến tháng 10 năm 1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp họp tại Pau (Pháp) để bàn về việc chuyển giao các chức năng quản lý xuất nhập cảnh, quan hệ ngoại giao, ngoại thương, hải quan và tài chính cho Quốc gia Việt Nam. Tài chính là vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất bao gồm việc kiểm soát lợi nhuận từ hoạt động ngoại hối. Kết quả tất cả các chức năng trên đã được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam. Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu sau khi ký thỏa thuận với Pháp đã tuyên bố: "Nền độc lập của chúng tôi hiện nay thật tuyệt vời". Các quan chức Pháp phàn nàn về Bảo Đại: "Ông ấy tập trung quá mức vào việc lấy lại từ chúng tôi những gì có thể thay vì tìm kiếm sự ủng hộ từ nhân dân... Lịch sử sẽ phán xét ông ấy vì quá chú tâm vào chuyện này". Tuy nhiên người Pháp vẫn dành cho mình quyền quan sát và can thiệp đối với những vấn đề liên quan đến toàn bộ Liên hiệp Pháp. Người Pháp còn có quyền tiếp cận mọi thông tin nhà nước, tham dự vào tất cả các quyết định của chính phủ và nhận một khoản nhỏ từ lợi tức quốc gia của Việt Nam.[34]

Ngày 8/12/1950, Quốc gia Việt Nam và Pháp ký Hiệp định quân sự thành lập Quân đội Quốc gia Việt Nam bằng cách đặt một số đơn vị quân đội Pháp tại Việt Nam dưới quyền chỉ huy của Quốc gia Việt Nam. Dự kiến quân đội này sẽ bao gồm 120.000 quân và 4.000 sĩ quan. Tất cả sĩ quan đều phải là người Việt.[52] Pháp có trách nhiệm hỗ trợ Quốc gia Việt Nam thành lập những đơn vị mới do sĩ quan Việt Nam chỉ huy và đào tạo sĩ quan người Việt thay thế dần những sĩ quan Pháp đang hiện diện trong Quân đội Quốc gia Việt Nam. Nhà sử học Spencer C. Tucker cho rằng Quân đội Quốc gia Việt Nam được huấn luyện kém và không có sĩ quan chỉ huy cấp cao người Việt, Pháp chỉ đơn giản là đưa những người lính mới tuyển mộ được vào các quân đoàn Viễn chinh của chính Pháp, tại đó, người chỉ huy là các sĩ quan Pháp.[16]

Archimedes L.A Patti nhận xét:

"Tất nhiên họ [Quốc gia Việt Nam] đã lầm, không bao giờ Pháp cho Việt Nam độc lập để mất Đông Dương. Bảo Đại trở về Việt Nam và cho rằng ông ta đã làm hết sức mình để người Pháp phải giữ lời cam kết. Ông sẽ chờ và xem. Có thể người Mỹ sẽ khích lệ giúp đỡ. Nhưng sau một ngày ở Sài Gòn, thấy Pháp từ chối không cho ông sử dụng dinh Norodom, trụ sở chính quyền thuộc địa Pháp, Bảo Đại liền rút lui về nhà ở Đà Lạt. Sự việc này cho thấy rõ tình hình chẳng có gì thay đổi cả".[53]

Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu tình hình (tháng 5, 6 năm 1949) và sau đó đã viết: "Hồ Chí Minh đã có khả năng chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm những người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đã có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng khó mà đếm được 25 đảng viên".[54]

Người Pháp trì hoãn một cách có tính toán việc thi hành thỏa hiệp Élysée với Quốc gia Việt Nam. Quân đội của họ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam, nhân viên hành chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; Quốc gia Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự ngụy trang cho nền cai trị của thực dân Pháp.[55]

Thay đổi Thủ tướng

Chân dung Bảo Đại thời kỳ 1952-1954.

Chính phủ do Trần Văn Hữu làm Thủ tướng tồn tại đến ngày 6 tháng 6 năm 1952 thì phải cáo lui, nhường chỗ cho Nguyễn Văn Tâm lên làm thủ tướng cùng thành phần tổng, bộ trưởng đa số là người do Pháp đào tạo.

Ngày 20 tháng 11 năm 1953, hoàng thân Bửu Lộc từ Pháp về Sài Gòn lập chính phủ thay thế chính phủ Nguyễn Văn Tâm. Thời gian này, Quốc trưởng Bảo Đại sống và làm việc tại biệt điện ở Đà Lạt. Xung quanh nơi ở của Bảo Đại có cả một trung đoàn Ngự lâm quân bảo vệ và có cả một đoàn xe riêng gọi là "công xa biệt điện", lại có cả một đội máy bay riêng do các phi công người Pháp lái phục vụ.

Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới.

Gửi thư chia buồn với Pháp

Sau trận Điện Biên Phủ, quân Pháp bị thua nặng, Bảo Đại đã viết một bài văn chia buồn với nước Pháp. trong đó có đoạn[56]

Các bạn Pháp của nước Việt Nam dù ở trong quân đội hay ở nước ngoài, các bạn cũng như chúng tôi hiện nay đang chịu một cái tang chung. Tôi muốn nhân lúc này tỏ cùng các bạn tình thân hữu và lòng khâm phục của tôi đối với nước Pháp, và tôi muốn các bạn cũng tin tưởng như tôi vào tiền đồ nước Việt Nam, nhờ có những hy sinh của các bạn mà được cứu vãn.

Sau Hiệp định Genève 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính phủ và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955.

Bị Ngô Đình Diệm lật đổ

Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.

Tuy nhiên, ngày 4 tháng 10 năm 1955, Ủy ban trưng cầu dân ý thành lập đưa ý kiến đòi truất phế Quốc trưởng Bảo Đại và đưa Thủ tướng Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống. Khi cử tri đi đến nơi bỏ phiếu, họ thấy rằng nơi đây đã bị những người ủng hộ Ngô Đình Diệm kiểm soát. Một cử tri sau khi bỏ phiếu đã nói rằng "Người chỉ đạo nói cho chúng tôi hiểu rằng ở đây chỉ có hai sự lựa chọn, hoặc là phiếu đỏ (Ngô Đình Diệm) sẽ được bỏ vào hòm phiếu hoặc phiếu xanh sẽ bị loại đi".[57] Về phía Bảo Đại, ngày 18/10/1955, ông đưa ra tuyên bố cắt chức Thủ tướng cũng như xóa bỏ mọi quyền lực của Ngô Đình Diệm từ văn phòng của mình tại Paris để phản đối một chính phủ công an trị và chế độ độc tài cá nhân do Ngô Đình Diệm đứng đầu.[58]

Cuộc sống lưu vong

Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có tiếng. Năm 1963, Nam Phương Hoàng hậu qua đời ở Chabrignac.

Năm 1957, trong thời gian ở Alsace ở Pháp, ông gặp Christiane Bloch-Carcenac, người mà ông đã ngoại tình cho đến năm 1970. Từ mối quan hệ này, ông sinh ra đứa con cuối cùng của ông, Patrick-Édouard Bloch, sinh năm 1958, hiện vẫn sống ở Alsace.[59]

Sau khi sang Pháp, Bảo Đại không còn nắm hệ thống kinh tế thu lợi cho bản thân như trước, nhiều cơ sở kinh doanh ở Việt Nam đã bị Ngô Đình Diệm tịch thu. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Khoảng thập niên 1960, gia sản khổng lồ của Bảo Đại đã lần lượt hao hụt. Nhiều lâu đài tráng lệ, máy bay đắt tiền, xe hơi sang trọng,… lần lượt phải sang tên người khác và bán thế chấp trả số nợ khổng lồ. Bảo Đại chỉ còn được nhận số tiền trợ cấp ít ỏi của Chính phủ Tổng thống Giscard với 8.000 franc/tháng.

Năm 1972, khi tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại sống với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946), đến năm 1982 thì kết hôn. Năm 1988, sau một thời gian đàm đạo với cha sở nhà thờ Saint-Pierre-de-Chaillot, Bảo Đại nhập đạo Công giáo, lấy tên thánh là Jean-Robert.

Trong thập niên 1970, ảnh hưởng của Bảo Đại tại các khu vực như Quảng TrịThừa Thiên Huế vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phái các đại diện sang Pháp nhằm thuyết phục Bảo Đại tham gia một chính phủ liên hiệp nhằm thống nhất Việt Nam, nhờ đó thông qua Bảo Đại thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có thể thu hút thêm những người ủng hộ tại các địa phương mà Bảo Đại có ảnh hưởng.

Năm 1982, nhân khai trương Hội Hoàng tộc ở hải ngoại, Bảo Đại lần đầu tiên sang thăm Hoa Kỳ với tư cách cá nhân. Trong chuyến đi này ông đã nhận tên cha để làm lại giấy khai sinh cho những người con ngoại hôn trước đây không ghi tên ông trong phần tên cha. Tại Sacramento, California, ông được tặng chiếc chìa khóa vàng tượng trưng cho thị trấn này. Ông cũng được bà thị trưởng thành phố Westminster, California tặng danh hiệu "công dân danh dự" của thành phố. Ông cũng thăm viếng và chúc mừng các buổi lễ của cộng đồng Phật giáoCao Đài người Việt ở California cùng các cộng đồng người Mỹ gốc ViệtTexas. Bảo Đại cũng nhân dịp này thăm dò ý kiến của các cộng đồng người Việt sống ở Hoa Kỳ về giải pháp cho việc hòa giải dân tộc.

Qua đời

Bảo Đại đã sống những năm cuối đời trong lặng lẽ tại một căn hộ nhỏ ở số 29, đường Fresnel, quận 16, Paris. Tất cả gia tài đồ sộ và quyền lực một thời đều đã không còn, ông sống dựa vào khoản trợ cấp 20.000 Franc/tháng của chính phủ Pháp.

Ông qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val-de-Grâce,[60] hưởng thọ 83 tuổi. Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất của nhà Nguyễn. Ông cũng là một phế đế sống thọ nhất trên thế giới thời hiện đại.

Đám tang Bảo Đại được tổ chức vào lúc 11 giờ ngày 6 tháng 8 năm 1997 tại nhà thờ Saint-Pierre de Chaillot số 35 đại lộ Marceau, quận 16, Paris và linh cữu được mai táng tại Nghĩa trang Passy trên đồi Trocadéro.[60]

Trả lời BBC về sự kiện này, bà Monique nói: "Ngày hôm nay tôi rất đau buồn. Dĩ nhiên rồi, trước hết và trên hết là vì chồng tôi vừa qua đời. Nhưng hôm nay trang sử của triều Nguyễn Việt Nam cũng được chấm dứt. Tôi cầu nguyện cho chồng tôi".[61]

Mộ vua Bảo Đại tại Pháp.

Đánh giá

Bảo Đại nổi tiếng với lối sống rất xa xỉ, phung phí. Năm 1954, khi ở Genève, Bảo Đại đã mua của hãng Rolex một chiếc đồng hồ tốt nhất mà họ có, đó là chiếc "Reference 6062".[62] Reference 6062 được sản xuất vào năm 1952, thuộc dòng "Triple Calendar" với lịch Mặt trăng (Âm lịch) bằng vàng và là một trong ba mẫu có mặt số màu đen với kim cương trang trí.[63] Năm 2017, nó được bán với giá 5.060.427 đôla, chiếc đồng hồ Bảo Đại trở thành chiếc đồng hồ Rolex đắt nhất được bán tính tới khi đó.[64][65]

Trong cuốn "Bảo Đại - hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam", Daniel Grandclément viết:[66]

Bảo Đại đúng như những gì mọi người Việt đã biết về ông: hào hoa, lịch lãm và sành điệu, săn bắn giỏi, lái xe hơi, máy bay giỏi, khiêu vũ, đánh golf, chơi quần vợt giỏi... Ông chỉ không biết làm vua. Ông vua nước Nam cứ quẩn quanh, thậm chí mưu mẹo chỉ để có được từ chiếc xe hơi, máy bay cho đến khẩu súng săn, cuốn album bìa da, thỏa mãn những thú vui vật chất.
Như lời Bảo Đại thú nhận: “Người Pháp lúc nào cũng muốn tôi ngồi yên một chỗ, không cho thân mật với dân nên trong hai mươi năm trời làm vua tôi ra Bắc một lần, vào Nam kỳ một lần, cũng là đi lướt qua, không thấy rõ ràng một điều gì. Xung quanh tôi họ đặt toàn những người mật thám. Tôi rất buồn biết mình không thể làm chi có ích cho đất nước...”
Ông mơ hồ tin tưởng vào “nền độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp” đạt được dễ dàng cùng với các điều kiện vật chất. Quen sung sướng, quen được cung phụng, Bảo Đại dường như chưa bao giờ nghĩ đến việc đi tìm độc lập bằng con đường nếm mật nằm gai như các vua Hàm Nghi, Duy Tân trước ông.
Ông đã khước từ những cơ hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra, mang đến cho ông... Khước từ cơ hội đi chung đường với cả dân tộc, dù ông đã cùng chính phủ cộng hòa non trẻ ngồi họp bàn từ việc lớn đến việc nhỏ trong những ngày khai sinh nhà nước. Con đường mà Bảo Đại chọn cuối cùng đã dẫn đến kết cục “ông hoàng bị quét đi như quét một hạt bụi vô giá trị...”
Hành động lớn nhất trong đời ông là thoái vị, và ông đi vào lịch sử chỉ bằng một câu nói: “Tôi muốn làm dân một nước tự do hơn là làm vua một nước nô lệ”.

Nhà báo Merry Bromberger viết về thói ăn chơi của Bảo Đại:

"Muốn gặp Bảo Đại ở Hong Kong chỉ cần dạo mười bốn hộp đêm trong thành phố, dễ hơn là tìm ông trong một khách sạn Anh".[67]

Bảo Đại đã mê đánh bạc, nhảy đầm và du hí từ lúc du học bên Pháp. Cả 12 triều vua nhà Nguyễn trước đó không ai sánh bằng Bảo Đại trong việc tiêu xài hoang phí. Nhiều học giả người Pháp và Việt đã ví Bảo Đại như vua Louis XVI của nước Pháp, do cả hai đều chi tiêu cực kỳ xa xỉ tốn kém, và cả hai đều là những ông vua khiến vương triều sụp đổ. Có lần, các tờ báo ở Cannes đã đăng tin rất giật gân rằng chỉ trong một đêm ở sòng bạc, Bảo Đại đã thua ông trùm Hollywood Jack Warner số tiền lên tới 350 triệu franc. Trong lịch sử Việt Nam chưa từng có ai thua bạc một đêm với số tiền lớn như Bảo Đại.[68]

Tháng 3/1948, khi một nhà báo quốc tế nhắc tới tin đồn rằng Bảo Đại sẽ chịu hợp tác với Pháp để thành lập chính phủ, với điều kiện quân đội và ngoại giao của chính phủ đó thuộc quyền chỉ huy của Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tỏ ra tin tưởng Bảo Đại:

"Ông Vĩnh Thụy [tên thật của Bảo Đại] là Cố vấn của Chính phủ Việt Nam. Ông ấy không thể đàm phán hoặc hành động gì trước khi Chính phủ Việt Nam đồng ý. Vả chǎng, nếu quân độingoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp. Điều kiện như thế thì ngoài bọn phản quốc ra, không có một người Việt Nam nào chịu nhận, cố vấn Vĩnh Thụy cũng vậy. Hơn 80 nǎm dưới quyền thống trị của Pháp, nhân dân Việt Nam đã nếm đủ sỉ nhục và đau khổ".[69]

Sau đó ít lâu, khi thông tin này đã trở thành sự thật, trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo (Trung Hoa Dân Quốc) ngày 3/4/1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã lên án Bảo Đại như sau:

"Vĩnh Thụy trở về với 10.000 quân viễn chinh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực. Âm mưu của thực dân Pháp là đặt lại chế độ nô lệ ở Việt Nam. Vĩnh Thụy làm tay sai cho thực dân, là một tên phản quốc. Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự".[70][71]

Tại An Giang, người dân truyền tụng những câu ca dao phê phán rất thẳng, rất gay gắt, chửi cả tông tộc nhà Nguyễn, từ vua khai quốc Gia Long đến vua cuối cùng Bảo Đại là "dòng Việt gian" vì hành động cầu viện ngoại xâm để giành ngôi vị[72]:

Gia quyến

Tượng bán thân của Bảo Đại trong Dinh Bảo Đại
  1. Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu. Ông là nhà vua đầu tiên thực hiện bỏ chế độ cung tần, thứ phi. Cuộc hôn nhân này cũng gặp phải rất nhiều phản đối vì Nguyễn Hữu Thị Lan là người Công giáo và mang quốc tịch Pháp. Nam Phương Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan (南芳皇后阮有氏蘭; 14 tháng 12 năm 1914 - 16 tháng 9 năm 1963), con gái của Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bính (con gái của Huyện Sỹ Lê Phát Đạt). Quê Gò Công, Tiền Giang, Việt Nam, có hôn thú, có năm người con.
  2. Monique Marie Eugene Baudot, người Pháp, sinh tại Lorraine vào ngày 30 tháng 4 năm 1946. Bảo Đại quen bà từ năm 1971. Năm 1982 hai người kết hôn, Baudot được xưng danh Hoàng phi (皇妃; Imperial Princess), không có con chung. Sau khi Bảo Đại băng hà, bà tự xưng làm Thái Phương Hoàng hậu (泰芳皇后).[73]
Hoàng nam Bảo Ân, con trai út của Bảo Đại.
  1. Con chính thức:
    1. Trưởng nam - Đông cung Hoàng thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long, sinh ngày 4 tháng 1 năm 1936, mất ngày 28 tháng 7 năm 2007. Mẹ là Nam Phương Hoàng hậu.
    2. Trưởng nữ Nguyễn Phúc Phương Mai, sinh ngày 1 tháng 8 năm 1937, mất ngày 16 tháng 1 năm 2021. Mẹ là Nam Phương Hoàng hậu.
    3. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh ngày 3 tháng 11 năm 1938. Mẹ là Nam Phương Hoàng hậu.
    4. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1942. Mẹ là Nam Phương Hoàng hậu.
    5. Thứ nam Nguyễn Phúc Bảo Thăng, sinh ngày 9 tháng 12 năm 1943, mất ngày 15 tháng 3 năm 2017. Mẹ là Nam Phương Hoàng hậu.
  2. Con ngoại hôn:
    1. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh ngày 4 tháng 6 năm 1946 hiện nay đang sống ở Pháp. Mẹ là Thứ phi Mộng Điệp.
    2. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương Minh, sinh ngày 15 tháng 1 năm 1949, bà lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, rồi ly dị, trước tháng 4 năm 1975 về Sài Gòn thăm mẹ và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời tại Hoa Kỳ vào năm 2012. Mẹ là Thứ phi Phi Ánh.
    3. Thứ nam Nguyễn Phúc Bảo Ân, sinh năm 1951 đang sống tại Westminster, California, là người con nối dõi nhà Nguyễn. Mẹ là Thứ phi Phi Ánh. Ông Bảo Ân có 2 con, gái là Nguyễn Phúc Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phúc Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phúc Quý Khang là cháu đích tôn của Cựu hoàng Bảo Đại.[74]
    4. Thứ nam Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, sinh năm (19541955), chết khi một tuổi. Mẹ là Thứ phi Mộng Điệp.
    5. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương Từ, sinh năm 1955,[75] hiện đang sống ở Pháp. Mẹ là Quý bà Vicky.
    6. Thứ nữ Nguyễn Phúc Phương An, sinh năm 1955, hiện nay đang sống ở Hawaii, Hoa Kỳ.[76][77] Mẹ là Hoàng Tiểu Lan.
    7. Thứ nam Nguyễn Phúc Bảo Sơn (19571987), chết khi 30 tuổi vì tử nạn tại Nhật. Mẹ là Thứ phi Mộng Điệp.
    8. Con trai cuối cùng (con thứ 13): Patrick-Edouard Bloch-Carcenac, sinh ngày 21 tháng 4 năm 1958 tại Strasbourg, Pháp, con trai của Christiane Bloch-Carcenac, gặp nhau ở Alsace, Pháp năm 1957, trong một bữa tiệc săn bắn. Anh ấy vẫn sống ở Alsace ngày nay.[78]

Bảo Đại còn có một người con do bà Từ Cung Hoàng thái hậu nuôi từ nhỏ, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.[79]

Một số nhân tình nổi tiếng

Bảo Đại là ông vua duy nhất trong lịch sử Việt Nam từng tuyên bố sẽ chỉ lấy 1 vợ. Tuy nhiên, ông có đời sống tình ái khá phóng túng và có khá nhiều nhân tình. Trong cuốn “Bảo Đại hay những ngày cuối cùng của Vương quốc An Nam”, tác giả người Pháp Daniel Grandclément dẫn lời một người thân cận với nhà vua từng nói: “Ông đã dan díu với đủ hạng người, từ cô hầu phòng bình thường, vợ của các gia nhân đày tớ, hoa hậu Đông Dương đến gái nhảy, thậm chí gái điếm…”

  1. Thứ phi Bùi Mộng Điệp(裴夢蝶 22 tháng 6 năm 1924 - 26 tháng 6 năm 2011), quê Bắc Ninh, không hôn thú, có ba người con chung là Nguyễn Phúc Phương Thảo, Nguyễn Phúc Bảo Hoàng và Nguyễn Phúc Bảo Sơn.
  2. Thứ phi Lê Thị Phi ÁnhHuế (24 tháng 6 năm 1925 - 15 tháng 12 năm 1986), không hôn thú, có hai người con chung là Nguyễn Phúc Phương Minh và Nguyễn Phúc Bảo Ân.
  3. Lý Lệ Hà (李麗霞) quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con chung.
  4. Hoàng Tiểu Lan (黃小蘭), còn tên khác là Jenny Woong, vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có một con gái chung là Nguyễn Phúc Phương An, sau này cũng có đưa về Đà Lạt, cũng có một biệt thự như các bà thứ phi người Việt.
  5. Vicky (Pháp), không hôn thú, có một con gái chung là Nguyễn Phúc Phương Từ.
  6. Clément (?), vũ nữbuôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú.
  7. Christiane Bloch-Carcenac, một quý bà Pháp, sinh năm 1922 tại Pháp, và mất năm 2009, gặp nhau trong một bữa tiệc săn bắn ở vùng Alsace, Pháp. Mối liên hệ với Hoàng đế kéo dài cho đến năm 1970. Từ mối liên hệ của họ sinh ra Patrick-Edouard Bloch-Carcenac vào năm 1958, đứa con cuối cùng của Hoàng đế.
1
Gia Long
1802 - 1820
 
 
2
Minh Mạng
1820 - 1841
 
 
3
Thiệu Trị
1841 - 1847
 
 
         
4
Tự Đức
1847 - 1883
  Thoại Thái Vương   Kiên Thái Vương   6
Hiệp Hòa
1883
   
             
5
Dục Đức
1883
  9
Đồng Khánh
1885 - 1889
  8
Hàm Nghi
1884 - 1885
  7
Kiến Phúc
1883 - 1884
   
10
Thành Thái
1889 - 1907
  12
Khải Định
1916 - 1925
 
   
11
Duy Tân
1907 - 1916
  13
Bảo Đại
1926 - 1945
 

Chú thích: Các năm trong bảng là các năm trị vì của vị vua đó


Trong văn hoá đại chúng

Năm Tác phẩm Diễn viên Thể loại
2004 Ngọn nến Hoàng cung Huỳnh Anh Tuấn Phim truyền hình
2020 Không thể cùng nhau suốt kiếp Xuân Phúc Music video

Tiền đồng "Bảo Đại thông bảo"

Tiền đồng Bảo Đại thông bảo (保大通寶) là loại tiền đồng Việt Nam kiểu cổ sau cùng được chế tạo. Có ba loại tiền Bảo Đại Thông bảo: loại tiền đúc cỡ nhỏ, loại tiền đúc cỡ lớn mặt sau có nổi chữ "mười văn" và loại tiền đúc lớn có mặt sau "trơn". Tất cả được phát hành vào năm 1933.

Chú thích

  1. ^ “Birth of Emperor Bao Dai of Vietnam”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  2. ^ Kể chuyện chín chúa mười ba vua triều Nguyễn, Tôn Thất Bình, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 1997.
  3. ^ Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 1995, tr. 405.
  4. ^ BAO DAI ou les derniers jours de l"empire d"Annam
  5. ^ CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại – SPCE 476 (Phòng Báo chí quân đội viễn chinh) và Louis Roubaud, Viet Nam, la tragédie indochinoise (Việt Nam, tấn thảm kịch Đông Dương)
  6. ^ CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, báo cáo mật ngày 2 tháng 12 năm 1931
  7. ^ Lưu trữ Mật thám Fontainebleau (Hồ sơ Lưu trữ “Người Nga”)
  8. ^ Lưu trữ bộ Ngoại giao, Vụ Á – Châu Đại dương Loại E, 1930-1940, hồ sơ 40.
  9. ^ Bao Dai, Le Dragon dAnnam (Con rồng An Nam), Nhà xuất bản Plon.
  10. ^ CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, Đông Dương NF, cặp 368, hồ sơ 2940
  11. ^ Việc này được Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn ghi lại trong bài thơ sau:
    Năm trụ khi không rớt cái ình,
    Đất trời sấm dậy thảy đều kinh.
    Bài không đeo nữa đem dâng Lại,
    Đàn nỏ ai nghe khéo dấu Hình.
    Liệu thế không xong Binh chẳng được,
    Liêm đằng giữ tiếng Lễ đừng rinh.
    Công danh thôi thế là hưu hỉ,
    Đại sự xin nhường lớp hậu sinh.
    Nguyễn Phúc Tộc gia phả, Nhà Xuất bản Thuận Hóa, 1995, tr. 405.
  12. ^ "Nhận thức lại" hay xuyên tạc và phủ nhận lịch sử ?, THIÊN PHƯƠNG, Báo Nhân dân, 13/03/2015.
  13. ^ Nguyễn Ngọc Phách. Chữ Nho và đời sống mới. Melbourne: Hải Ngoại, 2004. Trang 525.
  14. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2017.
  15. ^ Viện Dân biểu Trung Kỳ ở Huế bây giờ ra sao?, Báo Tri thức & Cuộc sống, 12/05/2018
  16. ^ a b Paul-Marie de La GORCE:De Gaulle-Leclerc: de Londres à l'Indochine Espoir n°132, 2002.
  17. ^ Stéphane Just: A propos d'une possibilité théorique et de la lutte pour la dictature du prolétariat trên La Vérité" n°588 (Septembre 1979).
  18. ^ Peter A. Pull. Nước Mỹ và Đông Dương-Từ Roosevelt đến Nixon. Nhà Xuất bản Thông tin lý luận. Hà Nội. 1986. trang 23.
  19. ^ “Những ngày làm vua cuối cùng của hoàng đế Bảo Đại - Kỳ 2: Thông điệp gửi tướng De Gaulle”. Báo Thanh Niên. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  20. ^ Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, trang 185.
  21. ^ Báo Đông Phát xuất bản tại Hà Nội ngày 25 tháng 8 năm 1945. Đáng chú ý là tờ chiếu này không được Phạm Khắc Hòe nhắc đến trong hồi ký "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987. Nguyên văn tờ chiếu ngày 22 tháng 8 năm 1945.
  22. ^ Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, trang 186-188.
  23. ^ Phạm Khắc Hòe - hồi ký "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987. Nguyên văn tờ chiếu ngày 22 tháng 8 năm 1945.
  24. ^ Nguyên văn câu tiếng Pháp: " Ça vaut bien le coup, alors?". Hồi ký của Phạm Khắc Hòe: "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987.
  25. ^ “Thông tin chi tiết đại biểu quốc hội khóa I Nguyễn Vĩnh Thụy”. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ Biên bản Hội đồng chính phủ ngày 8 và ngày 11 tháng 3 năm 1946, lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
  27. ^ Phạm Khắc Hòe, "Từ Triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc", Nhà xuất bản Thuận Hoá, 1987
  28. ^ Tường Hữu, Sự thật về chiến tranh Việt Nam 1945-1975, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 2004 (ND).
  29. ^ “Cựu hoàng Bảo Đại và những canh bạc đế vương”. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  30. ^ Philippe Devillers, Histoire du Viet-Nam de 1940-1952, Eïdition du Seuil, 1952, p. 402.
  31. ^ Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam. Daniel Grandclément. Trang 358.
  32. ^ “Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố vấn Vĩnh Thụy”. Tạp chí điện tử Hồn Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 8 năm 2017. Truy cập 11 tháng 8 năm 2016.
  33. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 644.
  34. ^ a b c d e “The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954", U.S. POLICY AND THE BAO DAI REGIME”. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2011.
  35. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 646 - 647.
  36. ^ Bảo Đại,hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam -Daniel Grandcléme
  37. ^ Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Thanh niên, 1999, trang 384.
  38. ^ The first Indochina war: French and American policy 1945-54 - Ronald E Irving - London: Croom Helm, 1986.
  39. ^ a b H. R. McMaster (1998). Dereliction of Duty: Johnson, McNamara, the Joint Chiefs of Staff, and the Lies That Led to Vietnam. New York, New York: HarperCollins Publishers, Inc.
  40. ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954", MEMORANDUM FOR THE PRESIDENT - Harry S. Truman President Lưu trữ 2011-08-06 tại Wayback Machine, trích "Recognition by the United States of the three legally constituted governments of Vietnam, Laos' and Cambodia appears desirable and in accordance with United States foreign policy for several reasons. Among them are: encouragement to national aspirations under non-Communist leadership for peoples of colonial areas in Southeast Asia; the establishment of stable non-Communist governments in areas adjacent to Communist China; support to a friendly country which is also a signatory to the North Atlantic Treaty; and as a demonstration of displeasure with Communist tactics which are obviously aimed at eventual domination of Asia, working under the guise of indigenous nationalism".
  41. ^ The Pentagon Papers, Chapter 2, "U.S. Involvement in the Franco-Viet Minh War, 1950-1954" Lưu trữ 2011-08-06 tại Wayback Machine, Trích "In other words, there was a basic incompatibility in the two strands of U.S. policy: (1) Washington wanted France to fight the anti-communist war and win, preferably with U.S. guidance and advice; and (2) Washington expected the French, when battlefield victory was assured, to magnanimously withdraw from Indochina".
  42. ^ Alfred McCoy. South Vietnam: Narcotics in the Nation's Service Lưu trữ 2014-01-12 tại Wayback Machine. Trích dẫn: "The French had little enthusiasm for this emerging nation and its premier, and so the French had to go. Pressured by American military aid cutbacks and prodded by the Diem regime, the French stepped up their troop withdrawals. By April 1956 the once mighty French Expeditionary Corps had been reduced to less than 5,000 men, and American officers had taken over their jobs as advisers to the Vietnamese army. The Americans criticized the french as hopelessly "colonialist" in their attitudes, and French officials retorted that the Americans were naive During this difficult transition period one French official denounced "the meddling Americans who, in their incorrigible guilelessness, believed that once the French Army leaves, Vietnamese independence will burst forth for all to see." Although this French official was doubtlessly biased, he was also correct. There was a certain naiveness, a certain innocent freshness, surrounding many of the American officials who poured into Saigon in the mid 1950s"".
  43. ^ Dương Kiền. Việt Nam thế kỷ 20 biên niên sử. Falls Church, VA: Tiếng Quê Hương, 2005. tr. 57.
  44. ^ Bảo Đại - hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, Daniel Grandclément, Nhà Xuất bản Phụ Nữ. Trang 373.
  45. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 648 - 649.
  46. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 649.
  47. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 650.
  48. ^ Xem chú thích 121, bài "Ngô Đình Diệm, thời chưa nắm quyền" Lưu trữ 2008-04-09 tại Wayback Machine
  49. ^ He divided his time among the pleasure of the resort towns of Dalat, Nha Trang, and Banmethuout, and for all practical purposes, remained outside the process of government - United States – Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense/II. A. U.S., France and Vietnamese Nationalism.
  50. ^ Hoàng Cơ Thụy. Trang 2301.
  51. ^ “A Brief Overview of the Vietnam National Army and the Republic of Vietnam Armed Forces (1952-1975), PERSPECTIVES ON RVNAF FROM FRUS, Stephen Sherman and Bill Laurie”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2011.
  52. ^ Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 655.
  53. ^ Why Viet Nam?: Prelude to America's Albatross, Archimedes L.A Patti, University of California Press, 1982, trang 399.
  54. ^ Why Viet Nam?: Prelude to America's Albatross, Archimedes L.A Patti, University of California Press, 1982, trang 398.
  55. ^ Tờ Tia Sáng, số ra ngày 13/5/1954
  56. ^ Hoàng Cơ Thụy. tr. 2753.
  57. ^ “Emperor Bao Dai attempts to dismiss Diem - Oct 18, 1955 - HISTORY.com”. HISTORY.com. Truy cập 8 tháng 2 năm 2018.
  58. ^ truyền miệng (Patrick-Édouard Bloch) và các bài báo trên các báo "Tin mới nhất từ ​​Alsace" số 264 ngày 10/11/1992 và ngày 7/8/2007.
  59. ^ a b Quỳnh Cư-Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, Nhà Xuất bản Thanh niên, 1999, trang 386.
  60. ^ Xem thêm "Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn", tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang,
  61. ^ P. Hà. “Choáng váng đồng hồ Rolex của vua Bảo Đại bán 113 tỷ đồng trong vòng 8 phút đấu giá”. An Ninh Thủ Đô. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
  62. ^ LEo, Ben. “Gold 1952 Reference 6062 Rolex owned by the last emperor of ­Vietnam breaks world record as it sells for £3.95m”. The Sun. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017. soft hyphen character trong |title= tại ký tự số 61 (trợ giúp)
  63. ^ “The Last Emperor of Vietnam's Watch Becomes Most Expensive Rolex Ever Sold at Auction”. hypebeast.com. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
  64. ^ Golden, Conner. “Bao Dai's Watch is the Most Expensive Rolex Ever Sold at Auction”. Automobile. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2017.
  65. ^ Bảo Đại - hay những ngày cuối cùng của vương quốc An Nam, Daniel Grandclément, Nhà Xuất bản Phụ Nữ. Lời nói đầu.
  66. ^ Paris Presse, 2/4/1947.
  67. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2019.
  68. ^
  69. ^ Trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc nhật báo (1949)(1), Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5 (1947 - 1949), Nhà Xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1985, trang 211, 212.
  70. ^ Nét riêng của tiếng cười trong ca dao An Giang
  71. ^ Theo tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, trong cuốn Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn,
  72. ^ Huy Phương (ngày 18 tháng 3 năm 2013). “Gặp gỡ "Mệ" Bảo Ân, con trai út của Cựu Hoàng Bảo Đại”. Người Việt. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2013.
  73. ^ “Vicky”. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  74. ^ “Gác Thọ Lộc”. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2014. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  75. ^ “Cuộc đời bi thảm, Bảo Đại vẫn không thể thiếu đàn bà”. Báo điện tử Người đưa tin. Truy cập 17 tháng 2 năm 2015.
  76. ^ Sách của François Joyaux, nhan đề "Nam Phương, nữ hoàng cuối cùng của Việt Nam", ấn bản năm 2020 của Perrin ở Paris, trang 270.
  77. ^ Xem thêm "Giai thoại và sự thật về Bảo Đại, vua cuối cùng Triều Nguyễn", tác giả Lý Nhân Phan Thứ Lang, Nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 2006. Trang 264.
  78. ^ David George Marr (1995). Vietnam 1945: The Quest for Power. London, England: University of California Press, Ltd.
  79. ^ Trích hồi ký "Con Rồng Việt Nam" của Bảo Đại, trang 188.
  80. ^ Philip Shenon (ngày 2 tháng 8 năm 1997). “Bảo Đại, 83, of Vietnam; Emperor and Bon Vivant”. New York Times.
  81. ^

    Liên kết ngoài


    <>
Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam
(1949 – 1955)
South Vietnam
South Vietnam
  • Bảo Đại (1949 – 1955)
  • Ngô Đình Diệm (1955)1
  • Nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa
    (1955 – 1975)
    South Vietnam
    South Vietnam
  • Ngô Đình Diệm (1955 – 1963) South Vietnam
  • Phan Khắc Sửu (1964 – 1965) South Vietnam
  • Nguyễn Văn Thiệu (1965 – 1967)2 South Vietnam
  • Nguyễn Văn Thiệu (1967 – 1975) South Vietnam
  • Trần Văn Hương (1975) South Vietnam
  • Dương Văn Minh (1975)2South Vietnam

  • ................................................

    Family tree


    Nguyễn lords family tree


    Nguyễn Kim
    Ngọc Bảo
    wife of Trịnh Kiểm
    Nguyễn Uông Nguyễn Hoàng
    Nguyễn Phúc HàNguyễn Phúc HánNguyễn Phúc ThànhNguyễn Phúc DiễnNguyễn Phúc HảiNguyễn Phúc NguyênNguyễn Phúc HợpNguyễn Phúc TrạchNguyễn Phúc Khê
    Nguyễn Phúc VệNguyễn Phúc TuyênNguyễn Phúc TuấnNguyễn Phúc KỳNguyễn Phúc Lan Nguyễn Phúc Ánh Nguyễn Phúc TrungNguyễn Phúc TứNguyễn Phúc Diệu
    ? (name is unknown)Nguyễn Phúc TầnNguyễn Phúc Thăng
    Nguyễn Phúc DiễnNguyễn Phúc TrănNguyễn Phúc Hiệp
    Nguyễn Phúc ChuNguyễn Phúc Trinh
    Nguyễn Phúc TrúNguyễn Phúc TứNguyễn Phúc ĐiềnNguyễn Phúc Phong
    Nguyễn Phúc KhoátNguyễn Phúc Nghiêm
    Nguyễn Phúc ChươngNguyễn Phúc LuânNguyễn Phúc VănNguyễn Phúc ChíNguyễn Phúc HiệuNguyễn Phúc Thuần
    Nguyễn Phúc CaoNguyễn Phúc Đồng Nguyễn Phúc Ánh Nguyễn Phúc MânNguyễn Phúc ĐiểnNguyễn Phúc Dương

    Notes:



    ......................................................................



    Những người lính triều Nguyễn đã sử dụng loại súng nào?

    What type of firearms did the Nguyen dynasty soldiers use?


      Development of economy, law, culture, society, etc. With many activities and specific policies, especially the Hoang Viet rules and regulations (Gia Long code), planned to build Hue capital and continued to establish Vietnam’s sovereignty over the Hoang Sa (Paracel) and Trương Sa (Spratly) archipelagoes.


      Phát triển kinh tế, pháp luật, văn hóa, xã hội, v.v... Với nhiều hoạt động và chính sách cụ thể, đặc biệt là các quy tắc và quy định của Hoàng Việt (bộ luật Gia Long), đã đặt kế hoạch xây dựng kinh đô Huế và tiếp tục thiết lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa (Hoàng Sa) và Trương Sa (Trường Sa).

      Các loại súng phổ biến nhất được sử dụng bởi những người lính của triều Nguyễn từ giai đoạn 1802 đến những năm 1860 là Saint-Étienne hoặc súng hỏa mai đá lửa Charleville (Model 1777).

      The most common firearms that were used by soldiers of Nguyễn Dynasty from the period of 1802 to the 1860s were the Saint-Étienne or the Charleville flintlock muskets (Model 1777).


      Hình: Vệ Binh Hoàng Gia (được trang bị súng hỏa mai và lưỡi lê), quân đội triều đình (được trang bị pikes và kiếm) của nhà Nguyễn vào năm 1830.

      The Royal Guards (armed with muskets and bayonets) and regular troops (armed with pikes and swords) of Nguyễn Dynasty in 1830.

      Sir John Crawfurd (1783–1868), một nhà ngoại giao Anh đã đến thăm Sài Gòn vào những năm 1820, đã quan sát cẩn thận quân đội Việt Nam và súng hỏa mai của họ, khi ông đưa ra một số nhận xét như sau:

      "Quân đội được trang bị súng hỏa mai và lưỡi lê, hoặc bằng giáo; hai mô tả về vũ khí được trộn lẫn trong hàng ngũ theo tỷ lệ thường xuyên. Chúng tôi liên tục kiểm tra súng hỏa mai, và tìm thấy chúng theo thứ tự rất tốt. Chúng được chăm sóc rất cẩn thận, và khi hàn không có nhiệm vụ luôn được che đậy".

      (Tạp chí của một đại sứ quán từ Toàn Quyền Ấn Độ đến các tòa án của Xiêm và Cochin Trung Quốc, Tập 2, Luân Đôn, 1830, trang 291).

      Mặt khác, liên quan đến pháo binh và các loại súng khác, nhà Nguyễn cũng có một số lượng, đáng kể đại bác, từ cỡ nòng nhỏ đến cỡ nòng lớn với các loại đạn đại bác khác nhau.

      Các loại vũ khí bộ binh khác nhau của Quân đội nhà Nguyễn trong thế kỷ XIX. Ảnh chụp từ "Connaissance du Viet-nam" (1954), một cuốn sách tiếng Pháp do Pierre Huard và Maurice Durand viết:

      Dưới thời trị vì của Hoàng đế Gia Long (1802–1820), Việt Nam là một trong số ít các quốc gia ở châu Á có rất nhiều súng hỏa mai đá lửa phương Tây và súng cầm tay các loại.


      The personal flintlock musket of Emperor Gia Long, with the inscription on the stock.

      Dưới thời trị vì của Hoàng đế Minh Mạng (1820–1841), mỗi trung đoàn quân sự (500–600 quân) có 02 khẩu đại bác và 200 khẩu súng hỏa mai, với tỷ lệ 04 lính ngự lâm trên 10 binh sĩ. Các khẩu súng hỏa mai được bảo quản kỹ lưỡng và trong điều kiện tuyệt vời, với trang bị có sẵn lưỡi lê.


      Hình: Một lưỡi lê có ổ cắm gài, điển hình từ đầu thế kỷ 19.


      Hình: Hoàng gia hay Vệ binh Hoàng gia (Garde Royale) của nhà Nguyễn năm 1863. Tất cả đều được trang bị giáo, khiên và súng hỏa mai Saint-Étienne (Model 1777).

      The Imperial or the Royal guards (Garde Royale) of Nguyễn Dynasty in 1863. All were armed with spears, shields and Saint-Étienne muskets (Model 1777).

      Trong lịch sử, nhà Nguyễn ở Việt Nam đã xây dựng và duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh, bao gồm Vệ binh Hoàng gia ("Cấm binh"), lãnh trách nhiệm bảo vệ Thành Huế làm thủ đô và các vị trí chiến lược khác trên cả nước.

      Historically, the Nguyễn Dynasty in Vietnam had built and maintained a strong military force, including the Imperial Guards (“Cấm binh”), which was in charge of defending the Citadel of Huế as the capital and the other strategic positions across the country.

      Mặt khác, có năm Nguyên soái hay "Ngũ Quân" chỉ huy toàn quân, đó là:

      -- "Trung Quân" (Nguyên soái của Quân đội Trung tâm),

      -- "Tiền Quân" (Nguyên soái của Quân đội Mặt trận),

      -- "Hậu Quân" (Nguyên soái của Lục quân phía sau),

      -- "Hữu Quân" (Nguyên soái của Quân đội Cánh phải) và

      -- "Tả Quân" (Nguyên soái của Quân đội Cánh tả).

      On the other hand, there were five Marshals or “Ngũ Quân” who commanded the whole army, they were:

      ❖ The “Trung Quân” (Marshal of the Center Army),

      ❖ “Tiền Quân” (Marshal of the Front Army),

      ❖ “Hậu Quân” (Marshal of the Rear Army),

      ❖ “Hữu Quân” (Marshal of the Right Flank Army) and

      ❖ “Tả Quân” (Marshal of the Left Flank Army).


      Hình tem: Lính Thú Thời Xưa

      Cận vệ hoàng gia nhà Nguyễn ở thành Huế, 1874. Họ được trang bị một khẩu súng nhỏ, kiếm, dao, giáo, súng hỏa mai cố định lưỡi lê (hỏa mai), bình bột (bầu ngòi) & túi đựng hộp mực (bao tấu).
      Imperial Guards of Nguyễn Dynasty in Huế Citadel, 1874. They were armed with a small canon, swords, knives, spears, bayonet-fixed muskets (hỏa mai), powder flasks (bầu ngòi) & cartridge pouchs (bao tấu).

      The Imperial Guards of Nguyễn Dynasty during the XIX century.
      At the beginning of the XIX century, the Nguyễn Dynasty’s Army, especially the Imperial Guards was still a strong and modern military force in Southeast Asia.
      Unfortunately, during the French conquest of Vietnam (1858–1884), it was rapidly declined to a force with poorly armed solders and obsolete weapons.


      Hình: Lính Thú Thời Xưa
      South Vietnam Stamps 1972 Historic Frontier Guards

      Bài học thuộc lòng

      Lính Thú (1) Thời Xưa

      Ngang lưng thì thắt bao vàng, (2)
      Ðầu đội nón dấu (3) vai mang súng dài,
      Một tay thì cắp hỏa mai, (4)
      Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền (ghe).
      Thùng thùng trống đánh ngũ liên. (5)
      Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
      Ba năm trấn thủ lưu đồn, (6)
      Ngày thì canh điếm (7), tối dồn việc quan.
      Chém (đốn) tre, đẵn (chặt) gỗ trên ngàn,
      Hữu thân hữu khổ, phàn nàn cùng ai!
      Miệng ăn măng trúc, măng mai,
      Những dang (8) cùng nứa, lấy ai bạn cùng!
      Nước giếng trong, con cá vẫy vùng.


      Quốc Văn Giáo Khoa Thư
      Lớp Sơ Ðẳng (Cours Elémentaire)

      Chú thích:
      1. Lính Thú: Lính đi đóng đồn miền xa, miền ngược
      2. bao vàng: Bao bằng vải vàng, đeo lưng
      3. nón dấu: Nón bằng lá trên có chóp bằng thau
      4. hỏa mai: Ngòi nổ dùng cho loại súng nạp trên (nạp tiền)
      5. ngũ liên: Trống đánh từng hồi 5 tiếng
      6. lưu đồn: Ðồn nhằm canh giữ giặc cướp
      7. canh điếm: Trạm gác, điếm canh ngày đêm
      8. dang: Loại nứa giống như tre (không có trong Nam).

      Lính ở đây, là lính thời nhà Nguyễn. Thời bấy giờ, tùy theo nhu cầu, xã thôn lập sổ đinh (sổ thanh niên trai tráng) trong xã rồi nộp giao cho quan huyện tập trung chuyển lên phủ, ở địa phương hoặc triều đình (trung ương) điều động theo nhu cầu.

      Lính đời xưa Việt Nam đã có quân trang quân dụng:

      - Lưng thắt dây vải vàng (thay vì dây nịt như ngày nay).
      - Nón là nón dấu trên chóp làm bằng thau,
      - Quân cụ thì lính được trang bị súng hỏa mai, loại súng nạp trên đầu (nạp tiền) và phải châm ngòi (quả mai) mới phát nổ được,
      - Quân trang, lính bấy giờ còn đi chân đất chưa có giày dép như sau này.

      "SÚNG HỎA MAI" Loại Súng Sơ Khai Nhất Của Nhân Loại
      | Musket - Tanegashima - Arquebus
      https://youtu.be/ida9teHHsFw


     

    No comments:

    Post a Comment