Trước 1000 năm người Việt bị Trung Quốc cai trị, người Việt Nam đã tồn tại như một quốc gia riêng biệt
Đông Sơn’s drums
Trống Đông Sơn (500 TCN – 100 CN) đã được tìm thấy trên khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á, bao gồm Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Malaysia, Campuchia và Indonesia, cho thấy tộc Việt có có tham dự sinh hoạt thương mại bằng đường biển ban đầu rất xa khoảng thế kỷ thứ Nhất công nguyên.
The Đông Sơn drum is a magical musical instrument.
Bronze Age in Southeast Asia. This is because the Đông Sơn drums (500 B.C.E.–100 C.E.) have been found throughout Southeast Asia, including Laos, Thailand, Burma (Myanmar), Vietnam, Malaysia, Cambodia, and Indonesia, suggesting far ranging early trade networks and interactions.
Trống Đông Sơn (500 TCN – 100 CN) đã được tìm thấy trên khắp Đông Nam Á, bao gồm:
Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Vietnam, Malaysia/Mã Lai Á, Campuchia/Cam Bốt và Indonesia/Nam Dương.
Circulation of bronze drums
Ancient trade routes used by the Bronze Drums
Các tuyến đường thương mại của Việt tộc cổ xưa thường được sử dụng Trống đồng
------------------------
00
10
11
12
13
14
15
16
17
Trước 1000 năm cai trị của Trung Quốc, người Việt Nam đã tồn tại như một quốc gia riêng biệt và là một quốc tịch khác trong vài ngàn năm kể từ năm 2.000 trước Công nguyên.
Đông Á và Đông Nam Á đã từng có nhiều quốc gia và quốc tịch độc lập ở các tỉnh phía bắc đông Á hiện tại của nó: Những quốc gia đó là Tần, Chu, Sở, Hàn, Ngụy, Triệu, Tề và Yan.
Hồi đó, lãnh thổ của Việt Nam bao gồm các tỉnh phía nam sông Trường Giang/Dương Tử hiện tại ở Đông Nam Á. Người Việt cổ đã bắc tiến và lập căn cứ địa đóng đô ở Sơn Đông, dựa lưng vào núi Thái Sơn và sông Nguồn.
Những quốc gia đó là Tần, Chu, Hán, Ngụy, Triệu, Tề và Yan/Yên cũng tương tự như châu Âu với nhiều quốc gia và quốc tịch khác nhau và ranh giới, đã thay đổi theo thời gian khi một quốc gia trong khu vực xâm chiếm các quốc gia khác, giống như ranh giới của các nước châu Âu thay đổi theo thời gian, họ có thể là liên minh du mục của một lãnh tụ nào đó, hay bản xứ, hay chư hầu của một liên minh nước nông nghiệp nào đó, với ngôn ngữ, tiếng nói, phong tục khác nhau chứ họ không phải là người Hán nguyên thủy. Sau này Đại Tần thâu tóm hết những nước này, thì người Chinese Hán Chinhận vơ tất cả đều là Hán.
Năm 221 TCN Tần chinh phục Chu, Hán, Ngụy, Triệu, Tề và Yan/Yên và tạo ra China. Nó tương tự như đức quốc xã chiếm đóng châu Âu trong Thế chiến II. Hãy tưởng tượng nếu Đức Quốc xã đã giành chiến thắng trong Thế chiến II và gọi châu Âu là một quốc gia mới "EuroNazi" với lịch sử của nó bắt đầu từ thời điểm đó cũng như Đại Tần chiếm cứ các nước chung quanh đó thì bắt đẩu thời điểm thâu tóm sáu nước đó, nó mới trở thành nước Đại Tần, nước China, nước Tàu, chứ không phải trước đó nó là nước Tàu, sau khi Tần thâu tóm sáu nước, nó cũng là nước Tàu.
Thế nhưng, lịch sử của các nước châu Âu khác như Pháp và Tây Ban Nha vẫn còn tồn tại trước khi Đức Quốc xã chiếm đóng chúng. Đây là lý do tại sao lịch sử của Trung Quốc là gian lận, nơi họ sử dụng khoảng thời gian chiếm đóng các quốc gia khác như thể các quốc gia đó không tồn tại trước đó, khi bị Trung quốc chiếm đóng, trong khi thực tế thì các quốc gia đó đã hiện hữu, có riêng từ lãnh thổ, phong tục, tiếng nói, chữ viết tuy còn đơn sơ (sau đó bị nhà Tần đốt sạch).
Vì vậy, Việt Nam đã tồn tại trước khi Trung Quốc chinh phục các nước khác và trở thành quốc gia lớn hơn.
Chiến thuật của Trung Quốc cố gắng chiếm lại các quốc gia khác cho dù họ là Việt Nam, Tây Tạng, Mông Cổ, v.v... là Trung Quốc chỉ đề cập đến thời kỳ chiếm đóng của các quốc gia khác trong lịch sử của mình và bỏ qua hàng ngàn năm mà các quốc gia đó đã tồn tại như các quốc gia độc lập và là các quốc tịch khác nhau * trước khi chiếm đóng.
Việt Nam sau đó bị Trung Quốc cai trị
Trong suốt 1.000 năm đó với nhiều cuộc nổi dậy không ngừng, như:
1. Cuộc nổi dậy của Hai Bà Trưng/ Trung sisters Rebellion(Han - Linnan War) 42 – 43 B.C.
2. Cuộc nổi dậy của Bà Triệu/Trieu rebelled against Đông Ngô( 東吳) 248 - 265 B.C.
Cuộc nổi dậy của Chu Đạt quận Nhật Nam.
3. Cuộc nổi dậy của Lý Bôn, Lý Bí/The war between Van Xuan (VietNam) and Luong (China) 541 - 602 B.C.
4. Cuộc nổi dậy của Triệu Việt Vương/The war between Van Xuan (VietNam) and Luong has been replaced by Tuy dynasty(China) 602 B.C.
5. Cuộc nổi dậy của Mai Thúc Loan/The war between Mai Thuc Loan (VietNam) against Đường 713 – 722 B.C.
6. Cuộc nổi dậy của Phùng Hưng/The war between Phung Hung against Đường 941 - 945 B.C.
7. Cuộc phản công của Khúc Thừa Dụ/ Khuc Thua Du claimed the independence at 905 - 907.
8. Cuộc phản công của Ngô Quyền/Ngo dynasty defeated South Han dynasty at 938 B.C.
9 Cuộc nổi dậy của Đại Cồ Việt/ Dai Co Viet dynasty defeated Song army at 981 B.C.
1st century
Year | Date | Event |
---|---|---|
2 | Census records for Jiaozhi/Giao Chỉ, JiuzhenCửu Chân, and Rinan/Nhật Nam record 143,643 households and a population of 981,755[6] | |
40 | Trung sisters' rebellion: Yue tribes rebel in Jiaozhi[7] | |
42 | Trung sisters' rebellion: Ma Yuan leads an expedition to Jiaozhi[8] | |
43 | Trung sisters' rebellion: The Trưng Sisters are decapitated[7] |
2nd century
Year | Date | Event |
---|---|---|
100 | A rebellion in Jiaozhi is put down[9] | |
136 | People known as the Qulian from beyond the southern frontier attack Rinan Commandery, causing turmoil and confusion[10] | |
137 | Rinan rebels[9] Nhật Nam (chữ Hán: 日南) là một địa danh cũ ở Việt Nam thời Bắc thuộc. | |
144 | Rinan rebels[9] Rinan (Chinese: 日南; pinyin: Rìnán; Vietnamese: Nhật Nam), also rendered as Jih-nan, was the southernmost commandery of the Chinese Han dynasty. It was located in the central area of modern-day Vietnam between Quảng Bình and Bình Định provinces. | |
157 | Chu Đạt rebels in Jiuzhen Commandery and is defeated[11]
Chu Đạt (chữ Hán: 朱達; 91 - 160) là thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa tại Cửu Chân chống ách thống trị nhà Đông Hán. Ông là người ở Cư Phong (nay là Thiệu Hóa, Thanh Hóa). Sau khi đàn áp được cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nhà Hán tăng cường áp bức bóc lột người Việt. Năm 157, Chu Đạt đứng lên kêu gọi toàn dân nổi dậy giết viên huyện lệnh Cư Phong. Nghĩa quân ngày càng lớn mạnh, ông cho đánh huyện Cửu Chân và giết thái thú Nghê Thức, giải phóng huyện Cửu Chân. Triều đình nhà Hán cho quân từ Giao Chỉ vào đàn áp. Ông lui quân về Nhật Nam (nay là vùng Bình Trị Thiên). Tại đây nghĩa quân tiếp tục lớn mạnh do được sự ủng hộ của nhân dân. Nhà Hán cử thứ sử Hạ Phương sang đàn áp. Năm 160 nghĩa quân hoàn toàn thất bại, ông bị chết. | |
160 | Shi Ci becomes administrator of Rinan[9] | |
190 | Shi Ci's son Shi Xie appoints his brothers Shi Yi, Shi Wei, and Shi Wu as administrators of Hepu, Jiuzhen, and Nanhai[12] | |
192 | The southernmost district of Rinan Commandery, Xianglin, breaks away and becomes the Kingdom of Lâm Ấp, otherwise known as Champa[13] |
3rd century>[edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
211 | Shi Xie submits to Sun Quan's overlordship[12] | |
217 | Shi Xie sends his son Shi Xin to Sun Quan as hostage[12] | |
226 | Shi Xie dies and Sun Quan's general Lü Dai kills his family;[12] Shi Xie, also called Sĩ Nhiếp in Vietnamese, is remembered today in Vietnam as the father of education and Buddhism - according to Stephen O'Harrow, he was essentially "the first Vietnamese"[14] | |
248 | Lâm Ấp (probably Champa) seizes Rinan while Lady Triệu rebels unsuccessfully against Sun Wu[14] |
4th century>[edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
347 | Lâm Ấp invades Jiaozhi but is repulsed by the Jin dynasty (266–420)[15] | |
359 | Lâm Ấp is defeated[15] | |
377 | Li Xun seizes Jiuzhen[15] | |
380 | Teng Dunzhi becomes governor of Jiaozhi after Du Yuan kills Li Xun[15] | |
399 | Du Yuan becomes governor of Jiaozhi and defeats a Lâm Ấp invasion[15] |
5th century [edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
405 | Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16] | |
410 | Du Yuan dies and is succeeded by Du Huidu[15] | |
411 | A rebel army under Lu Xun attempts to seize control over Jiaozhi but fails[17] | |
413 | Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16] | |
415 | Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16] | |
423 | Du Huidu dies and is succeeded by Du Hongwen[15] | |
424 | Lâm Ấp attacks Jiaozhi[16] | |
427 | Du Hongwen leaves Jiaozhi for the court after receiving an appointment[15] | |
443 | Tan Hezhi, governor of Jiaozhi, starts recruiting an army[18] | |
446 | Tan Hezhi invades Lâm Ấp and pushes them back to the area around modern Da Nang[18] | |
468 | Two brothers Lý Trường Nhân and Lý Thúc Hiến rebel against the Liu Song dynasty, emperor Emperor Ming of Song de jure recognizes Lý Trường Nhân as Thứ sử (province governor, cishi)[19] | |
485 | Lý Thúc Hiến surrenders to Qi Dynasty[20] |
6th century [edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
541 | Lý Bôn (503–548) rebels and attacks Liang officials[21] | |
544 | February | Lý Bôn establishes the Early Lý dynasty (Kingdom of Vạn Xuân) and becomes Lý Nam Đế (Southern Emperor)[22] |
545 | Chen Baxian drives Lý Nam Đế into the mountains, where he is eventually killed, but resistance continues under Lý Thiên Bảo[22] |
7th century []
Year | Date | Event |
---|---|---|
602 | Sui–Former Lý War: Sui forces under Liu Fang annex the kingdom of Vạn Xuân[23] | |
618 | Transition from Sui to Tang: Sui military leaders in Jiaozhou follow Xiao Xian fight against the new Tang Empire[24] | |
622 | Transition from Sui to Tang: Li Yuan and his forces defeat Xiao Xian, then arrive Tống Bình (Hanoi). Jiaozhou governor Khâu Hòa (552–637) surrenders to Tang dynasty. Jiaozhou is incorporated into Tang Empire[25] | |
679 | Jiaozhi is renamed Annan (An Nam)[26] | |
687 | Lý Tự Tiên and Đinh Kiến revolt at Đại La in response to a raise in harvest tax[27] | |
691 | I-ching's book Commentary about Monks of the Great Tang mentions 6 Vietnamese Buddhist monks who traveled to India |
8th century [edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
722 | Mai Thúc Loan rebels in Annan and is defeated[28] | |
767 | Srivijaya fleets invade Annan and are defeated[28] | |
785 | Phùng Hưng rebels in Annan[29] | |
791 | Tang regains control of Annan[29] |
9th century [edit]
Year | Date | Event |
---|---|---|
803 | Champa seizes southern Annan[30] | |
846 | Nanzhao raids Annan[30] | |
858 | Rebellion breaks out in Annan and is put down[31] | |
861 | Nanzhao attacks Bo Prefecture and Annan but is repulsed.[32] | |
863 | Nanzhao conquers Annan[33] | |
866 | Gao Pian retakes Annan from Nanzhao and establishes the Jinghai Army (Military Command)[33] | |
874 | Tang dynasty launches a campaign against aboriginal forces[34] | |
877 | Troops deployed from Annan rebel in Guangxi[34] | |
879 | Campaign against aboriginal forces ends[34] | |
880 | A Tang garrison at Đại La mutinies, forcing Zeng Gun to withdraw troops from the south and relinquish control over Annan; ending de facto Chinese control over Vietnam[35] |
10th century
Year | Date | Event |
---|---|---|
904 | Zhu Wen's brother Quanyu tries to enter Annan but is immediately dismissed the next year for being "stupid and without ability"[36] | |
906 | Khúc Thừa Dụ of the Khúc clan takes control of Annan and establishes tributary relations with Later Liang[35] | |
938 | Battle of Bạch Đằng River: Ngô Quyền defeated the Southern Han kingdom at the Battle of Bạch Đằng River north of modern Haiphong and ended 1,000 years of Chinese domination dating back to 111 BC under the Han dynasty, founding the Ngô dynasty. | |
979 | Emperor Đinh Bộ Lĩnh of Đại Cồ Việt was assassinated along with his crown prince Đinh Liễn by a minor palace official. His surviving son, the young Đinh Phế Đế, succeeded him under the regency of the commander-in-chief Lê Hoàn. | |
Lê Hoàn declared himself viceroy of Đại Cồ Việt with the support of the empress dowager Dương Vân Nga. | ||
The nobles Nguyễn Bặc and Đinh Điền attacked the Đại Cồ Việt capital Hoa Lư in response to Lê Hoàn's apparent usurpation. | ||
Nguyễn Bặc and Đinh Điền were executed. | ||
981 | Lê Hoàn declared himself emperor at Hoa Lư. | |
Battle of Bạch Đằng (981): Đại Cồ Việt forces defeated a Song invasion near Lạng Sơn, forcing the Song fleet on the Bạch Đằng River to withdraw.[37] | ||
Nam quốc sơn hà, a poem celebrating the sovereignty of Đại Cồ Việt over its territory, was written. | ||
982 | Đại Cồ Việt forces sacked the Champa capital Indrapura.[37] |
11th century
Year | Date | Event |
---|---|---|
1005 | Lê Hoàn died. | |
1009 | The imperial court acclaimed Lý Thái Tổ emperor of Đại Cồ Việt. | |
1010 | Autumn | Lý Thái Tổ issued the chiếu dời đô, an edict ordering the transfer of the capital from Hoa Lư to Đại La. |
1028 | Lý Thái Tổ's son Lý Thái Tông became emperor of Đại Cồ Việt. | |
1038 | The Nùng warlord Nùng Tồn Phúc launched a failed rebellion against Lý Thái Tông. | |
1054 | Lý Thái Tông died. He was succeeded by his son Lý Thánh Tông. | |
1070 | The Temple of Literature, Hanoi, a Confucian temple, was constructed. | |
1072 | January | Lý Thánh Tông died. He was succeeded as emperor by his young son Lý Nhân Tông, with the latter's mother Ỷ Lan and the chancellor Lý Đạo Thành acting as regents. |
1075 | Minor officials were chosen by examination for the first time.[37] | |
Autumn | Lý–Song War: Đại Cồ Việt invaded Song in response to a trade blockade. |
Gallery[edit]
Han conquest of Nanyue in 112 BC
Ngô dynasty in 938
Mỗi cuộc nổi dậy là một sức mạnh đẩy lùi người Tàu về nước của họ và chấm dứt sự đô hộ người Việt Nam.
Each rebellion pushed back Chinese troops to its land and ruled VietNam in a period of time.
Và cuối cùng Việt Nam đã khôi phục lại nền độc lập như ban đầu thời Hồng Bàng.
Sự thật thì người Tàu chưa thật sự thống trị người Việt trong thời gian 1000 năm đó vì luôn có những cuộc nổi dậy diễn ra liên tục trong thời gian đó, có nghĩa là sự đồng hóa, dùng ngôn ngữ người Hán áp đặt với Việt cổ thiếu liên tục, đứt quảng theo cuộc nổi dậy, có chăng người Tàu thâu thuế thôi, làng xã vẫn sống như một khu tự trị vã lại, lúc đó người Việt còn theo chế độ mẫu hệ, nên phong tục, tên tuổi vẫn là người Giao Chỉ. Người Tàu đã than vãn rằng nơi quận Giao Chỉ người dân cứng đầu, hung tợn, luôn có cuộc xung đột với thái Thú địa phương. Sĩ Nhíp là thái thú hiểu biết nhất, phải xử sự mền dẻo vì đường từ Trung Nguyên tới Giao Chỉ quá xa, không mỗi chút là kêu đến trung ương đem lính tráng tới, có khi thái thú bị mất mạng chờ lính tráng đem về Trung Nguyên chôn. Trong thời gian này quân Hán còn phải đối phó liên với giặc Hung Nô phía bắc, Giặc Khăn Vàng, giặc bà Lữ Hậu tung tác, nước luôn có chiến tranh.
The real thing is China did not rule VietNam continuously over all 1,000 years, because Vietnamese make a rebel constanly.
Nên hỏi tại sao nước Việt Nam nhỏ thế mà không chịu khuất phục, không ngừng đứng lên đòi chủ quyền.
It’s better to ask why VietNam is small country but it does not stop to stand and fight to claim its independence?
Hãy hỏi: Tại sao nước Tàu lại hãnh diện họ là một nước to lớn đến thế mà để cho Mông Cổ, bộ tộc Mãn Châu, và nhà Tống cai trị họ trong nhiều năm đến nổi người Tàu đã bị biến dạng ngôn ngữ, chữ viết và trang phục, họ phải dùng áo Sườn Sám của người Mãn, tiếng nói của người phương Bắc [Bắc Kinh] (mixing up language of Turk, Mongol and Manchurian) và kiểu chữ do người Mãn Châu tái tạo được 100 năm. Vì thế người Tàu bây giờ không đọc được chữ Hán thời trung cổ, và chữ Hán thời thượng cổ. Họ mất tiếng nói, mất văn hóa trên chính quê hương của họ, vì bị nhiều lần ngoại bang chinh phục liên tục và nưũng cuộc chinh phục đó quá lâu, người Tàu phải gọi chữ viết do vua Mãn cải biến là chữ Hán, áo sườn sám do Mãn cũng được gọi là quần áo cổ truyền người Hán, ngay cả tiếng nói cũng là tiếng của tộc du mục phương bắc chính phục họ, tiếng nói bị trộn lẫn như một nồi lẩu tạp ngôn ngữ.
Người Hán đã phải dùng của ngoại bang làm của mình, ngay cả kinh đô Bắc Kinh cũng là do tộc Mông Cổ lập ra mà có.
Rồi đến cũng nhờ Nga và vũ khí Nga mà cộng sản Tàu mới có được chỗ đứng và vững thành khối. Tàu có dám buông Nga ra đứng một mình không?
"cộng sản khối đông Á Trung Nguyên da vàng" dung giăng với khối "cộng sản khối Bắc Á Trung Nguyên da trắng" được "cộng sản khối Đông Á da vàng vùng Nam Trung Nguyên" Quảng Đông, Phúc Kiến" moi tiền Tây Phương nuôi béo cả nước Tàu cộng.
Nay Tàu lại đánh cắp kỹ thuật của Tây Phương, làm nhái làm giả. Nho giáo là cái ruột của người Hán, mà nho giáo nó đã biến mất từ lâu, văn hóa người Hán chỉ toàn ruột rỗng và toàn đồ giả, đồ nhái, ngôn ngữ thì mạnh tiếng thiểu số dân tộc đó nói, ảo tưởng người Hán là "con trời", cái rốn vũ trụ, cũng làm người ta phì cười, trò trẻ con!
Rather ask: Why does China is proud they have big country and they let the Mongol, even small barbaric tribes like ManChu, Dalian ruled China for many hundreds of year?
Các sắx tộc người Batak Toba, Toraja, Minang Kabau, Dayak... là hậu duệ của người Việt cổ di cư đến Indonesia từ hàng nghìn năm trước.
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Người Dayak có nhiều phong tục dân gian giống người Việt cổ thời Hùng Vương như tục dựng cây nêu, cưới hỏi, cải táng, tín ngưỡng phồn thực, xăm mình...
Một số nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử Việt Nam và Indonesia cùng cho rằng tộc người Minangkabau thuộc cao nguyên Minangkabau, tỉnh Tây Sumatra, Indonesia, có nguồn gốc từ người Việt cổ. Cách ăn mặc của người Dayak cũng có đặc điểm rất giống với các cư dân Hùng Vương, đó là việc họ sử dụng loại mũ được trang trí bằng những chiếc lông chim dài, giống như những hình người trên hoa văn trống đồng Đông Sơn.
------------------------
Kiếm Câu Tiễn
Lịch sử khám phá
Năm 1965 trong một cuộc khai quật khảo cổ tiến hành tại công trường xây dựng công dẫn nước thứ hai cho hồ chứa nước sông Chương ở Kinh Châu, Hồ Bắc, người ta đã phát hiện ra ở Giang Lăng trên năm mươi ngôi mộ cổ có niên đại thời nước Sở. Kéo dài từ giữa tháng 10 năm 1965 tới tháng 1 năm 1966, cuộc khảo cổ đã thu được trên 2000 đồ tạo tác trong đó đáng chú ý nhất là một thanh kiếm bằng đồng. Thanh kiếm này được tìm thấy vào tháng 12 năm 1965 tại một ngôi mộ cách Dĩnh Nam, kinh đô cũ của nước Sở, khoảng 7 km, nó được đặt trong bao kiếm bằng gỗ sơn mài cạnh một bộ xương người. Sau khi rút kiếm ra khỏi bao, người ta thấy rằng thanh kiếm này gần như vẫn còn sắc bén và sáng bóng bất chấp việc nó nằm trong một ngôi mộ ngập bởi nước ngầm đã trên 2000 năm.[1] Khi thử nghiệm độ sắc bén của thanh kiếm, các nhà khảo cổ thấy rằng nó vẫn dễ dàng cắt đứt một chồng chừng hai chục tờ giấy.
Trên một mặt của lưỡi kiếm, người ta tìm thấy hai dòng chữ cổ. Tổng cộng có 8 chữ được viết theo lối "điểu trùng văn" ("鸟虫文") là thứ chữ chuyên dùng để khắc triện thư và rất khó đọc. Ban đầu người ta đã giải mã được 6 chữ là "越王" ("Việt vương" - "Vua nước Việt") và "自作用剑" ("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng"). Hai chữ còn lại được cho là tên của một trong các vua nước Việt, sau trên hai tháng tranh luận gay gắt với sự tham gia của nhiều học giả danh tiếng như Quách Mạt Nhược, người ta đã đi tới kết luận rằng đây chính là tên của Câu Tiễn (496 TCN - 465 TCN), vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử 200 năm của nước Việt. Và như vậy, 8 chữ được khắc trên lưỡi kiếm là "越王勾践 自作用劍" ("Việt vương Câu Tiễn tự tác dụng kiếm").
Mô tả[
Kiếm Câu Tiễn có chiều dài 55,6 cm trong đó phần cán kiếm dài 10 cm, lưỡi kiếm rộng 5 cm có họa tiết là các hình thoi lặp lại trên cả hai mặt. Cuộc phân tích về thành phần của kiếm do Đại học Phục Đán và Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc thực hiện đã cho kết quả như sau:
Phần phân tích | Đồng | Thiếc | Chì | Sắt | Lưu huỳnh | Asen |
---|---|---|---|---|---|---|
Lưỡi kiếm | 80,3 | 18,8 | 0,4 | 0,4 | - | có dấu vết |
Mẫu vàng | 83,1 | 15,2 | 0,8 | 0,8 | - | có dấu vết |
Mẫu tối | 73,9 | 22,8 | 1,4 | 1,8 | có dấu vết | có dấu vết |
Mẫu tối nhất | 68,2 | 29,1 | 0,9 | 1,2 | 0,5 | có dấu vết |
Cạnh kiếm | 57,3 | 29,6 | 8,7 | 3,4 | 0,9 | có dấu vết |
Mũi kiếm | 41,5 | 42,6 | 6,1 | 3,7 | 5,9 | có dấu vết |
Như vậy phần thân của lưỡi kiếm có thành phần chinh là đồng để kiếm có độ mềm dẻo và không bị phá hủy, phần cạnh kiếm có tỉ lệ thiếc cao hơn để bảo đảm độ sắc và cứng, thành phần lưu huỳnh giúp kiếm giữ được độ sáng bóng. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng cho rằng việc thanh kiếm có một bao kiếm tốt, gần như kín khí đã giúp nó giữ được trạng thái bảo quản bền.
Chữ nòng nọc hay chữ Trùng điểu (bird-worm script) của Việt tộc là đời ông cố của chữ Hán.
==============================
Kinh Dương Vương
Kinh Dương Vương
Nước xích Quỷ
Kinh Dương Vương
涇陽王 ---#cbe | |||||
---|---|---|---|---|---|
Leader of Xích Quỷ ---#e4dcf6 | |||||
Predecessor | Đế Minh | ||||
Successor | Hồng Bàng Dynasty started | ||||
Hồng Bàng Thị | |||||
Predecessor | Founder of Hồng Bàng Thị | ||||
Successor | Lạc Long Quân | ||||
Born | Hunan, Center Plain of North East Asia | ||||
Died | Thuận Thành, Bắc Ninh Province | ||||
Spouse | Thần Long | ||||
Issue | Sùng Lãm | ||||
| |||||
House | Hồng Bàng | ||||
Father | Đế Minh | ||||
Mother | Vụ Tiên Nữ's daughter |
Kinh Dương Vương (Hán tự: 涇陽王; "King of Kinh Dương") is an ancient history time ancient Vietnamese figure, mentioned in the 15th-century work Đại Việt sử ký toàn thư by having unified all the tribes within his territory into one state, and as the founder of the Hồng Bàng dynasty. He is considered the first sovereign of the Vietnamese people, and was the father of Lạc Long Quân.[1].[]
Kinh Dương Vương's personal name was Lộc Tục (: 祿續). According to the Đại Việt sử ký toàn thư, he ruled over Xích Quỷ (赤鬼, later renamed Văn Lang) starting in 2879 BC. Kinh Dương Vương's father was Đế Minh (帝明, "Emperor Minh" in Vietnamese prehistory, was the descendant of Thần Nông.[2] His mother was Vụ Tiên Nữ (婺僊女, lit. "Beautiful Immortal Lady, Beautiful Goddess"). Kinh Dương Vương married Thần Long, who was the daughter of Động Đình Quân (Lord of Dongting) and mother of Kinh Dương Vương's successor Lạc Long Quân.[1]
Today Kinh Dương Vương with other history's figures such as Thánh Gióng, Âu Cơ, Sơn Tinh and Thủy Tinh, in elementary school texts.[3] A popular shrine, and presumed tomb of Kinh Dương Vương, is located in the village of An Lữ, Thuận Thành District, Bắc Ninh Province .
pre-history of Viet]
According to Đại Việt sử ký toàn thư, Kinh Dương Vương son of Đế Minh, the great-great-grandson of the Shennong, went on a tour of inspection south of the Nanling Mountains, settled down and married a certain Beautiful Immortal Lady (鶩僊女 Vụ Tiên Nữ), who then gave birth to an intelligent son named Lộc Tục (祿續).
After Emperor Minh passed the throne to his eldest son, Emperor Ly (釐) to be king of the North state of Xích Thần, and Lộc Tục was appointed to be king of the South, his title Kinh Dương Vương (涇陽王). Kinh Duong Vuong was king and ruled from about 2879 BC onwards.[4] The territory of the country under Kinh Dương Vương was claimed to be large, reaching Dongting Lake in the north, the Husunxing (胡猻精; SV: Hồ Tôn Tinh) country (i.e. Champa) in the south, the East Sea (東海, part of the Pacific Ocean) in the east and Ba Shu (巴蜀; now in today Sichuan, China) in the west. Lĩnh Nam chích quái recorded the legend that the king vigorously expelled a murderous god named Xương Cuồng.
He married the daughter of the King of Động Đình (洞庭) Lake, named Thần Long (神龍 "Divine Dragon"), who gave birth to a son named Sùng Lãm (崇纜). Sùng Lãm would later succeed Kinh Dương Vương as ruler, titled Dragon Lord of Lạc (貉龍君; SV: Lạc Long Quân).
Worship[
Worship of Kinh Dương Vương in Vietnam is not as popular as worship of Shennong, the deity who is Hùng Vương's ancestor and a very respected one in Vietnam's agricultural beliefs; Đàn Xã Tắc (壇社稷) was established annually by dynasties to worship.
Thượng Lãng communal house in Minh Hòa commune, Hưng Hà district, Thái Bình province is the oldest relic worshiping Kinh Dương Vương; Legend has it since the Đinh dynasty.
The Kinh Dương Vương Mausoleum and Temple (locally called Lăng và Đền thờ) in Bắc Ninh have long been classified by the Vietnamese feudal dynasties as shrines to worship the emperors, each time the National Ceremony will bring to the army to worship and worship people solemnly.
Now we're examining what was written in the Outer Annals: The year of Nhâm Tuất [the sexagenary cycle's 59th year]?
When had been the beginning year of Giáp Tí [the same cycle's 1st year]? [The authors] recorded the taboo names of King of Kinh Dương and Dragon Lord of Lạc, why omitted [those of] Hùng kings? Before the
Five Emperors' time, [rulers] had not been called kings [王; standard as king: wáng; SV: vương]
► Xích Thần is a name of state in North (now called Sơn Đông city and Mount. Thái).
► Xích Quỷ a state in South (now called Lĩnh Nam ranges area).
Vu, Hong Lien (2016). Rice and Baguette: A History of Food in Vietnam.
ISBN 9781780237046.
Kinh Dương Vương
Con Rồng Cháu Tiên
https://www.youtube.com/embed/2ItOY0q8gtU?si=tpz-Px2cbwS9MjiK
https://www.youtube.com/embed/1W5agiFpz1I?si=qH-67uV2FLB44pSh
HÀO KHÍ VIỆT NAM
https://youtu.be/zVckKs13Qts?si=zLVtB2gCfAwOwqKT
Trống Hội Nam Vương
https://youtu.be/dsrodDHML_w?si=HbghYKmEhtKEDZv-
trống Hội Thăng Long
(Nội Duệ-Tiên Du-Bắc Ninh)
https://youtu.be/HUR5kfTbt5w?si=IY1WcltZrXKcoOlX
Trống Hội Việt Tộc
TRỐNG HỘI Bách Việt - Lân Sư Rồng Liên Hữu.
https://youtu.be/heCkNVRaFik?si=iBPDHI-EihTVj9eg
Tiếng Trống Chào Cờ
- Đoàn Trống La San
Trống Trận Mê Linh
Trống Hội Mê Linh
https://youtu.be/XhGGZq8qhsk?si=9xEJfpkfBCgPFqGJ