Đế Viêm Thần Nông
Thần Nông Đế Viêm / Yan Di / Flame Di/ 帝 炎 / Đế Viêm
Thần Nông (phồn thể: 神農, giản thể: 神农) (3220 TCN—3080 TCN), còn được gọi là Thần Nông thị (神農氏), Khôi Ngôi thị (魁隗氏), Liên Sơn thị (連山氏), Liệt Sơn thị (列山氏), Tắc thần (稷神), thường được biết với tên gọi Viêm Đế (炎帝).
Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt.
Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: "Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông[1], thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương".
Theo Đại Việt sử ký toàn thư:
"Vua Đế Minh là cháu ba đời của Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua."
Lễ Thần Nông
Lễ Thần Nông tức là lễ tế vua Thần Nông để cầu mong được mùa và nghề nông phát đạt. Trên các quyển lịch cổ hàng năm, người ta thường vẽ một mục đồng dắt một con trâu. Mục đồng tức là vua Thần Nông, còn con trâu tượng trưng cho nghề nông.
Hình mục đồng cũng như con trâu thay đổi hàng năm tùy theo sự ước đoán của Khâm thiên giám về mùa màng năm đó sẽ tốt hay xấu.
Năm nào được coi là được mùa, Thần Nông có giày dép chỉnh tề, còn năm nào mùa màng bị coi là kém, Thần Nông có vẻ như vội vàng hấp tấp nên chỉ đi giày một chân. Con trâu được đổi màu tùy theo hành của mỗi năm, nó có thể có một trong 5 màu vàng, đen, trắng, xanh, đỏ đúng với các hành Thổ, Thủy, Kim, Mộc, Hỏa. Thời phong kiến, hàng năm đều có tục tế và rước Thần Nông tại triều đình cũng như ở các địa phương.
Lễ tế Thần Nông hàng năm cử hành vào ngày Lập xuân, bởi vậy nên lễ tế Thần Nông còn được gọi là Tế xuân.
Theo chỉ dụ của Minh Mạng, hàng năm sau tiết Đông chí, tòa Khâm thiên giám phải lo sửa soạn việc tế Thần Nông. Các quan cùng nhau họp để nặn trâu và tượng Thần Nông.
Trước ngày lập xuân hai ngày, tại gần cửa thành Đông Ba (ngày nay là cửa chính Đông), các quan Khâm thiên giám cho lập một cái Đài hướng đông. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đưa tới lưu tại phủ Thừa Thiên để ngày hôm sau các quan trong phủ mới rước từ phủ tới Đài. Các quan vận lễ phục, có quân lính mang gươm giáo, tàn lọng, cờ quạt theo hầu.
Tới Đài thì một lễ đơn giản được cử hành, ngụ ý trình với Thổ Công về sự hiện diện của tượng Thần Nông và trâu. Sau đó, trâu và tượng Thần Nông lại được khiêng về kho cất. Hôm tế xuân, tượng và trâu lại được rước ra Đài, nhưng lần này đi rước là các quan bộ Lễ và các quan phủ Thừa Thiên.
Khi đám rước đi qua cung vua, một viên thái giám vào tâu để vua biết. Sau đó, đám rước lại tiếp tục đi và khi đi qua bộ Lễ, một viên quan đánh vào mông trâu ba roi, có ý thôi thúc trâu phải làm việc.
Tới Đài, các quan làm lễ tế Thần Nông theo như nghi lễ các cuộc tế khác. Tế Thần Nông xong, trâu và tượng Thần Nông được quân lính mang đi chôn sau buổi lễ.
Tại các tỉnh, trong ngày Lập xuân cũng có lễ tế Thần Nông và lễ cũng được sửa soạn từ sau ngày Đông chí. Các quan tỉnh phụ trách việc hành lễ. Trâu và tượng Thần Nông cũng được đem chôn. Người Dao Tuyển, để cảm tạ công ơn và cầu xin cho mùa màng bội thu, nhà nhà hạnh phúc thì lễ hội ngày 6 tháng 6 âm lịch là ngày cúng Thần Nông lớn nhất trong năm. Ngoài ra họ còn thờ cúng Thần Nông vào các ngày 1 tháng 1 âm lịch và 9 tháng 9 âm lịch hàng năm.
Theo Đế vương thế kỷ và Sử Ký - Bổ Tam Hoàng bản kỷ thì Thần Nông thị có chín người lần lượt làm vua:
1- Đế Viêm
2- Đế Lâm Khôi (帝临魁) tức đế Đồi (con Viêm đế)
3- Đế Thừa (帝承) con Đế Lâm Khôi
4- Đế Minh (帝明) con Đế Thừa
5- Đế Trực (帝直) con Đế Minh
6- Đế Ly (帝釐) tức Đế Nghi (con Đế Trực - sách Thông Giám Ngoại Kỷ nói là con Đế Minh mà không có đời Đế Trực)
7- Đế Ai (帝哀) tức Đế Lai (con Đế Ly/Nghi)
8 Đế Khắc (帝克) con Đế Ai/Đế Lai
9 Đế Du Võng (帝榆罔) con Đế Khắc
Thị Tộc Thần Nông không không phải là một nhân vật duy nhất, mà là một gia tộc liên tục từng thống trị.
Sau 520 năm trị vì thì gia tộc Thần Nông bị suy yếu, bị Huangdi Huân Viên đánh bại. Đế Lai bị chêt trong trận Banquan và Đế Du Võng bị mât ngôi đế về gia tộc Xuanyuan. Huangdi đã chiến đấu chống lại con cháu Yandi (Viêm Đế Thần Nông) trong trận Banquan, sau đó Huangdi Huân Viên chiến đấu với Chiyou trong khu vực Zhuolu, Huangdi Huân Viên đã đánh bại vị tướng Chiyou, một viên tướng soái của Đế Minh dòng dõi Thần Nông.
Theo Sách Nghi lễ của nhà Hán thì, Hoàng đế Yan (Đế Viêm Thần Nông) là hoàng đế đầu tiên hy sinh vào mùa hè, và hy sinh cùng lúc với Zhu Rong và Thần bếp [16]."Hoài Nam Tử" tin rằng Hoàng đế Yan (Đế Viêm) đã phát minh ra lửa, vì vậy ông được các thế hệ sau coi là thần bếp.
Shennong clan. The Shennong clan is not a single character, but a continuous clan that once ruled the East Asia land.
During the time of Huangdi, the Shennong clan weakened and was invasion by the Xuanyuan clan to Huangdi.
In the same record, Huangdi fought against Yandi in the battle of Banquan, and then, Huangdi fought with Chiyou in the field of Zhuolu, thus defeating the Shennong clan.
Emperor Yan was the first emperor who sacrificed in summer, and sacrificed at the same time as Zhu Rong and the Kitchen God [16]. "Huainanzi" believes that Emperor Yan invented fire with named "Viêm Đế" / Yan di so he was regarded as the kitchen god by later generations [17].
1. Lai lịch:
– Tên gọi đế Du Võng (帝榆罔)
2. Gia đình và hôn nhân
– Ông nội là Đế Ai/Đế Lai.
– Bố là Đế Khắc.
3. Cuộc đời và sự nghiệp
– Vị vua thứ 9 của Thần Nông thị trong tiền sử người tộc Việt.
Theo Thông giám ngoại kỷ thì là vị vua thứ 8.
– Thời kỳ cuối của nguyên thủy bộ lạc, tù trưởng hay thủ lĩnh cai quản, chống lại những bộ tộc khác đến chiếm đất.
– Trước tình hình rối ren, quân chủ tộc Cửu Lê nghinh chiến với Công Tôn Huân Viên khi ông khởi binh chiếm vùng Trong Nguồn (Trung Nguyên), Tộc Cửu Lê bị thất trận. Lúc ấy Công Tôn Hiên Viên thắng trận lớn trong trận Trác Lộc năm , nên Đế Du Võng bị bưộc phải thoái vị . Chấm dứt 520 năm dòng họ Thần Nông cai quản vùng đất Trong Nguồn (Trung Nguyên) Thủ đô đóng ở Sơn Đông và căn hoa địa núi Thái Sơn.
Truyền Thuyết Về Viêm Đế Thần Nông
https://youtu.be/PuoOCk8Jp5c
Giai Thoại Thủy Tổ Người Việt LỘC TỤC Con Cháu Họ Thần Nông Vị Vua Khai Sáng Ra Nước Xích Quỷ triều đại Hồng Bàng
https://youtu.be/GeHVuCwTGm8
Tên gọi | Ghi chú |
---|---|
Thần Nông (神農) | Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年) |
Lâm Khôi (臨魁) | |
Thừa (承) | |
Minh (明) | Cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục [11] |
Trực (直) hay Đế Nghi (宜). | |
Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) | Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai là cha của Âu Cơ huyền sử Việt Nam.[11] |
Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居) | |
Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) | Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền? |
Phả hệ
Phả hệ lấy theo Thông giám tục biên, Sử toản thông yếu, Độc thư kỉ sổ lược, Đại Việt Sử ký toàn thư.[11][12][13][14]
Phả hệ Viêm Đế Thần Nông thị | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
******
|
Tên gọi | Ghi chú |
---|---|
Đế Viêm (帝 炎) | |
Viêm Cư (炎 居) | Còn được biết đến như là Trụ (柱) |
Tiết Tịnh (節並) | |
Hí Khí (戲器) | |
Chúc Dung (祝融) | |
Cộng Công (共工) | |
Thuật Khí (術器) | |
Hậu Thổ (后土) | Em trai Thuật Khí |
Ế Minh (噎鳴) | Con Hậu Thổ |
Tuế Thập (歳十) |
Trồng lúa
..............................................................
Name | Notes |
---|---|
Shennong / Thần Nông 神農 | Born Jiang Shinian 姜石年 |
Linkui / Đế Lâm Khôi / 臨魁 | |
Cheng / Đế Thừa /承 | |
Ming / Đế Minh / 明 | Father of Loc Tuc in Vietnamese mythography |
Zhi / Đế Nghi / 直 | |
Li / Đế Lai / 釐 or Ke 克 | Sima Zhen puts Ke between Ai and Yuwang |
Ai / Đế Lai 哀 | Father of Au Co |
Yuwang / Đế Du Võng 榆罔 | Defeated by Yellow Emperor at Banquan / |
-------------------------------------
Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở…
Có hai giải thích về danh xưng Hùng Vương:
- Một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở,
- Hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt.
Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hạ gọi dân miền Nam không phải là người Trung Nguyên.
Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ.
Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu) là vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, trong cổ sử của Tàu thì không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại Hùng Vương = 雄 – hùng mạnh sau này!).
Đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã biến thành dân Hạ Trung Nguyên phần nào đó, và Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở. Như vậy, ta có thể nói là -- Ngô – Việt đã bị Sở hóa thì đúng hơn là Ngô – Việt hấp thụ văn hóa của Sở nhiều hơn của văn hóa Hán.
Thần Nông và con cháu của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế xã hội khiến họ tự phong mình là di (帝; 'hoàng đế'), chứ không phải là hou/Hậu (侯; 'chúa tể'), như trong trường hợp của các tù trưởng bộ lạc du mục.
Nguốn gốc của văn hóa Việt Nam là Thần Nông, nhưng bây giờ bị Trung Quốc cũng tự xưng nguồn gốc của họ ngoài Hoàng Đế ra, còn bao gồm Thần Nông nữa. Việt Nam là nền văn minh rực rỡ thừa kế Thần Nông duy nhất. Trung quốc tự xưng tổ tiên của mình là bao gồm Thần Nông, đây là một hành vi ăn cắp văn hóa Việt Nam.
.............................................................
Shennong
Shennong (神農), variously translated as "Divine Farmer" or "Divine Husbandman", born Jiang Shinian (姜石年), was a mythological Yue ruler known as the first Yan Emperor who has become a deity in Vietnamese folk religion. He is venerated as a culture hero in Vietnam. In Vietnamese he is referred to as Thần Nông.
Shennong has at times been counted amongst the Three Sovereigns (also known as "Three Kings" or "Three Patrons"), a group of ancient deities or deified kings of prehistoric China. Shennong has been thought to have taught the ancient Chinese not only their practices of agriculture, but also the use of herbal drugs.[1] Shennong was credited with various inventions: these include the hoe, plow (both leisi (耒耜) style and the plowshare), axe, digging wells, agricultural irrigation, preserving stored seeds by using boiled horse urine, the weekly farmers market, the Yue calendar (especially the division into the 24 jieqi or solar terms), and to have refined the therapeutic understanding of taking pulse measurements, acupuncture, and moxibustion, and to have instituted the harvest thanksgiving ceremony (zhaji (蜡祭) sacrificial rite, later known as the laji (腊祭) rite).[2]
"Shennong" can also be taken to refer to his people, the Shennong-shi ( 神農氏; pinyin: Shénnóngshì; lit. 'Shennong Clan').
Shennong taught humans the use of the plow, aspects of basic agriculture, and the use of medicinal plants. Possibly influenced by the Yan Emperor mythos or the use of slash-and-burn agriculture,[3] Shennong was a god of burning wind. He was also sometimes said to be a progenitor to, or to have had as one of his ministers, Chiyou (and like him, was ox-headed, sharp-horned, bronze-foreheaded, and iron-skulled).[3]
Shennong is also thought to be the father of the Huang Emperor (黃帝) who carried on the secrets of medicine, immortality, and making gold.[4] According to the eighth century AD historian Sima Zhen's commentary to the second century BC Shiji (or, Records of the Grand Historian), Shennong is said to be an ancestor, or a patriarch, of the ancient forebears of the Yue/Viet.
----------------------------
Các vị Hùng Vương nước Văn Lang
- 陸陽王(Kinh Dương Vương),即涇陽王
- 雄賢王(Hùng Hiển Vương),即貉龍君
- 雄國王(Hùng Quốc Vương)雄麟
- 雄曄王(Hùng Diệp Vương)
- 雄犧王(Hùng Hy Vương)
- 雄暉王(Hùng Huy Vương)
- 雄昭王(Hùng Chiêu Vương)
- 雄暐王(Hùng Vi Vương)
- 雄定王(Hùng Định Vương)
- 雄曦王(Hùng Nghi Vương)
- 雄楨王(Hùng Trinh Vương)
- 雄武王(Hùng Vũ Vương)
- 雄越王(Hùng Việt Vương)
- 雄英王(Hùng Anh Vương)
- 雄朝王(Hùng Triệu Vương)
- 雄造王(Hùng Tạo Vương)
- 雄毅王(Hùng Nghi Vương)
- 雄璿王(Hùng Tuyên Vương)
Hùng Vương Thế 襲統 trị的傳說 Năm mươi con trai của Cơ Cơ sống ở Phong Châu, đẩy "hùng vương giả" (< a href="/wiki/%E8%B6%8A%E5%8D%97%E8%AA%9E" class="mw-redirect" title="Việt語"> Việt 語: Hùng Vương),並使用「文 lang"(
Việt語: Văn Lang) 國號。 [7] .[6] Sau đó, Yanxin đã > .
Chú ý: "雄犧王" và "雄曦王" tuy đều đọc là "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa.
Nước Sở tính từ đời Dục Hùng tới đời Xương Bình quân bị Tần diệt năm 223 TCN gồm có 46 vua. Nước Sở được lập lại cuối thời Tần, truyền được 5 vua nữa, tổng cộng 51 vua. Dưới đây là bảng liệt kê các vị vua nước Sở (theo Sử ký)
...
Đời vua
Vương hiệu
Chữ Hán Nôm
Năm sinh
Năm mất
Ghi chú
Thượng Tổ
Kinh Dương Vương
涇陽王
2919 TCN[12]
2792 TCN
Húy là Lộc Tục (祿續).
Thái Tổ
Lạc Long Quân
駱龍君
~2825 TCN
Không rõ
Hiệu là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君). Húy là Sùng Lãm (崇纜).
1
Hùng Đức Vương
雄德王
Không rõ
...
2
Hùng Hiền vương
雄賢王
...
3
Hùng Lân vương
雄麟王
4
Hùng Diệp vương
雄曄王
5
Hùng Hi vương
雄犧王
Phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛
6
Hùng Huy vương
雄暉王
7
Hùng Chiêu vương
雄昭王
8
Hùng Vĩ vương
雄暐王
9
Hùng Định vương
雄定王
10
Hùng Hi vương
雄曦王
Phần bên trái chữ "hi" 曦 là bộ "nhật" 日
11
Hùng Trinh vương
雄楨王
12
Hùng Vũ vương
雄武王
13
Hùng Việt vương
雄越王
14
Hùng Anh vương
雄英王
15
Hùng Triêu vương
雄朝王
16
Hùng Tạo vương
雄造王
17
Hùng Nghị vương
雄毅王
18
Hùng Duệ vương
雄睿王
258 TCN
Thứ tự (thế hệ)
Thụy hiệu
Tên húy
Thời gian ở ngôi
Số năm
Quan hệ với vua trước
Ghi chú
1 (1)
Sở Dục Hùng
Dục Hùng
thầy của Chu Văn vương
2 (2)
Sở Hùng Lệ
Hùng Lệ/Mị Lệ
con Dục Hùng
3 (3)
Sở Hùng Cuồng
Hùng Cuồng/Mị Cuồng
con Hùng Lệ
4 (4)
Sở Hùng Dịch
Hùng Dịch (thụ phong ở đất Kinh)
con Hùng Cuồng
5 (5)
Sở Hùng Ngải
Hùng Ngải/Mị Ngải
con Hùng Dịch
6 (6)
Sở Hùng Đán
Hùng Đán/Mị Đán
con Hùng Ngải
7 (7)
Sở Hùng Thắng
Hùng Thắng/Mị Thắng
con Hùng Đán
8 (7)
Sở Hùng Dương
Hùng Dương/Mị Dương
em Hùng Thắng
9 (8)
Sở Hùng Cừ
Hùng Cừ/Mị Cừ
con Hùng Dương
10 (9)
Sở Hùng Chí
Hùng Chí/Mị Chí/Hùng Chí Hồng
con Hùng Cừ
11 (9)
Sở Hùng Duyên
Hùng Duyên/Mị Duyên/Chấp Tì
?-848 TCN
em Hùng Chí
12 (10)
Sở Hùng Dũng
Hùng Dũng/Mị Dũng
747 TCN-838 TCN
10
con Hùng Duyên
13 (10)
Sở Hùng Nghiêm
Hùng Nghiêm/Mị Nguyên
837 TCN-828 TCN
10
em Hùng Dũng
14 (11)
Sở Hùng Sương
Hùng Sương/Mị Sương/Bá Sương
827 TCN - 822 TCN
6
con Hùng Nghiêm
15 (11)
Sở Hùng Tuân
Hùng Tuân/Mị Tuân/Quý Tuân
821 TCN - 800 TCN
22
em Hùng Sương
giành ngôi với hai anh
16 (12)
Sở Hùng Ngạc
Hùng Ngạc/Mị Ngạc
799 TCN - 791 TCN
9
con Hùng Tuấn
17 (12)
Sở Nhược Ngao
Hùng Nghi (Mị Nghi)
790 TCN - 764 TCN
27
em Hùng Ngạc
18 (13)
Sở Tiêu Ngao
Hùng Khảm/Mị Khảm
763 TCN - 758 TCN
6
con Nhược Ngao
19 (14)
Sở Phần Mạo/Sở Lệ vương
Hùng Thuận/Mị Thuận
757 TCN - 741 TCN
17
con Tiêu Ngao
20 (15)
Sở Vũ vương
Hùng Thông/Mị Thông
740 TCN - Tháng 3/690 TCN
51
con Phần Mạo
21 (16)
Sở Văn vương
Hùng Xi/Mị Xi
689 TCN - 6/675 TCN TCN
15
con Vũ vương
22 (17)
Sở Đổ Ngao
Hùng Gian/Mị Gian
674 TCN - 672 TCN
3
con Văn vương
bị giết
23 (17)
Sở Thành vương
Hùng Uẩn/Mị Uẩn
671 TCN - Tháng 10/626 TCN
46
em Đổ Ngao
tự sát
24 (18)
Sở Mục vương
Hùng Thương /Mị Thương
625 TCN - 614 TCN
12
con Mục vương
25 (19)
Sở Trang vương
Hùng Lữ (Mị Lữ)
613 TCN - 591 TCN
23
con Mục vương
26 (20)
Sở Cung vương
Hùng Thẩm (Mị Thẩm)
590 TCN - 560 TCN
31
con Trang vương
27 (21)
Sở Khang vương
Hùng Chiêu/Mị Chiêu
559 TCN - Tháng 9/545 TCN
15
con trưởng Cung vương
28 (22)
Sở Giáp Ngao
Hùng Viên (Mị Viên)
544 TCN - 541 TCN
4
con Khang vương
bị giết
29 (21)
Sở Linh vương
Hùng Vi (Mị Vi)
540 TCN - 529 TCN
12
con Cung vương
bị giết
30 (21)
Sở vương Bỉ/Sở Ti Ngao
Hùng Bỉ/Mị Bỉ
529 TCN
1
em Linh vương
tự sát
31 (21)
Sở Bình vương
Hùng Khí Tật/Hùng Cư
528 TCN - Tháng 9/516 TCN
13
em Bỉ
32 (22)
Sở Chiêu vương
Hùng (Mị) Trân/Chẩn
515 TCN - Tháng 7/489 TCN
27
con Bình vương
33 (23)
Sở Huệ vương
Hùng Chương (Mị Chương)
488 TCN - 432 TCN[54]
57
con Chiêu vương
34 (24)
Sở Giản vương
Hùng Trung (Mị Trung)
431 TCN - 408 TCN
24
con Huệ vương
35 (25)
Sở Thanh vương
Hùng Đương (Mị Đương)
407 TCN - 402 TCN
6
con Giản vương
bị giết
36 (26)
Sở Điệu vương
Hùng Nghi (Mị Nghi)
401 TCN - 381 TCN
21
con Thanh vương
bị bắn vào thây
37 (27)
Sở Túc vương
Hùng Tang (Mị Tang)
380 TCN - 370 TCN
11
con Điệu vương
38 (27)
Sở Tuyên vương
Hùng/Mị Lương Phu
369 TCN - 340 TCN
30
em Túc vương
39 (28)
Sở Uy vương
Hùng Thương/Mị Thương
339 TCN - 329 TCN
11
con Tuyên vương
40 (29)
Sở Hoài vương
Hùng Hòe (Mị Hòe)
328 TCN - 299 TCN
30
con Uy vương
bị giam ở Tần
41 (30)
Sở Tương vương
Hùng Hoành (Mị Hoành)
298 TCN - 263 TCN
36
con Hoài vương
42 (31)
Sở Khảo Liệt vương
Hùng Nguyên/Mị Nguyên
262 TCN - 238 TCN
25
con Tương vương
43 (32)
Sở U vương
Hùng Hãn/Mị Hãn
237 TCN - 228 TCN
10
con Khảo Liệt vương
44 (32)
Sở Ai vương
Hùng Do (Mị Do)
228
1
em U vương
bị giết
45 (32)
Sở vương Phụ Sô
Hùng Phụ Sô/Mị Phụ Sô
227 TCN - 223 TCN
5
anh Ai vương
bị bắt
46 (32)
Xương Bình quân
Hùng Khải (Mị Khải)
223 TCN
1
anh Phụ Sô
tử trận
47
Tương Cương
209 TCN
1
bị giết
48
Sở Ẩn vương
Trần Thắng
209 - 208 TCN
2
khởi nghĩa nông dân
bị giết
49
Sở Giả vương
Cảnh Câu/Mị Câu
208 TCN
1
con cháu nước Sở
bị giết
50
Sở Nghĩa Đế
Hùng Tâm/Mị Tâm
208 TCN - 206 TCN
3
dòng dõi vua Sở
bị giết
51
Sở Bá vương
Hạng Vũ/Hạng Tịch
206 TCN - 202 TCN
5
tự tử
/span>
1
Đế Viêm Thần Nông
Đế Viêm (tiếng Hán: 炎帝) hay Hỏa Đức Vương/Đức Vương Hỏa (火德王)[1] là một vị vua cổ đại huyền thoại của người Việt cổ vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông.[2]
Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người.[3] Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng là Đế Du Võng bị Hoàng Đế đánh bại, khoảng 500-530 năm.[1][4]
Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của tộc Việt cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh
(吳國楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy.[4]
Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (帝), thay vì là hầu (侯) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn.
Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng.[5] Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ.[6] Viêm Đế cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam".[7]
Sụp đổsửa
Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài Lai ở Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên Khánh ở Bắc Kinh; huyện Phù Câu ở Chu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm Hồ ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây.
Con cháu Đế Viêm vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Con cháu Đế Viêm là Đế Du Võng bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Huân Viên Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (共主).
Hoàng Đế đã gom hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, đã tham chiến để đánh bại Xi Vưu Xi Vưu tướng soái của Đế Minhtrong trận Trác Lộc.
Sau khi Xi Vưu, vị tướng soái của Đế Minh bị bắt và bị giết, cùng với Đế Lai bị tử trận trong trận Trác Lộc. Hiên Viên Hoàng Đế thắng lớn, Sau đó Hoàng Đế ông thiết lập sự thống trị của họ ở Trung vùng đất Trung Nguyên (Trong Nguồn) nước Xích Thần của Đế Nghi, chấm dứt 520 năm trị vì của con cháu Thần Nông Đế Viêm.
Tính lịch sử ]
Trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử.
Người Hán đã gom hai vị Đế Viêm và Xi Vưu, rồi tự gọi mình là con cháu Viêm-Hoàng hay Viêm - Hoàng tử tôn. Việc ghép hai tên vào là hành động đánh cắp văn hóa con cháu của Thần Nông và cũng là việc san bằng và xóa sổ con cháu Thần Nông.
Viêm Đế trong lịch sử với tước hiệu Hỏa Đức Vương.Trong văn hóa truyền thống
Đế Viêm đều được coi là tổ tiên của Bách Việt văn hóa Lúa Nước. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ cá cĐức Đế Vương Hỏa.
Danh sách các Đế Viêm / Đức Đế Vương Hỏa
Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋命歷序) (khuyết danh, thời Hán).[9]
Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ,[10] Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn:
Tên gọi | Ghi chú |
---|---|
Thần Nông (神農) | Tên lúc sinh ra là Khương Thạch Niên (姜石年) |
Lâm Khôi (臨魁) | |
Thừa (承) | |
Minh (明) | Cha của Kinh Dương Vương Lộc Tục [11] |
Trực (直) hay Đế Nghi (宜). | |
Ly (釐) hay Đế Lai (來) hoặc Khắc (克) | Tư Mã Trinh xếp Đế Khắc sau Đế Ai. Các sách khác không xếp Khắc là vua. Đế Lai là cha của Âu Cơ huyền sử Việt Nam.[11] |
Ai (哀) hay Đế Lý (里) hoặc Đế Cư (居) | |
Du Võng (榆罔) hay Du Cương (揄岡) | Bị Hoàng Đế đánh bại tại trận Phản Tuyền? |
***********************************
Quý Liên lập ra họ Mi/Mị, còn gọi là Hùng. Quý Liên được xem là tiên tổ của các vua Sở sau này.
Sau Quý Liên sinh Phụ Tự,
Phụ Tự sinh Huyệt Hùng.
Hậu duệ của Huyệt Hùng làm dân thường ở rải rác khắp nhân gian.
Đến đời Dục Hùng ở vào cuối thời kỳ Thương Ân, Dục Hùng từng làm thủ lĩnh của bộ lạc ở phía nam Triều Ca.
Dục Hùng từng có chức vị cao trong nhà Thang/Thương, đó là Thái Sư trong triều nhà Thương và Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương (Vua nước Chu).
Quý Liên lập ra họ Mi/Mị, còn gọi là Hùng. Quý Liên được xem là tiên tổ của các vua Sở sau này.
Sau Quý Liên sinh Phụ Tự,
Phụ Tự sinh Huyệt Hùng.
Hậu duệ của Huyệt Hùng làm dân thường ở rải rác khắp nhân gian.
Đến đời Dục Hùng ở vào cuối thời kỳ Thương Ân, Dục Hùng từng làm thủ lĩnh của bộ lạc ở phía nam Triều Ca.
Dục Hùng từng có chức vị cao trong nhà Thang/Thương, đó là Thái Sư trong triều nhà Thương và Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương (Vua nước Chu).
Yuxiong / Dục Hùng / 鬻熊
1
Đế Viêm Thần Nông
Đế Viêm (tiếng Hán: 炎帝) hay Hỏa Đức Vương/Đức Vương Hỏa (火德王)[1] là một vị vua cổ đại huyền thoại của người Việt cổ vào thời kỳ tiền triều đại. Học thuật hiện đại đã xác định núi Dương Đầu ngay phía bắc Bảo Kê trong tỉnh Thiểm Tây là quê hương và lãnh thổ của ông.[2]
Một cuộc tranh luận kéo dài đã tồn tại về việc liệu Viêm Đế có phải là nhân vật huyền thoại Thần Nông hay không. Một hội thảo học thuật được tổ chức tại Trung Quốc vào năm 2004 đã đạt được sự đồng thuận chung rằng Viêm Đế và Thần Nông là một người.[3] Một khả năng khác là thuật ngữ "Hỏa Đức Vương" là một tước hiệu, được nắm giữ theo kế vị triều đại của các lãnh chúa bộ lạc, với Thần Nông được biết đến với tên gọi Viêm Đế có lẽ sau khi đã qua đời. Theo đó, thuật ngữ các "Hỏa Đức Vương" nói chung sẽ chính xác hơn. Sự kế vị của các vị Hỏa Đức Vương này, từ Thần Nông - vị Hỏa Đức Vương đầu tiên - cho đến thời điểm vị Hỏa Đức Vương cuối cùng là Đế Du Võng bị Hoàng Đế đánh bại, khoảng 500-530 năm.[1][4]
Không có ghi chép thành văn nào được biết là tồn tại từ thời trị vì của Viêm Đế. Tuy nhiên, ông và Thần Nông được nhắc đến trong nhiều tác phẩm kinh điển của tộc Việt cổ đại. Viêm theo nghĩa đen có nghĩa là "lửa", ngụ ý rằng người dân của Viêm Đế có thể coi biểu tượng lửa như các vật tổ bộ lạc của họ. Ngô Quốc Trinh
(吳國楨, Wu K. C.) phỏng đoán rằng danh xưng này có thể liên quan đến việc sử dụng lửa để đốt ruộng nương trong nông nghiệp kiểu đốt rừng làm nương rẫy.[4]
Trong mọi trường hợp, có vẻ như những cải tiến nông nghiệp của Thần Nông và hậu duệ của ông đã góp phần vào một số thành công kinh tế-xã hội, làm họ tự phong mình là đế (帝), thay vì là hầu (侯) như trong trường hợp của các thủ lĩnh các bộ lạc nhỏ hơn.
Vào thời điểm này, dường như mới chỉ có những khởi đầu thô sơ của chữ viết, và để duy trì việc ghi chép thì một hệ thống các dây thắt nút (có lẽ tương tự như quipu ở Nam Mỹ) đã được sử dụng.[5] Tả truyện ghi lại rằng vào năm 525 TCN các hậu duệ của Viêm Đế được công nhận là những bậc thầy về lửa từ lâu và đã sử dụng lửa trong họ tên của họ.[6]Đế Viêm cũng được coi là "Hoàng đế của phương Nam".[7]
Sụp đổsửa
Vị Viêm Đế cuối cùng đã kết thúc triều đại của mình trong trận đánh thứ ba trong chuỗi ba trận chiến, được gọi là trận Phản Tuyền. Vị trí chính xác của trận chiến này vẫn còn tranh cãi giữa các nhà sử học hiện đại, do nhiều địa điểm sử dụng cùng một tên gọi ở các thời điểm khác nhau trong lịch sử. Các ứng cử viên có thể bao gồm huyện Trác Lộc và huyện Hoài Lai ở Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc; quận Diên Khánh ở Bắc Kinh; huyện Phù Câu ở Chu Khẩu, tỉnh Hà Nam, và quận Diêm Hồ ở Vận Thành, tỉnh Sơn Tây.
Con cháu Đế Viêm vừa mới phải rút lui trước cuộc xâm lăng trong thời gian ngay trước đó của các lực lượng của Xi Vưu thì đã xảy ra xung đột lãnh thổ với các bộ tộc Hữu Hùng láng giềng do Hoàng Đế lãnh đạo. Con cháu Đế Viêm là Đế Du Võng bị đánh bại sau ba trận chiến liên tiếp và đầu hàng Huân Viên Hoàng Đế, người tự xưng là cộng chủ (共主).
Hoàng Đế đã gom hai bộ lạc thành một liên minh mới - bộ lạc Viêm Hoàng. Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Đế, đã tham chiến để đánh bại Xi Vưu Xi Vưu tướng soái của Đế Minhtrong trận Trác Lộc.
Sau khi Xi Vưu, vị tướng soái của Đế Minh bị bắt và bị giết, cùng với Đế Lai bị tử trận trong trận Trác Lộc. Hiên Viên Hoàng Đế thắng lớn, Sau đó Hoàng Đế ông thiết lập sự thống trị của họ ở Trung vùng đất Trung Nguyên (Trong Nguồn) nước Xích Thần của Đế Nghi, chấm dứt 520 năm trị vì của con cháu Thần Nông Đế Viêm.
Tính lịch sử
Trận Phản Tuyền được Tư Mã Thiên coi như một sự kiện lịch sử trong Sử ký của ông, đây là điểm chuyển tiếp quan trọng giữa huyền thoại và lịch sử.
Người Hán đã gom hai vị Đế Viêm và Xi Vưu, rồi tự gọi mình là con cháu Viêm-Hoàng hay Viêm - Hoàng tử tôn.
Việc ghép hai tên vào (Viêm-Hoàng) là hành động đánh cắp văn hóa con cháu của Thần Nông và cũng là việc cho sự san bằng* dòng dõi Thần Nông:
-- Làm mất 520 năm trị vì của dòng dõi đế Viêm/Yandi)
-- Làm mất tính quan trọng của vai vế Thần Nông và
-- Xóa sổ dòng dõi con cháu Thần Nông.
Viêm Đế đi vào lịch sử với tước hiệu Hỏa Đức Vương.
Trong văn hóa truyền thống
Đế Viêm đều được coi là tổ tiên của Bách Việt văn hóa Lúa Nước. Ngoài ra, truyền thống liên kết một màu nhất định với một triều đại cụ thể có thể đã bắt đầu từ cá cĐức Đế Vương Hỏa.
Danh sách các Đế Viêm / Đức Đế Vương Hỏa
Thuyết về việc Viêm Đế truyền được 8 đời bắt nguồn từ sách chiêm nghiệm tốt xấu Xuân Thu mệnh lịch tự (春秋命歷序) (khuyết danh, thời Hán).[9]
Danh sách phổ biến nhất do Hoàng Phủ Mật (215-282) trong sách Đế vương thế kỷ,[10] Từ Chỉnh (thế kỷ 3) trong sách Tam Ngũ lịch ký (thất truyền, tồn tại vài đoạn trong Thái Bình ngự lãm thời Tống và Nghệ văn loại tụ thời Đường), và Tư Mã Trinh (679-732) trong sách Sử ký tác ẩn:
Nhà Tần / Ts'in cách người Tàu có biến chế hoặc sửa đổi chữ Khoa Đẩu thành chữ Đại Triện (chữ Hán) và sau đó chữ Hán bắt đầu với chữ Đại Triện, tức là chữ Khoa Đẩu sửa đổi dưới thời Chu Tuyên Vương.
King | Given name | Probable Reign, and line of descent |
---|---|---|
Kinh Dương Vương (涇陽王) | Lộc Tục (祿續) | 2879 BC – 2794 BC, Càn line (支乾) |
Lạc Long Quân (貉龍君) | Sùng Lãm (崇纜) | 2793 BC – 2525 BC, Khảm line (支坎) |
Hùng Lân vương(雄麟王), Hùng King III | Lân Lang | 2524 – 2253 BC,Cấn line (支艮) |
Hùng Diệp Vương(雄曄王), Hùng King IV | Bửu Lang | 2252 – 1913 BC,Chấn line (支震) |
Hùng Hy Vương, Hùng King V | Viên Lang | 1912 – 1713 BC,Tốn line (支巽) |
Hùng Huy Vương(雄暉王), Hùng King VI | Pháp Hải Lang | 1712 – 1632 BC,Ly line (支離) |
Hùng Chiêu vương(雄昭王), Hùng King VII | Lang Liêu | 1631 – 1432 BC,Khôn line(支坤) |
Hùng Vĩ vương(雄暐王) Hùng King VIII | Thừa Vân Lang | 1431 – 1332 BC,Đoài line (支兌) |
Hùng Định vương(雄定王), Hùng King IX | Quân Lang | 1331 – 1252 BC,Giáp line (支甲) |
Hùng Hi vương(雄曦王), Hùng King X | Hùng Hải Lang | 1251 – 1162 BC,Ất line (支乙) |
Hùng Trinh Vương(雄楨王), Hùng King XI | Hưng Đức Lang | 1161 – 1055 BC,Bính line (支丙) |
Hùng Vũ Vương(雄武王), Hùng King XII | Đức Hiền Lang | 1054 – 969 BC, Đinh line (支丁) |
Hùng Việt Vương(雄越王), Hùng King XIII | Tuấn Lang | 968 – 854 BC,Mậu line (支戊) |
Hùng Anh Vương(雄英王), Hùng King XIV | Chân Nhân Lang | 853 – 755 BC, Kỷ line (支己) |
Hùng Triệu Vương(雄朝王), Hùng King XV | Cảnh Chiêu Lang | 754 – 661 BC,Canh line (支庚) |
Hùng Tạo Vương(雄造王), Hùng King XVI | Đức Quân Lang | 660 – 569 BC,Tân line (支辛) |
Hùng Nghị Vương(雄毅王), Hùng King XVII | Bảo Quân Lang | 568 – 409 BC,Nhâm line (支壬) |
Hùng Duệ Vương(雄睿王), Hùng King XVIII | Lý Văn Lang or Mai An Tiêm | 408 – 258 BC,Quý line (支癸) |
Bản đồ nhà Tần Xâm Lăng Bách Việt
No comments:
Post a Comment