Sunday, February 5, 2023

Trùm Cuối!

Việt Á kit Aid - Nguyễn Công Khế là trùm cuối?


TTH TÁN GẪU THỨ BẢY 4/2/2023
https://youtu.be/xbUSf3ZvM6U


Việt Cộng Hà Nội cố gắng "phản công" trong hệ thống ChatGPT vì thấy bất lợi
CT ĐẶC BIỆT 4/2/2023:
https://youtu.be/ODRNwJQNePk


6:01
Tin buồn cho lực lượng Dư Luận Viên
Thiếu Tướng Việt Cộng Lê Dũng, Tư Lệnh Bộ Tác Chiến Không Gian Mạng vừa Từ trần.
Không còn trả tiền lương cho nhân Viên Dư Luận Viên nữa, nghề Dư Luân Viên phải giải nghệ. Nhân viên Dư Luận Viên phải kiếm nghề khác sinh ké.
Thử góp Ý Bình Luận
https://www.youtube.com/live/6dSy2BivIu8?feature=share


Đồ Đoàn U.kraine Đề Xuất Hòa Bình Kịch Bản Triều Tiên???

Võ Bình Định Võ Bình Định có nhiều trường phái, môn phái lắm.
An Thái là một môn phái trong Võ Bình Định, võ An Thái, trong thủ có công, trong công có thủ, Võ An Thái đánh tay nhiều hơn đánh chân. Võ An Thái ít đá nhưng mà nó sọt. Vô là tay, sát vô là sọt chân, (hai chân đối thủ chéo qua bẻ lại đòn, nó rất là nguy hiểm, và An Thái cái tay rất là dữ.

Cách truyền đạt của một ông thầy cũng là quan trọng, học trò không hiểu, không muốn học nữa thì là thất bại của ông thầy. Võ Vi Vô Nam đang mai một dần rồi. Sắp bị thất truyền.

https://www.youtube.com/live/eQz2kGNgWeg?feature=share




00000000000

 

Đ
á
n
h

D

u

T
i
ế
n
g

V
i

t

T
r
ư

c

1
9
7
5

V
à

S
a
u

1
9
7
5

Cách bỏ dấu truyền thống: “hóa, xòe, khỏe, súy, thủy, Thụy Sĩ, ủy mị...”

Sau 1975 Việt cộng cho thay đổi để khác đi của VNCH chứ không cần đúng hay sai, hay hoặc dở gì. Họ muốn phá tất cả những gì của VNCH và trước đó. Cách đánh dấu của Việt cộng:
hoá , xoè , khoẻ , suý , thuỷ , Thuỵ Sĩ, uỷ mị ...”


Thí dụ:
- Việt Nam Cộng Hoà là sai.
mà phải viết:

- Việt Nam Cộng Hòa.

Thí dụ:
- Thuỷ Quân Lục Chiến là sai,

mà phải là

- Thủy Quân Lục Chiến.

Hãy trở lại truyền thống, không thể chơi ngông, làm ngu như Vẹm được.



======================

Tán Gẩu 2/12/2023
22:28 Vụ Việt cộng thảm sát Tết Mậu Thân năm '68 Những ai hoặc gia đình nào là nạn nhân Mậu Thân năm 1968 có thể nộp đơn kiện Việt cộng [CSVN]. Nộp đơn kiện ở nơi mình đang sống, lấy cái vụ kiện ở Nam Hàn làm tiền lệ, vụ kiện này sẽ có một sự kiện nào đó mang tính tích cực. Hãy lên tiếng cho người thân, trả sự công bình cho người thân trong gia đình, họ hàng bạn


https://youtu.be/zcf3K4N82-k


Giữa bầy lang sói Việt cộng năm 1972
- Phạm Phong Dinh
https://youtu.be/yWg_v5bwSgI


VÔ ĐỀ CHỦ NHẬT 12/2/2023
https://youtu.be/McHOJcGvk_A


22:28
Vụ Việt cộng thảm sát Tết Mậu Thân năm '68 Những ai hoặc gia đình nào là nạn nhân Mậu Thân năm 1968 có thể nộp đơn kiện Việt cộng [CSVN]. Nộp đơn kiện ở nơi mình đang sống, lấy cái vụ kiện ở Nam Hàn làm tiền lệ, vụ kiện này sẽ có một sự kiện nào đó mang tính tích cực. Hãy lên tiếng cho người thân, trả sự công bình cho người thân trong gia đình, họ hàng bạn.
https://www.youtube.com/embed/SRqpWtWe19s


HOUSTON P2 15/2/2023:
Các đại công ty kỹ thuật áp dụng sự chuyên chế của cộng sản với khách dùng của họ
https://www.youtube.com/embed/ESRY6RDuo3M


CT/Chương Trình ĐĂC BIỆT 19/2/2023: Mô hình Bang Hội Á Châu có thể là giải pháp tốt để chống chuyên chế ở xứ Mỹ
https://youtu.be/8Ld2OPFS8U0


Thông Điệp Mới Bi Den Sẽ Gửi Pu Tin
https://www.youtube.com/live/wSjjr1XFEqI?feature=share


THẢO LUẬN THỜI SỰ 21/2/2023
https://youtu.be/lgmb4W_pEsA
Hàng hóa xuất cảng của Việt Nam bị chết



Nam mô con di dật dịch...
https://youtu.be/ar7zMP9l1tU


Ngày Tết của Việt Nam. Hay còn gọi là Lễ mừng năm mới theo âm lịch Mặt Trăng hay còn gọi là Nông Lịch (Lịch nghề Nông). Vì có nhiều người Trung Quốc nhận ngày lễ này là của Trung sáng tạo.

- 1) Xét về khía cạnh nền văn minh thì nền văn minh nhà Hạ (tổ tiên người Hán ngày nay. Địa bàn trải dài theo các Cao Nguyên từ Tây Tạng > Mông Cổ). Là nền văn minh du mục, du canh, du cư thì không thể có điều kiện gì thúc đẩy tạo ra Nông Lịch hay Mặt Trăng (Âm Lịch). Về sau này, đám du mục khi họ tiến xuống vùng đất của Xích Thần của Đế Khôi và bắt đầu định cư trồng trọt khi tiếp nhận nền văn minh Xích Thần thì họ cũng chỉ trồng Ngô, Kê, Lúa Mì, họ vẫn chưa ăn Tết, bằng chứng là Khổng Phu Tử (Khổng Tử người nước Lỗ, cùng thời với nước Tần, tức là khoảng 2500 trước.) đã viết trong Kinh của ông rằng:

[Tết? Ta không biết Tết là cái gì... nhưng ta nghe nói đó là ngày lễ của người Nam man ở phía Nam. Họ tụ tập nhảy múa, ăn uống nhiều ngày liền]. Chứng tỏ lúc đó tộc Bách Việt đã có tục ăn Tết từ rất lâu rồi và lúc đó người Hoa Hạ vẫn chưa biết Tết là cái gì và tại sao lại có ngày Tết!].

- 2) Vẫn xét theo khía cạnh nền văn minh thì người Việt (vốn có nguồn gốc từ Giao Chỉ, tỏa ra bốn phương tám hướng và tiến dần lên khai phá phía Bắc Tây Bắc Đông Á), Đông Bắc Đông Á), và một phần Tây Bắc (Tây Á)... Phù hợp thuyết [Cuộc Đại di cư]... Thuyết này nói rằng mọi dân tộc trên thế giới này đều đi ra từ Châu Phi và tỏa ra khắp nơi. Những dân tộc đầu tiên đến Châu Á là đặt chân lên vùng đất Nam Á (Bắc Ấn Độ ngày nay) rồi sau đó xuyên qua những cánh rừng Đông Nam Á (bây giờ là Myanmar, Thái, Cam, Lào) và đặt chân đến Đông Nam Á Bắc Việt Nam và Chăm Pa - hay Nam Việt Nam ngày nay). Rồi họ định cư ở đó một khoảng thời gian sau mới tiến lên vùng phía Bắc lạnh và hoang vu hơn...

Cho nên ta có thể nói người Việt (người Giao Chỉ) chính là giống dân gốc và thuần chủng nhất của Châu Á. (Tài liệu nghiên cứu DNA được Trung quốc công bố 2019 cũng xác nhận điều này.). Và ta liên kết nguồn gốc người Việt với điều kiện sinh sống của cây Lúa Nước (cần nắng nhiều, cường độ nắng mạnh, đất ngập nước mưa rừng (rain Forest), nhiều bùn loãng, nước tĩnh không chảy xiết, phù sa dồi dào, thời tiết nóng ấm) thì ta thấy rõ cây Lúa Nước chỉ có thể xuất hiện ở các đồng bằng ngập nước ven sông ở vùng Nam Á hoặc Đông Nam Á. Còn ở vùng Trung Á, Bắc Á, Đông Á lúc đó quá lạnh... Không phù hợp cho cây Lúa Nước phát triển.

- 3) sau khi đã xác định được nười Việt chính là chủ nhân chính thống của văn minh Lúa Nước, ta lại suy về điều kiện thúc đẩy phát triển văn minh là:...

Ngày xưa trồng lúa chỉ được một vụ / năm. Và vô cùng phụ thuộc vào thời tiết từng mùa, cho nên điều kiện cần ở đây là người làm nông phải nắm được thời điểm đang là mùa nào... thời tiết mùa đó ra sao để mà chăm bón lúa. Từ đó, thúc đẩy một bộ lịch ra đời, đó là Nông Lịch tính theo mặt trăng... Do thời đó quan sát mặt trời bằng mắt thường vẫn còn quá khó khăn nên người Việt đã chọn cách quan sát Mặt Trăng, vừa không bị chói và hại mắt vừa dễ quan sát do quỹ đạo Mặt Trăng là vòng tròn hoàn hảo, không thay đổi theo mùa như Mặt Trời.

- 4) Khi đã có lịch, người Việt bắt đầu suy ra đủ thứ, từ đó biết được một năm có 12 tháng (mình bỏ qua phần giải thích chu kỳ mặt Trăng chỉ có 27,3 ngày, ko đủ 30ng vì nó khá rắc rối và dễ làm các bạn rối não.)... Và mùa đầu tiên sau mùa lạnh giá, có khí hậu ấm áp, băng tan, cây cối phát triển được người Việt gọi là Mùa Xuân. Và ngày đầu tiên của mùa Xuân được chọn là ngày đầu tiên của một năm. Tết chính là hoạt động lễ hội đánh dấu chuyển giao giữa ngày cuối cùng của năm cũ và ngày đầu tiên của năm mới... và báo hiệu cho một mùa vụ gieo trồng mới sắp bắt đầu...

Tiếp theo mùa Xuân sẽ là mùa Hạ (Hạ có nghĩa là hạ xuống, gieo xuống, cắm xuống. Ở đây có nghĩa là mùa này chính là mùa Cấy Lúa).

Tiếp theo mùa Hạ chính là mùa Thu (Thu chính là Thu Hoạch.) Và ta có lễ Trung Thu (lễ Giữa Thu) đây là khoảng thời gian trăng tròn nhất trong tháng 8 (tháng giữa của 3 tháng 7 8 9 thuộc mùa Thu).

Và thời gian này cũng là lúc vừa thu hoạch xong Lúa (Lúa thường chín vào đầu tháng 8). Nên người Việt tổ chức lễ nhằm tạ ơn thần linh và trời đất cho mưa thuận gió hòa và một vụ mùa bội thu. Cũng là để đánh dấu kết thúc một mùa gieo trồng, chuẩn bị vào Đông (Đông trong đông đá, đông lạnh.) Không thể tiếp tục gieo trồng nữa.

Tết là ngày lễ mừng năm mới và cũng là ngày lễ tạ ơn và cầu xin, xin mưa thuận gió hòa v.v...
Lễ Trung Thu là lễ mừng thu hoặch



Ngoại trưởng Blinken tuyên bố Bắc Kinh sẽ đánh chiếm Đài Loan 23/3/2023: 2027

https://www.youtube.com/live/OzgKNs2RegU



----------------------------

Long, Ly, Quy, Phụng mang đậm tính chất tâm linh và tranh của Tứ linh trong nhà sẽ mang tới sự sang trọng may mắn cho gia chủ. Ngoài ra, nếu đặt Tứ linh đúng chuẩn, hợp tuổi còn giúp ngăn chặn tà khí xâm nhập, trấn trạch và mang đến nhiều may mắn.

Biểu tượng Long = rồng

https://binhtungstone.com/images/upload/images/Tin-tuc/tin-tuc-key-bo-quen/bieu-tuong-long.jpg

Ly - Biểu tượng của trí tuệ

Biểu tượng Ly= lân = sư tử

https://binhtungstone.com/images/upload/images/Tin-tuc/tin-tuc-tong-hop/bieu-tuong-ly.jpg

Biểu tượng Quy = rùa

https://binhtungstone.com/images/upload/images/Tin-tuc/tin-tuc-tong-hop/bieu-tuong-quy.jpg

Biểu tượng Phụng phượng

https://binhtungstone.com/images/upload/images/Tin-tuc/tin-tuc-key-bo-quen/bieu-tuong-phung.jpg

Long - Ly - Quy - Phụng là bốn linh vật trong tứ linh, xuất hiện nhiều trong văn hóa

https://binhtungstone.com/blog/long-ly-quy-phung-la-gi.html

Theo các nhà nghiên cứu, văn hóa Thạch Gia Hà có một hệ thống chính trị và một ý thức hệ để có thể tổ chức được các khu định cư quy mô lớn và ràng buộc các cộng đồng dân cư với nhau [30]. Một số học giả cho rằng Thạch Gia Hà có thể được coi là một nhà nước cổ đại do cấu trúc chính trị xã hội tương đối tiên tiến của nó [30][31]. Văn hóa Thạch Gia Hà cũng có xã hội phức tạp hơn và phát triển hơn các văn hóa cùng thời ở phía Bắc [31]. Như vậy việc gọi Văn Lang là một “nước” như huyền sử đã ghi lại, là phù hợp với thực tế khảo cổ học. Tại văn hóa Thạch Gia Hà, hình tượng Rồng – Phượng, hay chính là hình tượng Rồng – Tiên được huyền sử ghi lại, được khắc họa trên những mảnh ngọc tròn chế tác tinh xảo. Người Việt xăm mình hình rồng, đội mũ lông chim chính là sự hóa trang thành Tiên – Rồng, trong nền văn hóa lưỡng hợp siêu nhiên của người Việt. Họ Hồng Bàng trong huyền sử của người Việt có gốc tích và sự phát triển như thế.

Vào khoảng hơn 4000 năm, thì các cư dân của các văn hóa này đã di cư về Việt Nam và Đông Nam Á, trong đó nhóm quan trọng nhất đã trở về Việt Nam, quyền lực chính trị, văn hóa và tâm linh cũng dịch chuyển theo. Quốc gia của người Việt vẫn liên tục duy trì và phát triển, lãnh thổ vẫn nguyên vẹn, chỉ trung tâm là có sự thay đổi, và sau đó, bắt đầu diễn ra những giai đoạn chiến tranh và mất đất.

– Vậy quốc gia của người Việt mất dần lãnh thổ của mình vào những thời điểm nào?

Chúng tôi cho rằng bắt đầu từ thời điểm giặc Ân (Thương), cách ngày nay 3000 năm, được nhắc trong truyền thuyết, đánh chiếm đất của người Việt, chiếm được vùng Động Đình, hạ lưu Dương Tử, lúc đó đất phía Bắc bắt đầu mất về tay người phương Bắc, các vùng đất này được phân phong, trở thành các quốc gia Sở, Ngô, Ư Việt là chư hầu của Hoa Bắc. Bản đồ Văn Lang, Lạc Việt sau 3000 năm cách ngày nay, sau khi mất phần Dương Tử (và cả Động Đình) cho nhà Thương.

Thời kỳ nước Sở cũng đã tiến hành lấn chiếm dần dần đất Việt, trong đó bao gồm cả đất Điền Việt. Sau đó tới thời Tần, vào khoảng 2200 năm trước, đã tổ chức một cuộc xâm lược quy mô vào đất còn lại của người Việt, khiến người Việt chỉ còn lại duy nhất đất Bắc Việt Nam. Và tại các vùng đất nhà Tần chiếm được, sau khi nước Tần sụp đổ, đã được Triệu Đà lập nên quốc gia Nam Việt trên nền tảng văn hóa Việt cổ. Sau đó, Triệu Đà cũng đã dùng mưu chiếm nốt phần đất còn lại của quốc gia Văn Lang là miền Bắc Việt Nam (thời điểm đó là Tây Âu Lạc). Đất Việt gần như mất hẳn từ đó.

Bảng phân tích thời điểm thành lập của các quốc gia Hoa Nam.

Tên nước Thời điểm thành lập

Các quốc gia lập bởi chư hầu Thương – Chu

Ngô Việt 1200 TCN

Sở 1030 TCN

Ư Việt 1000 TCN

Các quốc gia hậu duệ Ư Việt

Đông Âu 191 TCN

Mân Việt 334 TCN

Các quốc gia tách khỏi đất Việt thời Sở – Tần

Tây Âu (Văn Lang) 257 TCN

Âu Lạc 218 TCN

Điền Việt (Sở) ~ 200 TCN

Dạ Lang (Sở) ~ 200 TCN

Nam Việt (Tần) 204 TCN

Bản đồ các tiểu quốc tách ra từ nước Văn Lang. Tây Âu Lạc, kế thừa lãnh thổ còn lại của nước Văn Lang bao gồm Lưỡng Quảng, Hải Nam và miền Bắc Việt Nam.

Phân tích quá trình mất đất của người Việt: Các vùng đất ở cực Bắc đất Việt, bị chiếm bởi các nhà Thương, Chu và được phong cho quý tộc các triều đại này (~1000 TCN), sau đó trở thành các quốc gia chư hầu của nhà Chu: Sở, Ngô, Ư Việt. Các quốc gia như Đông Âu, Mân Việt được thành lập bởi hậu duệ Ư Việt (~3-200 TCN). Sau đó Sở chiếm Điền Việt, Dạ Lang (~200 TCN). Đất Văn Lang khi đó còn lại vùng Lưỡng Quảng, Hải Nam và miền Bắc Việt Nam. An Dương Vương, một thủ lĩnh trên đất của các vua Hùng, đã giành ngôi và đổi tên nước thành Tây Âu Lạc (257 TCN). Tần đánh xuống Tây Âu Lạc, khiến đất của người Việt chỉ còn lại vùng miền Bắc Việt Nam (Âu Lạc). Tại đất nhà Tần chiếm được, Triệu Đà lập nên quốc gia Nam Việt (204 TCN). Cuối cùng quốc gia Âu Lạc cũng mất về tay Nam Việt.

2. Cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng đánh chiếm lại đất của các vua Hùng xưa

Vào khoảng năm 43 TCN, 68 năm sau khi nhà Nam Việt sụp đổ, đất Việt bị sáp nhập vào đế quốc Hán, thì ở miền Bắc Việt Nam, chị em họ Trưng, những nữ nhi hậu duệ của vua Hùng, đã tổ chức một cuộc chiến quy mô, tập hợp, phát động một cuộc khởi nghĩa giành lại giang sơn. Cuộc khởi nghĩa của bà nhanh chóng nhận được sử hưởng ứng của người dân toàn vùng Lĩnh Nam, giành thắng lợi diện rộng, đánh đuổi quân Hán khỏi bờ cõi. Cuộc khởi nghĩa này đã để lại những dấu tích rất rõ ràng ở toàn vùng Lĩnh Nam, với những đền thờ hai bà Trưng và các tướng lĩnh:

– Đại Việt sử ký toàn thư kỷ Thuộc Đông Hán có ghi chép rằng: “Người địa phương (Quảng Đông) thương mến Trưng Nữ Vương, làm đền thờ phụng (đền ở xã Hát Giang, huyện Phúc Lộc, ở đất cũ thành Phiên Ngung cũng có).”

– Quận Khúc Giang thuộc địa cấp thị Thiều Quan, tỉnh Quảng Đông, còn đền thờ nữ tướng của Hai Bà Trưng là Đàm Ngọc Nga.

– Tại Quảng Đông cũng có nhiều đền thờ Thánh Thiên.

– Tại vùng biển Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam có nhiều đền thờ nữ tướng Trần Quốc, tước Gia Hưng công chúa.

– Nhà báo Phạm Hồng từng cho biết ông đã thấy nhiều đền thờ Trưng Trắc, Trưng Nhị ở Quảng Tây. Nơi đây cũng có nhiều đền thờ nữ Đại tướng quân Thánh Thiên.

– Tại Hồ Nam cũng có di tích thờ hai bà Trưng, do sứ giả Việt Nguyễn Thực ghi lại trong bài thơ “Nam hoàn chí Ngũ Lĩnh”.

Bản đồ Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng.

Cuộc khởi nghĩa đã đánh đuổi quân Hán tới tận hồ Động Đình, các trận đánh cũng diễn ra trong địa bàn rộng lớn của nước Văn Lang cổ, là một dấu tích quan trọng chứng tỏ sự thống nhất trong mặt ý thức, dân tộc, đó là nền tảng để hai bà Trưng có thể tạo nên một cuộc khởi nghĩa của sức ảnh hưởng rộng lớn như vậy, nhận được sự hưởng ứng của người dân toàn vùng Lĩnh Nam. Tiếng nói của hai bà Trưng, hay sự tập trung của những nữ tướng ở vùng miền Bắc Việt Nam, cũng là dấu tích để chứng minh tính trung tâm của vùng miền Bắc Việt Nam, từ trung tâm đó, tiếng nói quyết định được phát đi để cuộc khởi nghĩa có sức lan tỏa mạnh tới các vùng khác. Cuộc khởi nghĩa đã giành thắng lợi vẻ vang, hai bà đã giành lại được độc lập cho người Việt, lập nên quốc gia Lĩnh Nam, trong địa bàn của vùng Lĩnh Nam, một bộ phận của nước Văn Lang cổ. Nhưng nước Lĩnh Nam chỉ tồn tại được ba năm, trước khi một lần nữa thất bại trước sức mạnh vó ngựa của người Hán, đất Việt rơi vào 900 năm Bắc thuộc trước khi người Việt giành lại được độc lập cho vùng miền Bắc Việt Nam vào năm 931 SCN.

V. Người Việt là hậu duệ chính thống của Bách Việt

Người Việt (Kinh) ngày nay là hậu duệ chính thống của Tộc Việt hay Bách Việt, họ là những người có nguồn gốc từ Việt Nam di lên, trở về Việt Nam, và người Việt sau đó cũng đã đón nhận những dòng di cư trở về của cư dân Tộc Việt các ngữ hệ Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai, hòa hợp để dần dần hình thành nên người Việt Nam ngày nay. Dấu vết ngôn ngữ học thể hiện rõ điều đó:

Về mặt cấu trúc ngôn ngữ, thì ngôn ngữ của người Việt là phức hợp của các hệ ngữ Nam Á, Tai-Kadai và Nam Đảo, chứng tỏ cho sự hòa hợp của nhiều nhóm người trở về Việt Nam trong nhiều giai đoạn khác nhau, với cốt lõi là nhóm Nam Á trở về khoảng hơn 4000 năm trước đây, và chúng tôi cho rằng, tiếng Việt có thể là ngôn ngữ cổ xưa của châu Á, do dòng lịch sử phát triển một cách liên tục và lâu dài (là dân tộc cổ nhất), mặc dù đã biến đổi nhiều qua trường thiên lịch sử.

Trong ngôn ngữ Việt có dấu vết của những từ gốc Ngô Việt: Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các chữ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo… [32]

Về mặt khảo cổ học, thì dòng di cư của người Ngô Việt, hay các vùng đất khác thuộc đất của người Việt như Quý Châu, Hồ Nam đã đem theo những di vật đặc trưng của mình xuống vùng miền Bắc Việt Nam, hòa hợp với người Lạc Việt đã ở đó từ trước. Dòng di cư này diễn ra một cách liên tục và mạnh mẽ. [33]

Trong lịch sử, cũng có những dòng họ hoàng tộc Việt Nam có gốc Chiết Giang, Phúc Kiến như các họ Lý, Trần, đây là những vùng đất cổ của người Bách Việt, di cư tới Việt Nam trong khoảng thời Bắc thuộc.

Vào thời Hán, thì dân số của vùng đồng bằng sông Hồng áp đảo so với vùng Lĩnh Nam, chúng tôi cho rằng đây là biểu hiện rõ ràng cho tập trung về phương Nam của người Bách Việt: “Theo cuốn Tiền Hán Thư, vào tk. II trCN, toàn quận Giao Chỉ có 92.440 hộ và 746.237 người, nhiều hơn tổng số dân 4 quận vùng Lưỡng Quảng (Hợp Phố, Hải Nam, Uất Lâm, Thương Ngô) cộng lại (71.805 hộ và 390.555 người). Hai quận Cửu Chân và Nhật Nam có 235.508 người.”

Người Việt (Kinh) ngày nay là đại diện chính thống của Bách Việt, là những người duy nhất còn giữ chữ “Việt” trong tên gọi dân tộc và đất nước của mình, họ cũng là những người giữ gìn văn hóa, lịch sử truyền thống của tộc Việt hay Bách Việt cổ xưa, cùng với những nhóm dân cư hậu duệ Bách Việt khác như Hán Hoa Nam, người Choang, Bố Y, Thái Lan, Thái Việt Nam, Mường, Nùng, Tày… tuy nhiên đa phần đều chỉ còn giữ gìn văn hoá, mà không còn tự nhận mình là Việt. Là những người kế thừa và giữ gìn truyền thống, lịch sử của cộng đồng Bách Việt, chúng ta có quyền, và có trách nhiệm đối với cộng đồng Bách Việt cổ xưa, trong đó bao gồm cả trách nhiệm chứng minh những di sản của cộng đồng này đã dựng xây nên trong thời gian tồn tại. VI. Kết luận

Qua sự chứng minh tuần tự từng yếu tố, chúng tôi cho rằng đã có đủ cơ sở để khẳng định rằng Bách Việt, hay tộc Việt, là một cộng đồng thống nhất về văn hóa, về chủng tộc, họ chung sống dưới một quốc gia thống nhất, quốc gia của các vua Hùng, không phải là cộng đồng phân lập như đã từng bị hiểu nhầm.

Sự thăng trầm của lịch sử Việt khiến cho những hiểu biết về cộng đồng Bách Việt trở nên sai lệch, nhưng những nghiên cứu khoa học, khảo cổ, văn hoá, ngôn ngữ đã cùng góp phần chứng minh cho nguồn gốc tính thống nhất của cộng đồng này. Họ là những người xây dựng nên những nền văn hoá lớn ở Đông Á, là những người thuần hoá lúa nước, phát triển kỹ thuật luyện đồng, cũng như có một nền văn hoá đáng tự hào, có sức ảnh hưởng lớn ở vùng Đông Á. Tuy nền văn hoá cổ đó gần như đã biến mất, nhưng sự thật của lịch sử đã sáng tỏ nhờ những khám phá thông qua các phương tiện khoa học.

Các dân tộc ngày nay đều là đồng bào, sinh ra từ một bọc, ý nghĩa của từ đồng bào là có cơ sở thực tế, dựa trên tính thống nhất từng có giữa các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam ngày nay. Ý thức về cội nguồn, truyền thống lịch sử hơn 4000 năm của dân tộc là một sự kế thừa truyền thống cổ xưa. Hậu duệ, là chúng ta ngày nay, hãy cùng nhau phát huy những giá trị tốt đẹp của nền văn hóa chung xa xưa đó. Biết, hiểu, ý thức về cội nguồn chung của tộc Việt là một điều quan trọng, không phải để đòi lại đất đai đã mất, mà để trân trọng giá trị cổ truyền, tôn trọng nền văn minh cổ xưa mà Tổ Tiên chúng ta đã dựng xây nên. Đó là nền tảng và cơ sở quan trọng từ quá khứ, để có thể kiến tạo một tương lai mới rực rỡ hơn.

Chú dẫn:

• [1] Nhìn lại lịch sử Bách Việt và quá trình Hán hóa Bách Việt – Trần Gia Ninh
• [2] Chu JY, et al (1998), Genetic relationship of populations in China, Proceedings of National Academy of Sciences USA, 95(20): 11763-11768
• [3] The HUGO Pan-Asian SNP Consortium (2009), Mapping human genetic diversity in Asia, Science, 326(5959): 1541-1545
• [4] Pedro A Soares, et tl (2008), Climate Change and Postglacial Human Dispersals in Southeast Asia:
https://www.researchgate.net/publication/5492339_Climate_Change_and_Postglacial_Human_Dispersals_in_Southeast_Asia
• [5] Huang X, et al (2012), A map of rice genome variation reveals the origin of cultivated rice. Nature, 490(7421): 497-501 • [6] Hua Zhong, Hong Shi, Xue-Bin Qi, et al. (2010). Extended Y chromosome investigation suggests postglacial migrations of modern humans into East Asia via the northern route. Molecular biology and evolution;28(1):717-27.
• Chuan‐Chao WANG, Shi Yan, Zhen‐Dong QIN, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611. Journal of Systematics and Evolution;51(3):280-6. • [7] Takeuchi F, Katsuya T, Kimura R, Nabika T, Isomura M, Ohkubo T, et al. (2017) The fine- scale genetic structure and evolution of the Japanese population. PLoS ONE 12(11): e0185487 • [8] Genome Research Finds Roots of Korean Ancestry in Vietnam : http://koreabizwire.com/genome-research-finds-roots-of-korean-ancestry-in-vietnam/75133 • [9] Fuller DQ, Qin L (2010), Declining oaks, increasing artistry, and cultivating rice: The environmental and social context of the emergence of farming in the Lower Yangtze Region, Environmental Archaeology, 15(2): 139-159
• [10] Zhang Juzhong, Wang Xiangkun (1998). Notes on the recent discovery of ancient cultivated rice at Jiahu, Henan Province: a new theory concerning the origin of Oryza japonica in China. Antiquity;72(278):897-901.
• [11] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history
• [12] Preliminary Research on Hereditary Features of Yinxu Population https://www.academia.edu/5297877/2013_AAPA_poster-_Preliminary_Research_on_Hereditary_Features_of_Yinxu_Population
• [13] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451.
• [14] Keyes CF. The dialectics of ethnic change. Ethnic change. 1981;30:4-52.
• [15] Han Xiaorong, The present Echoes of the Ancient Bronze Drum: Nationalism and Archeology in Modern Vietnam and China, Explorations in Southeast Asian Studies, Vol. 2, No. 2, Fall 1998, Hawaii University
• [16] Luận văn tiến sĩ Văn hóa học: Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong quan hệ với văn hóa Việt Nam truyền thống – Nguyễn Ngọc Thơ, 2011.
• [17] Cung Đình Thanh, “Khái niệm về biển tiến ở Việt Nam”, Tập San Tư Tưởng số 3, ngày 15/7/1999, trg 11 – 16. Joseph Needham, Science and Civilization in China – Tome I : Introduction – Cambridge, England, 1956.
• [18] Jeffrey Barlow, The Zhuang : Ethnogenesis, Pacific University, http://mcel.pacificuedu/as/resources/zhaung/zhuangintrohtm
• [19] Paola Demattè (2010). The Origins of Chinese Writing: the Neolithic Evidence. Cambridge Archaeological Journal;20(2):211-28.
• [20] Chunfeng Zhang (2019). On determining the nature of Liangzhu 良渚 symbols. Journal of Chinese Writing Systems;3(2):121-8.
• [21] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 戉. https://hanziyuan.net/#%E6%88%89.
• [22] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 越. https://hanziyuan.net/#越.
• [23] Đội khảo cổ Thạch Gia Hà 石家河考古队 (1999). Tiêu Gia Ốc Tích 肖家屋脊: Nhà xuất bản Văn Vật 文物出版社.
• [24] Nguyễn Văn Huyên, Vinh Hoàng (1975). Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam. Hà Nội.
• [25] Chứng minh tính toàn thể của danh xưng Lạc Việt:

• Khởi đầu từ sách Lã Thị Xuân Thu ghi: “Quế Dương Chiêu Dao sơn đích quế; Việt Lạc (cổ quốc) đích hương khuẩn; lí ngư hòa vị ngư nhục tố đích tương; Đại Hạ (cổ quốc) quốc đích diêm”. Cao Dụ chú Lạc Việt = “Việt Lạc: quốc danh. Khuẩn: măng trúc”, Đàm Thánh Mẫn giải thích Việt Lạc cũng là Lạc Việt, do thứ tự cú pháp tiếng Việt đặt ngược với tiếng Hán mà ra.”, chúng tôi nhận thấy có cơ sở để nói rằng người Việt từng đều tự nhận mình là Lạc Việt. Có thể các tác giả của Lã Thị Xuân Thu thấy một vùng rộng lớn toàn Lạc Việt nên họ nghĩ đó là quốc danh. Thêm nữa đoạn văn trên là ở Thiên Bản Vị trong Lã Thị Xuân Thu quyển 14 (《吕氏春秋》的第l4卷《本味篇》), tra kỹ lai lịch thì đoạn văn này là lời Y Doãn nói với vua Thang, được các tác giả Lã Thị Xuân Thu, môn khách của Lã Bất Vi, ghi lại, như thế thì “mức độ cổ” của tên gọi “Việt Lạc” có thể từ trước đời Thành Thang (1600BC)?

• Ngoài ra còn nhiều dẫn chứng khác có thể chứng minh cho ý tưởng này của chúng tôi:

• Tại Hồ Nam, theo Lăng Thuần Thanh, thì là nơi sinh sống của người Lạc Việt, khi ông xác định bài Đông Quân được Khuất Nguyên ghi lại, tương đồng hoàn toàn với hoa văn trên trống đồng của người Lạc Việt.

• – Hồ Bắc cũng là nơi sinh sống của người Lạc Việt, trong Hậu Hán Thư ghi: “Năm thứ 11 (đời Hán Quang Võ, tức năm 35, trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 5 năm) Tang Cung đem binh đến huyện Trung Lư (sau là huyện Nam Chương thủ phủ là Tương-Phàn Thị tức Tương Dương và Phàn Thành), đóng đồn (trên đất cư trú của người) Lạc Việt. Lúc đó Công Tôn Thuật (thế lực cát cứ đang chiếm đất Thục) sai tướng Điền Nhung, Nhiệm Mãn ra cự địch với Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành ở Kinh môn, Bành nhiều lần đánh mà không thắng (sau Bành bị quân thích khách của Thục giết!), người Việt do đó muốn làm phản theo Thục, Cung binh ít, không đủ lực lượng khống chế.”

• – Hiện tại, người Tráng (Choang), hay người Bố Y trong vùng miền Nam Trung Quốc ngày nay vẫn còn tự nhận mình là Lạc Việt. Đây là dấu tích khá quan trọng để có thể nhận thấy độ phủ của danh xưng Lạc Việt.

• – Trong Hậu Hán Thư thế kỷ thứ V trong Mã Viện liệt truyện ghi: “Viện hiếu kỵ, thiện biệt danh mã, ư Giao Chỉ đắc Lạc Việt đồng cổ, nãi chú vi thức, hoàn thượng chi”. Tức là Mã Viện thích ngựa, giỏi phân biệt ngựa hay; tại Giao Chỉ lấy được trống đồng của dân Lạc Việt. Trống đồng là tài sản chung của người Việt thuộc quốc gia Văn Lang, Giao Chỉ ở đây là Giao Chỉ bộ, việc sử Hán ghi lại việc Mã Viện thu trống của người Lạc Việt, phải chăng muốn đề cập tới tất cả đều là người Lạc Việt?

• – Ngoài ra còn một đoạn sử khác được ghi lại trong sách “Giao Châu Ngoại Vực Ký”: “Xưa khi Giao Chỉ chưa có quận huyện, đất có Lạc điền [雒田; ruộng lạc], ruộng ấy theo triều thuỷ lên xuống, dân khẩn thực [墾食] ruộng ấy, nên gọi là “Lạc dân” [雒民]. Lập ra “Lạc vương” [雒王], “Lạc hầu” [雒侯], coi giữ các quận huyện. Nhiều huyện có “Lạc tướng” [雒將], các Lạc tướng có ấn đồng và dây thao xanh. Sau Thục vương tử mang 3 vạn binh đến đánh lạc vương, lạc hầu, thu phục các lạc tướng. Thục vương tử sau đó xưng An Dương vương.” Giao Chỉ là đất của người Lạc Việt, ở đây là Giao Chỉ bộ vì chưa phân quận huyện, ít nhất bao gồm Lưỡng Quảng, Hải Nam, miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Bên cạnh đó, chữ Lạc gắn với hầu hết các danh vị: “Lạc dân” (Lạc Việt), “Lạc Vương”, “Lạc hầu”, có thể thể hiện sự gắn bó của danh xưng Lạc Việt của người dân Việt vùng Nam Dương Tử.

• – Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 519—581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu”, thời Chu, Giao Chỉ, khi đó là Giao Chỉ bộ như đã nói ở trên, được sử dụng để chỉ toàn bộ vùng đất Văn Lang, và cũng được gọi là Lạc Việt.
• – Các cách gọi như Mân Việt, Âu Việt, Điền Việt… đều là những cách gọi xuất hiện và được ghi lại muộn trong lịch sử, khi lãnh thổ Giao Chỉ dần thu hẹp lại, các tiểu quốc Ngô Việt, Ư Việt, Đông Âu, Âu Việt (Chiết Giang), Điền Việt, Tây Âu… được thành lập, tất cả đều là quốc danh và dần dần được gắn vào tộc danh.
• Từ những dẫn chứng trên, chúng tôi cho rằng đủ để chứng tỏ người Việt đã từng tự xưng mình là Lạc Việt, cũng như nhận là Việt Thường hai giai đoạn lịch sử trước và sau nhà Chu.
• [26] Colin Renfrew, Bin Liu (2018). The emergence of complex society in China: the case of Liangzhu. Antiquity;92(364):975-90.
• https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/emergence-of-complex-society-in-china-the-case-of-liangzhu/
• [27] Tống Kiến 宋建 (2017). Liangzhu – một quốc gia cổ đại phức tạp bị chi phối bởi thần quyền 良渚——神权主导的复合型古国. 东南文化;(1):6-15.
• [28] Bin Liu, Ningyuan Wang, Minghui Chen, et al. (2017). Earliest hydraulic enterprise in China, 5,100 years ago. Proceedings of the National Academy of Sciences; 114(52):13637-42.

• https://www.pnas.org/content/114/52/13637

• [29] Chunfeng Zhang (2019). On determining the nature of Liangzhu 良渚 symbols. Journal of Chinese Writing Systems;3(2):121-8.
• https://www.researchgate.net/publication/332595714_On_determining_the_nature_of_Liangzhu_liangzhu_symbols
• [30] Li Liu, Xingcan Chen (2012). The archaeology of China: from the late Paleolithic to the early Bronze Age: Cambridge University Press.
• [31] Chi Hung 洪曉純 Zhang, Hsiao-Chun (2009). The Neolithic of Southern China–Origin, Development, and Dispersal. Asian Perspectives;47.
• [32] Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.
• [33] Bách Việt và quá trình Nam tiến của người Bách Việt – Kiều Quang Chẩn.

Dân tộc Văn Lang cũng bởi gì mất đi Văn Hóa Cội Nguồn dẫn đến không biết bao nhiêu là tai hại một đất nước Văn Lang rộng lớn nếu mất đi nền Quốc Đạo dân tộc thời khó mà đoàn kết được Bách Việt. Dẫn đến mất đi Bắc Văn Lang.

Rồi đến Trung Văn Lang. Chỉ còn lại Nam Văn Lang. Nếu còn tiếp tục không khôi phục lại Văn Hóa cội Nguồn. Truyền thống dựng nước Ông Cha có hơn năm nghìn năm văn hiến thời Nam Văn Lang hình chữ S nước Việt Nam cũng không thể nào giữ nổi bị giặc phương Bắc nuốt trọn.

Cha con Doãn Thường mọc ra nổi dậy chiếm lấy Bắc Văn Lang cải đổi thành Việt Trung Nguyên. Đến thời Việt Vương Câu Tiễn dưng hai tay cho người Phương Bắc. Ở vào thời Chu Nguyên Vương nhà Chu. Chu Nguyên Vương phong cho Câu Tiễn làm bá chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh.

PHẦN 3

Ở vào thời Phong Kiến Thần Giáo thời Nhà Chu. Chu Vũ Vương. Chu Thành Vương. Chu Mục Vương. Chu Di Vương. Đến thời Chu Lệ Vương thời nội triều Phong Kiến Thần Giáo con cháu Nhà Chu tranh giành quyền lực. Anh Em chém giết lẫn nhau, triều chính hổn loạn.

Chu Lệ Vương chạy trốn sang đất Trệ. Các Quần Thần Phong Kiến Thần Giáo Nhà Chu trong cảnh triều ca không Vương. Bằng hợp nhau thi hành chính sự Cọng Hòa điều hành đất nước Phương Bắc Nhà Chu đi đến hổn loạn. Các Trấn Chư Hầu nổi lên tranh bá lẫn nhau. Thôn tính lẫn nhau chiến tranh loạn lạc. Phong Kiến Thần Giáo Quần Thần Nhà Chu, lập Chu Tuyên Vương chỉnh đốn lại Nhà Chu.

Khi ấy ở nước Tề. Tề Lệ Công được lập. Lệ Công vô cùng bạo ngược. Nghe lời xàm tấu nịnh hót tham quan ô loại. Nội chính thời giết Trung Thần. Ngoại chính thời chinh phạt các nước làm cho Phương Bắc chiến tranh thôn tính lẫn nhau ăn nuốt lẫn nhau dữ dội. Mạnh được yếu thua thắng là Vua. Thua là giặc. Xem đi xét lại giặc với Vua cũng chẳng khác gì nhau. Ai có nhiều nhân tài biết đội lớp nhân nghĩa. Mưu mô xảo quyệt hơn thời thắng. Xưng Vua, Xưng Chúa. Xưng Bá.

Không như phương Nam nước Văn Lang dân chúng sống theo Thánh Đức Thánh Giáo. Sống Theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nền Quốc Đạo dân tộc thái bình an lạc. Kéo dài hơn mấy nghìn năm.

Đều đáng chú ý ở đây : Thánh Đức, Thánh Giáo khác với Phong Kiến Thần Giáo Là ở chỗ Thánh Đức Thánh Giáo. Vua, Quan, Dân, đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Nền Quốc Đạo dân tộc. Còn Phong Kiến Thần Giáo là Triều Thần bao hàm cả Trung Thần, Nịnh Thần tâu lên Vua. Vua nghe theo đó mà hành sự. Mới có cảnh Nịnh Thần hảm hại Trung Thần. Trung Thần can gián Vua Làm Bậy liền bị xữ tử. Còn Thánh Đức Thánh Giáo không phải như thế. Tất cả Vua, Quan, Dân đều sống theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công Bằng Bình Đẳng Văn Minh. Chỉ bỏ tù hoặc xử tử những người có tội vi phạm luật pháp. Dù cho đó là Vương, Quan. Những người vi phạm Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp thời bị xử theo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo của nhà nước Vương, Quan, Dân phạm tội đều bị xét xử Công bằng Bình Đẳng trước Pháp Luật như nhau.

Phương Bắc Nhà Chu theo chủ nghĩa Phong Kiến Thần Giáo độc tài độc trị, khác Phương Nam Thánh Đức Thánh Giáo thời Hùng Vương đa nguyên đa sắc tộc Bách Việt Tộc Văn Lang công bằng bình đẳng dân chủ tự do. Vì thế Phương Bắc không thể nào sánh kịp chiến tranh loạn lạc. Các nước thôn tính lẫn nhau tranh giành dân chúng. Tranh Giành đất đai quyền lực, làm cho dân chúng khốn đốn, thảm cảnh đói rét chết chóc xảy ra khắp nơi không ít dân chúng trốn chạy di cư vào Nam tức là Bắc Văn Lang. Có lúc chỉ trong vòng có mấy ngày lên đến cả vạn người. Bắc Văn Lang vì thế dân số tăng lên nhanh chóng không sao đếm xuể. Thậm Chí các Châu Quận, Huyện, không còn kiểm soát được nữa. Đành để cho dân chúng Phương Bắc tràn qua di cư sống vô gia cư khắp trên Bắc Văn Lang.

Nước Tề đến thời Tề Hoàng Công Phong Kiến Thần Giáo vô cùng hưng thịnh. Phương Bắc tranh bá khóc liệt hơn nữa. Tề Hoàng Công nhờ có các bậc Triều Thần tài giỏi không những thu phục các nước mà còn biết trọng dụng nhân tài. Mộng bành trướng xưng hùng xưng bá lúc nào cũng trổi dậy mạnh mẻ Tề Hoàng Công nhờ có Thấp Bằng, Cao Hề, Bão Thúc Nha cùng Quảng Trọng bày kế hay, mưu lược giỏi đánh nước Kỷ, nước Lỗ, nước Đàm. Cứu nước Yên, đánh nước Vệ, nước Thái, Nước Sở, Nước Trần. Nước Tấn.

Trải Qua nhiều đời được sự giúp đở con cháu của Vua Vũ. Dòng họ Triệu trở nên hưng thịnh giàu sang trở thành quyền thế trong đó có Triệu Tế Gia. Khi Cha Con Doãn Thường Con Cháu Vua Vũ ra đời như một anh hùng nổi dậy đứng lên chiếm lấy Bắc Văn Lang, cải đổi thành nước Việt Trung Nguyên thời con cháu Họ Triệu làm đến Tướng Soái thống lãnh đại quân Trung Nguyên chống trả lại quân Văn Lang.

Thời hậu Hùng Vương, từ thời thứ 13 hậu Hùng Vương trở xuống đất nước Văn Lang trở thành nội chiến chia cắt Bắc Nam. Bắc Văn Lang đã bị Cha Con Doãn Thường nổi dậy chiếm lấy lập lên đất nước Việt Trung Nguyên.

Với tình thế lúc bấy giờ nước Văn Lang Văn Hóa Cội Nguồn mai một thất truyền biến mất. Nền quốc đạo Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp chân chính không còn. Thay vào đó là niền Phong Kiến Thần Giáo do triều Thần đề xướng giúp Vua. Theo thể chế Độc quyền độc tài độc trị không còn Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp nữa Mà nghe theo Triều Thần. Vua anh minh sáng suốt thời còn khá còn Vua hôn quân vô đạo lại nghe Nịnh Thần. Thời tai hại nước nhà không sao xiết kể.

Có thể nói ở vào giai đoạn từ thời Hùng Việt Vương trở xuống không khác gì nền Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo Phương Bắc Độc Tài, Độc Trị. Dưới thể chế Độc Tài, Độc Trị Phong Kiến Thần Giáo xin cho nầy. Càng làm cho đất nước Văn Lang suy tàn. Tham quan mọc ra như nấm. Chỉ biết vơ vét của dân làm giàu, mua quan bán chức không kẻ gì đến non sông Tổ Quốc. Lòng dân càng ngày càng oán hận.

Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo là Văn Hóa độc hại, Văn Hóa của sự tranh bá tranh hùng mạnh được yếu thua, thắng là vua thua là giặc Văn Hóa Phong Kiến Thần Giáo làm cho đất nước Văn Lang suy yếu dẫn đến chiến tranh loạn lạc không khác gì Phương Bắc. Sự độc hại của Phong Kiến Thần Giáo là mê tín dị đoan, cầu cạnh Thần Linh. Xin Xăm bói quẻ. Lôi kéo lòng người đi theo con đường Tà Giáo. Thổi bùng lòng tham tranh danh đoạt lợi bất chấp mọi thủ đoạn thôn tính tiêu diệt lẫn nhau.

Phong Kiến Thần Giáo khác với Phong Kiến Thánh Giáo là xa con đường Chính nghĩa Công Bằng Bình Đẳng. Không có Hiến Pháp, Luật Pháp, Đạo Pháp Công đạo Chánh Nghĩa chân chính xã hội. Mà chỉ theo thể chế độc tài độc trị. Nước Văn Lang không còn nền Quốc Đạo dân tộc. Có nghĩa là Văn Hóa Cội Nguồn biến mất Tự Do Dân Quyền Văn Minh thời dựng nước không còn.

Với mưu đồ bất chính Cha Con Doãn Thường lúc nào cũng nói làm theo di chí Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng thật ra đó chỉ là lớp vỏ bọc bên ngoài che đậy dã tâm mưu mô xão quyệt của mình. Chân giả, giả chân không ai phân biệt nổi một mối họa của nước Văn Lang đã bùng lên, làm cho dân Văn Lang trở thành nồi da nấu thịt, Bách Việt Văn Lang Đồng Bào tàn sát lẫn nhau.

Cha Con Doãn Thường chỉ cần thực thi kế sách. Chiếm lĩnh Bắc Văn Lang một cách dễ dàng không đổ bao nhiêu giọt máu.Với Bánh Vẽ Dân Chủ Tự Do, Công Bằng Bình Đẳng, những Thần chú khẩu hiệu khôn khéo. Không có gì quý hơn Tự Do. Quý hơn Công Bằng Bình Đẳng, Quyền con người được bảo vệ. Quyền được sống, Quyền Tự Do Quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước của Dân do dân vì dân. Dân chúng Bách Việt nghe mùi mẩn lao vào như những con thiêu thân.

Cha con Doãn Thường còn phù phép những danh từ nghe thật sướng tai, làm cho Bách Việt Bắc Văn Lang chết mê chết mệch. Tất cả là Do Dân. Tất cả là vì Dân. Tất cả là của Dân. Vương, Quan chỉ là công bộc phục vụ cho Dân. Dân là Chủ. Dân có quyền quyết định tất cả. Vì Dân là cái gốc của Nhà Nước. Dân còn là Nhà Nước còn, Dân mất là Nhà Nước mất. Với những câu Thần Chú như thế Dân Chúng chỉ còn biết đi theo nghe theo mà thôi.

Có thể nói Cha Con Doãn Thường đã hiểu được phần nào pháp thuật trị quốc của Quốc Tổ Vua Hùng. Nhưng không có Văn Hóa Cội Nguồn trong tay mà thôi. Cha Con Doãn Thường chỉ nhờ vào những bánh vẽ Dân Chủ, Tự Do, Công Bằng, Bình Đẳng. Nhờ vào những Thần Chú Tất cả là vì dân. Nhà Nước của Dân. Vương Quan chỉ là Công Bộc của Dân. Nhờ Thần Chú hiệu nghiệm nầy Cha Con Doãn Thường thổi một luồn Ma Thuật vào tâm hồn người dân Bách Việt làm cho người dân Bách Việt Bắc Văn Lang chỉ biết cuối đầu tuân theo.

Cha Con Doãn Thường nổi lên chiếm lấy Bắc Văn Lang lập lên đất nước Trung Nguyên. Nước Văn Lang liền bị chia cắt Bắc Nam. Hùng Việt Vương : Tuân Lang đời thứ 13 Hạ Hùng Vương khó chiếm lại Bắc Văn Lang. Dẫn đến mất luôn Bắc Văn Lang rơi vào Nhà Chu Phương Bắc thời Chu Nguyên Vương. Chu Nguyên Vương nhà Chu phong cho Câu Tiễn làm Bá Chủ ở Phương Đông. Câu Tiễn cuối đầu vân mệnh Bắc Văn Lang rơi vào Phương Bắc từ đó.

Thời Kinh Dương Vương khai khẩn ra đất Giao Chỉ. Lớn nhỏ dọc theo chín con sông. Giết chết không biết bao là Thuồng Luồng khai sanh ra Nước Xích Quỷ. Trải qua được chín đời. Đến đời thứ mười thời chuyển qua niên đại Hùng Vương. Nước Xích Quỷ mở rộng về Phương Nam. Trở thành Nước Văn Lang. Nước Xích Quỷ trở thành Bắc Văn Lang. QUỐC TỔ HÙNG VƯƠNG KHAI SANH RA NƯỚC VĂN LANG 2959 trước công nguyên. Nối truyền được 40 đời. Cọng thêm đời Quốc Tổ dựng nước là 41 đời. 23 đời Thượng Hùng Vương. 18 đời Hạ Hùng Vương. Đến thời Hạ Hùng Vương thứ 13, HÙNG VIỆT VƯƠNG, TUÂN LANG 569 đến 506 trước công nguyên.

Vào thời điểm 545 trước công nguyên. Cha Con Doãn Thường nổi lên cướp lấy Bắc Văn Lang. Biến Bắc Văn Lang thành Trung Thổ Trung Nguyên. Xưng Vương ở giữa. Bắc Văn Lang từ đó dần dần biến mất. Những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa đi. Thay thế vào đó những di tích Văn Hóa mới. Văn Hóa Trung Nguyên Trung Thổ. Thậm chí cả tên núi non, đất đai, sông, hồ, cũng cải đổi thành tên mới. Ở vào thời Kinh Dương Vương. Thời Sông Trường Giang Chính Là Sông Dương Tử. Chi nhánh ngược lên phía Bắc của sông Dương Tử là Sông Trường. Khi sông Dương Tử chuyển thành sông Trường Giang. Thời chi nhánh phía Bắc sông Trường Giang, không còn gọi là Sông Trường mà gọi là Sông Hán. Sông Kinh, Sông Âu, Sông Lạc đều ở Bắc Văn Lang phía nam sông Trường Giang.

Nói tóm lại: Phương Bắc xâm chiếm đất Văn Lang tới đâu thời những di tích Văn Hóa Văn Lang bị xóa sạch. Thay vào đó là những Văn Hóa mới theo của Phương Bắc. Nên sử sách Trung Quốc không ghi chép nguồn gốc nước Văn Lang. Đây là một âm mưu lớn lâu dài Phương Bắc hầu nuốt trọn nước Văn Lang.

**************


Hung Kings Hong Bang Dynasty 2879–258 BC

Chinese Xia Dynasty 2070–1600 BC.

- Chinese Xia they are descendants of the Lac Hong of the Hung Kings Hong Bang dynasty.

- The Vietnamese language and the Chinese language are different - the Vietic language Austro-Asiatic language while Chinese belong to the Sino-Tibetan language.

- Countless rebellions and uprisings of the Vietnamese

- if at that time, the Vietnamese considered themselves as the Chinese Han, Why the Chinese states and rulers must try to erase the Vietnamese culture and customs, assimilate the Vietnamese people?

- Vietnam also has learned much from the western civilization but they have never seen themselves as the westerners.

Đã không chinh phạt tổng binh quan An Nam thành quốc công Chu Năng và các nhật sư nhập an nam hạ quận ấp phàm là văn tịch đồ chí đều không bị hủy hoại.





====================

 

Cách Mạng Tân Hợi

(Tiếng Bắc Kinh/Quan thoại: 辛亥革命; bính âm: Xīnhài Gémìng) còn được gọi là Cách mạng Trung Quốc hay Cách mạng năm 1911 là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Trung Quốc do những người trí thức cấp tiến ở trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản Trung Quốc lãnh đạo với tuyệt đại đa số là người Hán nhằm lật đổ triều đại Mãn Thanh. Sau cuộc cách mạng, chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại hàng nghìn năm ở Trung Quốc đã kết thúc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do phát triển mạnh mẽ ở đây, có ảnh hưởng nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước Châu Á [2] khác. Cuộc cách mạng này có tên là Cách mạng Tân Hợi (Hsin-hai) vì nó xảy ra năm 1911, năm Tân Hợi (辛亥) theo hệ thống Can Chi âm lịch trong văn hóa Trung Quốc.

Cách mạng gồm nhiều cuộc nổi dậy và khởi nghĩa nối tiếp nhau mà bước ngoặt là cuộc Khởi nghĩa Vũ Xương ngày 10 tháng 10 năm 1911. Cuộc khởi nghĩa này là kết quả của việc đàn áp Phong trào Bảo vệ Đường sắt (保路運動). Cuộc cách mạng kết thúc khi Hoàng đế cuối cùng của Nhà Thanh Phổ Nghi thoái vị, đánh dấu sự kết thúc 2,000 năm tồn tại của các triều đại quân chủ tại đế quốc Trung Hoa và bắt đầu thời kỳ Cộng hòa cho đến nay.[3]

Cuộc cách mạng phát sinh chính yếu là phản ứng đối với sự suy tàn của nhà Thanh mà ở trong mắt người dân Hán tộc đương thời chỉ là quân ngoại tộc đô hộ nước họ và là triều đại do người "man di" thành lập ra, vốn đã tỏ ra "bất lực" trong nỗ lực hiện đại hóa Trung Quốc và chống lại sự xâm lược của các nước phương Tây. Những lực lượng phản Thanh hoạt động bí mật, với sự hỗ trợ từ những nhà cách mạng lưu vong, đã cố gắng lật đổ nhà Thanh. Cuộc nội chiến ngắn sau đó kết thúc thông qua một thỏa hiệp chính trị giữa Viên Thế Khải, trọng thần của triều đình nhà Thanh và Tôn Dật Tiên, lãnh đạo Đồng Minh Hội. Sau khi triều đình nhà Thanh trao quyền lực cho nền Cộng hòa mới thành lập, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập cùng với Quốc dân Đại hội. Tuy nhiên, Viên Thế Khải đã thâu tóm quyền lực chính trị của chính phủ quốc gia mới ở Thủ đô Bắc Kinh và lên ngôi hoàng đế; sau đó là ông buộc phải thoái vị ngay do áp lực bị các thế lực quân phiệt và tuyệt đại đa số nhân dân phản đối lớn. Điều này dẫn đến nhiều thập kỷ tranh giành quyền lực, chủ nghĩa quân phiệt và phục vị bảo hoàng.

Trung Hoa Dân Quốc ở đảo Đài Loan và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ở Trung Quốc đại lục đều tự coi mình như là những người kế thừa hợp pháp từ cuộc Cách mạng Tân Hợi và tôn vinh những lý tưởng của cuộc cách mạng trong đó có chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa cộng hòa, hiện đại hóa Trung Quốc và đoàn kết dân tộc. Ngày 10 tháng 10 được kỷ niệm tại Đài Loan là Ngày Song Thập, ngày quốc khánh của Trung Hoa Dân Quốc. Tại Trung Quốc đại lục, Hồng Kông và Ma Cao (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), ngày này được tổ chức là Lễ kỷ niệm Cách mạng Tân Hợi.

Bối cảnh

Từ Hi Thái hậu (1835–1908), là hiện thân phe bảo thủ trong triều đình nhà Thanh, bà nắm quyền lực triều chính trong vòng 47 năm, và đã ngăn chặn nỗ lực Bách nhật duy tân của vua Quang Tự (1871–1908).

Sau thất bại Bách nhật duy tân năm 1898, cố vấn vua Quang Tự là Khang Hữu Vi (trái, 1858–1927) và Lương Khải Siêu (1873–1929) đã đi lưu vong, trong khi Đàm Tự Đồng (phải, 1865–1898) bị xử tử. Tại Canada, Khang và Lương thành lập Bảo Hoàng Hội (保皇會) để thúc đẩy chế độ quân chủ lập hiến tại Trung Quốc. Năm 1900, hội ủng hộ cuộc nổi dậy ở miền trung Trung Quốc để giải cứu Quang Tự, và sau đó bị chính quyền Bắc Kinh đàn áp. Sau Cách mạng Tân Hợi 1911-1912, Lương trở thành Bộ trưởng Bộ Tư pháp Trung Hoa Dân Quốc. Khang vẫn tiếp tục ủng hộ bảo hoàng và hỗ trợ phục vị hoàng đế Trung Hoa (Đại Thanh) cho Thanh Đế cuối cùng Phổ Nghi năm 1917 trước khi bị lật đổ trở lại bởi sự phản đối gay gắt của các thế lực quân phiệt cùng toàn bộ nhân dân Trung Quốc. Sau thất bại đầu tiên trước phương Tây trong Chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất năm 1842, triều đình nhà Thanh đã nỗ lực ngăn chặn sự xâm phạm của người nước ngoài vào Trung Quốc. Những nỗ lực cải cách và điều chỉnh miễn cưỡng sự quản lý truyền thống đã bị triều đình cực bảo thủ ngăn chặn, vốn không muốn có quá nhiều quyền lực bị thay đổi. Sau thất bại Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, nhà Thanh đã cố gắng hiện đại hóa bằng cách áp dụng một số công nghệ phương Tây thông qua Phong trào Tự cường (洋務運動) từ năm 1861.[4] Trong các cuộc chiến chống Thái Bình Thiên Quốc (1851–64), Niệp (1851–68), Vân Nam (1856–68) và Tây Bắc (1862–77), quân đội đế quốc truyền thống tỏ ra thiếu khả năng và triều đình đã dựa vào quân đội địa phương.[5] Năm 1895, Trung Quốc phải chịu một thất bại khác trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[6] Điều này chứng tỏ rằng xã hội phong kiến ​​truyền thống Trung Quốc cũng cần phải được hiện đại hóa nếu những tiến bộ công nghệ và thương mại thành công.

Năm 1898 vua Quang Tự được các nhà cải cách lúc đó như Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu cho một cuộc cải cách mạnh mẽ trong giáo dục, quân sự và kinh tế theo Bách nhật duy tân.[6] Cuộc cải cách đột ngột bị ngăn chặn bởi phe bảo thủ do Từ Hi Thái hậu lãnh đạo.[7] Vua Quang Tự, là con rối phụ thuộc vào Từ Hi, bị trục xuất khỏi cung và quản thúc tháng 6/1898.[5] Các nhà cải cách Khang và Lương buộc phải sống lưu vong. Khi ở Canada, vào tháng 6 năm 1899, họ đã cố gắng thành lập Bảo Hoàng Hội trong nỗ lực phục vị hoàng đế.[5] Từ Hi Thái hậu là người kiểm soát chính nhà Thanh từ thời điểm này. Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn thúc đẩy Liên quân bát quốc tấn công Bắc Kinh năm 1900 và sự áp đặt các hiệp ước bất bình đẳng, chia cắt hầu hết lãnh thổ, tạo ra các tô giới và đặc quyền thương mại. Dưới áp lực bên trong và bên ngoài, triều đình nhà Thanh bắt đầu áp dụng một số cải cách. Nhà Thanh quản lý để duy trì sự độc tài trong quyền lực chính trị bằng các cuộc đàn áp, thường rất tàn bạo, với tất cả các cuộc nổi loạn trong nước. Những người bất đồng chính kiến ​​chỉ có thể hoạt động trong các đoàn thể bí mật và các tổ chức ngầm, trong các tô giới hoặc lưu vong ở nước ngoài.

Theo suy nghĩ của những người Hán đương thời (tuyệt đại đa số người Trung Quốc), thì nhà Thanh là một chính quyền do ngoại tộc (Mãn Châu) làm chủ từ năm 1644, vừa hèn yếu thối nát, vừa ngăn trở đất nước phát triển theo đường lối tư bản.

I. Tổ chức Cách mạng

A. Giai đoạn đầu

Có nhiều nhà cách mạng và các nhóm muốn lật đổ chính quyền nhà Thanh để tái lập chính quyền do người Hán lãnh đạo. Các tổ chức cách mạng đầu tiên được thành lập bên ngoài Trung Quốc, như Phụ Nhân Văn xã (輔仁文社) do Dương Cù Vân, thành lập tại Hồng Kông năm 1890. Văn xã gồm 15 thành viên, bao gồm Tạ Toản Thái, người đã châm biếm chính trị "Tình hình Viễn Đông", một mạn họa đầu tiên của Trung Quốc, và sau này trở thành một trong những người sáng lập cốt lõi của Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (南華早報).[8]

Tôn Dật Tiên tại Luân Đôn

Tôn Dật Tiên thành lập Hưng Trung Hội (興中會) tại Honolulu năm 1894 với mục đích chính là gây quỹ cho các cuộc cách mạng.[9] Hai tổ chức đã sát nhập năm 1894.[10]

Các nhóm nhỏ

Hoa hưng Hội được thành lập năm 1904 với các nhân vật nổi tiếng như Hoàng Hưng, Chương Sĩ Chiêu, Trần Thiên Hoa và Tống Giáo Nhân, cùng hơn 100 người khác. Hội có khẩu hiệu là "Chiếm cứ một tỉnh, các tỉnh khác hưởng ứng"nhằm đánh đổ Mãn Thanh vốn cướp nước của người Hán từ 1644 đến lúc đó nên mục tiêu là quét sạch phong kiến quân chủ Mãn Châu để đi thành lập 1 nền Cộng hòa dân quốc Trung Hoa cho người Hán (雄踞一省,与各省纷起).[11]

Quang phục Hội (光復會) thành lập năm 1904, tại Thượng Hải, bởi Thái Nguyên Bồi. Các nhân vật nổi tiếng gồm Chương Bỉnh Lân và Đào Thành Chương.[12] Mặc dù tuyên bố phản Thanh, Quang phục Hội rất phê phán Tôn Dật Tiên.[13] Một trong những nhà cách mạng nữ nổi tiếng nhất là Thu Cẩn, người đấu tranh cho quyền của phụ nữ và cũng đến từ Quang phục hội.[13]

Ngoài ra còn có nhiều tổ chức cách mạng nhỏ khác, như Lệ Trí Học hội (勵志學會) tại Giang Tô, Công Cường hội (公強會) tại Tứ Xuyên, Ích Văn hội (益聞會) và Hán tộc Độc lập hội (漢族獨立會) tại Phúc Kiến, Dị Tri xã (易知社) tại Giang Tây, Nhạc Vương hội (岳王會) tại An Huy và Quần Trí hội (群智會/群智社) tại Quảng Châu.[14]

Ngoài ra còn có các tổ chức vũ trang chống Mãn Châu, gồm Thanh bang (青帮) và Hồng môn Trí Công đường (致公堂).[15] Tôn Trung Sơn đã tiếp xúc với Hồng môn, còn được gọi Thiên Địa hội.[16][17]

Ca Lão hội (哥老會) là một tổ chức khác, với Chu Đức, Ngô Ngọc Chương, Lưu Chí Đan và Hạ Long. Đây là nhóm cách mạng cuối cùng phát triển thành đảng Cộng sản.

Tôn Dật Tiên với thành viên Đồng Minh hội

Đồng Minh hội

Tôn Dật Tiên thống nhất thành công Hưng Trung Hội, Hoa hưng Hội và Quang Phục Hội vào mùa hè năm 1905, qua đó thành lập Đồng Minh Hội (同盟會) tháng 8/1905 tại Tokyo.[18] Cương lĩnh của Hội là "Đánh đuổi giặc Thát[19], khôi phục Trung Hoa, lập chính phủ hợp quần". Khi thành lập Đồng Minh hội có 90% thành viên có độ tuổi từ 17 đến 26.[20] Một số tác phẩm trong thời đại bao gồm các ấn phẩm mạn họa, như Thời sự Họa báo (時事畫報).[21]

Theo sử liệu, thì Cách mạng Tân Hợi thành công không phải ngẫu nhiên, mà là kết quả của cuộc vận động cách mạng lâu dài và các cuộc nổi dậy trước đó, mà công đầu là Đồng Minh hội do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý.

Trước Cách mạng Tân Hợi

Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì trước khi Cách mạng Tân Hợi nổ ra, Tôn Dật Tiên và đảng cách mạng của ông đã tổ chức 10 cuộc khởi nghĩa chống Thanh nhưng đều bị thất bại. Điểm lược một vài vụ nổi bật:

Năm 1895, nhân lúc nhân dân cả nước căm giận nhà Thanh ký hiệp ước Mã Quan với Nhật Bản, ngày 26 tháng 10, Tôn Dật Tiên định tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu. Nhưng kế hoạch bị lộ, các đồng chí của ông bị giam và bị giết hơn 70 người, ông phải trốn sang Nhật Bản, rồi qua Honolulu. Đây là cuộc khởi nghĩa lần đầu của ông[22].

Tháng 11 năm 1899, phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ, Tôn Dật Tiên cùng với các đồng chí chạy thoát vội trở về nước, tổ chức khởi nghĩa ở Quảng Châu lần thứ hai. Ông cử Trịnh Sĩ Lương đi đánh Huệ Châu (Quảng Đông), Sử Kiên Như đi ném tạc đạn giết Tổng đốc Đức Thọ. Nhưng cả hai việc đều thất bại. Sử Kiên Như tuẫn nạn và nhiều chiến sĩ cách mạng khác lại bị bắt giam và bị giết.

Ngày 18 tháng 9 năm 1905 tại Tokyo (Nhật Bản), Tôn Dật Tiên cùng Hoàng Hưng chủ trì việc hợp nhất Hưng Trung Hội với hai tổ chức cách mạng khác là Quang Phục hội và Hoa Trung hội. Kể từ đây, đảng vừa hợp nhất có tên là Trung Quốc Đồng Minh hội (gọi tắt là Đồng Minh hội), do Tôn Dật Tiên làm Tổng lý[23]. Năm 1906, hai hội viên của Đồng Minh hội là Lưu Đạo Nhất và Thái Thiệu Nam tổ chức khởi nghĩa ở ba nơi là Bình Hương (Giang Tây), Trương Lăng [24] và Lưu Dương (Hồ Nam), nhưng tất cả đều thất bại.

Mùa thu năm 1907, Đồng Minh hội tổ chức khởi nghĩa ở Khâm Châu thuộc Quảng Đông (nay thuộc Quảng Tây). Chiếm được Phòng Thành, nhưng vì không có tiếp tế, phải rút vào Thập Vạn Đại Sơn[25]. Đến mùa đông năm ấy, quân cách mạng đánh chiếm Trấn Nam Quan[26], Khâm Châu, Liêm Châu (nay tên là Hợp Phố thuộc Quảng Tây), Thượng Tư (Quảng Tây), nhưng rồi cùng vì không có tiếp tế nên phải rút đi.

Năm 1908, quân cách mạng cùng dân địa phương khởi nghĩa ở Hà Khẩu (Vân Nam). Sau khi đánh thắng một trận lớn, quân và dân cùng tiến lên uy hiếp Mông Tự, nhưng rồi cũng phải rút đi vì không có tiếp tế. Mùa thu năm ấy, chi bộ Đồng Minh hội thành lập ở Hương Cảng (Hồng Kông). Năm 1910, tổ chức này cho người vận động lực lượng tân binh ở Quảng Đông nổi dậy, nhưng bị đàn áp ngay.

Tháng 4 năm 1911, Đồng Minh hội chọn 500 cảm tử quân, hợp với quân địa phương, đánh vào dinh Tổng đốc Quảng Châu. Cuộc đột kích này do Hoàng Hưng và Triệu Thanh chỉ huy, nổ ra ngày 27 tháng 4 năm 1911 (tức ngày 29 tháng 3 năm Tân Hợi). Tuy nhiên, do quân cảm tử và khí giới không đến cùng một lượt, và còn do bị lộ, nên số quân đánh vào dinh Tổng đốc phải tuẫn nạn nhiều. Sau tìm được 72 thi hài đem hợp táng tại Hoàng Hoa Cương ở Quảng Châu, và được người đời gọi là Thất thập nhị liệt sĩ [27]. Đây là lần khởi nghĩa thứ 10 do Đồng Minh hội tổ chức, trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa tự phát ở Vũ Xương.

Cũng trong khoảng thời gian này, việc nhà Thanh trao quyền kinh doanh đường sắt Việt-Hán và Xuyên Hán cho Mỹ đã gây thêm một làn sóng căm phẫn trong nhân dân Trung Quốc. Khắp nơi, nổi lên phong trào đòi tẩy chay hàng Mỹ, đòi chính phủ xóa bỏ điều ước đã ký với Mỹ. Thấy người dân chống đối quá, Mỹ đồng ý xóa điều ước với điều kiện Thanh đình phải bồi thường 6. 750.000 đô la. Vừa sợ đế quốc, vừa sợ nhân dân, Thanh đình sai Tổng đốc Lưỡng Hồ là Trương Chi Động vay tiền của Anh để bồi thường cho Mỹ.

Đến ngày 9 tháng 5 năm 1911, Thanh đình ra sắc lệnh "Quốc hữu hóa đường sắt" nhưng thực chất là trao quyền kinh doanh cho bốn nước là Anh, Mỹ, Pháp và Đức. Lập tức lần lượt ở Hồ Nam, Hồ Bắc, Quảng Châu, Tứ Xuyên... nhân dân nổi lên chống đối vì họ cho rằng Thanh đình đã bán rẻ quyền lợi dân tộc. Thanh đình bèn ra lệnh trấn áp phong trào quyết liệt, cấm báo chí đưa tin, cấm bãi thị, bãi khóa, diễn thuyết và cho giải tán các hội đồng bảo vệ đường sắt...Tuy nhiên, bất chấp lệnh trên, bất chấp cả những lời lẽ can ngăn của phái quân chủ "lập hiến", phong trào chống đối vẫn lên cao, nhất là ở Tứ Xuyên[28].

Ngày 7 tháng 9 năm 1911, Tổng đốc Tứ Xuyên là Triệu Nhĩ Phong phái người đến mời các thủ lĩnh trong hội bảo vệ đường sắt đến dinh thương lượng, nhưng sau đó cho lính bắt tất cả. Thấy điều bạo ngược, hàng vạn người dân Thành Đô (tỉnh lỵ của tỉnh Tứ Xuyên) kéo đến dinh Tổng đốc đòi thả người, nhưng bị Triệu Nhĩ Phong ra lệnh nổ súng làm chết 32 người và làm bị thương nhiều người khác. Căm phẫn tột độ, phong trào bãi khóa, bãi thị lan rộng ra toàn tỉnh Tứ Xuyên, về sau phát triển mạnh thành cuộc khởi nghĩa Thành Đô, buộc triều Thanh phải đem quân từ Hồ Bắc về trấn áp.

Tổ chức khác

Tháng 2/1906 Nhật Tri hội (日知會) cũng gồm nhiều nhà cách mạng, như Tôn Vũ (孫武), Trương Hán Kiệt, Hà Quý Đạt và Chu Tử Long.[29][30] Những người tham gia hội sau đó trở thành nòng cốt thành lập Đồng Minh hội tại Hồ Bắc.

Trong tháng 7/1907 một số thành viên của Đồng Minh hội ở Tokyo đã ủng hộ một cuộc cách mạng ở khu vực sông Dương Tử. Lưu Quỹ Nhất (劉揆一), Tiêu Đạt Phong (焦達峰), Trương Bá Tường (張伯祥) và Tôn Vũ (孫武) thành lập Cộng Tiến hội (共進會).[31][32] Trong tháng 1/1911, tổ chức cách mạng Chấn Vũ học xã (振武學社) đổi tên thành Văn học xã (文學社).[33] Tưởng Dực Võ (蔣翊武) được chọn làm lãnh đạo.[34] Hai tổ chức này sau đó đóng góp vai trò quan trọng trong Cách mạng Vũ Xương.

Nhiều nhà cách mạng trẻ đã thông qua chương trình cấp tiến vô chính phủ. Tại Tokyo Lưu Sư Bồi (劉師培) đề xuất lật đổ chính quyền người Mãn và quay lại giá trị chính thống Trung Quốc. Tại Paris Lưu Sư Bồi, Ngô Trĩ Huy và Trương Nhân Kiệt tán thành với Tôn Vũ về sự cần thiết cách mạng và gia nhập Đồng Minh hội, nhưng lập luận rằng một sự thay thế chính trị của một chính phủ bằng một chính phủ khác sẽ không tiến bộ;cách mạng trong gia đình, giới tính và xã hội sẽ loại bỏ giá trị của chính quyền và sự áp bức. Trương Kế một người vô chính phủ cho rằng phương tiện cách mạng là bảo vệ ám sát và khủng bố, nhưng những người khác khẳng định rằng chỉ có giáo dục là chính đáng. Những người vô chính phủ quan trọng bao gồm Thái Nguyên Bồi, Uông Tinh Vệ và Trương Nhân Kiệt, là những người hỗ trợ tài chính cho Tôn Vũ. Nhiều người trong số những người vô chính phủ này sau đó sẽ đảm nhận các vị trí cao trong Quốc Dân Đảng (KMT).[35]

Tầm nhìn

Nhiều nhà cách mạng đẩy mạnh quan điểm phản Thanh/chống-Mãn và nhắc lại truyền thống lịch sử những cuộc chiến chống Mãn Châu với người Hán trong thời nhà Minh (1368–1644). Chủ đạo giới trí thức bị ảnh hưởng bởi những cuốn sách có từ thời cuối nhà Minh, triều đại cuối cùng của người Hán. Năm 1904, Tôn Dật Tiên tuyên bố mục tiêu tổ chức là "đánh đuổi giặc Thát, khôi phục Trung Hoa, thành lập Dân quốc, bình đẳng ruộng đất." (驅除韃虜, 恢復中華, 創立民國, 平均地權).[18] Nhiều tổ chức ngầm thúc đẩy ý tưởng "Phản Thanh phục Minh" (反清復明) đã có từ những ngày Thái bình Thiên quốc.[36] Những người khác như Chương Bỉnh Lân, hỗ trợ con đường "hưng Hán diệt Hồ" (興漢滅胡) và "chủ nghĩa bài Mãn" (排滿主義).[37]

Giai cấp và tổ chức

Cuộc cách mạng Tân Hợi được nhiều nhóm ủng hộ, bao gồm cả sinh viên và trí thức từ nước ngoài trở về, cũng như những người tham gia các tổ chức cách mạng, ở hải ngoại, binh lính của Tân quân, quý tộc địa phương, nông dân và những người khác. Hải ngoại

Hỗ trợ từ Hoa kiều trong Cách mạng Tân Hợi là hết sức quan trọng. Năm 1894, Hưng Trung hội tổ chức cuộc họp tại nhà của một Hoa kiều.[38] Hoa kiều tham gia hỗ trợ và tích cực tài trợ cho các hoạt động cách mạng, đặc biệt là người Hoa ở Đông Nam Á đặc biệt ở Malaya.[39] Nhiều nhóm sau được Tôn Dật Tiên tổ chức lại, người được gọi "cha đẻ Cách mạng Trung Quốc".[39]

Trí thức mới xuất hiện

Năm 1906, sau khi bãi bỏ chế độ khoa cử phong kiến, chính quyền nhà Thanh cho thành lập nhiều trường học mới và khuyến khích sinh viên đi du học. Nhiều thanh niên đã theo học các trường mới thành lập hoặc đi du học ở nước ngoài như Nhật Bản.[40] Một lớp trí thức mới xuất hiện từ những học sinh đó, những người đã đóng góp rất nhiều cho Cách mạng Tân Hợi. Bên cạnh Tôn Trung Sơn, các nhân vật chủ chốt trong cuộc cách mạng như Hoàng Hưng, Tống Giáo Nhân, Hồ Hán Dân, Liệu Trọng Khải, Chu Chấp Tín và Uông Tinh Vệ, tất cả đều là du học sinh ở Nhật Bản. Một số trí thức trẻ như Trâu Dung, được biết tới là người viết Cách mạng quân, trong đó ông nói về sự hủy diệt của Mãn Châu trong 260 năm bị áp bức, đau khổ, tàn ác, chuyên chế và biến con cháu Hoàng đế trở thành George Washington.[41]

Trước năm 1908, các nhà cách mạng tập trung vào việc sắp xếp các tổ chức để chuẩn bị cho các cuộc nổi dậy mà các tổ chức sẽ phát động; do đó, các tổ chức sẽ được cung cấp hầu hết nhân lực cần thiết cho việc lật đổ nhà Thanh. Sau Cách mạng Tân Hợi, Tôn Trung Sơn nhớ lại những ngày tuyển dụng hỗ trợ cho cách mạng và nói: "Các nhà văn chuyên tâm vào việc tìm kiếm danh vọng và lợi nhuận, vì vậy họ chỉ được coi là thứ yếu. Ngược lại, các tổ chức như Thiên Địa hội đã có thể gieo rắc rộng rãi những ý tưởng phản Thanh phục Minh."[42]

Thượng lưu và tư sản

Hòa Thạc Khánh Thân vương với các thành viên trong nội các hoàng gia Quyền lực giới thượng lưu ở địa phương trở nên rõ ràng. Từ tháng 12 năm 1908, chính quyền nhà Thanh đã tạo ra một số bộ máy cho phép các thượng lưu và tư sản tham gia chính trị. Những người trung lưu này ban đầu là những người ủng hộ chủ nghĩa hợp hiến. Tuy nhiên, họ trở nên bất mãn khi chính quyền nhà Thanh tạo ra nội các do Hòa Thạc Khánh Thân vương làm Tổng lý.[43] Đến năm 1911, nội các thí điểm gồm 13 thành viên, trong đó có chín người Mãn được lựa chọn từ hoàng gia.[44]

Người ngoại quốc

Bên cạnh người Trung Quốc và Hoa kiều, một số người cũng ủng hộ và tham gia Cách mạng Tân Hợi là người nước ngoài; Trong số đó, người Nhật là nhóm tích cực nhất. Một số người Nhật thậm chí đã trở thành thành viên của Đồng Minh hội. Miyazaki Touten là người Nhật hỗ trợ thân thiết nhất; một số khác như Heiyama Shu, Ryōhei Uchida. Homer Lea một người Mỹ, người trở thành cố vấn nước ngoài thân thiết của Tôn Trung Sơn vào năm 1910, đã ủng hộ tham vọng quân sự của Tôn Trung Sơn.[45] Lính Anh Rowland J. Mulkern cũng tham gia cách mạng.[46] Một số người nước ngoài, như nhà thám hiểm người Anh Arthur de Carle Sowerby, đã dẫn đầu các cuộc thám hiểm để giải cứu các nhà truyền giáo nước ngoài vào năm 1911 và 1912.[47]

Viên Thế Khải (1859–1916)

Viên vươn lên nắm quyền ở miền bắc Trung Quốc và xây dựng quân đội Bắc Dương. Tổ chức cánh cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Nhật Hắc Long hội (黑龍會) cũng hỗ trợ các hoạt động của Tôn Trung Sơn chống lại Mãn Châu, họ tin rằng việc lật đổ nhà Thanh sẽ giúp người Nhật chiếm lấy vùng Mãn Châu và người Hán sẽ không phản đối việc này. Toyama tin rằng người Nhật có thể dễ dàng chiếm Mãn Châu, Tôn Trung Sơn cùng các nhà cách mạng phản Thanh khác sẽ không kháng cự đồng thời giúp người Nhật tiếp quản và mở rộng buôn bán thuốc phiện ở Trung Quốc trong khi nhà Thanh đang cố gắng tiêu diệt buôn bán thuốc phiện. Hắc Long hội ủng hộ nhà cách mạng Tôn Trung Sơn và chống Mãn Châu cho đến khi nhà Thanh sụp đổ.[48] Tổ chức cánh cực hữu theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan Huyền Dương xã (玄洋社) lãnh đạo bởi Tōyama Mitsuru hỗ trợ bài Mãn, phản Thanh bao gồm các hoạt động do Tôn Trung Sơn tổ chức và ủng hộ Nhật Bản tiếp quản Mãn Châu. Đồng Minh hội phản Thanh được thành lập và có trụ sở tại Nhật Bản, nơi tập trung nhiều nhà cách mạng chống Thanh.

Người Nhật đã cố gắng hợp nhất các nhóm chống Mãn được lập ra từ người Hán để đánh bại nhà Thanh. Người Nhật là những người đã giúp Tôn Trung Sơn hợp nhất tất cả các nhóm cách mạng chống Thanh, chống Mãn cùng nhau và có những người Nhật như Tōten Miyazaki trong liên minh cách mạng chống Mãn Châu. Hắc Long hội tổ chức cho Đồng Minh hội cuộc họp đầu tiên.[49] Hắc Long hội có mối quan hệ rất mật thiết với Tôn Trung Sơn và thúc đẩy chủ nghĩa châu Á và Tôn nhiều khi tự biến mình thành người Nhật[50] và họ đã có mối liên hệ với Tôn trong một thời gian dài.[51] Các nhóm Nhật Bản như Hắc Long hội có tác động lớn đến Tôn Trung Sơn.[52] Theo sử gia quân sự Mỹ, sĩ quan quân đội Nhật là một phần của Hắc Long hội. Yakuza và Hắc Long hội đã giúp sắp xếp tại Tokyo để Tôn Trung Sơn tổ chức các cuộc họp đầu tiên, và hy vọng sẽ tràn ngập Trung Quốc bằng thuốc phiện và lật đổ nhà Thanh và đánh lừa người Trung Quốc lật đổ nhà Thanh, thực tế vì lợi ích của Nhật Bản. Sau khi cuộc cách mạng thành công, Hắc Long hội bắt đầu thâm nhập vào Trung Quốc và truyền bá thuốc phiện. Hắc Long hội được Nhật Bản cho tiếp quản Mãn Châu vào năm 1932.[53] Tôn Trung Sơn đã lấy vợ là người Nhật, Kaoru Otsuki.

Binh sĩ Tân quân

Bài chi tiết: Tân quân (nhà Thanh)

Tân quân được thành lập năm 1901 sau khi nhà Thanh thất bại trong Chiến tranh Thanh-Nhật.[40] Được thành lập theo sắc lệnh của Bát kỳ.[40] Tân quân được trang bị và huấn luyện tốt nhất.[40] Tân quân có chất lượng cao hơn so với lực lượng cũ và thúc đẩy dần thành quân đội chính quy.[40] Bắt đầu từ năm 1908, những người cách mạng bắt đầu kêu gọi Tân quân. Tôn Trung Sơn và các nhà cách mạng thâm nhập vào Tân quân.[54]

Khởi nghĩa và biến cố

Trọng tâm của các cuộc nổi dậy hầu hết được kết nối với Đồng Minh hội và Tôn Dật Tiên, bao gồm các tổ chức nhỏ. Ngoài ra một số cuộc nổi dậy cũng dính líu đến các nhón không sát nhập với Đồng Minh hội. Tôn Dật Tiên tham gia lãnh đạo khoảng 8–10 cuộc nổi dậy; tất cả đều thất bại cho đến khi nổ ra khởi nghĩa Vũ Xương.

Cờ khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ nhất

Khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ nhất

Mùa xuân năm 1895, Hưng Trung hội có trụ sở tại Hồng Kông, đã lên kế hoạch cho cuộc khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ nhất (廣州起義). Lục Hạo Đông được giao nhiệm vụ thiết kế Cờ Thanh Thiên Bạch Nhật.[39] Ngày 26/10/1895, Dương Cù Vân, Tôn Dật Tiên lãnh đạo Trịnh Sĩ Lương và Lục Hạo Đông tới Quảng Châu, chuẩn bị đánh chiếm Quảng Châu bằng một cuộc đình công. Tuy nhiên, các chi tiết về kế hoạch đã bị rò rỉ tới chính quyền nhà Thanh.[55] Chính quyền bắt đầu bắt giữ những nhà cách mạng, bao gồm Lục Hạo Đông, người sau đó đã bị xử tử.[55] Cuộc nổi dậy Quảng Châu thứ nhất thất bại. Dưới áp lực của chính quyền nhà Thanh, chính phủ Hồng Kông đã cấm Tôn và Dương vào lãnh thổ trong 5 năm. Tôn Trung Sơn đi lưu vong, xúc tiến cách mạng Trung Quốc và gây quỹ ở Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada và Anh. Năm 1901, sau cuộc nổi dậy Huệ Châu, Dương Cù Vân bị ám sát bởi các đặc vụ nhà Thanh ở Hồng Kông.[56] Sau khi ông qua đời, gia đình ông đã bảo vệ danh tính của ông bằng cách không ghi tên ông lên ngôi mộ của mình, chỉ là một số: 6348.[56]

Khởi nghĩa quân Độc lập

Năm 1901, sau khi Phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bắt đầu, Đường Tài Thường (唐才常) và Đàm Tự Đồng của tổ chức Bất triền túc hội (不缠足会) đã tổ chức quân đội Độc lập. Khởi nghĩa quân Độc lập (自立軍起義) đã được lên kế hoạch xảy ra vào ngày 23/8/1900.[57] Mục tiêu của họ là lật đổ Thái hậu Từ Hi để thiết lập một chế độ quân chủ lập hiến dưới thời Hoàng đế Quang Tự. Âm mưu đã bị phát hiện bởi các tướng lĩnh tại Hồ Nam và Hồ Bắc. Có khoảng 20 người bị bắt và hành quyết.[57]

Khởi nghĩa Huệ Châu

Ngày 8/10/1900, Tôn Dật Tiên đã phát động cuộc khởi nghĩa Huệ Châu (惠州起義).[58] Quân đội cách mạng được lãnh đạo bởi Trịnh Sĩ Lương và ban đầu bao gồm 20,000 người, đã chiến đấu trong nửa tháng. Tuy nhiên, sau khi Thủ tướng Nhật Itō Hirobumi cấm Tôn Trung Sơn thực hiện các hoạt động cách mạng ở Đài Loan, Trịnh Sĩ Lương không còn cách nào khác là phải ra lệnh cho quân đội giải tán. Cuộc nổi dậy này do đó cũng thất bại. Lính Anh Rowland J. Mulkern tham gia khởi nghĩa này.[46]

Trương Chi Động
Lý Hồng Chương
Hai trọng thần của nhà Thanh lúc bấy giờ
Khởi nghĩa Đại Minh

Một cuộc nổi dậy rất ngắn đã xảy ra từ ngày 25 đến 28 tháng 1 năm 1903, để thành lập "Đại Minh Thuận Thiên quốc" (大明順天國).[59] Việc này liên quan đến Tạ Toản Thái, Lý Kỷ Đường (李紀堂), Lương Mộ Quang (梁慕光) và Hồng Toàn Phúc (洪全福), những người trước đây đã tham gia vào khởi nghĩa Kim Điền trong thời kỳ Thái bình Thiên quốc.[60]

Khởi nghĩa Bình Lưu Lễ

Mã Phúc Ích (馬福益) và Hoa hưng Hội đã tham gia vào một cuộc nổi dậy trong ba khu vực Bình Hương, Lưu Dương và Lễ Lăng, còn gọi là "Khởi nghĩa Bình Lưu Lễ", (萍瀏醴起義) năm 1905.[61] Sau cuộc nổi dậy thất bại, Mã Phúc Ích bị xử tử.[61]

Ám sát tại nhà ga Đông Chính Dương môn Bắc Kinh

Ngô Việt (吳樾) thành viên Quang Phục hội đã thực hiện một vụ ám sát tại nhà ga đường sắt phía đông Chính Dương Môn (正陽門車站) trong một cuộc tấn công vào năm quan chức nhà Thanh vào ngày 24 tháng 9 năm 1905.[13][62]

Khởi nghĩa Hoàng Cương

Khởi nghĩa Hoàng Cương (黃岡起義) nổ ra vào ngày 22 tháng 5 năm 1907, tại Triều Châu.[63] Nhóm cách mạng, cùng với Hứa Tuyết Thu (許雪秋), Trần Dũng Ba (陳湧波) và Dư Thông Thực (余通實), đã phát động nổi dậy và chiếm được thành phố Hoàng Cương.[63] Những người Nhật khác theo dõi bao gồm Kayano Nagachika và Ike Kōkichi.[63] Sau khi cuộc nổi dậy bắt đầu, chính quyền nhà Thanh nhanh chóng đàn áp mạnh mẽ. Khoảng 200 nhà cách mạng đã bị giết.[64]

Khởi nghĩa Hồ Thất Nữ Huệ Châu

Cùng năm đó, Tôn Trung Sơn đã phái thêm nhiều nhà cách mạng đến Huệ Châu phát động "Khởi nghĩa Hồ Thất Nữ Huệ Châu" (惠州七女湖起義).[65] Vào ngày 2 tháng 6, Đặng Tử Du (鄧子瑜) và Trần Thuần (陳純) tập hợp những người ủng hộ, và đồng thời, bắt giữ quân Thanh ở hồ, cách Huệ Châu 20 km (12 mi).[66] Họ đã giết một số binh lính nhà Thanh và tấn công Thái Vĩ (泰尾) ngày 5/6.[66] Quân đội nhà Thanh chạy trốn trong hỗn loạn, và các nhà cách mạng đã khai thác cơ hội, chiếm được một số thị trấn. Họ đã đánh bại quân Thanh một lần nữa ở Bát Tử Da. Nhiều tổ chức lên tiếng ủng hộ sau cuộc nổi dậy, và số lượng lực lượng cách mạng tăng lên hai trăm người ở đỉnh cao. Tuy nhiên, cuộc cách mạng cuối cùng đã thất bại.

Khởi nghĩa An Khánh

Bức tượng tôn vinh nhà cách mạng Thu Cẩn

Ngày 6/7/1907, Từ Tích Lân Quang Phục hội lãnh đạo khởi nghĩa An Khánh, An Huy, còn được gọi là Khởi nghĩa An Khánh (安慶起義).[33] Từ Tích Lân khi ấy là giám đốc học viện tuần cảnh An Huy. Ông lãnh đạo một cuộc nổi dậy và ám sát tỉnh trưởng An Huy, Ân Minh (恩銘).[67] Đã bị đánh bại sau bốn giờ chiến đấu. Từ bị bắt và các vệ sĩ của Ân Minh đã cắt tim và gan của ông và ăn chúng.[67] Chị ông là Thu Cẩn cũng bị bắt và hành quyết mấy hôm sau.[67]

Khởi nghĩa Khâm Châu

Từ tháng 8 tới tháng 9 năm 1907, đã diễn ra Khởi nghĩa Phòng thành Khâm Châu (欽州防城起義),[68] để phản đối việc đánh thuế nặng nề từ chính phủ. Tôn Dật Tiên đã phái Vương Hòa Thuận (王和順) đến đó để hỗ trợ quân đội cách mạng và chiếm được thành phố vào tháng Chín.[69] Sau đó, họ đã cố gắng bao vây và chiếm giữ Khâm Châu, nhưng không thành công. Cuối cùng họ rút lui đến khu vực của Thập Vạn Đại sơn, trong khi Vương trở về Việt Nam

Khởi nghĩa Trấn Nam quan

Ngày 1/10/1907, Khởi nghĩa Trấn Nam quan (鎮南關起事) diễn ra tại Trấn Nam quan, một phần biên giới Việt Trung. Tôn Dật Tiên cử Hoàng Minh Đường (黃明堂) để theo dõi đường đèo, được bảo vệ bởi một pháo đài.[69] Với sự hỗ trợ của những người ủng hộ trong số những người bảo vệ pháo đài, những người cách mạng đã chiếm được tháp pháo ở Trấn Nam quan. Tôn Dật Tiên, Hoàng Hưng và Hồ Hán Dân đã đích thân đến tháp để chỉ huy trận chiến.[70] Chính quyền nhà Thanh phái quân đội do Long Tế Quang và Lục Vinh Đình lãnh đạo để phản công, và các nhà cách mạng buộc phải rút lui vào vùng núi. Sau thất bại của cuộc nổi dậy này, Tôn buộc phải chuyển đến Singapore do quan điểm chống Tôn trong các nhóm cách mạng.[71] Ông không trở về đại lục cho đến sau cuộc khởi nghĩa Vũ Xương.

Khởi nghĩa Khâm Liêm

Ngày 27/3/1908, Hoàng Hưng đã phát động một cuộc tấn công, sau này được gọi là Khởi nghĩa Thượng tứ Khâm Liêm (欽廉上思起義), từ các căn cứ tại Việt Nam và tấn công các thành phố Khâm Châu và Liêm Châu ở Quảng Đông. Cuộc đấu tranh tiếp tục trong mười bốn ngày nhưng đã buộc phải chấm dứt sau khi các nhà cách mạng hết nguồn cung.[72]

Khởi nghĩa Hà Khẩu

Trong tháng 4/1908, một cuộc nổi dậy khác đã được phát động tại Vân Nam, Hà Khẩu, được gọi là Khởi nghĩa Hà Khẩu Vân Nam (雲南河口起義). Hoàng Minh Đường (黃明堂) đã dẫn hai trăm người từ Việt Nam và tấn công Hà Khẩu vào ngày 30 tháng Tư. Những nhà cách mạng khác tham gia bao gồm Vương Hòa Thuận (王和順) và Quan Nhân Phủ (關仁甫). Tuy nhiên, họ đã áp đảo và bị đánh bại bởi quân đội chính phủ, và cuộc nổi dậy đã thất bại.[73]

Khởi nghĩa Mã Pháo Doanh

Ngày 19/11/1908, Khởi nghĩa Mã Pháo Doanh (馬炮營起義) đã được phát động bởi nhóm cách mạng Nhạc Vương hội (岳王會) thành viên Hùng Thành Cơ (熊成基) tại An Huy.[74] Nhạc Vương hội, tại thời điểm này, là một tập hợp của Đồng Minh hội. Cuộc nổi dậy này cũng thất bại.

Khởi nghĩa Tân quân Canh Tuất

Tháng 2/1910, đã diễn ra Khởi nghĩa Tân quân Canh Tuất (庚戌新軍起義), còn được gọi là Khởi nghĩa Tân quân Quảng Châu (廣州新軍起義).[75] Sự việc liên quan đến cuộc xung đột giữa người dân và cảnh sát địa phương chống lại Tân quân. Sau khi nhà lãnh đạo cách mạng Nghê Ánh Điển bị quân Thanh giết, những người cách mạng còn lại nhanh chóng bị đánh bại, khiến cuộc nổi dậy thất bại.

Khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ hai

Bài chi tiết: Khởi nghĩa Quảng Châu lần thứ hai

Đài tưởng niệm Thất thập nhị liệt sĩ

Ngày 27/4/1911, đã diễn ra cuộc khởi nghĩa tại Quảng Châu, còn được biết là Khởi nghĩa Quảng Châu Tân Hợi (辛亥廣州起義) hoặc Khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương (黃花岡之役). Khởi nghĩa đã kết thúc trong thảm sát, khi 86 thi thể được tìm thấy (chỉ 72 người có thể được xác định).[76] 72 nhà cách mạng được tưởng nhớ là liệt sĩ.[76] Nhà cách mạng Lâm Giác Dân (林覺民) một trong 72 liệt sĩ. Vào đêm trước của trận chiến, ông đã viết huyền thoại "Thư từ biệt vợ" (與妻訣別書), sau này được coi là một kiệt tác trong văn học Trung Quốc.[77][78]

Khởi nghĩa Vũ Xương

Cờ 18 sao Thiết Huyết trong khởi nghĩa Vũ Xương

Bản đồ cuộc khởi nghĩa

Bài chi tiết: Khởi nghĩa Vũ Xương và Trận chiến Dương Hạ

Văn Học xã (文學社) và Cộng Tiến hội (共進會) là các tổ chức cách mạng tham gia vào cuộc nổi dậy mà chủ yếu bắt đầu bằng một cuộc biểu tình của Phong trào bảo vệ đường sắt.[32] Vào cuối mùa hè, một số đơn vị Tân quân Hồ Bắc được lệnh tới Tứ Xuyên để dập tắt phong trào bảo vệ đường sắt, một cuộc biểu tình hàng loạt chống lại bắt giữ và bàn giao đường sắt địa phương cho các cường quốc nước ngoài của chính phủ nhà Thanh.[79] Tướng Bát kỳ là Đoan Phương, người giám sát đường sắt,[80] và Triệu Nhĩ Phong lãnh đạo Tân quân chống lại phong trào bảo vệ Đường sắt.

Lực lượng Tân quân Hồ Bắc có nguồn gốc từ quân đội truyền thống Hồ Bắc, được huấn luyện bởi Trương Chi Động.[3] Vào ngày 24 tháng 9, Văn Học xã và Cộng Tiến hội đã triệu tập một hội nghị tại Vũ Xương, cùng với sáu mươi đại diện từ các đơn vị Tân quân ở địa phương. Trong hội nghị, họ đã thành lập căn cứ cho cuộc nổi dậy. Lãnh đạo của hai tổ chức là Tưởng Dực Võ (蔣翊武) và Tôn Vũ (孫武), được bầu làm tư lệnh và tham mưu trưởng. Ban đầu, ngày khởi nghĩa là ngày 6 tháng 10 năm 1911.[81] Vị hoãn lại đến một vài ngày sau đó do chưa chuẩn bị đầy đủ.

Những người cách mạng có ý định lật đổ triều đại nhà Thanh đã chế tạo bom và vào ngày 9 tháng 10 một chiếc đã vô tình phát nổ.[81] Tôn Dật Tiên không tham gia trực tiếp vào cuộc khởi nghĩa do đang di chuyển đến Mỹ vào thời điểm đó trong nỗ lực tìm thêm sự hỗ trợ từ những người Hoa kiều. Tổng đốc Hồ Quảng, Thụy Trừng (瑞澂), đã cố gắng truy tìm và bắt giữ những người cách mạng.[82] Tiểu đội trưởng Hùng Bỉnh Khôn (熊秉坤) và những người khác quyết định không trì hoãn cuộc nổi dậy nữa và phát động cuộc nổi dậy vào ngày 10 tháng 10 năm 1911, lúc 7 giờ tối.[82] Cuộc nổi dậy đã thành công; toàn bộ thành phố Vũ Xương đã bị những người cách mạng chiếm giữ vào sáng ngày 11 tháng 10. Tối hôm đó, họ đã thành lập một căn cứ chiến lược và tuyên bố thành lập "Phủ Đô đốc quân Hồ Bắc Chính phủ quân Trung Hoa Dân Quốc" (中華民國軍政府鄂軍都督府).[82] Hội nghị chọn Lê Nguyên Hồng làm lãnh đạo chính quyền lâm thời.[82] Đoan Phương và Triệu Nhĩ Phong bị giết bởi quân cách mạng.

Khởi nghĩa ở các tỉnh

Bản đồ các cuộc khởi nghĩa trong Cách mạng Tân Hợi

Sau thành công của cuộc nổi dậy Vũ Xương, nhiều cuộc biểu tình khác đã xảy ra trên khắp đất nước vì nhiều lý do. Một số cuộc nổi dậy tuyên bố quang phục (光復) do người Hán cai trị. Các cuộc nổi dậy khác là một bước tiến tới độc lập, và một số là các cuộc biểu tình hoặc nổi loạn chống lại chính quyền địa phương. Bất kể lý do dẫn đến khởi nghĩa là gì nhưng kết quả là tất cả các tỉnh đã từ bỏ nhà Thanh và gia nhập Trung Hoa Dân Quốc.

Quang phục Trường Sa

Bài chi tiết: Trận chiến Trường Sa (1911) Vào ngày 22 tháng 10 năm 1911, Đồng Minh hội Hồ Nam lãnh đạo bởi Tiêu Đạt Dịch (焦達嶧) và Trần Tác Tân (陳作新).[83] Quân cách mạng là nhóm vũ trang, bao gồm một phần của quân cách mạng từ Hồng Giang và một phần là các đơn vị Tân quân đào ngũ, trong một cuộc nổi dậy ở Trường Sa.[83] Quân cách mạng chiếm được thành phố và giết chết lãnh đạo quân địa phương nhà Thanh. Sau đó, tuyên bố thành lập "Phủ Đô đốc quân Hồ Bắc Chính phủ quân Trung Hoa Dân Quốc" (中华民国军政府湖南都督府) và tuyên bố phản Thanh.[83]

Khởi nghĩa Thiểm Tây

Cùng ngày, Đồng Minh hội Thiểm Tây lãnh đạo bởi Cảnh Định Thành (景定成), Tiền Đỉnh (錢鼎) và Tỉnh Vật Mạc (井勿幕) và một số người khác trong Ca Lão hội, đã phát động một cuộc nổi dậy và chiếm giữ Tây An sau hai ngày chiến đấu.[84] Cộng đồng người Hồi theo Hồi giáo (người Hồi Hồi) bị chia rẽ vì ủng hộ cách mạng. Những người Hồi Hồi ở Thiểm Tây đã ủng hộ những người cách mạng và những người Hồi Hồi ở Cam Túc ủng hộ nhà Thanh. người Hồi Hồi bản địa tại Tây An tham gia cùng với quân cách mạng của người Hán trong việc tàn sát người Mãn Châu.[85][86][87] Người Hồi Hồi ở Cam Túc lãnh đạo bởi tướng Mã An Lương chỉ huy hai mươi tiểu đoàn người Hồi Hồi bảo vệ nhà Thanh và tấn công Thiểm Tây, do Trương Phượng Hối (張鳳翽) lãnh đạo.[88] Cuộc tấn công đã thành công và sau khi có tin Phổ Nghi sắp thoái vị, Mã đã đồng ý gia nhập Dân Quốc mới.[88]

Các nhà cách mạng đã thành lập "Chính quyền quân Hán quang phục Cam Túc Thiểm Tây" và bầu Trương Phượng Hối, là thành viên Nguyên Nhật Tri hội (原日知會), làm lãnh đạo.[84] Sau khi Tây An bị chiếm vào ngày 24 tháng 10, lực lượng cách mạng đã giết hết tất cả người Mãn trong thành, khoảng 20,000 người Mãn đã bị thảm sát.[89][90] Nhiều người bảo vệ người Mãn đã tự sát, Văn Thụy (文瑞), Tướng quân thành Tân An, đã nhảy xuống giếng tự sát.[89] Duy nhất một số người Mãn giàu có hối lộ và nữ giới người Mãn sống sót nhưng phải quy phục với người Hán cầm quyền. Người Hán giàu có bắt các cô gái người Mãn làm nô lệ[91] và người Hán nghèo hơn thì cũng bắt các cô gái trẻ về làm vợ.[92] Một số bị người Hồi thân dân tộc Hán ở Tây An bắt và cải đạo Hồi cho người Mãn để đồng hóa họ với người Hồi-Hán tại Trung Quốc[93]

Khởi nghĩa Cửu Giang

Vào ngày 23 tháng 10, Lâm Sâm, Tưởng Quần (蔣群), Sái Huệ (蔡蕙) và thành viên Đồng Minh hội tỉnh Giang Tây đã âm mưu một cuộc nổi dậy của các đơn vị Tân quân.[83][94] Sau khi giành được chiến thắng, họ tuyên bố độc lập. Chính phủ quân sự Cửu Giang sau đó được thành lập.[94]

Khởi nghĩa Thái Nguyên Sơn Tây

Ngày 29/10, Diêm Tích Sơn của Tân quân lãnh đạo khởi nghĩa Thái Nguyên, thủ phủ Sơn Tây, cùng Diêu Vĩ Giới (姚以價), Hoàng Quốc Lương (黃國梁), Ôn Thọ Tuyền (溫壽泉), Lý Thành Lâm (李成林), Trương Thụ Xí (張樹幟) và Kiều Hú (喬煦).[94][95]

Quân cách mạng tấn công Thái Nguyên và giết tất cả người Mãn.[96] Tuần phủ Sơn Tây, Lục Chung Kì (陸鍾琦) bị quân cách mạng giết.[97] Sau đó, họ tuyên bố thành lập Chính phủ quân sự Sơn Tây do Diêm Tích Sơn làm lãnh đạo.[84]

Khởi nghĩa Trùng Cửu Côn Minh

Ngày 30/10, Lý Căn Nguyên (李根源) Đồng Minh hội Vân Nam gia nhập với Thái Ngạc, La Bội Kim (羅佩金), Đường Kế Nghiêu, và các sĩ quan khác của Tân quân để phát động Khởi nghĩa Trùng Cửu (重九起義).[98] Họ chiếm được Côn Minh vào ngày hôm sau và thành lập Chính phủ quân sự Vân Nam, bầu Thái Ngạc làm lãnh đạo.[94]

Quang phục Nam Xương

Ngày 31/10, Nam Xương một nhánh của Đồng Minh hội lãnh đạo bởi Tân quân trong một cuộc nổi dậy thành công. Họ thành lập Chính phủ quân sự Giang Tây.[83] Lý Liệt Quân được bầu làm lãnh đạo.[94] Lý tuyên bố Giang Tây độc lập và chống lại quân viễn chinh nhà Thanh do Viên Thế Khải lãnh đạo.[77]

Khởi nghĩa vũ trang Thượng Hải

Trần Kỳ Mỹ, lãnh đạo chính quyền quân sự Thượng Hải

Ngày 3/11, Đồng Minh hội Thượng Hải, Quang phục hội và thương gia lãnh đạo bởi Trần Kỳ Mỹ (陳其美), Lý Bình Thư (李平書), Trương Thừa Dửu (張承槱), Lý Anh Thạch (李英石), Lý Tiếp Hòa (李燮和) và Tống Giáo Nhân đã tổ chức một cuộc nổi dậy vũ trang tại Thượng Hải.[94] Họ nhận được sự hỗ trợ của các sĩ quan cảnh sát địa phương.[94] Quân cách mạng chiếm xưởng Giang Nam ngày 4/11 và chiếm Thượng Hải sau đó. Ngày 8/11, thành lập Chính phủ quân sự Thượng Hải và bầu Trần Kỳ Mỹ làm lãnh đạo.[94] Ông trở thành người sáng lập bốn đại gia đình Trung Hoa Dân Quốc sau này.[99]

Khởi nghĩa Quý Châu

Ngày 4/11, Trương Bách Lân (張百麟) của đảng cách mạng ở Quý Châu đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy cùng với các đơn vị Tân quân và học viên từ học viện quân sự. Họ ngay lập tức chiếm được Quý Dương và thành lập Chính phủ quân sự Đại Hán Quý Châu, bầu Dương Tẫn Thành (楊藎誠) và Triệu Đức Toàn (趙德全) là lãnh đạo và phó lãnh đạo.[100]

Khởi nghĩa Chiết Giang

Ngày 4/11, các nhà cách mạng ở Chiết Giang kêu gọi các đơn vị Tân quân ở Hàng Châu phát động một cuộc nổi dậy.[94] Chu Thụy (朱瑞), Ngô Tứ Dự (吳思豫), Lã Công Vọng (吕公望) và những người khác của Tân quân đã chiếm được xưởng chế tạo vật tư quân sự.[94] Lực lượng khác, lãnh đạo bởi Tưởng Giới Thạch và Doãn Duệ Chí (尹銳志), đã chiếm được hầu hết các cơ quan chính quyền.[94] Cuối cùng, Hàng Châu nằm dưới sự kiểm soát của các nhà cách mạng, và nhà lập hiến Thang Thọ Tiềm (湯壽潛) được bầu làm lãnh đạo.[94]

Quang phục Giang Tô

Ngày 5/11, các nhà lập hiến và thượng lưu Giang Tô đã thúc giục Trình Đức Toàn (程德全) tuyên bố độc lập và thành lập Chính phủ Quân sự Cách mạng Giang Tô do ông lãnh đạo.[94][101] Không giống như một số thành phố khác, bạo lực chống Mãn Châu bắt đầu sau khi quang phục vào ngày 7 tháng 11 tại Trấn Giang.[102] Tướng quân nhà Thanh Tái Mặc (載穆) đã đồng ý đầu hàng, nhưng vì một sự hiểu lầm, các nhà cách mạng đã không biết rằng sự an toàn của họ được đảm bảo.[102] Khu ở người Mãn bị lục soát, và một số lượng người Mãn không xác định đã bị giết.[102] Tái Mặc, cảm thấy bị phản bội, đã tự sát.[102] Đây được coi là cuộc nổi dậy Trấn Giang (鎮江起義).[103][104]

Khởi nghĩa An Huy

Các thành viên của Đồng Minh hội An Huy cũng phát động một cuộc nổi dậy vào ngày hôm đó và bao vây thủ phủ của tỉnh. Các nhà lập hiến đã thuyết phục Chu Gia Bảo (朱家寶), Tuần phủ An Huy, tuyên bố độc lập.[105]

Khởi nghĩa Quảng Tây

Ngày 7/11, chính quyền Quảng Tây quyết định ly khai khỏi chính quyền nhà Thanh, tuyên bố độc lập. Tuần phủ Thẩm Bỉnh Khôn (沈秉堃) được phép giữ nguyên chức, nhưng Lục Vinh Đình sau đó trở thành lãnh đạo mới.[69] Lục Vinh Đình sau đó cũng trở thành lãnh đạo quân phiệt Quảng Tây trong thời gian dài.[106] Dưới sự lãnh đạo của Hoàng Thiệu Hoành, sinh viên luật Bạch Sùng Hyđã gia nhập vào một đơn vị Dám chết để chiến đấu như một nhà cách mạng.[107]

Phúc Kiến độc lập

Căn nhà Quang phục hội chiếm giữ tại Liên Giang, Phúc Châu

Vào tháng 11, các thành viên của nhánh Đồng Minh hội Phúc Kiến, cùng với Tôn Đạo Nhân (孫道仁) của Tân quân, đã phát động một cuộc nổi dậy chống lại quân đội nhà Thanh.[108][109] Tổng đốc Tông Thọ (松壽), đã tự sát.[110] Vào ngày 11 tháng 11, toàn bộ tỉnh Phúc Kiến tuyên bố độc lập.[108] Chính phủ quân sự Phúc Kiến được thành lập và Tôn Đạo Nhân được bầu làm lãnh đạo.[108]

Quảng Đông độc lập

Gần cuối tháng 10, Trần Quýnh Minh, Đặng Khanh (鄧鏗), Bành Thụy Hải (彭瑞海) và các thành viên khác của Đồng Minh hội Quảng Đông đã tổ chức dân quân địa phương để phát động cuộc nổi dậy ở Hóa Châu, Nam Hải, Thuận Đức và Tam Thủy ở tỉnh Quảng Đông.[84][111] Ngày 8/11, sau khi được Hồ Hán Dân, Tướng quân Lý Chuẩn (李準) và Long Tể Quang (龍濟光) thuộc Hải quân Quảng Đông ủng hộ cách mạng.[84] Tổng đốc Lưỡng Quảng Trương Minh Kì (張鳴岐), bị buộc phải thảo luận với các đại diện địa phương một đề nghị đòi độc lập của Quảng Đông.[84] Quyết định công bố vào ngày hôm sau. Trần Quýnh Minh sau đó chiếm được Huệ Châu. Vào ngày 9 tháng 11, Quảng Đông tuyên bố độc lập và thành lập một chính phủ quân sự.[112] Họ đã bầu Hồ Hán Dân và Trần Quýnh Minh làm lãnh đạo và phó lãnh đạo.[113] Khâu Phùng Giáp được biết là đã giúp cho tuyên bố độc lập trở nên hòa bình hơn.[112]

Sơn Đông độc lập

Ngày 13/11, sau khi được thuyết phục bởi nhà cách mạng Đinh Duy Phần (丁惟汾) và một số sĩ quan khác của Tân quân, Tuần phủ Sơn Đông, Tôn Bảo Kỳ, đã đồng ý ly khai khỏi chính quyền nhà Thanh và tuyên bố Sơn Đông độc lập.[84]

Khởi nghĩa Ninh Hạ

Ngày 17/11, Đồng Minh hội Ninh Hạ phát động Khởi nghĩa Hội đảng Ninh Hạ (寧夏會黨起義). Các nhà cách mạng đã phái Vu Hữu Nhậm tới Trương Gia Xuyên để gặp lãnh đạo người Đông Can Mã Nguyên Chương để thuyết phục ông không ủng hộ nhà Thanh. Tuy nhiên, Mã không muốn gây nguy hiểm cho mối quan hệ của mình với nhà Thanh. Ông đã phái dân quân Hồi giáo Cam Túc phía đông dưới sự chỉ huy của một trong những người con trai của ông để giúp Mã Kì tiêu diệt Ca Lão hội Ninh Hạ.[114][115] Tuy nhiên, Chính phủ quân sự cách mạng Ninh Hạ được thành lập vào ngày 23 tháng 11.[84] Một số nhà cách mạng tham gia bao gồm Hoàng Việt (黃鉞) và Hướng Sân (向燊), những người tập hợp lực lượng Tân quân tại Tần Châu (秦州).[116][117]

Tứ Xuyên độc lập

Vào ngày 21 tháng 11, tại Quảng An tổ chức Chính quyền Quân sự Bắc Thục Đại Hán.[84][118]

Ngày 22/11, Thành Đô và Tứ Xuyên bắt đầu tuyên bố độc lập. Đến ngày 27, Chính phủ quân sự Đại Hán Tứ Xuyên được thành lập, đứng đầu là nhà cách mạng Bồ Điện Tuấn (蒲殿俊).[84] Tướng nhà Thanh Doãn Phương (端方) đã bị giết.[84]

Khởi nghĩa Nam Kinh

Trận chiến Đại Bình môn tại Nam Kinh năm 1911. Vẽ bởi T. Miyano.

Vào ngày 8 tháng 11, được hỗ trợ bởi lãnh đạo phe cách mạng là Trung Hoa Đồng Minh hội của người Hán Trung Quốc, Từ Thiệu Trinh (徐紹楨) của Tân quân tuyên bố khởi nghĩa Mạt Lăng quan (秣陵關), cách 30 km từ Nam Kinh.[84] Từ Thiệu Trinh, Trần Kỳ Mỹ và các tướng lĩnh khác quyết định thành lập một đội quân thống nhất do Từ chỉ huy để tấn công Nam Kinh cùng nhau. Vào ngày 11 tháng 11, trụ sở quân đội thống nhất được thành lập tại Trấn Giang. Từ ngày 24 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12, dưới sự chỉ huy của Từ, quân đội thống nhất đã chiếm được Ô Long Sơn (烏龍山), Mạc Phủ Sơn (幕府山), Vũ Hoa Đài (雨花臺), Thiên Bảo thành (天保城) và nhiều thành trì khác của quân Thanh.[84] Vào ngày 2 tháng 12, Thành phố Nam Kinh đã bị những người cách mạng chiếm giữ sau Trận chiến Nam Kinh năm 1911[84] Vào ngày 3 tháng 12, một nhà cách mạng có tên là Su Liangbi đã chỉ huy quân cách mạng thảm sát người Mãn ở tại đây.[119].

Tây Tạng độc lập

Bài chi tiết: Náo động Lhasa Tân Hợi và Tây Tạng (1912–51)

Năm 1905, nhà Thanh phái Triệu Nhĩ Phong đến Tây Tạng để dẹp loạn.[120] Năm 1908, Triệu được bổ nhiệm làm Đại thần Biện sự Trú Tạng tại Lhasa.[120] Triệu bị chém đầu tháng 12/1911 bởi phe thân Dân Quốc.[121] Phần lớn diện tích được biết đến trong lịch sử là Kham nay tuyên bố là Tây Khang, được tạo ra bởi các nhà cách mạng Dân Quốc.[122] Cuối năm 1912, quân Thanh lưu vong mất nước mất chế độ cuối cùng bị buộc rời khỏi Tây Tạng qua Ấn Độ. Thubten Gyatso, Dalai Lama thứ 13, trở về Tây Tạng vào tháng 1 năm 1913 từ Sikkim, nơi ông đang ở.[123] Khi chính phủ Trung Hoa Dân Quốc mới xin lỗi về hành động của nhà Thanh và đề nghị khôi phục Đức Đạt Lai Lạt Ma về vị trí cũ của mình, ông trả lời rằng ông không quan tâm đến Trung Quốc, rằng Tây Tạng chưa bao giờ phụ thuộc vào Trung Quốc, rằng Tây Tạng là một quốc gia độc lập, và ông đang đảm nhận vai trò lãnh đạo tinh thần và chính trị của Tây Tạng.[123] Vì điều này, nhiều người coi đây như một tuyên bố độc lập chính thức. Phía Trung Quốc không phản ứng và Tây Tạng đã có ba mươi năm không có sự can thiệp từ Trung Quốc trước khi bị Trung Quốc tiêu diệt 1951.[123]

Mông Cổ độc lập (Trung Quốc công nhận từ sau năm 1949)

Bài chi tiết: Cách mạng Mông Cổ năm 1911 và Ngoại Mông (1911–19)

Vào cuối năm 1911, người Mông Cổ(Ngoại Mông)đã hành động với một cuộc nổi dậy vũ trang chống lại chính quyền Mãn Châu nhưng nỗ lực này không thành công.[124] Phong trào độc lập diễn ra không chỉ giới hạn ở Bắc (ngoại Mông) Mông Cổ mà còn là một hiện tượng toàn Mông Cổ.[124] Ngày 29/12/1911, Bogd Khan trở thành lãnh đạo đế chế Mông Cổ. Nội Mông trở thành khu vực tranh chấp giữa Khan và Dân Quốc rồi Nội Mông quyết định vẫn ở lại Trung Quốc cho đến ngày nay.[125] Nga ủng hộ nền độc lập của Ngoại Mông (bao gồm cả vùng khác là Tannu Uriankhai nhưng nó nay thuộc nước thứ 3) trong thời kỳ Cách mạng Tân Hợi.[126]

Tây Tạng và Mông Cổ sau đó công nhận nhau trong một hiệp ước. Vùng lãnh thổ Tây Tạng (Trung Quốc) sau đó đã tái sáp nhập trở lại vào Trung Quốc của chế độ mới năm 1951, trong khi nước Mông Cổ vẫn độc lập khỏi Trung Quốc đến ngày nay (Trung Quốc cũng công nhận Mông Cổ độc lập từ 1949 đến nay).

Khởi nghĩa Địch Hóa và Y Lê

Bài chi tiết: Cách mạng Tân Hợi ở Tân Cương

Tại Tân Cương vào ngày 28 tháng 12, Lưu Tiên Tuấn (劉先俊) và những người cách mạng bắt đầu cuộc nổi dậy Địch Hóa (迪化起義).[127] Khởi nghĩa do hơn 100 thành viên Ca Lão hội chỉ huy.[128] Khởi nghĩa thất bại. Vào ngày 7 tháng 1 năm 1912, Cuộc nổi dậy Y Lê (伊犁起義) với Phùng Đặc Dân (馮特民) bắt đầu.[127][128] Tuần phủ Viên Đại Hóa (袁大化) đã bỏ trốn và trao quyền cho Dương Tăng Tân, vì ông không thể chống lại những người cách mạng.[129]

Sáng 8 tháng 1, một chính phủ Y Lê mới được thành lập bởi quân cách mạng,[128] nhưng quân cách mạng thất bại tại Tinh Hà trong tháng 1 và tháng 2.[129][130] Cuối cùng vì sự thoái vị của Phổ Nghi, Viên Thế Khải đã công nhận sự cai trị của Dương Tăng Tân, bổ nhiệm ông làm Thống đốc Tân Cương và đưa tỉnh này gia nhập Dân Quốc.[129] Nhiều vụ ám sát quan triều Thanh trong tháng 4 và tháng 5/1912.[129]

Quân cách mạng đã in bức hình đa ngôn ngữ mới.[131]

Khởi nghĩa Đài Loan

Năm 1911 như một phần của Cách mạng Tân Hợi Đồng Minh hội đã gửi La Phúc Tinh (羅福星) tới Đài Loan để giải phóng khỏi sự chiếm đóng của Nhật Bản.[132] Mục tiêu là đưa đảo Đài Loan trở lại Trung Hoa Dân Quốc bằng cách kích động Khởi nghĩa Đài Loan (台灣起義).[133] La bị bắt và giết vào ngày 3 tháng 3 năm 1914.[134] Còn được gọi " Sự kiện Miêu Lật" (苗栗事件) nơi có hơn 1,000 người Đài bị cảnh binh Nhật xử tử.[135] Sự hy sinh của La được tưởng niệm ở Miêu Lật.[134]

Thay đổi chính quyền

Con dấu Đại Tổng thống Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc

Nhà Thanh

Ở phương Bắc, triều đình nhà Thanh cố gắng cải tổ nhưng thất bại rồi sụp đổ do sự phản bội của tướng Viên Thế Khải

Vào ngày 1 tháng 11 năm 1911, chính quyền nhà Thanh bổ nhiệm Viên Thế Khải làm Tổng lý nội các đế quốc, thay thế cho Dịch Khuông.[136] Vào ngày 03 tháng 11, sau khi một đề xuất bởi Sầm Xuân Huyên từ Phong trào Quân chủ lập hiến (立憲運動), năm 1903, triều đình nhà Thanh đã thông qua Mười chín điều Quan trọng Tuân thủ Hiến pháp (憲法重大信條十九條), biến nhà Thanh từ một chế độ quân chủ chuyên chế với hoàng đế có quyền lực vô hạn thành một chế độ quân chủ lập hiến.[137][138] Vào ngày 9 tháng 11, Hoàng Hưng gửi điện tín cho Viên và mời gia nhập Dân Quốc.[139] Cải tổ của triều đinh đã quá muộn và hoàng đế sắp phải thoái vị.

Chính phủ Cách mạng

Ở phía Nam, Chính phủ Nam Kinh non kém được thành lập trong bối cảnh phức tạp, khó khăn rồi buộc phải thông đồng với Viên Thế Khải của Chính phủ Đế quốc Đại Thanh để lật đổ nhà Thanh

Bài chi tiết: Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc (1912)

Vào ngày 28 tháng 11 năm 1911, Vũ Xương và Hán Dương đã bị quân Thanh chiếm. Vì vậy, để an toàn, các nhà cách mạng đã triệu tập hội nghị đầu tiên của họ tại Tô giới Anh ở Hán Khẩu vào ngày 30 tháng 11.[140] Đến ngày 2 tháng 12, các lực lượng cách mạng đã chiếm được Nam Kinh sau khởi nghĩa; và quyết định biến nó thành căn cứ của chính phủ lâm thời mới.[141]

Hội nghị Bắc Nam

Đường Thiệu Nghi, trái. Edward Selby Little, giữa. Ngũ Đình Phương, phải. (Hội nghị Bắc Nam, Thượng Hải, tháng 12 năm 1911)

Vào ngày 18 tháng 12, Hội nghị Nam Bắc (南北議和) đã được tổ chức tại Thượng Hải để thảo luận về các vấn đề phía bắc và phía nam.[142] Viên chọn Đường Thiệu Nghi làm đại diện nhà Thanh.[142] Đường rời Bắc Kinh đến Vũ Hán để đàm phán với các nhà cách mạng.[142] Các nhà cách mạng đã chọn Ngũ Đình Phương.[142] Với sự can thiệp của sáu cường quốc nước ngoài, Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Đức, Nga, Nhật Bản và Pháp, Đường và Ngũ bắt đầu đàm phán trong tô giới Anh.[143] Doanh nhân nước ngoài người Anh là Edward Selby Little (李德立) đã đóng vai trò là người đàm phán trung gian và tạo điều kiện cho thỏa thuận hòa bình.[144] Họ đồng ý rằng Viên sẽ buộc hoàng đế nhà Thanh thoái vị để đổi lấy sự ủng hộ của các tỉnh miền Nam đối với Viên với tư cách là Đại tổng thống Dân Quốc. Sau khi xem xét khả năng nước dân quốc mới có thể bị đánh bại trong cuộc nội chiến hoặc do ngoại xâm, Tôn Trung Sơn đã đồng ý với đề xuất của Viên về việc tái thống nhất Trung Quốc dưới chính quyền Bắc Kinh do Viên lãnh đạo. Các quyết định tiếp theo được đưa ra để cho hoàng đế cai trị tiểu triều đình của mình trong Cung điện mùa hè. Ông sẽ được đối xử như một nguyên thủ của một quốc gia riêng biệt và có chi phí vài triệu lượng bạc.[145]

Thành lập Dân Quốc

Tôn Dật Tiên năm 1912 trong cuộc họp dưới hai là cờ Ngũ tộc cộng hòa và Thiết huyết Thập bát Tinh kỳ Trung Hoa Dân Quốc công bố và vấn đề quốc kỳ.

Vào ngày 29 tháng 12 năm 1911, Tôn Trung Sơn được bầu làm Đại Tổng thống đầu tiên.[146] Ngày 1 tháng 1 năm 1912 được coi là ngày đầu tiên Năm thứ nhất của Trung Hoa Dân Quốc.[147] Vào ngày 3 tháng 1, các đại diện đã đề nghị Lê Nguyên Hồng làm phó Tổng thống lâm thời.[148]

Trong và sau Cách mạng Tân Hợi, nhiều nhóm tham gia muốn kỳ hiệu riêng của họ là quốc kỳ. Trong cuộc nổi dậy Vũ Xương, các đơn vị quân đội Vũ Xương muốn Cửu tinh Thái cực kỳ làm quốc kỳ.[149] Các bên khác tranh chấp gồm Cờ Thanh Thiên Bạch Nhật của Lục Hạo Đông. Hoàng Hưng ủng hộ một lá cờ mang thần thoại nông nghiệp. Cuối cùng, hội nghị đã thỏa hiệp: quốc kỳ sẽ là Ngũ tộc cộng hòa.[149] Ngũ tộc Cộng hòa là năm dân tộc lớn của Dân Quốc.[150] người Hán (đỏ), người Mãn Châu (vàng), người Mông Cổ (xanh), người Hồi (tức người Hồi giáo) (trắng) và người Tây Tạng (đen).[149][150] Tuy cuộc cách mạng chống Mãn Châu, nhưng Tôn Dật Tiên, Tống Giáo Nhân và Hoàng Hưng đã nhất trí ủng hộ việc đoàn kết dân tộc được thực hiện từ lục địa đến biên giới.[151]

Xô xát Đông Hoa môn

Ngày 16/1, khi trở về dinh thự, Viên Thế Khải đã bị tấn công bắng bom bởi Đồng Minh hội tại Đông Hoa môn (東華門), Bắc Kinh.[152] Có khoảng mười lính canh đã chết, nhưng bản thân Viên không bị thương.[152] Viên đã gửi một điện tín cho lực lượng cách mạng vào ngày hôm sau cam kết sự ủng hộ và yêu cầu họ không tổ chức thêm bất kỳ nỗ lực ám sát nào.

Chỉ dụ thoái vị của Hoàng đế

Hoàng đế thoái vị

Trương Kiển soạn thảo một chỉ dụ thoái vị và đã được Thượng viện lâm thời phê chuẩn. Ngày 20/1, Ngũ Đình Phương đại diện Chính phủ Lâm thời Nam Kinh đã gửi chỉ dụ thoái vị của Phổ Nghi cho Viên.[138] Ngày 22/1, Tôn Trung Sơn tuyên bố sẽ từ chức Đại Tổng thống nếu Viên ủng hộ việc Hoàng đế thoái vị.[153] Viên sau đó gâp áp lực cho Long Dụ Hoàng thái hậu với mối đe dọa rằng cuộc sống của hoàng gia sẽ không được đảm bảo nếu sự thoái vị không xảy ra trước khi lực lượng cách mạng đến Bắc Kinh, nhưng nếu họ đồng ý thoái vị, chính phủ lâm thời sẽ tôn trọng các điều khoản do hoàng gia đề xuất.

Ngày 3/2, Thái hậu Long Dụ đã cho Viên toàn quyền đàm phán các điều khoản thoái vị của hoàng đế nhà Thanh. Viên sau đó đã đưa ra phiên bản của riêng mình và chuyển tiếp cho các nhà cách mạng vào ngày 3 tháng 2.[138] Phiên bản của ông có ba phần thay vì hai phần như trước đó.[138] Vào ngày 12 tháng 2 năm 1912, sau khi bị Viên và Nội các gây áp lực, Phổ Nghi (sáu tuổi) và Thái hậu Long Dụ đã chấp nhận các điều khoản thoái vị của Viên.[147]

Lựa chọn Thủ đô

Như một điều kiện để nhường lại quyền lãnh đạo cho Viên Thế Khải, Tôn Trung Sơn khẳng định rằng chính phủ lâm thời vẫn ở Nam Kinh. Ngày 14/2, Thượng viện lâm thời đã bỏ phiếu, kết quả 20 phiếu lựa chọn Bắc Kinh, 5 phiếu chọn Nam Kinh, 2 phiếu chọn Vũ Hán và 1 phiếu chọn Thiên Tân.[154] Đa số Thượng viện muốn bảo đảm thỏa thuận hòa bình bằng cách đưa chính quyền về Bắc Kinh.[154]

Trương Kiển và những người khác lập luận rằng việc thủ đô ở Bắc Kinh sẽ giám sát việc nổi dậy người Mãn và Mông Cổ ly khai. Nhưng Tôn và Hoàng Hưng đã ủng hộ Nam Kinh để cân bằng với cơ sở quyền lực của Viên ở phía bắc.[154] Lê Nguyên Hồng lựa chọn Vũ Hán như vai trò trung lập.[155] Ngày hôm sau, Thượng viện lâm thời đã bỏ phiếu một lần nữa, lần này, 19-6 ủng hộ Nam Kinh với 2 phiếu bầu cho Vũ Hán.[154] Tôn cử Thái Nguyên Bồi và Uông Tinh Vệ thuyết phục Viên chuyển về Nam Kinh.[156] Viên chào đón phái đoàn và đồng ý cùng các đại biểu trở lại miền nam.[157] Sau đó vào tối ngày 29 tháng 2, bạo loạn và hỏa hoạn đã nổ ra khắp thành phố Bắc Kinh.[157] Được cho là bắt đầu bởi quân đội bất tuân của Tào Côn, sĩ quan trung thành với Viên.[157] Sự rối loạn đã cho Viên cái cớ ở lại phía bắc để bảo vệ chống lại tình trạng bất ổn. Vào ngày 10 tháng 3, Viên nhậm chức tại Bắc Kinh với tư cách là Đại Tổng thống lâm thời Trung Hoa Dân Quốc.[158] Vào ngày 5 tháng 4, Thượng viện lâm thời ở Nam Kinh đã bỏ phiếu đưa Bắc Kinh thành thủ đô của Dân quốc và sẽ triệu tập tại Bắc Kinh vào cuối tháng.

Chính phủ Bắc Dương

Viên Thế Khải nhậm chức Đại Tổng thống Chính phủ lâm thời Trung Hoa Dân Quốc tại Bắc Kinh.

Vào ngày 10 tháng 3 năm 1912, Viên Thế Khải tuyên thệ nhậm chức Đại Tổng thống lâm thời thứ hai của Trung Hoa Dân Quốc tại Bắc Kinh.[159] Chính phủ đóng tại Bắc Kinh, được gọi là Chính phủ Bắc Dương, không được quốc tế công nhận là chính phủ hợp pháp của Trung Hoa Dân Quốc cho đến năm 1928, vì vậy giai đoạn từ 1912 đến 1928 được gọi đơn giản là "Thời kỳ Bắc Dương". Cuộc bầu cử Quốc hội đầu tiên diễn ra theo Hiến pháp lâm thời. Tại Bắc Kinh, Quốc dân đảng được thành lập vào ngày 25 tháng 8 năm 1912.[160] Quốc dân đảng chiếm đa số ghế sau cuộc bầu cử. Tống Giáo Nhân được bầu làm Thủ tướng. Tuy nhiên, Tống bị ám sát tại Thượng Hải vào ngày 20 tháng 3 năm 1913, theo lệnh bí mật của Viên.[161]

Sau Cách mạng Tân Hợi

Sau khi Thủ tướng (Quan đại thần Tổng lý nội các) Viên Thế Khải lên làm Đại tổng thống sau khi lật đổ nhà Thanh với việc ép vua Thanh thoái vị 12/2/1912, tuy phái cách mạng không hoàn toàn bị loại bỏ, nhưng những chức vụ chủ chốt trong chính quyền đều vào tay phe của Viên. Theo sử liệu thì đây là chính quyền mà ngoài thì treo chiêu bài xây dựng và duy trì "Trung Hoa Dân quốc"; nhưng bên trong thực chất là băng đảng của Viên cấu kết với đế quốc chống phá lại phái cách mạng quốc gia theo tinh thần cộng hòa, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn cùng nhân dân Trung Quốc [162].

Tháng 8 năm đó, với ý định thông qua Quốc hội, sẽ hạn chế quyền lực của Viên Thế Khải, Đồng Minh hội cải tổ thành Quốc dân đảng. Trước tình trạng Quốc dân đảng chiếm đa số ghế trong Quốc hội, để đối phó, Viên Thế Khải bèn gấp rút cho bổ sung quân, đồng thời không đợi Quốc hội thông qua, Viên ký giấy vay Ngân hàng đoàn (đây là ngân hàng 5 nước, gồm Anh, Pháp, Đức, Nhật, Nga) một số tiền 25 triệu bảng Anh để tiến hành cuộc đối đầu mới. Số tiền này phải trả trong 47 năm bằng thuế muối.

Quốc dân đảng phản đối kịch liệt. Các tướng lĩnh thuộc đảng này bèn khởi binh chống lại, nhưng đều thất bại vì ít quân và vì Viên Thế Khải đã bố trí lực lượng từ trước. Cuộc xung đột này chỉ kéo dài không đầy hai tháng. Sau đó, Viên Thế Khải bắt Quốc hội thừa nhận ông là Đại tổng thống chính thức (Lê Nguyên Hồng làm phó). Và để bảo đảm địa vị của mình, tháng 11 năm 1913, Viên ra lệnh trục xuất các nghị viên thuộc Quốc dân đảng ra khỏi Quốc hội.

Đầu năm 1914, Viên Thế Khải giải tán luôn Quốc hội. Không lâu sau, ông hủy bỏ luôn Ước pháp lâm thời rồi cho xây dựng một nền thống trị "độc tài của tập đoàn quan liêu, quân phiệt và đại địa chủ tư bản"[163]. Các thế lực Viên Thế Khải sau cùng vẫn bị lật đổ sau cái chết đột ngột của Viên, nhưng sau đó Trung Quốc liên tục trải qua các cuộc nội chiến và nội loạn.

Nhận xét sơ lược

Cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản, do những người trí thức cấp tiến trong giai cấp tư sản và tiểu tư sản lãnh đạo, đã lật đổ triều đại Mãn Thanh, chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại lâu đời ở Trung Quốc, mở đường cho chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa tự do phát triển, có ảnh hưởng nhất định đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở một số nước Châu Á (trong đó có Việt Nam).

Song, cuộc cách mạng này bộc lộ một số mặt hạn chế, đó là:

—  Không giải quyết được vấn đề ruộng đất cho nông dân, một trong những vấn đề căn bản của cách mạng. Chính vì vậy, họ không khích động được đông đảo quần chúng nông dân tham gia.

—  Không thủ tiêu thực sự giai cấp phong kiến, mà chỉ thỏa hiệp. Việc đem toàn bộ chính quyền cách mạng giao cho Lê Nguyên Hồng, và sau nữa là Viên Thế Khải, là các minh chứng.

—  Cuộc cách mạng đã chứng kiến một số vụ trả thù và tàn sát một cách tàn khốc không thương tiếc của người Hán mà chỉ nhắm vào người Mãn. Nghĩa là dùng cụộc cách mạng toàn quốc chỉ trả thù người Mãn mà không nhắm vào chủ đích đòi quyền lợi của dân tộc.

—  Không dám đụng chạm đến các nước đế quốc xâm lược, tức là không dám đấu tranh giành lại quyền lợi của dân tộc, để rồi kết quả chỉ là câu kết với Viên Thế Khải, giúp Viên củng cố thế lực, quay lại đoạt công và chống phá cách mạng.

—  Chính phủ cách mạng không có đủ sức mạnh nên không dám đụng chạm đến các quân phiệt thừa cơ cát cứ tại các địa phương sau khi nhà Thanh sụp đổ, vì thế các quân phiệt này bất tuân chính phủ cách mạng mà lại quay sang đánh giết lẫn nhau đẩy Trung Quốc vào thời kỳ nội chiến đẫm máu kéo dài suốt gần 40 năm.

—  Ngoài ra, các hạt nhân lãnh đạo Đồng Minh Hội hãy còn non yếu về mặt đường lối và tổ chức nên sự phối hợp hãy còn lỏng lẻo, nhiều khi tư tưởng và kế sách cũng không đồng nhất [164].

Cuộc cách mạng này rốt cuộc, vô tình đẩy Trung quốc vào cách mạng đỏ cộng sản .



============================

 

- Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã từng được công nhận là một quốc gia chính thức và đã từng được biểu quyết là thành viên kết giao của Liên Hiệp Quốc từ tháng 8 năm 1948.

- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt cộng/cộng sản) đã bị khước từ đơn gia nhập ngay từ 1948 và không được công nhận là một quốc gia hợp pháp.

............................................................... Cỏ biếc chẳng treo hồn Sở trướng,
Trúc vàng thà điểm giọt Ngu cung. (Phạm Thái) Tiêu Sơn Tráng Sĩ

Thương hải biến vi tang điền.
“Tang điền thương hải” (桑田蒼海 ), nghĩa là “ruộng dâu biến thành biển xanh”.


Thành phố Vũ Di Sơn, Phúc Kiến được khai quật và ẩn náu tại Bảo tàng Phúc Kiến Minyue State's Imperial City Museum, in Wuyishan City, Fujian.



Năm 907, khi nhà Đường sụp đổ và nhà Hậu Lương thay thế, trong khi ở phía bắc các tướng lĩnh tranh giành nhau thì tại phương Nam đã tạo ra cơ hội thuận tiện cho các tướng lĩnh của các vương quốc trước kia khi Tần chưa xâm chiếm, liền bước ra chiếm lại lấy đất cũ..

No comments:

Post a Comment