Saturday, November 12, 2016

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975

 

Đánh Dấu Tiếng Việt Trước 1975 Và Sau 1975

 



Đ
á
n
h

D

u

T
i
ế
n
g

V
i

t

T
r
ư

c

1
9
7
5

V
à

S
a
u

1
9
7
5






Cách bỏ dấu truyền thống: “hóa, xòe, khỏe, súy, thủy, Thụy Sĩ, ủy mị...”

Sau 1975 Việt cộng cho thay đổi để khác đi của VNCH chứ không cần đúng hay sai, hay hoặc dở gì. Họ muốn phá tất cả những gì của VNCH và trước đó. Cách đánh dấu của Việt cộng:
hoá , xoè , khoẻ , suý , thuỷ , Thuỵ Sĩ, uỷ mị ...”


Thí dụ:
- Việt Nam Cộng Hoà là sai.
mà phải viết:
- Việt Nam Cộng Hòa.
Thuỷ Quân Lục Chiến là sai,
mà phải là
- Thủy Quân Lục Chiến.

Hãy trở lại truyền thống, không thể chơi ngông, làm ngu như Vẹm được.



 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

 

■ Ráp vần và đánh vần sau khi bị Việt cộng đem ra "cải cách tiếng Việt"

 





Cách bỏ dấu, hay đánh dấu thanh của dấu giọng trong tiếng Việt

Cách bỏ dấu truyền thống, thì dấu giọng được bỏ trên mẫu tự nguyên âm áp chót nếu vần kết thúc bằng hai mẫu tự nguyên âm trở lên, kể cả “y” với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy.”
Cách đánh dấu theo truyền thống viết:
“hóa, xòe, súy”
.......................................
Sau 1975, Tiếng Việt bị Việt cộng đem ra làm "cải cách tiếng Việt" sửa đổi như sau:
Quy tắc 4. (quy tắc độc đoán) -- Với những chữ “kết thúc bằng oa, oe, uy, dấu thanh đặt vào chữ nguyên âm chót.
Ví dụ: Cải cách tiếng Việt của Việt cộng sau 1975 viết:
ho, hoè, hu, loà xoà, loé, suý, thu

Sau một thời gian,
Cuộc cải cách tiếng Việt của mấy trự Việt cộng là một “thành công, thành công, đại thành... gà bới”

Nay người ta có khuynh hướng trở lại bỏ dấu theo cách truyền thống là:
.......................................
ha, hòa, hóa, ha, hòe, hy, ty, ly, thùy, thúy, th th lòa xòa, lòe, xòe, lóe, súy, y, úy.


 

.......................................

 

3
 photo Mi C_zpsu338pr1u.png

 

4
 photo ci caacutech_zps92ibyyb0.jpg

 

**

 





    Tử sĩ hay Liệt sĩ?   




Tử sĩ và Liệt sĩ là những chữ đều được miền Nam dùng nhưng với hai nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Tử sĩ là người chiến sĩ chết vì Tổ quốc (vị quốc vong thân) nói chung, như chết trận, chết trong lúc thi hành nhiệm vụ bình thường như mọi người trong lúc chiến tranh.

Liệt sĩ là người chiến sĩ chết vì Tổ Quốc một cách oanh liệt rất đặc biệt nổi bật mà không phải ai cũng làm được.

Những người đánh trận chết hoặc bị giặc sát hại, cái chết mình không biết trước chắc chắn thì gọi chung là Tử Sĩ.

(Những) người vì một mục đích, một nhiệm vụ cao cả, quyết liều thân cho Tổ quốc sinh tồn, dám làm chuyện mà nhiều người không dám làm, biết chắc chắn mình sẽ chết, việc làm vô cùng oanh liệt thì gọi là Liệt sĩ. Thí dụ như Lê Lai đã chịu chết để cứu Lê Lợi, chúa (vua) và cứu luôn cả dân tộc.

Việt cộng dùng chữ "liệt sĩ" để chỉ người chết trận là sai, phải dùng chữ "tử sĩ" mới đúng. Như chiêu hồn tử sĩ, hay chiêu hồn các tử sĩ chứ ít ai nói chiêu hồn các liệt sĩ, vì rất hi hữu mới có một liệt sĩ.



 

*

 




    Chữ "Từ"


    Chữ "từ"
    đưọc dùng rộng rãi bây giờ không có trong tiếng Việt nguyên thủy. Ta không dùng chữ một cách cộc lốc và bừa bãi như vậy.

    Trong ngôn ngữ thuần túy Việt Nam thì khi chữ TỪ đứng một mình thì chỉ có nghĩa là:

    1. Tên gọi của một loại khoai: khoai từ.

    2. Chức vị của một người đàn ông đứng tuổi giữ việc lo nhang đèn, chăm sóc cho một ngôi miễu: ông từ.

    3. Trong văn phạm từ là giới từ.

    Ngoài ra tất cả chữ "từ" phải đi với một chữ khác, như: danh từ, tĩnh từ, động từ, từ ngữ, từ tốn, từ từ, từ đâu, từ đầu v. v... vì chữ "TỪ" là tiếng Hán-Việt nên phải đi theo với chữ khác, chứ không đúng một mình, và ta phải theo đúng quy luật của nó.

    Chữ TỪ trong Hán-Việt có nghĩa là: Chữ.
    Ngày trước, khi chưa bị thay đổi chính thể cộng sản trong nam, không ai dùng chữ "TỪ" để thay thế cho chữ "CHỮ" bao giờ.
    Thí dụ: Một quyển tự điển ở miền Nam trước 75 sẽ ghi: Bao gồm 100, 150 .v. v... ngàn "chữ" chứ không phải 100... "từ".

    Người Việt ngày trước cũng không ai biết đến cái "cụm từ" bao giờ.
    Các danh từ gồm hai chữ hoặc hơn vẫn là danh từ, hay danh từ kép, thí dụ: cái tên "Chxhcnvn" trứ danh của Việt cộng vẫn chỉ là một "danh từ riêng" cho tên gọi, mặc dù nó có dài lòng thòng.

    Còn lại các trường hợp khác thì cũng không gọi là "nhóm chữ", mà chỉ giản dị gọi là CÂU vì - câu là tập hợp của một số chữ để mang một ý nghĩa nào đó.

    Thí dụ: Câu nói, câu viết, câu văn... v. v...
    Việt cộng thay thế chữ “chữ” là chữ “từ”. là sai vì chữ 'từ' không bao giờ đi lẻ loi một mình và không có ý nghĩa gì cả, mà nó phải đi chung từ hai chữ mới có ý nghĩa. Thí dụ:

    - làm từ từ

    - từ đâu

    - từ ngữ

    - từ chuyện nầy sang chuyện khác...

    - từ khi, từ khi nào...

    - trở lại từ đầu .v. v...

    Nguồn:
    http://www.quehuongngaymai.com/forums/forumdisplay.php?f=75


 

****

 




Tên Người và Địa Danh

Tên người, danh từ riêng hay tên của một địa danh không đem ra dịch, vì như thế thì vừa ngốc nghếch, vừa lẩm cẩm, thí dụ: Moscow mà dịch là Mát Cơ Va thì nghe thật kỳ quặc.

Nếu là tên mới có của một quốc gia hay địa danh mới có, thì ta nên dùng bản tiếng Anh của tên đó kèm thêm phiên âm bằng tiếng Việt cho lần đầu tiên. Bản tiếng Việt thường dùng thì vẫn dùng nhưng kèm theo bản tiếng Anh:

Sau đây là tên của những địa danh, danh từ riêng và tên người:

- Ngũ Giác Đài (The Pentagon)
- Tòa Bạch Ốc (The White House)
- Mạc Tư Khoa (Moscow)
- Do Thái (Israel)
- Bắc Kinh (Beijing)
- Thụy Điển (Sweden)
- Sông Cửu Long (Mekong River)
- Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan)
- Á Căn Đình (Argentina)
- Ba Tây (Brazil)
- Ba Lan (Poland)
- Mễ Tây Cơ (Mexico)
- Ba Tư (Iran)
- Hy Lạp (Greece)
- Chí Lợi (Chile)
- Ai Cập (Egypt)
- Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey)
- Na Uy (Norway)
- Phần Lan (Finland)
- Hòa Lan (The Netherlands)
- Nam Dương (Indonesia)
- Tân Gia Ba (Singapore)
- Bỉ (Belgium)
- Lục Xâm Bảo (Luxembourg)
- Ái Nhĩ Lan (Ireland)
- Tô Cách Lan (Scotsland)
- Bồ Đào Nha (Portugal)
- Spain (Tây Ban Nha)
- Hung Gia Lợi (Hungary)
- Bảo Gia Lợi (Bulgaria)
- Địa Trung Hải (The Mediterranean Sea)
- A Lịch Sơn (Alexander)
- Hốt Tất Liệt (Kublai Khan)
- Tây Tạng (Tibet)
- Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya)
- Vạn Lý Trường Thành (The Great Wall)
- Thượng Hải (Shanghai)
- Mãn Châu (Manchuria)
- Quảng Đông (Canton)
- Miến Điện (Burma, Myamar)
- Ngưỡng Quang (Rangoon)
- Tân Tây Lan (New Zealand)
- Đài Bắc (Taipei)
- Đế Thiên Đế Thích (Angkor Wat)
- Biển Hồ (Tonle Sap)
- Vạn Tượng (Vientiane)
- Nam Vang (Phnom Penh)




 

 





Chữ Của vẹm...



Trong khi cộng sản có khuynh hướng Việt hóa các chữ Hán Việt (Lính thủy đánh bộ, tàu sân bay, xe bọc thép...), thì cũng chính họ lại có khuynh hướng sính dùng chữ Hán Việt trong khi các chữ Việt thuần túy nghe êm tai hơn.

Chúng tôi xin đưa ra vài thì dụ trong hàng trăm, hàng ngàn cách sử dụng sai trái của Việt Cộng.

Chắc quý vị còn nhớ các bảng hiệu “xưởng đẻ”, “nhà đái nam”, “cửa hàng thịt Thanh Niên” trong những năm sau 1975? Nghe mà tởm lợm, dựng tóc gáy.

Các chữ Hán Việt như “cự li” (khoảng cách = distance), “cách ly” (cô lập = isolate), “tiếp cận” (đến gần = approach) ngày trước chúng ta vẫn dùng; nhưng tùy theo từng trường hợp.

Cự li dùng trong quân sự, chữ thường là 'khoảng cách'.

Tiếp cận dùng trong toán học, chữ thường là 'tiếp xúc'.

— “Miền nam Việt Nam tiếp xúc với nền văn minh Tây phương”.

— “Tổng thống đã trực tiếp tiếp xúc với dân chúng ở vùng Cao Nguyên, thuộc thị xã Ban Mê Thuột...”.

Khi nói về những chuyện thông thường, người ta nói:

— “Khoảng cách giữa các xe...”.

— “Anh B. bị bạn bè cô lập....”.

— “Anh A. đến gần cô B.”

Nghe nhẹ nhàng dễ hiểu hơn nhiều.

Khi nói đến “chùm” (cluster, bunch), chúng ta hình dung đến chùm nho, chùm cau, chùm lông (hay túm lông), như người ta nói:

Một tập thơ.
Một xấp ảnh.
Một hợp ca (tam ca, tứ ca, hay đồng ca).

Thật là khó chấp nhận khi nghe hay đọc các chữ như: chùm thơ, chùm ảnh, tốp ca...

Chùm hay bó, hoặc cụm là những chữ cụ thể. Cụ thể là vật có thể sờ nắm lấy như: bong bóng, thì dùng chữ: chùm bong bóng.
Còn chữ "chùm thơ" là sai, vì thơ là chữ trừu tượng.
Chữ để chỉ triều tượng là chữ không thể nắm, sờ... cũng như dùng chữ "cụm chữ", chữ thuộc về phầ triều tượng, không thể nắm bắt hay đo, đong, đếm... nên không thể nói là 'cụm chữ', 'chùm thơ được, mà phải nói là "những bài thơ" và "câu (văn), câu (nói).

Chữ "cụm" dùng cho: "cụm mây" hay đám mây.
Thí dụ:
— Cụm mây tụ lại, báo hiệu thời tiết..".
— Cụm khói đang bốc lên được dẹp tắt."


Trong các bản tin do báo hải ngoại trích từ báo của Việt Cộng chúng tôi đã đọc:

— “Cái bánh chưng vĩ đại (được vào sách Kỷ Lục) này do bà Nguyễn Thị X. ‘thể hiện’”.

Ðúng ra, phải dùng chữ “thực hiện” hay đơn giản hơn dùng chữ “làm”, 'vĩ đại' thuộc về triều tượng (sự hy sinh cao cả và vĩ đại), bánh Chưng là chữ cụ thể, phải dùng chữ "khổng lồ" hoặc "to lớn, to tướng" khác thường... 'Thể hiện' có nghĩa là biểu lộ (express). Người ta nói “thể hiện sự ưu ái, thể hiện lòng ái quốc... Chính tự điển của Việt cộng cũng định nghĩa đúng thế.


— “Ca sĩ X ăn mặc 'ấn tượng'”. Ấn tượng là danh từ (impression). Phải nói cách ăn mặc của ca sĩ X. gây một ấn tượng tốt.

— Ðiểm nhấn: Trong cách ăn mặc, chiếc cà vạt là ‘điểm nhấn’. Ý tác giả muốn nói đến điểm nổi bật gây chú ý nhất (focus).

— Nổi cộm. Đề tài nổi cộm, vấn đề nổi cộm, Eo ôi! Tại sao không dùng chữ "nổi bật"?

— Bức xúc. Tiếng Việt có các chữ bứt rứt, ray rứt (worry) hoặc lo lắng. Chính trong tự điển Việt cộng cũng không có chữ 'bức xúc' này. Nhưng nhiều nhà hoạt động của người Việt hải ngoại vẫn cứ dùng chữ bức xúc một cách ngô nghê vô tội vạ.

— "Thống nhất ý kiến". Một vị bác sĩ đã có tuổi, sống hơn nửa đời mình ở miền Nam và có nhiều bài viết trên rất nhiều báo hải ngoại đã viết: sau khi hội ý, các bác sĩ đã thống nhất ý kiến. Tại sao không viết Sau khi bàn bạc, các bác sĩ đã cùng đồng ý?...

Những chữ do Việt cộng dùng để che giấu việc làm, ý đồ, hoặc đánh tráo chữ nghĩa, ý niệm, hoặc tư tưởng bất chính, vi hiến... của chúng như: Giải phóng, hòa hợp hòa giải, hiệp đồng, thống nhất, cách mạng, Mỹ Ngụy, bên thắng cuộc bên thua... Chúng ta phải phán đoán cho công bình và giành lại những chữ đúng đắn sự thật và đầy chính nghĩa về cho chúng ta, thí dụ như: Ngày 30 tháng tư là ngày Việt cộng cưỡng chiếm miền nam, mà Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử, thay vì nói theo Việt cộng là QLVNCH thua trận vì sự thật ta không thua mà bị bắt phải buông súng, đó là bức tử.

Chúng ta không gọi Việt cộng chúng là quân 'giải phóng', vì rành rành chúng cướp chính quyền vi phạm luật ngưng bắn, vi hiến xâm chiếm lãnh thổ của ta, ta không gọi ngày 30 tháng Tư là ngày "giải phóng hay thống nhất" được. Việt cộng ngụy biện là việc của chúng, vì chính Việt cộng ký chia đôi đất nước với Tàu và Pháp, Quốc Gia Việt Nam không ký. Đừng nói theo chúng, hãy công bình mà dùng chữ cho đúng sự thật.


Sự dùng sai, vay mượn chữ do Việt cộng sử dụng bừa bãi của những người viết, của báo chí hải ngoại do thiếu ý thức hay nhân lực đã vô tình đi sai chức năng cao quý vị hướng dẫn quần chúng của báo chí truyền thông. Ngày trước, báo giới Việt Nam Cộng Hòa rất thận trọng. Họ làm báo như một nghề chính thức. Vì thế, các báo Việt Nam có cả một tòa soạn, ban trị sự, ban biên tập, người sửa bài. Họ duyệt bài tương đối kỹ, vừa về quan điểm vừa về văn phạm, lỗi hỏi ngã. Và nhất là họ không làm việc cắt dán, cóp py bài vở từ báo khác. Ngày nay, báo chí tại hải ngoại nở rộ. Có báo chỉ cần một người, một máy điện toán là đủ tạo nên một tòa soạn, ban biên tập. Bài vở thì phần lớn cắt và dán từ các trang web mà không hề đọc lại thật kỹ. Chính vì sự đói bài vở này, mà những bài viết từ Việt cộng có cơ hội xâm nhập ồ ạt vào sinh hoạt truyền thông hải ngoại, làm một công cụ tuyên truyền không công cho Việt Cộng.

Nếu chịu khó làm công việc vạch lá tìm sâu thì chúng ta sẽ thấy đã có nhiều cây viết hải ngoại cũng có ít hoặc nhiều lần, xài chữ sai từ phía Việt cộng.



Ðỗ Văn Phúc

http://www.quehuongngaymai.com/forums/showthread.php?t=136303



 

Bài trên, tựa đề được thay đổi, và cho vào vài chữ sai nhưng hay dùng, và chỉ lấy phần quan trọng trong toàn bài viết của tác giả. Xin nhấn đường nối để đọc toàn bài và bài gốc của tác giả.

 

 

SĨ và SỸ

Nếu theo con đường học hành, chữ đầu tiên thường gặp là sĩ số trên bảng đen để điểm danh.

Bước vào cửa ải đầu tiên gọi là  sĩ tử, chịu khó phấn đấu sẽ thành thạc sĩ rồi lên tiến sĩ và tột đỉnh trong lãnh vực nghiên cứu là tiến sĩ khoa học.

Học thành tài mà đóng góp với đời bằng kiến thức thì xưa là  sĩ phu, còn nay là  nhân sĩ

Người có học thường được gọi là  kẻ sĩ. Được thế giới công nhận thì thành  viện sĩ.

Nếu theo đường binh nghiệp bước đầu là  chiến sĩ hay  binh sĩ.

Tiếp tục phấn đấu sẽ thành hạ sĩ quan từ hạ sĩ lên trung sĩ rồi thượng sĩ. Chịu khó phấn đấu tiếp sẽ thành sĩ quan.

Đánh giặc dũng cảm thì được gọi là dũng sĩ. Chẳng may chết trận sẽ nằm trong số tử sĩ. Nếu hy sinh một cách vinh quang sẽ được phong là liệt sĩ.

Đi theo con đường chính trị thì bước đầu chỉ là tay chân trên bàn cờ thế sự gọi là sĩ tốt.

Tiếp theo thành kẻ nấp sau lưng bầy mưu tính kế gọi là  mưu sĩ. Lên đến đỉnh trở thành nghị sĩ, cụ thể hơn là hạ nghị sĩ hoặc thượng nghị sĩ.

Còn theo ngành nghệ thuật thì người làm thơ gọi là thi sĩ, viết văn sẽ là văn sĩ (ưu ái phụ nữ nên có chữ nữ sĩ mà không có nam sĩ), người sáng tác nhạc gọi là nhạc sĩ còn hát (nhạc) thì được gọi là ca sĩ.

Chán đời xuất thế sẽ là ẩn sĩ, đi tu thì thành tu sĩ. Theo đạo của Lão tử sẽ là đạo sĩ  còn theo các đạo khác sẽ thành giáo sĩ.

Khi sức khỏe hơn người gọi là lực sĩ, ra tay cứu giúp người bị nạn, hiếp đáp thì gọi là hiệp sĩ, còn chẳng may vào bệnh viện sẽ có các bác sĩ và y sĩ  “phục vụ”.

Ta được các nha sĩ chăm sóc nhiều hơn, vì các bộ phận trên thân thể người ta chỉ có từ một đến hai cái và hoạt động rất bền, ngoại trừ răng có tới 32 cái x 2; do đó, phải thay hết một lượt răng sữa nên răng phải được chăm sóc luôn.

Người ta nên có sĩ diện, nhưng không lo học và làm mà chỉ nghĩ mình hay sẽ là “đại sĩ”.



..................................

 


  Bảo tồn tiếng Việt - không dùng chữ Việt Cộng


 

***************************************************

 

Đọc thêm



CHIÊU HỒI NGÔN TỪ
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chieu-hoi-ngon-tu.html

 



Nỗi Buồn Tiếng Việt Thời Cộng Sản
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/noi-buon-tieng-viet-thoi-cs12082015vi.html

 

 

Việt cộng và Chữ Việt sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/viet-cong-va-chu-viet-sau-1975.html

 

Chữ Nghĩa Việt Cộng
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/chu-nghia-viet-cong.html

 

Tiếng Việt và Tiếng Vẹm
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/tieng-viet-va-tieng-vem-tieng-viet-va.html

 

Đánh Dấu Tiếng Việt trước và sau 1975
https://caybut2.blogspot.com/2016/11/anh-dau-tieng-viet-truoc-va-sau-1975_12.html

 

Tiếng Việt Trong Nước Hiện Nay Sai
https://caybut2.blogspot.com/2017/07/tieng-viet-trong-nuoc-hien-nay-sai.html

 

Có nên dùng ngôn ngữ của Việt Cộng?
https://caybut2.blogspot.com/2017/12/co-nen-dung-ngon-ngu-cua-vc.html

 

TIẾNG VIỆT CÙN
https://caybut2.blogspot.com/2017/12/tieng-viet-cun_15.html

 

1


2


3


4


5

 

No comments:

Post a Comment