Saturday, July 3, 2021





Văn-Lang và Bách Việt



Dù nhiều lớp bụi mờ đã phủ lên cổ sử, thử tìm hiểu thêm về Văn-Lang và Bách Việt.

Văn-Lang là "Van-Lang-Sang" là Vạn-Tượng.

Tôi đọc qua bài viết giải thích tên Văn-Lang với cách diễn giải Văn là "Văn 紋" là Xâm mình, vì chữ Hán có chữ Văn 紋 là xâm, và người Việt có phong tục xâm mình khi xưa, đã được ghi trong cổ Sử, và Lang là "Lang 郎" có nghĩa là "người" hay là anh chàng, (ví dụ như Tân lang, tình lang v. v...).

Nhớ khi xưa học Anh Văn, trong một lớp có học sinh thuộc nhiều sắc tộc khác nhau, Thầy giáo "Da trắng" hỏi, có ai biết phát âm "lang-sang" ở Lào, hay bắc Việt Nam có nghĩa là gì không? Một học sinh người Lào trả lời: có nghĩa là "Many elephant"-("nhiều Voi"), và cho biết có đến mấy ngôn ngữ sắc tộc thiểu số khác biết và Dùng "Lang-Sang" là "Nhiều Voi".

- Ngoài ra còn "Voan-xieng" tiếng Triều Châu là "Vạn-tiên". 萬 仙 ", Núi Vạn Tiên ở Thái Hành Sơn 太行山 , nhưng không! Chưa nghe qua tích gì liên quan đến Vạn-Tiên Sơn, mà chỉ biết rằng "Voan-Xieng 萬象 " có phát âm như là Vạn-Tượng 萬象 . "Voan -Xieng" lại như là Vạn-Xuân theo cách người Triêù Châu còn dùng y nguyên tiếng Việt đễ chúc tụng "Vạn Xuân", Đây là ý nghĩa không được vội kết luận nếu như chưa chứng minh được rõ như 1+1=2;... hai Bà Trưng cởi Voi khởi nghĩa, họ tên là gì?... không có ai họ "Trưng"! không có ai họ "Tượng" , không có họ" Voi", Vậy thì "Trưng" hay "Choeng" hay "Chen" hay "Xieng" hay "sang"? và là phát âm Cổ xưa? là biến âm và đều có nghĩa của"Tượng"... và tiếng Bắc kinh ngày nay còn đọc là "Xiang ", Vậy hai bà "TRƯNG" là hai bà "Tượng"? hay là hai bà Họ "Trương"? hay là Họ "Tơ-Rưng"?... như tên gọi tiếng đàn Tơ-rưng? Ngày nay thì tiếng Quảng Đông gọi Voi là "Choèng", tiếng Bắc KInh là "Xiang", Cổ âm "Voan-Xieng" không ai hiểu nghĩa và tạm dịch là "Vạn-Tiên" hay "vạn Xuân"! Có phải đó là "Vạn-Tượng.

萬象 " Tức là "Van-sang" mà có nơi gọi là "Văn-Lang"? "Sang" hay "Xiang" hay "Voi_Tượng"... Bởi vì tên gọi hai bà Trưng bên


Châu ('Chen' "Chek") và ('Chen' "Dịa") là hiểu liền! "Chek" và "Dịa", Đó là số đếm của 1, 2 của người Triều Châu vẫn dùng ngày nay, không khó hiểu như tiếng Việt Nam là "Trắc" và "Nhị"- trong khi tiếng đếm bây giờ là Nhất Nhị.

---Tiếng Việt Nam thì gọi hai bà là: "Trưng Trắc 徵側 " với "Trưng Nhị 徵貳 ".

- "Trắc" Hay "Chắc" là chử "Chiếc" của ngày nay, Chiếc là 1, đơn "Chiếc " là đơn côi một mình, tiếng Quảng Đông ngày nay thì "Trắc" hay "Chắc" biến thành "Dách" (1234... là Dách, dì, xám, xi...), - tiếng Triều Châu thì "Chắc" là "Chék" (1234... là Chék, dịa, sa, siá...), biết nhiều phương ngôn rất vui, Chữư 單一 là ĐƠN - Nhất còn là " Đơn Chiếc". và "tanśh ié" (Bắc Kinh), "Tanśh dách" (Quảng Đông), "Toa chék" (Triêù châu).

- Chen Chék <-->Trưng Trắc=Tượng 1 - "Chék" <-->Nhất.

- Chen Dịa <-->Trưng Nhị= Tượng 2 - "dịa" <-->nhị.

Nên nghĩ như thế nào về Tên gọi cuả 2 bà Trưng bên Tiếng Triêù Châu khoông cần giải thích... mà hiểu liền là 1 và 2? và lại có tục hát cúng "Voan-Xieng"?

- Lý Nam Đế-Lý Bôn 李賁 là hậu duệ họ Lý, có nguồn gốc tổ tiên từ Hoa-Nam, lập ra Vạn-Xuân quốc萬春國...chưa chắc có nghiã là 1 vạn mùa Xuân! Vì "Vạn-Xuân" mà giao cho 1 người Hoa Nam phát âm thì như là "Voan-Xieng" (Vạn-Tượng 萬象), Cái Bóng của "Voan-Xieng" là "Vạn-tượng" và "Văn-Lang" rất to lớn và bao trùm 1 phạm vi rộng mênh mông trong Cổ sử. Voi Nam Á cao qúi trong cổ sử, Từ Ấn-Độ kéo dài đến biễn đông, gồm Ấn, Miến-Điện, Thái, Lào, Việt Nam, và vùng Hoa Nam thì qúi tộc và Vua đều qúi trọng Voi, Dùng Voi trong việc Uy phong, tế lễ, chứng tỏ quyền uy, làm biểu tượng và cũng làm cống phẩm, qùa tặng cho nhau giữa các vua chúa và quốc gia.

Văn-Lang là tên gọi quốc gia của người Việt ở Việt Nam trong cổ sử. liên hệ mật thiết với cây Tân-Lang là cây Cau, nếu "Van-Tân-Lang" rút gọn là Van-Lang, là "Vạn-Lang"(Vạn cây Cau) rồi đọc thành ngắn gọn, thì trở thành Văn-Lang! -mộc Ghép với chử Lang là thành chử Lang của cây tân-Lang,Trầu_Cau lại lả "Sơ_Tân-Lang" mà phát âm nhanh rút gọn lại là "Sang"(疋檳榔=疋木木=) Hay "Shan", Lang có nghiã Tân Lang là Cây Cau như ở nước Sở ?, hay nghĩa Lang-sang là nhiều Voi ? Văn-Lang ở Việt Nam nghiã là "Vạn Tượng" hay "Vạn Tân Lang"??? theo 1 chữ Shansở thôi thì đủ kết luận Văn-Lang của người Việt là "Vạn-Tân-Lang"! Nhưng Biểu tượng Voi của vua chúa toàn vùng Đông nam Á và Sự tích Hai Bà Trưng thì "Văn-Lang" lại có ý nghiã là "Văn-Lang-Sang"---> là "Vạn-Tượng"! Và nhất là Sau nầy khi mang tên là "Tượng quận" trong thời kỳ bắc thuộc thì càng thấy rõ đất quận "Voi" ngày xưa là nước "Văn-Lang-Sang Vạn Tượng"<--->"Văn-Lang".

-Chắc chắn có 1 nước "Văn-Lang" phía nam rồi tiến dâǹ lên hướng Bắc thời cổ sử. và bây giờ theo ngữ âm khi đọc thì ngôn ngữ ở Vùng Hoa Nam "Voan" còn dễ hiểu và rỏ nghiã là "Vạn" hơn tiếng Việt Nam là "Văn" mà làm cho người ta hiểu lầm là xâm minh̀. "Vạn-Tân-Lang" thì đúng nghĩa Ở nơi nhiều cây Cau, "Van-Lang-Sang" -"Vạn-Tượng" thì đúng nghĩa là nhiều Voi, NHƯNG ...cảng lên cao về hướng Bắc thì không còn có cây Cau mà cũng không có Voi, vậy mà có NƯỚC Sở tên là Shan, và Triều Thương cũng tên là Shan, Đó: là bằng chứng Văn-Lan là 1 đại thể có nguồn gốc phương nam.

Nếu Khảo cứu kỹ lưỡng trong lịch sử thì sẽ thấy:

-Văn-Lang Bắc tiến từ phía nam đi lên, đến vùng Vân Nam,Qúi châu, Tứ xuyên, và 1 phần của Hồ nam, hồ Bắc thì gọi là "Dạ-Lang". Bởi vậy trong cổ sử có nước Dạ-Lang 夜郎 ở vùng nầy. Mà hiện giờ dân tộc Bố-Y có ngôn ngữ nửa giống như tiếng Bắc kinh và phân nửa giống tiếng Việt là đại diện tiêu biểu của "người Dạ-Lang".

- Văn-Lang tiến đến một Phần cùa 湖南Hồ Nam、湖北Hồ Bắc、重Trùng Khánh、河南Hà Nam、安徽An Huy、江Giang Tô、江西Giang Tây v v...thì goị là Shan và bị đổi ra gọi là Sở, có lẽ cách đọc phải thay đổi vì có 1 Shan khác thường được tiếng Việt gọi là Triều "Thương" viết là Shan đã bị Mất vào tay nhà Chu nên húy kỵ Chăng? (Có thể so sánh với trường hợp chử "Lợi" ở Việt Nam ngày Xưa đọc là "Lị", nhưng đến khi có vua Lê Lị 黎利 thì kỵ gọi trúng tên vua nên đã đổi "Lị " trở thành "Lợi ", và lâu dần không còn ai nhớ và đọc đúng chử "Lị" nữa, và chỉ đọc là "lợi" mà Thôi). Hoặc, đây là Dấu tích lịch sử đã bị tráo trở ngay chổ nầy! Bởi vậy trong Sử có nước Sở viết bằng chử Shan là "Sơ-Tân-Lang" (*:疋木木) ở Vùng nầy, mà ngày nay tiếng nói và người Giang tây, Trường sa là đại diện của người SỞ-(:疋木木)-Sơ-Tân-Lang.

(*:疋木木): Trong bài trước đã phân tích chữ Sở có 1 âm đọc là "Trầu", chữ tượng hình gồm có 6 cách để thể hiện, và trong đó có cách hài thanh+cách vẽ hình, theo luật cuả chữ thì Sơ lâm木木 là hai chữ mộc, thì phải đọc là Sơ-lâm-Sâm, nhưng chữ Sở là Vẽ hình dây Trầu quấn cây Cau, cho nên đáng lẽ phải đánh vần là "Sơ-Cau-sau", chử "cau" ngày nay giọng Bắc và Nam vẫn đọc khác nhau, miền bắc đọc như cây "Câu" nhiều hơn, ngày xưa có thể là "Cơ" cho nên mợi có âm "Sơ-cơ-Sở", Nhưng Cây Cau còn có tên là "Tân-Lang" cho nên có âm "Sơ-Tân-Lang=Sang hay Shan"; Bản thân của chử Shan(Sở) là câu chuyện sự tích trầu cau rồi.

- Văn-Lang Vượt qua phía Bắc của Shan Sở , thì gọi là Shan mà còn gọi là triều Thương . ( và chỉ riêng phần đất phía Triều Thương nầy, sau nầy bị mất vào tay nhà Chu, rồi biến thành nhiều nước nhỏ trong thời gian gọi là Đông Chu liệt quốc). Bởi vậy trong Sử có Triều Shan Thương ở vùng đất nầy. (Vùng nầy khi ShanThương bắc tiến đã gập phải người da trắng đến từ Siberia, Hung-Nô, Nga, Tucky v v..., ShanThương chinh phục và đồng hoá người da trắng, các triều đại sau nầy thì lại càng có nhiều người da trắng xâm chiếm và di cư đến vùng nầy rồi lại bị đồng hóa trở thành "Hoa" hay "Hán" nhưng mà da rất trắng và thân cao to...điển hình là các cô gái phía bắc cuả vùng Sơn Đông hiện giờ cao 1 thước 70 là chuyện thường,... chỉ xét riêng Triềù Hán thì đã có cả chục triệu người "tây phương", "hung nô" đã qui phục và trở thành dân Hán, đến thời nhà Tấn, thì toàn thể vùng nầy bị người tây phương da trắng tràn ngập và lập ra nhiều quốc gia nhỏ mà sử gọi là thời kỳ Nam-Bắc Triề̀u, ngày nay đại diện cho vùng nầy là người và tiếng Bắc kinh).

- Văn-Lang của người Việt Nam ngày nay thì dù ở trong nước hay khấp nơi trên thế giới , người Việt Nam đều thường hay lấy tên Văn-Lang đặt tên cho trường học, và Người Việt vẫn giữ phong tục có Trầu-Cau cho lễ thành hôn.

Phải là Cùng chung cùng quốc gia thì tên gọi mới giống nhau được một Văn Lang Tiến từ Nam lên Bắc trong qúa trình hàng ngàn năm mới có bờ cỏi mênh mông, chắc chắn là đâỳ bi hùng cho nên chữ Việt mới có đến 2 cách Viết là Việt và Việt và chữ "Việt > với bộ Tẩu và cái Qua" rõ ràng có ý nghĩa là Cầm vũ khí mà "Vượt" lên...,Tên gọi từng vùng của Văn-Lang khác nhau về Phát âm vì yếu tố ngôn ngữ đã "địa phương hóa" bởi vì địa bàn qúa rộng thì chắc chắn có nhiều dân tộc khác bị Văn-Lang chinh phục và đồng hóa nhau, nhưng không thoát khỏi âm chính là đất nước của hàng vạn Voi, hàng Vạn cây Cau... "Van-Lang-Sang"; Văn-lang qúa rộng lớn nên mổi nơi đều có vua chúa của mình, có thể gọi đó là 1 liên bang to lớn cho nên tính chất địa phương đã làm chủ từng vùng, và cũng từ đó mà diễn biến trở thành Bách Việt, Sử của Văn Lang Bắt đầu từ bao giờ? ai mà chứng minh vẹn toàn được? đến bây giờ là 5 ngàn năm văn hiến ? Có thể ít hơn! có thể nhiều hơn gấp đôi thì sao? những con số không kiểm chứng được dù có viết ra thì cũng chỉ là tượng trưng mà thôi! nhưng cũng chỉ có lịch sử Văn-Lang là mới phù hợp và lý giải được tại sao Nhóm Việt- - - Yue lại có mặt trên một địa bàn quá rộng trong cổ sử.

_Nhưng rồi Văn-Lang ở Phía Bắc trở thành nhập nhằn Hoa và Việt khi bắt đầu có nhà Chu rồi đến Xuân thu-Chiến quốc của thời Đông Chu..,Nếu Shan là Thương không mất vào tay Chu thì thời Xuân thu-Chiến Quốc với các nước nhỏ là Ngụy -Hàn -Triệu -Yến - Lỗ- Tề -Tần vẫn là 1 phần của Văn-Lang là ShanThương, nhưng vì mất Triêù Thương và có Triêù "CHU" nên vùng đó trở thành :

1/-Chử Viết không thay đổi, -nhưng đổi tên là Hoa Hạ tộc, dễ gây ngộ nhận.

2/-ngôn ngữ có biến âm dần dần, -và sau nầy thay đổi nhiều hơn, dễ bị lầm lẫn là ngôn ngữ khác.

3/-văn phạm thì đão ngược dần dần,-hơn 2000 năm sau thì trở thành gọi là Hoa ngữ, (biến âm và biến văn phạm).

4/-ngụy tạo lịch sử và bôi nhọ Đế Tân của Văn-Lang phía bắc là Shan là TRƯ (Trụ Vương ) là mê Đĩ (Đắc-Kỷ hay Đán-Kỷ ) Chu kể tội "Trụ" Vương có 6 tội, sau nầy dần dần ...thành nhiều tội hơn! đễ mỵ dân làm cho dân ghét vua Cũ và không muốn phục quốc, - không viết đúng lịch Sử, Tách Shan ra khỏi gốc của Shan Sở và đại thể Văn-Lang trở thành 1 nhóm, rồi xưng là Chu -Hoa..., trong khi Giáp cốt văn và kim Văn của Shan Thương+ shan sở mà Chu-Hoa dùng lại là được khai quật lên từ đất ở Shan Sở và phù hợp với cách viết và cách đọc ở Shan sở và phía nam, so với các ngôn ngữ phía bắc là tiếng Nga, Mông-Cổ, Thổ nhị Kỳ, Tây tạng, Mản Châu v v...là hoàn toàn khác biệt.

5/- Chu đã Dùng danh Từ "Hoa" là qúi tộc thời xưa, nhập chung với chử "Hạ" để cho là chính thống theo tổ tiên thời nhà Hạ, -Và dành độc quyền ta là "Hoa" , Ta là "Hạ" , Trong khi Hạ là Triều đại xưa trước Shan, và Hoa là giai cấp qúi tộc xa xưa của thời vua NGhiêu, Thuấn , Hạ..., cách diễn giãi lịch sử độc quyền như vậy ...gạt hẵn văn hóa có sẵn của Văn-lang hay shan qua 1 bên, đưa tất cả gốc gác văn hóa trung nguyên theo tthuyết bắt nguồn từ phía tây là của Tibet (và cho đến nay thì tiếng "Hoa" ở Trung-Hoa được gọi là Hán-Tạng ngữ. Nghĩa là bắc nguồn từ Ti tức là Tibet hay còn gọi là Tây-Tạng)...trong khi đa số dân chúng và văn hóa của Chu là Dân chúng và văn hóa Shanmà họ mới giành được!!!

...Vì sao phải phải nói vậy khi khảo cứu lịch Sử ?...Bởi vì có 1 dòng lịch Sử viết theo cách tất cà là theo nhà Chu ! tất cả "Văn Minh" là bắt nguồn từ nhà Chu! và dèm pha "Trụ" Vương lạ lùng đến đỗi người ta phải bỏ thời giờ ra nghiên cứu !!! ...Có lẽ Cái bóng cuả "Trụ" và Shan-Văn Lang qúa lớn, Anh Hùng cuả Dân tộc nầy lại là kẽ thù của dân tộc kia ở bên đối phương, Nếu Không có Shan-"Trụ" Vương đánh Đông thì sau nầy dễ gì có nước Việt của Việt Vương Câu-Tiễn và nước Ngô, nếu không có Shan-"Trụ" Vương lại Bắc Tiến thì dễ gì có Ngụy -Hàn -Triệu -Yến - Lỗ- Tề -Tần v v...đễ mà nhà Chu phong Hầu phong tước cho họ ? ...Có lẽ quân và Dân mệt mỏi và đau khổ vì chiến tranh, theo Sử liệu thì khi quân Chu tiến Vào Triêù-Ca là kinh đô của nhà Thương thì quân số chỉ bằng 1 phần 10 cuả quân lính bên "Trụ" Vương, nhưng quân ở Triều-Ca khi đó đã quay giáo rước Giặc là nhà Chu vào Thành,... Có lẽ đó là Trận chiến tranh Tâm lý chiến tuyên truyền đã thành công kinh hồn nhất trong lịch sử cổ đại, "đã khiến Trụ Vương phải tự Tử cho dân...sáng con mắt sau nầy !!!"_Câu nầy là ...của tôi!...để diễn giãi nhà Chu bước vài thời kỳ Đông Chu liệt quốc, chia làm thời kỳ Xuân thu-chiến quốc...dân chúng ...tha hồ đau khổ cho sáng mắt ra vì ngày xưa đã rước Chuvề!

ShanThương Của "Trụ" vương Bắc tiến đã chiến thắng và đồng hóa người Da trắng mà Cổ thư gọi là Bạch-Địch hay Trung-Sơn Quốc, Chử "địch" tiếng Việt ngày nay là phiên dịch từ chử "Ti - " trong khi Ti lại là tiếng Việt ngày xưa phiên âm để gọi người TiBet da trắng, Sau nầy thì chính là nhóm Tibet đã bị đồng hóa nầy lại tài tình sử dụng tâm lý chiến là "Vua Trụ mê Đắc-Kỹ và ác dâm" diệt nhà Thương lập nên nhà Chu và xưng là "Hoa-Hạ tộc". ..Đọc Sử đã bị "cải biên" cứ ngỡ Shan của triêù Thương là không dính líu người Việt hay Văn-Lang vì gọi là "Thương"...!!! xin chú ý là chử viết để lại là các tiên đế của triêù Thương chỉ đơn giản có tên là ông Giáp , Ất , Bính, Đinh V v..., Chữ Giáp Ất: - thì người Việt ngày nay ít có ai hiểu được! Vì Cứ cho nó là Chữ "Tàu", ...thường hay ghét "Tàu" không thích học chữ "Tàu"! Trong khi người "Tàu" thì làm sao hiểu và thân thiết với Giáp ất 甲乙 bằng người Việt Được! vì , là "Cả, Út", Bởi vì "Giáo ất" chính là "Cả-út" đi 1 vòng biến âm qua "Ca-ék" ( Triêù Châu), "Kap-ià" (Quảng Đông), "Jiẽ-iã" (Bắc Kinh) ...rồi người Việt lại nghĩ rằng Giáp ất là Hán Việt , là "Taù", hết biết Giáp Ất là Cả và Út! ...Hàng ngàn năm với nhìều Triệu anh Cả và anh Út người Việt đã chữi Giặc ÂN-thương_Giặc Tàu ...và đề cao 1 "Phù Đổng Thiên Vương" thần thoại mà nhiều dân tộc thiểu số khác cũng có câu chuyện nầy đễ chữi Vương Triềù Shan Thương với các Vua có tên là ông Cả , ông Út v v...!!! những "Cả" và "Út" sau chữi "Cả" và"Út" trước...không biết thì không có tội ? tàn nhẫn qúa! tôi thích khảo cứu sự thật và chia xẽ sự thật, nhưng cũng đã từng bị vu khống khi thử chia xẽ ý kiến..., cho nên đến nay tôi mới quyết định mạnh dạn công bố những phát hiện của mình.( Cám ơn "Nhóm đàn anh" của tôi, đã ủng hộ tinh thần để tôi công bố những bài khảo cứu).

Khi Viết bài nghiên cứu về lịch sử thì thường hay phải dẫn chứng bằng cổ thư và sách sử, Nhưng cổ thư và sách sử nói sai sự thật thì dần dần cái sai đó có thể biến thành "sự thật" và "Chân lý", thế nên mới nói là trên đời nầy không có gì là tuyệt đối cả, Chuyện Trụ Vương và Đắc-Kỹ là 1 ví dụ điển hình, Các học giả hàng ngàn năm trước đã phải thở dài ngao ngán! vì khi kiểm chứng lại cổ thư thì sách sau kể tội Trụ Vương nhiều tội hơn sách trước! Dù Trụ vương đã chết mà vẫn có tài năng gây thêm tội để sách sau và đời sau thêm vào!!! Bây giờ là thế kỷ 21, Ví dụ "dẫn chứng" Sử ký của Tư Mả Thiên kễ rằng: Nhà Chu diệt nhà Thương, vua "Trụ" tự tử trên lâu đài rực lữa khi thất trận v v..., và: Sở là 1 nước ở phương nam man, còn gọi là Kinh Sở, Kinh Man v v..., và, Các vua Việt tên Câu-Tiễn, Vô Dư, vô Cương v v...Có thể nói là Trật lất hết!!! Nhưng mà lại được dẫn chứng khi "đụng" tới sử ! và ai kiểm chứng được? Và nếu thật sự cố gắng kiểm chứng, thì sẽ phát giác rất nhiều cái sai trong Sử ký của Tư Mã Thiên và Trong chính Sử.

Tư Mã Thiên có tài viết sử, nhưng không phải là nhà thông thái đễ hiểu hết mọi nơi, thu thập tin tức và tài liệu để viết Sử thì lại bị lệ thuộc tài liệu là bắt buột bị phải như vậy rồi! Thời nhà Chu không có báo chí, điện thoại, toà án, máy bay, tàu hỏa,phim ảnh và Internet v v...như hiện giờ thì dễ sai..., và đã có Sử "giả dối" đến đổi các nhà nghiên cứu Sử thuộc các nước tây phương chuộng tinh thần khoa học đã không tin được là "có" 1 triêù đại "Tây Chu" trong chính Sử! Chuyện Chu tiêu diệt nhà Thương còn mập mờ không rõ ràng..., Triều Chu diễn biến thành thời Xuân-thu và Chiến quốc là thời kỳ "nở rộ" Cuả Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, mà cũng nở rộ luôn những cải biên và thêm thắt vào lịch sử ! Sau khi Tâǹ Thủy Hoàng lập nhà Tần chấm dứt thời chiến quốc thì đã đốt sách chôn nho 1 phần cũng là vì Sợ cái "Nho" của thời đó qúa rồi...,"bạo chúa -Tần Thủy Hoàng" xây nối liền Trường-Thành đễ tách biệt hẵn với du mục Hung-Nô và vẫn bị cho là Du mục và Hung-nô/ Tàu...cũng là 1 đề tài cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn..., Sau đó mới có khởi nghĩa của Hạng Võ và lưu Bang, Lưu Bang lập nên nhà Hán trước công nguyên 202 năm, và sau đó hơn 50 hay 60 năm sau thì Tư Mã Thiên mới ra đời, rồi thu thập "tài Liệu" cuả cái thời hỗn lọan Xuân-thu của Chu mà viết nên Sử ký! và Sử ký cuả Tư Mã Thiên là thường được dùng đễ dẫn chứng nhiều nhất khi viết về Sử! và thậm chí là dùng làm "chuẩn"..., nhưng mà cho đến nay ...người ta chưa biết rỏ được Tư Mã Thiên Sinh năm nào!...Nghiã là Xin hảy ghi Năm sinh của Tư Mả Thiên là "trước công nguyên khoảng chừng 145 hay là 135 năm" ! Xin thở dài...! Đó là sự thật của lịch sử, Các truyền thuyết Ông "Bàn-cổ", "Phục Hy" và "nữ-Oa", "Ngu Công dời núi", "Vua VỦ trị Thủy", "Lạc Long Quân lấy bà Âu-Cơ" "Vương Tử Cầu Tiên" "Lảo Tử cỡi Trâu Xanh về tây Thiên làm Thái Thượng Lảo quân" v v...nhiều lắm, điều là "sản phẩm" hay là thêm mắm muối cho ngon của thời Xuân Thu-chiến Quốc đời CHu! khi nhà Chu từ phía tây di chuyển về hướng đông vào Trung Nguyên và Xưng ta là "Hoa" là con cháu cuả "Hạ" là đã mở màng cho việc có 2 dòng Sử để nói về 1 quốc gia! 1 là của những người mới đến Trung Nguyên, 2 là của người củ ở Trung nguyên, Nếu triều Thương là Shankhông bị mất bởi Chu thì các quốc gia nhõ thời Đông Chu liệt quốc và Chu đâu có chuyện bôi nhọ "Trụ Vương" 1 cách khôi hài thành chuyện thần tiên và tìm cách diễn giãi lịch sử sao cho người ta thấy mình là chính thống và là "thế thiên hành đạo"? Càng về sau thì càng có nhiều người mới và 2 dòng sử nhập chung làm 1 vì bản thân nó là 1, nhưng đã bị những cải biên, và ngộ nhận, và sai lầm đến đỗi ngày nay trở thành là Nếu muốn biết cổ sử và nguồn gốc tổ tiên thì: -Nếu Quí vị là người Hoa ...thì qúi vị sẽ không hiểu hết sử Hoa khi không biết tiếng Việt! và nếu qúi vị là người Việt, ...thì qúi vị sẽ không hiểu hết sử Việt khi không biết tiếng đã được gọi tên là tiếng Hoa và chử Hoa!

-Bàn-Cổ 盤古là Bầu hay Bồ, Bùa là "Bàn-Cổ" chỉ là phiên âm của ngôn ngử xưa còn là đa âm. "hổn độn chi sơ, Bàn-cổ thủ xuất" nghiả là ...diễn giãi của con người về thuở ban sơ của vủ trụ khi tạo thiên lập địa là "Thời kỳ ban đầu , bầu trời xuất hiện..." ..vậy thôi ! Bản thân câu văn không có nói đến Bàn-cổ là 1 ông hay 1 đấng tối cao nào cả !

thêm 1 vài thí dụ cụ thể:

- Vua " Phù Sai 夫差 " là tên "Phái", là con của ông vua tên "Qúi", Vì " 闔閭 Hạp Lư- hay-Khạp Lư-Hay Cạp lũy" là "Qúi".

--Vua có tên Câu-tiễn勾踐 là vua Kiên hay Kiện.

-Tây thi... là người đẹp ở "Trử-la薴蘿" thôn, hay là "Tử-La" thôn, chỉ là cách nói đa -âm của tiếng Việt ngày xưa, chính là người đẹp ở thôn Tả( "Tả'': Tử-la<-->'Tả' Lư ) (Tử L a)hay là Thôn "trái", chắc chắn là kế bên thôn "trử-la" còn có 1 thôn gọi là thôn bên "hửu' hay thôn bên "phải" cho nên mới có thôn "Trử-La", có 1 nàng Đông Thi đễ so sánh với Tây Thi càng rỏ ràng có thôn Hưủ và Tả, Tây Thi ... tên là Thi Di-quan施夷光 ? không! giọng đọc Việt cổ và Mân Việt ngày nay thì Di-Quan 夷光 đọc là ia-quang chỉ là chử đánh vần chử "Oanh", nghĩa là người đẹp Thi Oanh ở bên thôn "Tả" , thôn "trái" hay là thôn 'Trả-Trử-la薴蘿'- của phát âm xưa", vậy thôi! không đọc được cái chử gọi là Hán Tự mà thật ra là chử cổ Việt trước khi dùng A B C thì không hiểu, mà đọc được Hán Tự hay Trung Văn mà không hiểu Việt ngữ theo tiếng Việt thì cũng phải chịu thua vì sẽ không hiểu được ý nghĩa là gì. Qui tắc nầy rất đơn giản, nhưng nếu không chấp nhận sự thật, thì ngay cã những sử gia lửng lẫy cũng vẫn sẽ đi vào bế tắc mà diễn giaĩ sai cổ sử của Bách Việt và "Việt" "Hoa".

SỬ nhà Chu 周 Không rõ ràng! chỗ thì nói Chúc Hùng, Vương của Sở 楚鬻熊 là Thầy dạy học cho Châu Văn Vương cuả Nhà Chu. Nơi khác lại nói ngày xưa Lịnh doãn 令尹 (Lịnh Doãn: tương tự cách gọi là Tể tướng-thủ tướng) của Nước Sở là Tử Văn 子文 vào yết kiến nơi triều đình Chu, mà khi đó không ai hiểu tiếng Sở! Sử nhà Chu là Tiêu diệt nước Shang 商của Trụ Vương mà lập nên nhà Chu, trong khi ở kề bên bên nước Chu vẫn còn một nước Shang khác Bị gọi tên là Sở! Dù phát âm như thế nào đi nữa thì tất cả mọi người sẽ dư sức hiểu được rằng chử Sở 楚còn một âm đọc chính là Shan. chuyện dây trầu trồng quấn lên cây Tân-Lang... là nhìn vào chử Sở 楚 là thấy liền! Ghép chữ sơ 疋 với lâm 林 là hai chữ mộc 木 đại diện cho cây Tân-Lang, nghĩa là Sơ-Tân-Lang là Shang; Vậy mà Cổ sử và truyền thống đả chỉ đọc chữ Shang 商 nầy mới đọc là Shang! Còn Chữ Shang 楚 với Sơ-Tân-Lang đúng nghĩa và đúng chữ 100% dây Trầu quấn hai cây nầy thì bị đọc là Sở mà thôi - không đọc "Shang"... Cái gì đã được đa số nói, hay đã nói hàng ngàn năm nó ghê gớm và ảnh hưởng vô cùng...

Chu Diệt Shang???

"Trụ???" Vương chết rồi mà cứ có thêm tội hoài? Để người đời sau ngán ngẳm khi nghiên cứu sử!!!...

Bằng thực tế phân tích và suy xét, sẽ thấy rằng Shang vẫn tồn tại, và Shang bị gọi là Sở, còn một phần Shang khác đã bị Chu lấy đất chỉ là một phần của Shang, và Chu sợ rằng Shang còn tồn tại sẽ đòi đất, sẽ phục quốc và cũng sợ dân chúng của Shang đã mất sẽ nổi lên phục quốc cho nên phải phải thêu dệt tội ác dâm ô này đến dâm ô khác cho vua tên "Thụ 受 " còn gọi là Đế Tân. 帝辛 .. trở thành một ông vua dâm ô ác độc. Vì Chu cứ sợ sệt vì Shang khác vẫn còn đó, và dân chúng của Shang cũ thì... đông quá nên nhà Chu không đồng hóa nổi mà còn bị đồng hóa ngược, vì thế cho nên phải dùng thủ đoạn chính trị tuyên truyền đễ giữ triều Chu đó thôi... và kết quả là... cứ lâu lâu thêm một thời gian... thì "Trụ" vương lại có thêm một hình thức dâm ô, ác độc khác, để dân gian kể cho nhau nghe chơi... và lâu dần thì đủ để thành một truyện "phong Thần" rất hấp dẫn trong dân gian... mà ngày nay chúng ta còn bị mê hoặc đễ nghe kể chuyện và xem phim "Phong Thần - Trụ Vương say mê Chồn Tinh Đắc-Kỹ"!!!

Ngày nay chúng ta xem phim hay đọc truyện phong Thần và chuyện Sở Bá Vương Hạng VÕ với Ngu Cơ, thì thấy là hai vị anh hùng đó đều bị diễn giãi trở thành ác độc và mê gái!!! Trong khi họ là anh hùng Văn Võ song toàn của Shan-Văn-Lang từng có chiến công lừng lẩy.


Khi nước Shan 商 mất, Thì nước Shang 楚 (Sở) vẫn còn, và từng xưng bá vùng Trung nguyên trên cả quyền lực của vua Chu.

Sau nầy Tần Thủy Hoàng Diệt luôn Shang 楚 (Sở) và thâu tóm Trung Nguyên của Shang mà lập nên nhà Tần, sau đó đến đời nhà Hán thì có sứ giã Hán Triều là Đường Mông Gothic 唐蒙 đến nước "Dạ Lang 夜郎 " mà Vua Dạ Lang hỏi sứ Giả rằng:

"Nước Hán Lớn? hay Nước Dạ-Lang lớn?"



Bởi vì riêng "Dạ-Lang" đã quá lớn và Văn-Lang quá rộng.

- Hãy nhìn xem tên
Đông Đức và Tây Đức,
Nam-Bắc Triều tiên,
Đông và tây Hồi, và Trung Quốc lục địa ngày nay và đảo Đài Loan có tên Trung quốc.

Các quốc gia trong cổ Sử gồm Văn-Lang, Lang-Sang, Dạ-Lang, Shan
, và Shang tuy phát âm khác nhau do tùy theo địa phương và lại có địa lý nối liền nhau mà cùng mang một tên chung là "Van-Lang-Sang" hay là "Văn-Lang" thì nếu không phải là chung một quốc gia thì đâu có chuyện "hi hửu" mang chung tên như vậy xảy ra?
Bằng cách phân tích kỹ lưỡng và hửu lý thì tất cả chi là một nước lớn là "Van-Lang-Sang" và đã từ nam mà Bắc tiến, nên đã quá nhiều lần di dời thủ đô trong lịch sử đã ghi lại của Shang. Trong giáp cốt văn, và có nhiều đời Hùng Vương ở đất Shang mà sau nầy người ta thêm vào chữ Sở trước chữ Hùng Vương (Thường hay nói là 18 đời Hùng Vương, nghĩa là "Tất cả vua Hùng", người Xưa hay dùng 18 đễ chỉ "Tất Cả" , ví dụ... tinh thông thập bát môn võ nghệ, nghĩa là thông hầu hết tât́ cả binh khí của võ nghệ, nếu nghĩ 18 là chỉ có 18 vua Hùng là Trật lất với cách nói của người xưa rồi.).


Diến biến Của Văn-Lang sau nầy trở thành Bách Việt, nên có nhiều quốc gia lấy tên Việt và chữ viết thì giống nhau mà giọng nói đổi qua đổi lại tuy khác nhau nhưng lại cùng một gốc, mà khi hiểu được các ngôn ngữ khác nhau đó thì mới biết được là:

À! thì ra là vậy!

ví dụ như *Thiên Đình 天庭 là Then thỉn, thiến thìn, then thén, Thiên Đình...

tất cả bây giờ đều mang tên khác nhau là Tiếng Bắc kinh, tiếng Quảng Đông, Tiếng Triều Châu, Tiếng Việt Nam, và thường là người ta nghe mà không hiểu nhau, đến khi đọc chậm, nghe kỹ, hoặc có người giãi thích thì mới thấy là:

Ồ, giống nhau.


Bài khảo cứu nầy của tôi chỉ viết với dạng đại ý, nêu lên ý chính, nếu viết thêm chi tiết rõ ràng khi liên quan đến phong tục, nhân chủng, khảo cổ, di tích, thư văn, gia phả v v... thì trở thành nhiều trang như một quyển sách, chỉ khi có điều kiện đầy đủ thì mới làm như vậy được, cho nên trước mắt là đành viết ngắn gọn theo từng đề mục.

Ba bài viết những lớp bụi mờ của lịch sở (1), (2) và (3) của tôi là nhận xét vô tư và can đảm theo một hướng suy nghĩ mới, viết ra đễ góp phần tìm hiểu cho đúng những gì mà lịch sử đã bị phai mờ hay ngộ nhận mà hiện giờ ở thế kỷ 21 nầy người ta sẽ có cơ hội đễ kiểm chứng bằng khoa học phân tích và chứng minh bằng nhiều cách khác...;

Bài khảo cứu chỉ là đóng góp cho sự thật nên được tìm hiểu, xin đọc giả luôn luôn có cái nhìn bao quát và đa phương diện, luôn luôn xét kỹ những ý kiến thuận nghịch... Xin trân trọng sự thật và mưu tìm hạnh phúc an lành cho tinh thần uống nước nhớ nguồn, tìm hiểu sử xưa đễ truyền cho thế hệ mai sau, tất cả mọi người điều nằm trong diễn biến lịch sử...


Đỗ Thành – nguồn Newvietart.com




_____________________________

*Ghi chú: Phục chế cổ Hán ngữ ở Trung Quốc có kết quả:

天庭 là Then thỉn, thiến thìn, then thén có nguồn gốc từ âm đọc là "Thiên Đình"

*****************************


BÁCH VIỆT SỬ: NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (3)

Bài gửi by  Bách Việt 18 on 3/9/2013, 9:00 pm Sở gọi là Shang như là nhà Thương thực ra là vì đất Sở chính là đất Thương. Nhà Thương trước khi Bàn Canh chuyển lên phía Bắc đóng tại chính vùng đất mà sau này là nước Sở. Nước Sở vẫn giữ họ Hùng chứng tỏ nhà Thương cũng là họ Hùng.

Liệu có phải Thương Ngô thiết Sở? Sở là cách gọi lướt của vùng đất Thương Ngô quanh sông Trường Giang.


Re: BÁCH VIỆT SỬ: NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (3)
Theo suy nghĩ của tôi. Chiếu theo Dịch tượng thì:

- 'Sở' biến âm của 'sủy' là nước chỉ phương Nam xưa, nay là Bắc.
- 'Thương - Ngô' chỉ đất Đông Nam (xưa) của 'thiên hạ'.

Re: BÁCH VIỆT SỬ: NHỮNG LỚP BỤI MỜ CỦA LỊCH SỬ (3)

Bài gửi by Admin on 4/9/2013, 9:29 pm

class="post-entry"> Sử thuyết Hùng Việt cho đất gốc nhà Thương là vùng Hồ Nam nay tức đất Sở xưa.

http://nhat.1forum.biz/t448-topic


Chữ Hán

Karlgren

Vương Lực

Baxter

Âm chữ Cổ

Việt

Chữ Hán Việt

(Đường âm)

pinyin

Quảng Đông

Mân Nam

b’ɑŋ baŋ baŋ buồng phòng fang2 fong2 pong5,pang5

Nhà Hán đã cử nhiều quan lại có tài như Tích Quang, Nhâm Diên đến Giao Châu “mở trường dạy học”, “truyền bá văn hóa Trung Nguyên”, văn hóa Hoa Hạ-Hán

song chỉ một thành phần dân Việt “thuộc tầng lớp nho sĩ” mới tiếp nhận.



Hoạt động của Trung quốc ở Bắc phần Việt Nam trong sáu thế kỷ đầu thời kỳ “thực dân” mới này cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung Hoa hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt…”. Sử gia Trung Quốc cũng thừa nhận rằng mặc dù Lĩnh Nam từ thời Tần – Hán về sau đã đặt dưới mạng lưới thống trị quận huyện, song “vẫn không thâm nhập được vào tầng lớp cơ bản của xã hội”. Nhà Hán đã cử nhiều quan lại có tài như Tích Quang, Nhâm Diên đến Giao Châu “mở trường dạy học”, “truyền bá văn hóa Trung Nguyên”, song chỉ một thành phần dân Việt “thuộc tầng lớp nho sĩ” mới tiếp nhận.



Sự kiện Chu Ôn cướp ngôi (năm 907), mở ra thời Ngũ Đại Thập Quốc đầy biến loạn.



“Dân Sơn Việt vùng Đan Dương bao vây thái thú Trần Dần”. Căn cứ vào các sự kiện lịch sử văn hóa có thể phân thành ba thời kỳ nhỏ, bao gồm:



► (a) Thời kỳ tiếp xúc và tranh chấp với văn hóa Hán, tính từ lúc Triệu Đà thôn tính Âu Lạc đến sau khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng thất bại, nhà Đông Hán thắt chặt chính sách cai trị:

► (b) Thời kỳ văn hóa Hán du nhập mạnh mẽ, tính từ sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đến trung kỳ thời thuộc Đường; và

► (c) Thời kỳ phân lập văn hóa người Việt, tính từ trung kỳ thời thuộc Đường đến hết thời Bắc thuộc.

Không gian văn hóa chung là đồng bằng sông Hồng–sông Mã, còn các vùng núi, trung du phía Bắc, vùng núi Thanh-Nghệ-Tĩnh làm ngoại diên. Vịnh Hà Nội bị đẩy lùi dần ra vịnh Bắc kỳ phù sa bồi đắp và mực nước biển rút đi. Sản xuất phát triển, lượng dân cư ngày càng đông đúc. Một thành phần trong nhóm người Tân Lạc Việt phải lên rừng hoặc định cư ở rìa đồng bằng. Trong khi đó, cư dân Tày-Thái vẫn làm chủ các thung lũng và miền núi phía bắc và tây bắc.

Trong các phân tích dưới đây chúng tôi chỉ dựa vào thời gian và văn hóa là chính, chủ đề xoay quanh các biến động văn hóa Tân Lạc Việt dẫn đến kết quả của sự phân lập văn hóa người Việt.

a. Thời kỳ tiếp xúc và tranh chấp với văn hóa Hán

Thời kỳ này khởi đầu bằng sự kiện Triệu Đà thôn tính Âu Lạc, sát nhập vào Nam Việt. Văn hóa Tân Lạc Việt giao lưu mạnh mẽ với văn hóa các tiểu vùng Nam Việt và Âu Việt. Nam Việt vương Triệu Đà chủ trương chính sách Việt hóa Bắc tục, tự xưng là Nam Man đại trưởng lão, do vậy văn hóa Tân Lạc Việt chưa bị biến đổi nhiều. Năm 111 trCN, tướng Lộ Bác Đức triều Tây Hán diệt Nam Việt, chính thức quá trình cai trị và đồng hóa ở Lĩnh Nam. Văn hóa Lạc Việt bắt đầu quá trình giao lưu mạnh mẽ với văn hóa Hán. Đời sống xã hội theo mô hình Văn Lang–Âu Lạc tại đồng bằng sông Hồng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Đến đầu CN, mức tranh chấp văn hóa mạnh mẽ do nhà Hán thắt chặt chính sách đồng hóa cưỡng bức, cuối cùng dẫn đến cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng (39-43) – một sự kiện mang tính cột mốc lịch sử. Sự hưởng ứng mạnh mẽ của các cộng đồng Bách Việt khác tại các địa phương Lưỡng Quảng (Lĩnh Nam) và Hồ Nam có thể cho thấy tính chất và quy mô to lớn của nó. cuộc khởi nghĩa thất bại. Mã Viện bắt hết các Lạc hầu Lạc tướng thiên di vào đất Trung Hoa nhằm xóa nhạt dần tư tưởng và dòng văn hóa địa phương, sự kiện 300 cừ soái Lạc Việt phải lên định cư tại đất Linh Lăng (Hồ Nam). Trên thực tế thì thời kỳ tranh chấp với văn hóa Hán còn kéo dài một thời gian sau đó nữa, trước khi Nho giáo thấm sâu vào văn hóa Lạc Việt.

Về mặt thành phần tộc người, chủ thể chính của giai đoạn này vẫn là tộc Lạc Việt. Âu Lạc sát nhập vào Nam Việt thời Triệu Đà, văn hóa giữa đồng bằng sông Hồng và các khu vực còn lại của Lĩnh Nam càng mạnh mẽ, một lượng lớn cư dân nói tiếng Tày-Thái (Âu Việt) ở phía bắc tiếp tục tiến xuống đồng bằng, góp phần tăng cường mối quan hệ vốn rất mật thiết giữa văn hóa hai khu vực.

Về mặt ngôn ngữ, người Lạc Việt nói thứ tiếng Việt Mường chung, nhánh ngôn ngữ tạo thành từ quá trình phân tách chi Việt-Chứt trong ngành Môn-Khmer ngữ hệ Nam Á từ thời kì văn hóa Cổ Lạc Việt trước đó và hòa trộn với ngôn ngữ Tày-Thái mà thành (đã bàn ở phần trên). Thời gian này, tiếng Hán được du nhập với chủ trương áp dụng Nho giáo. Di dân Hán vào đồng bằng sông Hồng ngày càng nhiều, nhất là nhóm dân “Mã lưu” do Mã Viện chỉ định.

thời kỳ chứng kiến sự thoái bộ của văn hóa Đông Sơn nhưng lại là quá trình tăng tốc khai thác đồng bằng. Trung tâm Đông Sơn đã không còn sản xuất các loại trống đồng mang tính thẩm mỹ cao như trước nữa, mà chuyển sang sản xuất các kiểu trống thương mại, kiểu trống Đông Indonesia (RS4) theo cách phân loại của Ambra Calò [2009]. Người Lạc Việt chủ yếu khai thác các đồng bằng châu thổ để trồng lúa và hoa màu phục vụ lượng dân cư ngày càng lớn.

Tương tự, chất rừng (từ văn hóa Âu Việt, Môn-Khmer) và chất biển (từ văn hóa Đông Việt, Nam Đảo) đã không còn mạnh mẽ nữa, người Lạc Việt “quai đê lấn biển” để trồng lúa. Các trống đồng gốc Đông Sơn ở tận các hòn đảo Đông Indonesia xa xôi được cho là người Tân Lạc Việt đúc song lại do các thương nhân Nam Đảo hay Trung Hoa mang đi trong các chuyến giao thương hàng hải liên vùng(106). Để đối phó với lũ lụt, cư dân Tân Lạc Việt tiến hành xây dựng đê điều ở các vùng trũng cửa sông.

Tổ chức làng xã nhìn chung không mấy thay đổi so với trước, chế độ Lạc hầu – Lạc tướng vẫn tồn tại. Phong tục – tập quán xưa chưa bị thay đổi nhiều. Chẳng hạn, tục nối nòi trong văn hóa Tân Lạc Việt vẫn khá phổ biến (đã bàn ở chương 2). Gia đình xây dựng theo kiểu phụ hệ, song nữ giới vẫn có vai trò quan trọng trong đời sống sản xuất.

Cùng thời, Phật giáo Nam Tông từ Ấn Độ qua Sri-Lanka cũng tiếp cận văn hóa Lạc Việt, biến Luy Lâu (Bắc Ninh) thành trung tâm vùng. Người Tân Lạc Việt bắt đầu làm quen với tư tưởng Ấn Độ, góp phần mở rộng kho tàng triết học nhân sinh của mình.

Có thể thấy thời kỳ này mở ra cho văn hóa Lạc Việt một chân trời mới, đó là quá trình hội nhập vào văn hóa khu vực.

b. Thời kỳ văn hóa Hán du nhập mạnh mẽ

Thời kỳ này được tính từ quá trình thắt chặt quản lý và thi hành chính sách đồng hóa của nhà Đông Hán từ sau khởi nghĩa Hai Bà Trưng cho đến khoảng trung kì thuộc Đường (tk. VIII). Trường dạy Nho giáo được mở ra (đặc biệt là dưới các thời cai trị của Sĩ Nhiếp, Nhâm Diên, Tích Quang), tư tưởng “trung” với Hán triều được truyền bá, dân “Mã lưu” được phái đến ngày càng nhiều v.v. là dấu hiệu mở đầu cho quá trình văn hóa Hán du nhập mạnh mẽ ở Việt Nam.

Với bước ngoặt lịch sử có tính khắc nghiệt lớn ấy của thời cuộc, văn hóa Lạc Việt được tăng cường ý thức phản kháng mạnh mẽ đối với sự bành trướng cưỡng bức từ văn hóa phương Bắc. Biểu hiện cụ thể của nó chính là ý thức đối kháng bất khuất và thường trực đối với mối nguy cơ xâm lăng từ phía phong kiến phương Bắc, được nung nấu và phát triển qua các danh nhân lịch sử như Hai Bà Trưng (39-43), Bà Triệu (246), Lý Bôn (544-548), Triệu Quang Phục (548-571), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (791) v.v.. Cụ thể, tính riêng trong tk. II, cổ sử Trung Hoa đã ghi chép rất tỉ mỉ về hàng loạt cuộc nổi dậy của “người Giao Chỉ” và các cộng đồng lân cận: năm 100: Tượng Lâm, Nhật Nam nổi dậy; năm 115: Thương Ngô nổi dậy; năm 137: dân Khu Liên mấy ngàn người đánh phá Tượng Lâm; năm 157: Chu Đạt nổi dậy giết huyện lệnh Cư Phong; năm 178: Giao Chỉ, Hợp Phố người Ô Hử khởi nghĩa, người Cửu Chân, Nhật Nam cùng nổi dậy v.v. [Nguyễn Duy Hinh 2004: 101-102].

Tuy nhiên, sự kiện Mã Viện bắt Lạc hầu, Lạc tướng thiên di / di dời lên phía bắc Ngũ Lĩnh, gom trống đồng về Trung Nguyên nấu chảy và đúc ngựa v.v. đã để lại một hệ quả nghiêm trọng trong văn hóa Tân Lạc Việt. Các cuộc phản kháng nhỏ lẻ, kém hiệu quả trên thể hiện một xu hướng lịch sử là nội lực của văn hóa địa phương đã dần giảm sút, chính vì thế chính sách “Bắc hóa” càng được đẩy mạnh.

Sau Đông Hán, lịch sử Trung Hoa bước vào giai đoạn thoái bộ của các thời Tam Quốc – Ngụy – Tấn – Nam Bắc Triều suốt ba bốn thế kỷ. Đây vốn là thời cơ tốt để văn hóa Tân Lạc Việt phản kháng, song những tổn thất nặng nề về văn hóa kể trên đã kìm hãm nội lực. Các cuộc khởi nghĩa Bà Triệu (246), Lý Bôn – nhà nước Vạn Xuân (544-548), Triệu Quang Phục (548-571) có ý nghĩa nuôi dưỡng tinh thần yêu nước hơn là thúc đẩy quá trình giải Hán hóa. Cuốn Ngô Sử (tk. III) thừa nhận “Âu Lạc thích bạo loạn”, xu hướng tự chủ, chống lại sự cai trị hà khắc của nhà Ngô ở hai vùng đất Âu và Lạc Việt. Sang đến thời thuộc Đường, người dân Lạc Việt chấp nhận hấp thụ một vài lãnh vực nhất là các lĩnh vực văn học – nghệ thuật của nhà Đường.

Thời kỳ này, Lạc Việt tiếp nhận một lượng lớn cư dân các khu vực Nam Trung Hoa chạy loạn vào lánh nạn, phân hai thành phần di dân. Một là cư dân gốc Bách Việt những đã trải qua quá trình Hán hóa lâu dài nhiều thế kỷ trước ở các vùng Ngô Việt, Nhị Hồ, Mân-Đài hay bắc Lĩnh Nam. Nghiên cứu cho thấy Lý Bôn là người gốc Mân Việt đất Phúc Kiến. Hai là di dân Tày-Thái các vùng núi phía Bắc tiếp tục đổ về. Cục diện thành phần dân tộc Lạc Việt ngày càng trở nên phức tạp. Ngôn ngữ Tân Lạc Việt là Việt Mường chung nay đã thay đổi đáng kể, nhất là dưới thời kỳ thuộc Đường cuối thời Bắc thuộc. Lớp từ vựng Hán Việt đa phần được tiếp nhận dưới thời Trung Đường, hoặc trực tiếp từ người Hán hoặc gián tiếp qua cư dân Tày-Thái. Trong nội bộ Tân Lạc Việt, sự ảnh hưởng của ngôn ngữ Hán ngày càng lớn đã dần làm phân hóa hai bộ phận đồng bằng và miền trung du phía tây, tây nam, nhất là vào trung kỳ thời thuộc Đường.

Tuy vậy, cư dân Tân Lạc Việt vẫn bảo vệ được dòng văn hóa dân gian gần gũi bình dị của mình do nó phù hợp với lối sống định cư làng xã khép kín và lối sản xuất nông nghiệp lúa nước cổ truyền. Tinh thần dân chủ trong quan hệ cộng đồng; lối sống sông nước gắn với nghề trồng lúa; thói quen xăm mình, ăn trầu trong phong tục; tín ngưỡng đa thần, tín ngưỡng phồn thực, đạo Mẫu trong tín ngưỡng dân gian v.v. vẫn được đảm bảo lưu truyền. Phạm Đức Dương [2000: 264] viết “bộ máy nhà nước chỉ thiết lập được ở các quận huyện, còn dưới làng xã vẫn mang tính chất tự trị..”. Cuốn Tam Quốc. Ngô Thư có ghi mặc dù (xứ Giao Chỉ) đã trải qua thời kì Bắc thuộc từ Hán – Nam Triều khá khắc nghiệt song vẫn duy trì được phong tục văn hóa Việt cổ trong tầng lớp dân gian. Jennifer Holmgren trong cuốn Sự đô hộ của Trung Hoa đối với Bắc Việt Nam (Chinese Colonisation of Northern Vietnam, 1980) có đoạn viết “Những ghi chép về hoạt động của Trung quốc ở miền Bắc Việt Nam trong sáu thế kỷ đầu thời kỳ “thực dân” này cho thấy quá trình Việt Nam hóa đối với các dòng họ Trung quốc hơn là quá trình Hán hóa đối với người Việt…” [Lê Đỗ Huy 2003: 30-33].

Sử gia Trung Quốc cũng thừa nhận rằng mặc dù Lĩnh Nam từ thời Tần – Hán về sau đã đặt dưới mạng lưới thống trị quận huyện, song “vẫn không thâm nhập được vào tầng lớp căn bản của xã hội”.

văn hóa Lạc Việt thời này phân thành hai lớp, lớp nho sĩ, và lớp người bình dân, lớp người bình dân còn lưu giữ văn hóa cổ do văn chương, câu chuyện, dân ca, tập tục... truyền khẩu và truyền lại vào đời sống thường nhật.

Tóm lại, trong thời kỳ văn hóa Hán du nhập mạnh mẽ này, dưới áp lực của chính sách đồng hóa để cai trị của các nhà nước phong kiến phương Bắc, văn hóa Tân Lạc Việt tiếp nhận và phát triển thêm dòng văn hóa bác học ở khu vực đồng bằng, dần dà tác động đến tầng lớp bình dân, làm xuất hiện ranh giới hai khu vực đồng bằng và trung du. Văn hóa khu vực đồng bằng biến đổi dần theo hướng chính thống hóa, trong khi khu vực trung du gìn giữ được nhiều sắc thái mang tính cơ tầng thời tiền Bắc thuộc.

Trong suốt thời kỳ nhà Đường cai trị, người Việt đồng bằng sông Hồng đã nổi dậy, từ khởi nghĩa Mai Thúc Loan(108) (đầu tk. VIII, theo Việt Điện U Linh), khởi nghĩa Khúc Thừa Hạo–Khúc Thừa Mỹ (tk. X), khởi nghĩa Dương Đình Nghệ (931-937). Mãi đến cuộc khởi nghĩa Ngô Quyền (898–944) năm 938 đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng mới được xem như mốc kết thúc giai đoạn chống Bắc thuộc. Đến năm 966, vùng đồng bằng miền Bắc Việt diễn ra 12 sứ quân. Đến 968, Đinh Bộ Lĩnh (924-979) dẹp được loạn, lập nước Đại Cồ Việt.

Năm 979, Lê Hoàn (Lê Đại Hành, 941-1005) lên thay, song đến đời con là Lê Ngọa Triều (986-1009) thì nhà Tiền Lê kết thúc. Lý Công Uẩn (974-1028) lập ra nhà Lý. Từ đó, người Việt đồng bằng sông Hồng–sông Mã tái độc lập, tự thân xây dựng quốc gia Đại Việt.

Quá trình phân lập văn hóa người Việt và người Mường diễn ra mạnh mẽ và kết thúc bằng sự tồn tại khá độc lập của hai tộc người cùng hai truyền thống văn hóa. Sự phân tách ấy diễn ra đồng bộ trên nhiều lĩnh vực, từ ngôn ngữ, thành phần tộc người, kinh tế cũng như tư tưởng xã hội. Tiếng Mường được cho là “giữ được nhiều tính chất ngôn ngữ Việt Mường hồi đầu công nguyên” Do sự phân bố dân cư mà cư dân vùng đồi núi sơn cước bảo lưu được truyền thống Việt Mường chung, còn thành phần người Việt ở đồng lưu giữ văn hóa từ thời Hồng Bàng của người Việt (Kinh).

image204
Bản đồ phân bố các tộc Việt-Mường (ngoại trừ tộc Việt) ở Đông Nam Á

Đi từ thời kỳ du nhập văn hóa Hán đến sự phân lập văn hóa người Việt ít có biến động, ngoại trừ yếu tố ảnh hưởng văn hóa Trung quốc đến từ thành phần giới nho sĩ.
Sự phát triển học thuật đã tạo nền tảng hình thành hệ thống chữ Nôm như một chứng minh của xu hướng tiếp nhận, biến đổi và sử dụng văn hóa ngoại lai của người Việt.

quá trình phân lập văn hóa người Việt từ văn hóa Lạc Việt vào cuối giai đoạn chống Bắc thuộc chịu sự tác động sâu sắc của mối quan hệ lịch sử – xã hội Việt Nam và Trung Quốc trong suốt thiên niên kỷ I trCN. Văn hóa Trung quốc du nhập mạnh mẽ nhất bằng chính sách cưỡng bức ở hai thời kỳ chính:
■ Thứ nhất là thời Hán thuộc tính từ sau khi Mã Viện đánh bại Hai Bà Trưng và đến hết thời Đông Hán;

■ Thứ hai là thời thuộc Đường, từ thế kỷ thứ VII đến giữa thế kỷ thứ X. thời Hán thuộc Dưới áp đặt của người Trung quốc, văn hóa Lạc Việt đi từ tranh chấp đến tiếp nhận văn hóa Hán, cuối cùng dẫn đến sự phân lập văn hóa Việt và Mường(109).

từ phía nam, ngôn ngữ Việt Mường chung của người dân Lạc Việt không bị gián đoạn, vẫn lưu truyền ngôn ngữ Tày-Thái để cuối cùng phân lập hai ngôn ngữ Việt, Mường. Số lượng thành phần dân cư vùng đồng bằng sông Hồng phân lập thành người Việt sớm hơn vùng đồng bằng sông Mã-sông Cả.

Người Việt ở đồng bằng dần gọi là người Kinh vì họ là gốc con cháu Kinh Dương Vương và xa xưa hơn nữa cũng là người nước Kinh Sở. Trong suốt chiều dài lịch sử sau đó, nhiều nhóm người Việt tiếp tục kéo lên miền núi, hình thành các nhóm Tày Pọng, Đan Lai, Ly Hà, Nguồn v.v., có văn hóa và tập quán kinh tế rất gần gũi với người Mường.
Trong cộng đồng Bách Việt, người dân Âu và Lạc nằm ở cực nam, ít tiếp nhận văn hóa Hán - Hoa Hạ nhất

3.2.2. Tính kế thừa từ văn hóa Tân Lạc Việt đến văn hóa truyền thống ở Việt Nam

Chính sách Hán hóa của quan lại Trung quốc đã thất bại trước sức mạnh của văn hóa Việt, đặc biệt là văn hóa dân gian, văn hóa Lạc Việt và văn hóa truyền thống ở Việt Nam tồn tại.

phục chế / phục hoặc

nguyên luận văn hóa (cultural relativism),
không đồng thuận với quan điểm “dĩ Hoa vi trung” (Sinocentrism),
cũng như không rơi vào chủ nghĩa vị chủng (ethnocentrism).

Sự nhất quán của lịch pháp nguyên thủy và nông lịch truyền thống còn tìm thấy trong cách gọi tháng Một trong tiếng Việt (theo lịch kiến Tý tháng mở đầu ứng với tháng 11, gồm Một, Chạp, Giêng, Hai..). Theo Đại Nam nhất thống chí, cư dân vùng Bất Bạt (Mỹ Lương, Hà Nội) và nhiều địa phương khác ở Bắc Bộ đến tk. XIX vẫn lấy tháng 11 làm tháng đầu năm.

<



Hán tự truyền thống/Phồn thể 愛 = Love = ái/yêu

Hán tự cải cách/Giản thể
爱 = Love = ái/yêu
Hán tự cải cách bỏ chữ "trái tim" / tâm = 心 = Heart

Hán tự truyền thống/Phồn thể
愛 = Love = ái/yêu
Hán tự cải cách/Giản thể
爱 = Love = ái/yêu
Hán tự cải cách bỏ chữ "trái tim" / tâm = 心 = Heart
Xem hình: https://www.dkn.tv/wp-content/uploads/2019/05/chu-yeu-tieng-trung.jpg
Chữ “Ái” của Hán tự truyền thống /phồn thể (愛) có chữ “Tâm” (心).
Nhưng chữ “Ái” giản thể (爱) đã (cải cách) lược bỏ mất chữ “Tâm” (心), nghĩa là yêu mà không có tâm — thứ tình yêu không thật lòng?

Cải cách tiếng Hán tự:

Giữa cuối năm 1950, nhà cầm quyền Trung cộng đã cải cách chữ Hán “phồn thể” thành chữ “giản thể” trên quy mô lớn. Chính vì vậy, những người sinh ra từ sau thập niên 60 đã không thể đọc hiểu được các thư tịch cổ, và tạo ra sự đứt gãy văn hóa truyền thống.

Việt cộng cũng bắt chước Trung cộng, chiếm xong miền nam VNCH là chúng manh tâm cho "cái cách tiếng Việt".

Vào năm 1979 và 1983 Việt cộng đã soạn thảo kế hoạch cải cách tiếng Việt. Chúng đã phá hoại nền văn học chữ Quốc Ngữ mà suốt 100 năm người Việt đã dày công bồi đắp tiếng Việt theo mẫu tự chữ la tinh, cách phát âm, cách đánh dấu, cách dùng văn phạm và ngữ vựng của tiếng Việt.

Chữ “Ái” của Hán tự truyền thống /phồn thể (愛) có chữ “Tâm” (心).
Nhưng chữ “Ái” giản thể (爱) đã (cải cách) lược bỏ mất chữ “Tâm” (心), nghĩa là yêu mà không có tâm —thứ tình yêu không thật lòng? Cải cách tiếng Hán tự:
Giữa cuối năm 1950, nhà cầm quyền Trung Quốc đã cải cách chữ Hán “phồn thể” thành chữ “giản thể” trên quy mô lớn. Chính vì vậy, những người sinh ra từ sau thập niên 60 đã không thể đọc hiểu được các thư tịch cổ, và tạo ra sự đứt gãy văn hóa truyền thống.
Việt cộng cũng bắt chước Trung cộng, chiếm xong miền nam VNCH là chúng manh tâm "cái cách tiếng Việt" để xóa dấu tích văn hóa của VNCH.Giữa cuối năm 1950, nhà cầm quyền Trung Quốc đã cải cách chữ Hán “phồn thể” thành chữ “giản thể” trên quy mô lớn. Chính vì vậy, những người sinh ra từ sau thập niên 60 đã không thể đọc hiểu được các thư tịch cổ, và tạo ra sự đứt gãy văn hóa truyền thống.

Việt cộng cũng bắt chước Trung cộng, chiếm xong miền nam VNCH là chúng manh tâm "cái cách tiếng Việt".

Bắt đầu vào cuối năm năm 1979 Việt cộng đã soạn thảo kế hoạch cải cách tiếng Việt. Vào đầu năm 1983 thì chúng hoàn thành sách đọc với những chữ viết và bắt đầu cho ra phổ biến trong công chúng, bắt dân phải dùng những chữ mới của chúng.

Việt cộng chúng đã phá hoại nền văn học chữ Quốc Ngữ mà suốt 100 năm người Việt đã dày công bồi đắp tiếng Việt theo mẫu tự chữ la tinh, cách phát âm, cách đánh dấu, cách dùng văn phạm và ngữ vựng của tiếng Việt.> Chúng đã phá hoại nền văn học chữ Quốc Ngữ mà suốt 200 năm người Việt đã dày công bồi đắp tiếng Việt theo mẫu tự chữ la tinh, cách phát âm, cách đánh dấu, cách dùng văn phạm và ngữ vựng của tiếng Việt.>

陸終 Lộc tục hay Lộc tung đều có phiên âm là > Lùn (tiếng Quảng Đông "Lùn" là Rồng), Long.

Xuyên qua những khảo cứu và đối chiếu phía trên đã đủ cho ta thấy "Bí Mật" sẽ được dần dần sáng tỏ.

.............................................................

Shang 商 là Thương. Nếu Shang / Thương không bị mất vào tay Chu 周, thì thời Xuân Thu-Chiến Quốc với các nước nhỏ là Ngụy - Hàn - Triệu - Yến - Lỗ - Tề - Tần.... vẫn là một phần của Văn-Lang, là Shang 商 Thương.









...................................................

SỞ là Việt, như Tư Mã Thiên đã viết trong Sử Ký là "Sở Việt đồng tông đồng tộc", và cũng thấy được nhà "Thương" - "Trụ Vương" cũng là Sở ngày trước, và còn biết được "Can-Tương" và "Mạc -Tà" tên thật là gì v. v... và người Sở là Hạng Võ và Lưu Bang lật đổ nhà Tần rồi lập nên nhà Hán, tuy xưng danh là 'nhà Hán' nhưng chính là người của nước Sở nói tiếng Sở, và Sở đó chính là "Sở" "Văn-Lang" với "Cửu-Lê / Kỳ" và ngôn ngữ chính là Việt Ngữ.

Sách "Thuyết Văn" thời Hán là đọc theo Việt Ngữ lại là một minh chứng thêm.

Sở Là Việt, là Văn Lang, người Việt làm sao quên được Văn-Lang?

Toàn bộ văn hóa Hạ, Thương, Chu, Xuân Thu - Chiến Quốc, Ngô, Việt, Sở, Văn Lang, Mân, Âu, Lạc Việt, Tần, Hán... chính là văn Hóa từ Việt.


Sử Tàu viết rằng Triều Shang (Nhà Thương) quá nhiều lần dời thủ đô, mà không nghiên cứu hoặc chối bỏ là Shan từ đâu đến! Văn-Lang đã bắc tiến từ nam... Đâu dễ gì có một ngọn núi là "Lạng Sơn" mà lại trở thành tên của một tỉnh Lạng Sơn hay Lạng-San, hay Lang-Shan, chính là tên của nước "Vănlangshan" còn sót lại khi những vùng đất kia của nước Văn-Lang đá bị đổi tên thành các vương triều và quốc gia khác nhau theo dòng lịch sử...

Vì có những ngộ nhận hay gian trá đánh tráo và hàng hàng lớp lớp bụi mờ phủ lên bề dầy lịch sử Bách Việt... cho nên bài khảo cứu nầy được suy xét rất thận trọng để làm sáng tỏ...

Sở là Việt là Văn-Lang trải dài từ phương nam lên Động Đình Hồ với nhiều đời vua với phong hiệu là Hùng Vương.

Nhạn Nam Phi / Thanh Đỗ

* Ghi chú:


Can-Tương và Mạc - Tà là tên cây kiếm và cũng là tên của cặp vợ chồng nổi danh đúc kiếm.


Sở gọi là Shang như là nhà Thương.

Đất Sở chính là đất Thương. Nhà Thương trước khi Bàn Canh chuyển lên phía Bắc đóng đô tại chính vùng đất mà sau này là nước Sở. Nước Sở vẫn giữ họ Hùng chứng tỏ nhà Thương cũng là họ Hùng.

---------------------------------------------------------------------

Sở cách gọi lướt của vùng đất Thương Ngô quanh sông Trường Giang.

Nước Sở quá rộng lớn nên Bắc Sở thường tự xưng là Kinh Sở và Nam Sở tự xưng là Tương Sở hay Tượng Sở.

I. Tiếng Sở là tiếng Việt:

Một số ý kiến cho rằng lịnh doãn nước Sở là Ngạc Quân Tử Tích sau khi nghe bài hát của người Việt rồi nhờ người phiên dịch ra tiếng Sở.

Tiếng Việt cổ của 2,800 năm trước là ngôn ngữ đa âm, “bị” chuyển thành Hán tự đơn âm cách nay 2000 năm là sự mất chữ.

Mất chữ dẫn tới mất nghĩa… Qua quá trình chuyển ngữ như thế, tất cả đều thay đổi.

Việt Nhân Ca

Đêm nay đêm nào, chèo thuyền giữa sông,
Ngày này ngày nào, cùng vương tử xuôi dòng.
Thẹn được chàng mến yêu, nào chê phận thiếp long đong,
Lòng rối ren mà chẳng dứt, được gặp chàng vương tông.
Non có cây, cây có cành chừ;
Lòng yêu chàng, chàng biết không?



Việt Nhân Ca

Năm nầy bảo năm xưa,
Thương hoàng tử thương chiều chiều xưa.
Sớm chiều em hận tương tư,
Mà ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.

Hò Hớ…

Bản dịch có 54 chữ, trong khi nguyên bản chỉ có 33 chữ.




 

Nước Xích Quỷ



Tên gọi Việt Nam Map of Vietnam showing the conquest of the south (nam tiến, 1069-1757).
3118–2879TCN Xích Thần
2879–2524 TCN Xích Quỷ
2524–208 TCN Văn Lang
207–179 TCN Âu Lạc
204–111 TCN Nam Việt
111 TCN–39 CN Giao Chỉ
40–43 Lĩnh Nam
43–203 Giao Chỉ
203–544 Giao Châu
544–602 Vạn Xuân
602–679 Giao Châu
679–757 An Nam
757–766 Trấn Nam
766–866 An Nam
866–967 Tĩnh Hải quân
968–1054 Đại Cồ Việt
1054–1400 Đại Việt
1400–1407 Đại Ngu
1407–1427 Giao Chỉ
1428–1804 Đại Việt
1804–1839 Việt Nam
1839–1945 Đại Nam
1887–1954 Đông Dương (Bắc Kỳ,
Trung Kỳ, & Nam Kỳ)
Từ 1945 Việt Nam
Bản mẫu chính
Lịch sử Việt Nam

Xích Quỷ (chữ Hán: 赤鬼) trong sách sử Việt Nam, là một quốc gia cổ đại của cư dân Bách Việt, được xem là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt vào đầu thời đại Hồng Bàng.

Chữ Hán Việt Xích (赤) nghĩa là màu đỏ; chữ Quỷ (鬼) có nghĩa là ma quỷ, và cũng có nghĩa khác nữa là thần lửa. Có sách gọi Đế Viêm là Thần Lửa - Flame Kingdom.
Xích Quỷ còn là tên một ngôi sao có sắc đỏ rực rỡ nhất trong Nhị thập bát tú trên bầu trời.[1] Tục truyền là quốc hiệu của đất nước, được xem là cội nguồn của Việt Nam, vào thời Kinh Dương Vương.

Trong cuốn “Ngọc Phả truyền thư” của   từ đường họ Nguyễn có giải thích rằng chữ “Xích” là -- màu đỏ ngụ ý phương nam, chữ “Quỷ” là chữ Vương của người Bách Việt, ba chữ Vương ghép lại thành chữ “Quỷ”.
Đế Thừa là cháu hai đời của Thần Nông (Đế Viêm). Đế Thừa có ba con trai, đó là: Đế Minh, Đế Nghi, và Đế Long.
Ba người con của Đế Thừa đều làm Vương ở ba phương.

Theo “Ngọc Phả truyền thư” thì:
Kinh Dương Dương là con trai của Đế Minh (tức Đế vùng phương nam) thấy ba Vương đều là Đế ở ba nơi, nên ghép ba chữ “Vương” này tạo thành chữ “Quỷ”.
Vì thế, tên “Xích Quỷ” nêu rõ Vương ở phương nam, ngụ ý nước nam đã có chủ.

Trong lịch sử Trung Quốc, Xích Quỷ chính là khởi nguồn của Người Tráng (người Choang) và nước Việt, nước Sở thời Xuân Thu, chưa xác thực có liên quan gì đến nước Văn Lang - Đại Việt hay không. Thục Chế Thục Phán của nước Nam Cương cũng bắt nguồn từ đây.

Sử liệu[sửa |

Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh nơi có giống Việt cổ, Bách Việt sinh sống (nay thuộc tỉnh Hồ Nam,vùng Bách Việt), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục.

Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi (Đế Ly) làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc).

Bản đồ: Nước Xích Thần = Đế Nghi


Rồi phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN.

Bản đồ: Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương - Văn Lang
Thời Hồng Bàng, đồ đồng


Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ (một nàng tiên ở phương Bắc), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng:
"Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó".
Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.

Hùng triều thứ nhất: Kinh Dương Vương đóng đô ở Ngàn Hống nhưng sau đó dời về Nghĩa Lĩnh. Vương triều Hùng thứ nhất chỉ có một đời vua là Kinh Dương Vương.

Hùng triều thứ nhì: khởi đầu với vua Lạc Long Quân. Kinh đô vẫn ở Nghĩa Lĩnh.

Hùng triều thứ ba: Con của Lạc Long Quân lên ngôi, lấy niên hiệu là Hùng Vương. Ông đổi tên nước là Văn Lang và dời đô về Phong Châu. Quốc hiệu Xích Quỷ chấm dứt.

Du mục Hán tộc sống thành từng bộ lạc gọi là Hậu. Mỗi Hậu có Hậu chủ là những ông chủ với những đội quân kỵ và bộ, chuyên lo việc xâm chiếm đất đai, trấn áp kẻ địch, bắt nô lệ và bảo vệ tài sản của Hậu chủ.
Các nhóm du mục Hán tộc thời kỳ này còn rất man rợ, mang bản tính hung hăng, cường bạo, dã man và tham lam trong xã hội du mục...

Khoảng năm 2750 tr. CN, những vùng đất ở tây bắc lục địa Đông Á như Tân Cương, Thanh Hải… dần dần bị sa mạc hóa, khiến những bộ lạc du mục Hán tộc (các sử gia Tây phương gọi các giống du mục là Savage hay Barbarian, Rợ… tức là dân tộc dã man, mọi rợ, chưa khai hóa), chuyên chăn nuôi dê, cừu, heo, bò, ngựa… đang sống rải rác tại đây, phải đi tìm những đồng cỏ mới cho những đoàn gia súc của họ.

Họ đưa thân tộc cùng với những đoàn gia súc, đầy tớ và đội quân bảo vệ, đi dọc theo nguồn bờ bắc sông Hoàng Hà, mà vào phía bắc, bản địa của Việt cổ (tức là Trung quốc ngày nay.)

Vua Đế Minh đã thấy được sự uy hiếp di dân của Hán tộc đó đối với khu vực địa đầu của đất nước. Ông muốn truyền ngôi thiên tử cho Lộc Tục là con thứ, vốn là rể của vua Động Đình Quân ở phía nam Trường Giang (sông Dương Tử) nhằm dựa vào sức mạnh Động Đình để bảo vệ vùng đất phía Bắc. Nhưng Lộc Tục cố nhường cho anh, không nhận.

Cuối cùng, vua Đế Minh chia lãnh thổ làm hai vùng:

►► Từ sông Trường Giang trở lên Bắc, gọi là nước Xích Thần, phong cho Đế Nghi làm tự quân.
►► Từ hồ Động Đình trở về Nam, gọi là nước Xích Quỷ, phong cho Lộc Tục làm vua, gọi là Kinh Dương Vương, với lời dặn:

“Hai nước phải đoàn kết như keo sơn thì đất nước mới bền vững được”.

3
Núi Thái Sơn - Hồ Động Đình Hồ - dãy Núi Ngũ Lĩnh (Ngũ Lĩnh Range)


4
Năm ngọn núi gắn liền văn hóa Đạo giáo và bốn ngọn núi gắn liền với văn hóa Phật giáo ở Trung thổ của Xích Thần và Xích Quỷ vùng Trung Nguyên của Bách Việt.


(Hiện nay ở tả ngạn sông Tương Giang, trong dãy núi Quế Dương có một ngọn núi cao 179m mang tên là Thiên Đài Sơn, đỉnh tròn, sườn núi thoai thoải, có đường đi lên. Trên đỉnh có một ngôi miếu hoang phế, rêu phong, không người ở. Có một tấm bia cổ khắc chuyện vua Đế Minh phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương và đặt tên nước là Xích Quỷ tại đấy. Ông cho biết, tại thư viện tỉnh Hồ Nam, ông được đọc một cuốn phổ viết từ thời nhà Đường, do Chu Minh Văn biên soạn, nói rõ chuyện vua Đế Minh truyền ngôi cho Lộc Tục làm vua nước Xích Quỷ trên Thiên Đài Sơn và chuyện các quan nhà Đường khi được sai sang cai trị Lĩnh Nam, đã chung tiền xây ngôi miếu hoặc xuất tiền tu bổ ngôi miếu này. Mỗi lần như thế, họ tổ chức cúng tế linh đình để cầu xin Miêu vương Đế Minh, phù hộ cho họ được bình an cai trị dân Miêu ở chín quận đô hộ.)

Danh xưng hai nước Xích ThầnXích Quỷ mang dấu vết minh triết Đông Á: Nhất Nguyên Lưỡng Cực, hoặc Nhất Thể Lưỡng Tính.
Trong đại thể Miêu tộc (Người) luôn luôn có sự kết hợp bởi Thần và Quỷ. Hai chữ trên có nghĩa: Trong một Nguyên (Thể) luôn luôn có hai Cực (Tính): âm và dương, tình và lý, tinh thần và vật chất… Tỷ dụ: Người là kết hợp bởi Trời và Đất, âm và dương, thần và quỷ, tình và lý, nhu và cương, nóng và lạnh, đực và cái…

Sách Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn - phần ngoại kỷ - dẫn nguồn từ tư trị thông giám, đoạn chép về Hồng Bàng thị còn ghi lại rất chi tiết. Đại khái nội dung như sau: "Thuở ấy phương bắc có Đế Lai là người hiếu chiến chuyên xua quân xâm lấn các bộ lạc láng giềng, tuy nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân là em con chú ruột nhưng ông ta vẫn cất binh tiến đánh. Hai bên gặp nhau ngoài mặt trận coi như chẳng còn bà con thân thích gì lập tức cho quân đánh giáp lá cà ngay tức khắc, quân của đế Lai không hợp với thủy thổ phía nam nên chỉ chiến đấu vài trận đã bị ngã nước đau ốm la liệt không có sức tiếp tục nữa. Lạc Long Quân thấy vậy thúc quân đánh thật mạnh khiến đế Lai thua to phải rút chạy về phương bắc, không rõ nguyên nhân gì mà khi đi đánh trận Đế Lai lại mang cả con gái là nàng Âu Cơ đi theo. Lạc Long Quân thấy nàng xinh đẹp nết na hiền thục khác hẳn tính cách của cha liền lấy nàng làm vợ, nếu phân tích dòng máu thì Âu Cơ phải gọi Lạc Long Quân bằng chú xưng cháu. Tuy nhiên hồi đó xã hội còn hoang sơ chưa có lễ giáo gì nên việc lấy nhau như vậy cũng đâu có phải chuyện lạ, chẳng bao lâu Âu Cơ sinh được cái bọc trăm trứng nở ra 100 người con trai.

Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trưởng là Hùng Vương còn 99 người con khác chia ra cai quản những nơi khác, từ đó nước Xích Quỷ rộng lớn bị phân liệt thành 100 bộ lạc lớn nhỏ mà trong sử sách vẫn gọi họ là Bách Việt.

Chiến tranh Hán Việt tại Trác Lộc năm 2704 tr.CN:

Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều Hậu du mục Hán Tộc (mỗi Hậu như một bộ lạc có từ một tới vài vạn người) với những đàn gia súc đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh Hải (đang bị sa mạc hóa) du cư về phía Đông Nam. Rợ Hán tộc tấn công chiếm đoạt đất đai của nước Xích Thần, bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt tài sản, hãm hiếp phụ nữ. Những toán kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông vào các khu cư ngụ Miêu tộc như vào chỗ không người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc quật cường tổ chức chống cự nhưng đều bị đánh bại. Các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước Xích Thần thua liên tiếp nhiều trận phải rút về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều đoàn rợ Hán tộc nhân đà thắng lợi, họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía Nam.

Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Khắc (sử Trung Quốc gọi là Xi Vưu ám chỉ vua Đế Khắc là kẻ xấu xí, khoác lác) đem quân về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu viện binh.

Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần, tuy nhiên đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ, chia làm hai cánh, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Công chúa Âu Cơ.

Quân Liên Minh Xích Quỷ theo vua Đế Khắc tiến lên phía bắc, họp với tàn quân Xích Thần, lập thành một đạo binh rất lớn, rồi dẫn đại binh tiến lên sông Hoàng Hà.

Vua Đế Khắc nhường ngôi cho con là Đế Du Võng rồi cùng Liên Minh Xích Quỷ đi chiến đấu với du mục Hán tộc. Thấy quân binh Miêu tộc được tiếp viện từ phương Nam tiến lên “đông vô số”, những Hậu du mục Hán tộc ở phía nam sông Hoàng Hà vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến tại Trác Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu cứu các rợ du mục Hán tộc khác.

Hội nghị các thủ lĩnh du mục họp ở Tân Trịnh, họ công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Công Tôn Thị, một Hậu (bộ lạc của Hán du mục) hùng mạnh nhất, lên làm cộng chủ các Hậu Hán tộc. Cộng chủ liền lãnh đạo quân các Hậu kéo về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên Minh Xích Quỷ.

Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ, rất đông, có tài sử dụng búa (sử Trung Quốc gọi đội quân này là Cửu Lê Ma Binh). Nhân khi sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công vào phòng tuyến du mục Hán tộc rất dữ. Quân du mục bị đánh bất ngờ, hốt hoảng, hàng ngũ rối loạn, thoát chạy. Trong nhất thời, quân du mục thua Liên minh Xích Quỷ. Tuy nhiên, nguyên lực quân sự của họ vẫn hùng mạnh.

Chẳng bao lâu sau, cộng chủ Hiên Viên (Hán tộc) chế được “xa bàn” để định phương hướng, liền hội quân các Hậu, tổ chức phản công. Quân du mục vốn là những đạo quân chuyên nghiệp, được trang bị xa mã và kỵ binh. Họ có tài sử dụng cung và trường thương. Bộ binh thì to lớn, mặc áo da và đánh cận chiến bằng giáo dài, mã tấu.

Quân Liên Minh Xích Quỷ là những nông dân mới tập họp, ô hợp, thiếu kinh nghiệm và vũ khí chiến đấu. Sau trận đầu toàn thắng, trở nên khinh địch, lơ là việc phòng bị. Đến khi quân du mục Hán tộc, dùng xa bàn khống chế được sương mù và tấn công thì liên minh Xích Quỷ không chống nổi, hàng ngũ rối loạn, thua lớn. Vua Đế Khắc lui quân về phía Đông, lập trại tại Phản Tuyền. Tại đây, hai bên lại đánh một trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiệt hại nặng. Vua Đế Khắc tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn tan vỡ.

Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hán (khoảng 2697 trước Tây Lịch), ông liền tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng với 9 bộ tộc và 81 thị tộc của Miêu-tộc vùng Thần Quỷ của Đế Nghi để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản địa của Trung quốc.


Sau khi toàn thắng ở trận Trác Lộc/Battle of Zhoulu (2704/TCN) Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti, người Hán, văn hóa du mục) mở đầu thời Ngũ đế, cùng lúc đó, là Họ Hồng Bàng của bách Việt (văn hóa lúa nước con cháu Thần Nông.) cũng bắt đầu triều đại.

Thời tiền Việt (pre Yue - Viet) và trận đánh đầu tiên giữa bộ tộc du mục Hán tộc (Hoàng Đế/Hoang-ti) - Hiên-Viên/Huan-yuan) và bộ tộc định cư định canh của Đế Viêm - Thần Nông là con cháu Việt tộc/Bách Việt).

Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà, chạy ra hướng đông. Nhà vua có ý định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ, nhưng quân Hoa tộc truy kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích .

Theo cố học giả Bình Nguyên Lộc trong sách “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” (danh xưng Mã Lai xuất phát từ địa danh Hy-Malaya tức cao nguyên Hy Mã lạp sơn chứ không phải nước Mã Lai Á ngày nay) với những dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân đã tản mát ra khắp nơi ở Biển Đông:
– Đông-Bắc lục địa, kết hợp với dân địa phương lập ra nước Triều Tiên;
– Phía Đông với giống Ai Nô lập nước Nhật, Đài Loan;
– Đông Nam họ lên quần đảo Célèbre ở Indonésia, đảo Hải Nam;
– Phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng sông Cả và sông Mã với đồng chủng loại với họ
.

Học giả Bình Nguyên Lộc gọi sự kiện đạo binh Lạc Long Quân chạy ra biển đông là cuộc di dân đợt một (đợt đầu) của dân tộc Việt Nam.

Sự hình thành của vùng đất là Hoa Hạ và người Hoa

Sau khi Hoàng Đế Hiên Viên chiến thắng trận Trác Lộc, ông thâu tóm các bộ tộc bị thất trận này, đặt tên là vùng đất Hoa Hạ và tự gọi là người Hoa. Người Hoa Hạ là những bộ tộc lai giống giữa Hán tộc du mục cùng Việt tộc định cư định canh của nước Xích Thần, và bộ tộc của dân Miêu của Xi Vưu. Đám con cháu này tự nhận họ là người Hoa Hạ.
Thời kỳ này chưa có thể gọi là triều đại Hoa Hạ vì lối sống, tiếng nói và phong tục lúc này chưa đồng nhất, còn mang rất nhiều tính ô hợp, bát nháo hơn. Tuy nhiên, một số bộ tộc không khuất phục, chạy vào rừng núi, chạy xuống phương nam để nhập vào giống Bách Việt.

Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích Thần (bắc Miêu, Thần Nông bắc) sau khi bị thua ở trận Trác Lộc, chấm dứt 520 năm của Đế Viêm tộc Việt bị Hán tộc xâm lược đã chuyển đổi thành “hàng vạn” nước chư hầu và nước phụ dung của vua chúa du mục Hán tộc, và họ lấy tên là Hoa Hạ (bộ tộc mới từ sự lai giống giữa du mục Hán tộc cùng bộ tộc của nước Xích Thần (bắc Miêu - con cháu Thần Nông Viêm Đế), họ dần dần trở thành người Trung Hoa gốc Miêu.

Du mục Hán tộc học theo và có được từ nền văn hóa đặc thù lúa nước định cư định canh của nước Xích Thần khi họ xâm lược, và nhờ vậy, họ trở nên văn minh, cường thịnh hơn trước. Nhiều bộ lạc đã bỏ lối sống du mục mà theo văn hóa định cư định canh lẫn chữ viết của người Việt cổ.

Cánh quân của công chúa Âu Cơ vượt sông Hoàng Hà chạy về phía nam. Bị quân Hiên Viên đuổi riết, bà lại vượt sông Dương Tử, lui về vùng núi Ngũ Lĩnh, trên Cánh Đồng Tương quê hương chồng.
Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp, thì Âu Cơ và các con (các đơn vị dân quân trong Liên Minh Xích Quỷ) đã về đến Tương Dạ. Bà ở lại đấy có ý đợi tin tức Long Quân.

Sách Lĩnh Nam Trích Quái kể: Chờ lâu không gặp chồng, bà lập đàn ở Tương Dạ* kêu khóc tha thiết:

— “Quân ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương nhớ”

Các con cũng khóc:

— “Bố ở phương nào mau về với chúng con”.

Thốt nhiên Long Quân về trên đàn, ông bàn với Âu Cơ nên chia các con ra trấn giữ các nơi. Long Quân dặn Âu Cơ, phong con trưởng họ Hồng Bàng Thị làm vua, gọi là Hùng Vương, đóng đô Phong Châu.

Sau khi mọi việc tạm ổn, công chúa Âu Cơ nhớ nhà, nhớ nước, bèn đem các con đi lên biên cảnh. Vua Hoàng Đế (Sau chiến thắng tại Trác Lộc, Hiên Viên xưng vua và đổi tên là Hoàng Đế) nghe tin, lấy làm sợ, mới phân binh trấn ngự quan tái, khiến mẹ con không về bắc được.

Những danh xưng Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ, sông Tiêu, sông Tương… ở phía Nam Động Đình Hồ, có thể đã xuất hiện từ câu chuyện công chúa Âu Cơ và các con, do thương nhớ Lạc Long Quân nên lập đàn kêu khóc? Để rồi từ đó trở thành địa danh nổi tiếng trong văn học sử Việt cũng như Trung Hoa sau này.

Về sau người Tàu có chuyện, hai bà vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm xác chồng Cánh Đồng Tương. Khi họ đến bờ sông Tiêu Tương thì nghe dân địa phương nói vua Thuấn chết ở đấy. Hai bà này bèn ngồi bên những bụi trúc trên bờ sông Tương mà khóc lóc thảm thiết. Nước mắt họ rơi trên các lóng trúc. Từ đó, mới có tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương và trúc hai bên bờ sông Tương có những đốm xanh như ngọc, rất đẹp, giống những giọt nước mắt của hai bà ấy.

Cho đến giữa thời nhà Thương, khoảng 1000 năm sau chiến tranh Trác Lộc, Hán tộc chỉ mới mò tới vùng đất, giữa hai con sông Dương Tử và Hoàng Hà, thì vào thời vua Thuấn, chắc chắn vùng đất nam Dương Tử vô cùng xa lạ đối với Hoa tộc. Theo đó, chuyện hai bà vợ vua Thuấn mang nặng tính giả tạo, huyễn hoặc qua giai thoại vua Thuấn đi tuần thú “tới phía Nam Động Đình Hồ và chết ở đấy và chuyện nước mắt của hai bà này làm cho những lóng tre hai bên bờ Tương Giang từ đó lốm đốm nước mắt màu xanh ngọc!!!”.

Thời Nghiêu, Thuấn, phía Nam Trường Giang còn là đất thuộc quyền người Nam Miêu, trong phạm vi nước Văn Lang của các vua Hùng, thì chuyện vua Thuấn đi tuần thú phương Nam ở đây là phương nam của châu thổ sông Hoàng Hà cho tới phía bắc châu thổ sông Dương Tử.
Chuyện những cây trúc hai bên bờ sông Tương về sau có hình những đốm nước mắt của hai bà vợ vua Thuấn lại càng quá hoang đường… Rõ ràng người đặt ra chuyện này nhằm che dấu nguồn gốc xuất hiện những địa danh mang tên sông Tiêu Tương, Cánh Đồng Tương, đất Tương Dạ… của Việt tộc.

Truyền thuyết[sửa | sửa mã nguồn]

Nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương trong truyền thuyết Việt Nam có thể là một nước có thực trong lịch sử. Có thể đó là liên minh của ba nước:

Việt Chương ở Giang Tây,
Việt Thường ở Hồ Nam,
Việt Dương hay Dương Việt ở Hồ Bắc,

Ra đời trong quá trình đấu tranh giành độc lập gắn với sự tan rã của đế chế nhà Thương.

Nước Việt Chương có kinh đô ở Ngô Thành là nòng cốt và đã lãnh đạo quân dân Xích Quỷ đánh bại cuộc xâm lược của quân Ân Thương do vua Thương Vũ Đinh đích thân chỉ huy.

Nền tảng vật chất của nước Xích Quỷ là nền văn hóa đồng thau Ngô Thành với các di vật tiêu biểu là những bộ não bạt và trống đồng cỡ lớn có vai trò đặc biệt trong tín ngưỡng của người Xích Quỷ.

Truyền thuyết Họ Hồng Bàng và truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân có thể đã lưu truyền những hồi âm, hồi quang xa xăm của nước Xích Quỷ.

^^^^^

Truyền thuyết Họ Hồng Bàng[sửa | sửa mã nguồn]

^^^^^

Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn chép: “Nhâm Tuất, năm thứ 17. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua Kinh Dương Vương. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, làm vua nước Xích Thần, và rồi Đế Minh phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ ở phía nam.[2].

Thiên Nam ngữ lục (thế kỷ 17) kể về việc kết hôn của Kinh Dương Vương:

Ở chốn Nam minh ấy Kinh Dương Vương gặp con gái Thần Long:

Nam minh được chú là “bể rộng ở phía Nam”. Sách Nam hoa kinh của Trang Tử có câu: “Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý”. Thông tin trên của Thiên Nam ngữ lục cho thấy Kinh Dương Vương đã gặp con gái Thần Long ở Nam minh có thể là vịnh miền Bắc Việt ngày nay.

Tương tự núi Ngũ Lĩnh nơi Kinh Dương Vương đi tuần là dãy núi có năm ngọn núi, gọi là Ngũ Lĩnh, vùng trung tâm năm dãy núi của Hà thư. Ca dao xưa có câu:

Nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%ADch_Qu%E1%BB%B7



1)
Nước Xích Thần = Đế Nghi







2)
Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương - Văn Lang
Thời Hồng Bàng đồ đồng


3)
Núi Thái Sơn - Hồ Động Đình Hồ - dãy Núi Ngũ Lĩnh (Ngũ Lĩnh five mountains Range)


4)
Năm ngọn núi gắn liền văn hóa Đạo giáo và bốn ngọn núi gắn liền với văn hóa Phật giáo ở Trung thổ của Xích Thần và Xích Quỷ vùng Trung Nguyên của Bách Việt.



................................................................................................................



NGƯỜI MIÊU: LỊCH SỬ CỦA MỘT DÂN TỘC LƯU VONG

Trần Trúc-Lâm


Vương quốc Miêu đầu tiên được ghi chép có tên gọi là thị tộc Cửu Lê (ở trung lưu sông Hoàng Hà, đâu đó ở một trong các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Hồ Nam và Giang Tô) và những người cai trị nó có tước hiệu là Chiyou (Xi Vưu trong tiếng Việt) hay Txiv Yawg (trong tiếng H'Mông) [cần dẫn nguồn]. "Trí Zờ" có nghĩa là "ông-cha", và là tước hiệu tương đương nhưng không ít quyền lực hơn hoàng đế. Các tổ tiên "Xi Vưu" được coi là bộ tộc Liangzhu. Cửu Lê được cho là có quyền lực đối với 9 bộ tộc và 81 thị tộc.


Qua cuộc chiến Đông Dương và Việt Nam, sự liên hệ của các sắc tộc miền núi đã đóng một vai trò không kém phần quan trọng, thường được báo chí Tây phương nhắc đến, nhất là ở Lào. Khi cuộc chiến kết liễu với sự thắng thế của phe cộng sản vào giữa thập niên 70, đã có một làn sóng di dân tị nạn ồ ạt kéo dài nhiều năm sau đó.

Phần lớn dân thiểu số ở Lào sau khi vượt sông Mêkông lánh nạn sang Thái Lan đều an cư ở vùng đồi núi Bắc Thái; một số khác được định cư ở Hoa Kỳ cùng với khối lượng lớn lao người đồng bằng của 3 nước Việt, Miên Lào.

Với hơn hai thập niên đầu định cư, vì những nhu cầu và dịch vụ xã hội, đã có sự giao tiếp hòa đồng của các sắc dân Đông Dương trên vùng đất mới. Chúng ta đã làm quen với những người miền núi của thượng Lào với y phục cổ truyền có màu sắc sặc sỡ khác lạ mắt mà những người lớn tuổi vẫn còn mặc khi đi khám bệnh, đi chợ, đi xe buýt hoặc đến sở welfare vv...
Riêng nói đến người Lào thì trong khối sắc dân hỗn tạp này, nhiều người Việt chúng ta đã không phân biệt được người Lào đồng bằng, người Lào miền núi (còn gọi là Lào thừng), người Miên (đừng nhầm với người Cao Miên, hay Khmer), người Hmong (mà ở Việt-Nam hay gọi là Mông, Miêu, Mèo), người Kh'mú (còn gọi là người Kha phía nam Lào). Họ có tiếng nói và phong tục văn hóa khác biệt hẳn nhau.

So với người Việt, thì người Miên và người Hmong chỉ có một số ít họ tộc rất dễ nhận: Đối với người Miên thì thường là Saeteurn, Saechao, Saephanh, Saefong, Saelee vv...; còn người Hmong thì có: Ly hay Lee, Moua, Hang, Xiong, Vue, Lo, Thao v. v... Với chúng ta thì tên Vang Pao lại cũng rất là quen thuộc.

Nhóm sắc tộc Lào, vốn thích nghi với miền núi và canh tác, khi đến Mỹ đã tụ tập với nhau ở một số địa phương như Minnesota, Fresno, Sacramento, Modesto, Spokane và Seattle... Và theo đà tiến triển, các thế hệ trẻ đã chóng thích nghi với đời sống mới và đạt lắm thành công rực rỡ trong nhiều mặt như học vấn và kinh doanh.

Riêng với sắc tộc Hmong, mà ta hay gọi là Miêu tộc hay người Mèo, ước tính hiện có khoảng hơn 6 triệu dân trên thế giới, mà đại đa số lại sống ở Trung quốc. Số còn lại sống rãi rác ở miền bắc các nước Việt, Lào, Thái và Miến điện. Có khoảng 80 ngàn người đã được định cư tại Hoa Kỳ.

Đã có khá nhiều sách báo Tây phương, nhất là Mỹ nghiên cứu về sắc dân này. Càng tìm hiểu thì chúng ta sẽ càng ngạc nhiên về lịch sử hùng tráng và lâu đời của một dân tộc kém may mắn, đã bị suy vong mai một mà trở thành một sắc tộc miền núi. Ôi thật là tang thương ngẫu lục với trò dâu biển ngậm ngùi.

http://chimvie3.free.fr/18/h'mong2.gif

Người Trung hoa xưa phân biệt sắc tộc Hmong ra làm hai loại: loại đã thuần (shu) và loại hoang (sheng).

Loại Hmong thuần là nhóm đã được đồng hóa với người Hán, còn loại hoang là nhóm sống biệt lập trong rừng, thoát ngoài vòng kiềm tỏa của chính quyền.

Những nhà truyền giáo Tây phương lần đầu tiếp xúc với nhóm Hmong sống hoang dã ở vùng Tứ- xuyên, Vân-nam vào thế kỷ thứ 17 rất lấy làm ngạc nhiên là họ không có nét thuần Á châu mà lại phảng phất giống caucasian, nhiều người lại có màu tóc hung hoặc bạch kim, và vài người lại có mắt xanh. Có thể là vì thế mà người Tàu gọi họ là Miêu, hay Mèo chăng?

Số người giống caucasian này còn lại tương đối ít vì các chính quyền liên tiếp của Trung-quốc luôn luôn tìm cách sát hại họ, dù họ đã trốn sang Lào, chính quyền cũng không nương tay, ngay cả đến thời Dân Quốc và Trung cộng ngày nay.

Sự kiện này đã làm các nhà truyền giáo bấy giờ bỏ công tìm hiểu thêm về nguồn gốc của người Hmong. Nhưng sử sách của người Tàu lại hầu như muốn bỏ quên giống dân này, chẳng có mấy sách cổ nhắc đến một cách rõ ràng, không khác gì khi nói về nguồn gốc của Việt tộc. Ngay cả các nhà sử học người Tàu vẫn cho rằng người Hmong là kẻ thù đầu tiên của Hán tộc, và xuyên suốt sử Tàu kể từ triều đại đầu tiên cho đến nhà Mãn Thanh, người Hmong đã không ngừng nổi dậy và bị truy diệt bởi quan quân Trung quốc.

Cuốn sách đầu tiên đề cập tương đối đầy đủ về giống Hmong là cuốn "Histoire des Miao" (Lịch sử về Miêu tộc) do nhà truyền giáo F. M. Savina, thuộc Hội truyền giáo hải ngoại, trụ sở đặt tại Paris, cho phát hành năm 1924 sau một thời gian dài chung sống với nhiều bộ tộc Hmong ở Bắc kỳ và Lào.

Nguồn gốc Miêu tộc

Về sau, nhiều nhà sử học đồng ý rằng -- trong thời cổ đại giống Hmong xuất phát từ châu Âu, di dân dần đến vùng đồng khô Siberia (Tây Bá Lợi Á), rồi mới đến định cư ở lưu vực sông Hoàng-Hà vài ngàn năm trước. Huyền thoại của dân tộc Hmong còn lưu truyền vẫn nhắc đến tổ tiên của họ vốn đã sống ở một vùng quanh năm tuyết phủ, băng giá, ngày và đêm kéo dài đến cả sáu tháng. Với người Hmong sống ở vùng nhiệt đới Đông Nam Á, chẳng hề thấy tuyết cho nên ngôn từ họ thường dùng để kể chuyện là: "nước cứng" và "cát trắng mịn".

Trận Trác Lộc - Battle of Zhuolu (2704/TCN)

Sau khi toàn thắng ở trận Trác Lộc/Battle of Zhoulu (2704/TCN) Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) người Hán văn hóa du mục) mở đầu thời Ngũ đế, cùng lúc đó, là đồng thời với Họ Hồng Bàng của Việt sử (văn hóa lúa nước con cháu Thần Nông.

Thời tiền Việt (pre Yue - Viet) và trận đánh đầu tiên giữa bộ tộc du mục Hán tốc (Hoàng Đế/Hoang-ti) Hiên-Viên/Huan-yuan) đánh bộ tộc định cư định canh của Đế Viêm con cháu Thần Nông (Việt tộc).


Hmong_diaspora


Số phận dân Hmong bắt đầu gắn liền với sử Trung quốc có thể vào khoảng từ 3000 trước TL đến 1200 trước TL.

Khoảng 2700 trước Tây Lịch, những di dân từ Siberia đã đi dần xuống vùng trung thổ qua khu vực mà ngày nay gọi là Manchuria, Hà-bắc khi khí hậu ấm áp hơn, và người Hmong đã định cư tại lưu vực sông Hoàng-hà ở vùng thượng Hà-nam. Lúc bấy giờ đã có bộ tộc Hán Yangshao chiếm cứ vùng Thiểm tây, Sơn tây và Hà nam cả ngàn năm trước. Bộ tộc này chỉ là bộ lạc miền núi chuyên về phá rừng du canh. Về sau bộ tộc Hán Yangshao này hòa nhập với bộ tộc Hán Lungshan chuyên về ruộng nước ở Sơn đông.

Nhiều truyền thuyết nói đến sự hùng mạnh của Miêu tộc ở vào thời tiền sử của Trung quốc, đưa đến chỗ xung đột không thể tránh khỏi giữa các thế lực lúc bấy giờ. Theo người Hán thì Hiên-Viên (Huan-yuan) sau khi thống lĩnh các thị tộc người Hán (khoảng 2697 trước Tây Lịch), liền tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của Trung quốc.
Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) của Hán tộc mở đầu thời Ngũ đế tộc; đồng thời với Họ Hồng Bàng, của việt tộc của Việt sử.

Người ta lại gán cho thời Hoàng Đế kéo dài đúng 100 năm, và dưới thời này người Hán đã phát minh ra được thuyền bè, xe kéo, cung tên, áo giáp, nông cụ bằng đá, đồ dùng bằng gỗ và đất nung, biết xây nhà cửa to lớn, biết làm lịch chia ra 12 giáp, chu kỳ 60 năm để đoán ngày tháng gieo trồng v. v...

Hẳn nhiên Hoàng Đế chỉ là một nhân vật huyền thoại của người Tầu, bởi cho đến nay các cuộc khảo sát vẫn không tìm ra được bằng chứng gì về triều đại này. Tuy nhiên huyền thoại này đã nói lên được sự xung đột giữa hai dân tộc Hán - Miêu đã xảy ra rất sớm, và từ đó cứ kéo dài mãi suốt lịch sử Trung quốc.

Cuộc sống mái với Hán tộc qua các triều đại

Năm 1576 trước TL, vua Thang, thực ra chỉ là một tù trưởng thuộc bộ lạc tộc Thương, lôi kéo được các bộ lạc khác diệt được vua Kiệt của nhà Hạ (Xia hay Hsia), lập ra Nhà Thương (Shang hay Yin) (1576 - 1059 trước TL), thống lĩnh một giải đất thuộc tỉnh Hà-nam và Sơn-tây bây giờ.

Đến đời vua thứ 8 là Bàn Canh dời đô về đất Ân, nên còn gọi là đời Ân. Dưới đời này thị tộc phụ hệ, định canh, mục súc, tằm tang và chế độ tư hữu bắt đầu phát triển. Bộ tộc Ân rất hiếu chiến, giao tranh luôn với các bộ tộc khác để chiếm thêm đất đai. Quân địch bại trận bị bắt làm nô lệ, và còn dùng làm vật hy sinh để tế thần nữa.

Vào năm 1930, trong một cuộc đào xới khảo sát tại nhiều cổ mộ ở đất Ân (Anyang), kinh đô đời nhà Thương, người ta tìm thấy có nhiều hài cốt của tộc phi-mông-cổ (có nghĩa là gốc caucasian) lẫn lộn.

Đến đời Chu (Chou hay Zhou: 1059 - 221 trước TL) thì ngay sau khi diệt được vua Trụ của nhà Thương, Vũ vương liền đày một số tộc Miêu lên vùng biên cương Cam-túc (Kansu), tịch thu hết ruộng đất của họ. Nhà Chu còn bắt họ canh tác dưới sự kiểm soát của các đội biên phòng, nhưng người Hmong, quen sống tự do bõ trốn vào rừng và bắt đầu cuộc sống kham khổ của miền núi.

Đến thế kỷ thứ 7 trước TL, Miêu tộc kết hợp với các rợ khác như Tây Nhung, Khuyển Nhung, Rong và Di ở lưu vực sông Vị nổi lên đánh phá các trú phòng của quân nhà Chu. Nhánh tộc Miêu này về sau không còn nghe nói đến trong sử Trung quốc. Có truyền thuyết cho rằng một phần đã bị đồng hóa trước TL, và một phần theo dòng sông Vệ vào vùng Tứ-xuyên, rồi trốn vào Tây-tạng yên sống trong chốn thâm sơn cùng cốc.

Số tộc Miêu ở nội địa cũng bị đàn áp không kém bởi quan lại nhà Chu, do đó mà họ luôn nổi dậy. Năm 826 trước TL, Miêu tộc bị thảm bại phải tẩu táng khắp phương; một số chạy đến bờ biển theo thuyền xuôi vào biển Nam, một số đến Quảng-tây, Hồ-nam; số lớn di tản vào vùng thượng du Tứ-xuyên và Quế-châu, xa khỏi vòng kiềm chế của nhà Chu.

Ấy vậy mà năm 770 trước TL, U-vương (vợ là Bao Tự) đã bị rợ Khuyển-nhung tấn công vào kinh đô giết chết. Con là Bình-vương phải dời đô từ Cảo Kinh (Tây đô) về Lạc Dương (tức Đông đô), nên sử gọi là Đông Chu.

Tiếp sau đó, nước Tầu bị loạn lạc Xuân Thu (Chun-Qiu: 722 - 481 trước TL), rồi Chiến quốc (453 - 221 trước TL.), số phận Miêu tộc không nghe nhắc đến trong giai đoạn này của sử Tầu. Cùng thời xin nhớ rằng, ở nước Văn Lang khoảng 275 trước TL, Thục Phán giành được ngôi từ Hùng Vương thứ 18 và xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, xây thành Cổ loa.

Mãi đến đời Tần (Ch'in hay Qin: 221 - 206 trước TL), sau khi thâu tóm Trung quốc Tần Thỉ Hoàng (Shih Huang-ti) dời đô về Hàm dương, quyết tâm đè bẹp các cuộc nổi loạn, rồi xây Vạn lý trường thành để ngăn cản sự xâm lăng của rợ phương Bắc. Tần Thỉ Hoàng đã ra lệnh cho tướng Đồ-Thư đánh chiếm các xứ Bách Việt ở phương nam (khoảng các tỉnh Hồ-nam. Quảng đông và Quảng tây bây giờ), rồi Tần Thỉ Hoàng cho di dân hơn 50 vạn người đến khai khẩn, đặt quan úy quận Nam-hải là Triệu Đà cai quản. An dương vương xin thần phục nhà Tần.

Khi nước Tầu lâm cảnh loạn lạc với Lưu Bang (Hán) và Hạng Võ (Sở) tranh hùng thì năm 208 trước TL, Triệu Đà đánh chiếm nước Âu lạc, lập ra nước Nam Việt (gồm Quế lâm, Nam hải và Tượng quận).

Khi nhà Hán tiếp ngôi (206 trước CN - 220 TL), nhờ yên ổn với các rợ, họ đã chú tâm mở rộng bờ cõi thêm. Đời Vũ Đế (134 - 88 trước TL), quân Hán đã đánh chiếm Triều tiên và chia ra làm 4 quận. Năm 111 trước TL lại sai Lộ-bác-Đức chiếm nước Nam Việt, đổi thành Giao-chỉ bộ (Chiao-chih chun) chia ra làm 9 quận. Quân Hán còn chiếm các đất của rợ Di, phía Tây nam như Vân-nam, Quế-châu và Tứ-xuyên bây giờ, trong đó có Miêu tộc ở Quảng-tây. Năm 41 vua Quang-vũ nhà Đông Hán lại sai tướng Mã Viện (Ma-yuan) sang đánh dẹp cuộc nổi loạn của Hai bà Trưng ở quận Giao-chỉ, rồi dựng cột đồng ở biên giới. Hai mươi hai năm sau, quân Hán mở thêm một trận càn quét cuộc nổi loạn của Miêu tộc ở phía nam Hồ-nam, và tướng già Mã Viện đã chết cùng với trên 2 vạn quân vì bệnh ôn dịch trong khi hành quân.

Nhà Đông Hán đã trả thù rất khốc liệt bằng cách tàn sát mọi dân lành, cướp bóc và đốt phá các làng mạc người Hmong trong vùng liên tục tròn 3 năm cho đến đời Chiêu-đế mới nới lỏng, nhưng đã không tiêu diệt được tinh thần tự cường của Miêu tộc.

Đến thời Tam Quốc (Ngụy-Thục-Ngô: Wei, Shu Han, Wu) thì người Miêu lại lớn mạnh và làm chủ phần lớn đất Hồ-nam và Quế-châu, lại còn có ảnh hưởng đến tận mạn nam của Hồ-bắc, rồi theo sông Hán đến tận mạn bắc. Họ còn cố quay về chốn cũ ở Hà-nam, Sơn-tây và lan đến phía đông An-huy.

Sau đời Tấn (Chin hay Jin: 265 - 316) thì nước Tầu suy yếu, rơi vào hỗn loạn của thời Nam Bắc triều (Nan Bei) (hay còn gọi là Lục triều: 317 - 589) thì khoảng từ 403 đến 561 đã có đến hơn 40 lần người Hmong nổi dậy để đòi độc lập, cùng với những sắc tộc khác ở khắp nơi mà sử Tầu gọi là Loạn Ngũ Hồ(Hung-nô, Yết, Tiên-ti, Chi, Khương).

Đến giữa thế kỷ thứ 6, người Hmong đã thiết lập được một vương quốc tạm bợ khá rộng ở phía tây Trung quốc kéo dài từ Hà-nam, qua Hồ-bắc, Hồ-nam xuống đến Quảng-tây, có thể lẫn lộn biên cương giữa các nước Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Chu hoặc Bắc Tề luôn thay đổi. Họ được các thế lực tranh giành giữa Nam và Bắc triều mua chuộc, lôi kéo, nên một số danh sĩ được tiến cử vào các triều.

Nhưng thời gian vui hưởng này không kéo dài được lâu vì đến khi Lý Uyên thiết lập nhà Đường (T'ang: 618 - 907) sau khi dẹp nhà Tùy (Sui: 589 - 618), thì bắt đầu đánh dẹp và thu hồi đất đai đã mất vào tay các rợ, trong đó có Hmong. Đổi lại, nhà Đường cho các vùng ấy được tự trị và phải đóng thuế cho triều đình.

Chấm dứt một thời oanh liệt

Đến năm 907, nước Tầu lại bị loạn lạc với thời kỳ Ngũ đại (Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu) và Thập quốc (907 - 960), nhà Hậu Chu cố đánh lấy vương quốc Hmong. Đến khi nhà Tống tái thống nhất Trung quốc (Sung: 960-1279), lại cử binh giành lại các đất vùng Hồ-bắc và Hồ-nam.

Trong các cuộc giao tranh toàn bộ vương triều của Hmong bị tiêu diệt, và đây cũng là bước ngoặc lịch sử chấm dứt thời vàng son của bộ tộc Miêu.

Truyền kỳ còn được kể lại giữa người Miêu về những ngày bi thảm đó như sau:
Hang Tchu là vua của Miêu tộc lúc bấy giờ, đã già và mệt mỏi vì chiến trận, dàn quân kháng cự quân Tống. Con gái duy nhất của Hang Tchu là Ngao Shing cũng cùng xông pha trận tuyến với cha. Nàng không những xinh đẹp mà còn học được phép lạ với lá cờ thần bí, khi phất lên là bảo tố kéo đến phá tan quân Tống.

Tướng nhà Tống là Tỷ Thanh (Ty Ching) cầu hòa với điều kiện là Miêu tộc phải trao lá cờ phép cho họ. Triều thần người Miêu họp bàn và sợ rằng người Hán bày quỉ kế, nên trao một lá cờ giả. Tỷ Thanh vội dâng lá cờ cho vua Tống, nhưng khi thử với lửa thì biết là không phải lá cờ thật. Tỷ Thanh liền bị bỏ ngục và kết án tử hình nhưng nhờ triều thần can gián cho đoái công chuộc tội. Y liền quay lại đất Hồ giả làm môi giới để cầu hôn Ngao Shing cho thái tử nhà Tống. Vua Miêu chấp thuận nhưng Ngao Shing thì nhất định cự tuyệt, liền bị vua cha bạc đãi đến chết.

Nàng qua đời thì cờ phép cũng trở nên vô hiệu cho nên Tỷ Thanh mới có thể tiêu diệt được triều thần của Hang Tchu.

Người Hmong lại phải chạy trốn vào vùng Quế-châu và Tứ-xuyên; số khác lại tẩu tán xuống Quảng-đông và Quảng-tây, trở thành những bộ lạc thiểu số. Quan cai trị người Hán lại còn chia rẽ họ bằng cách phân nhóm và buộc họ phải ăn mặc y phục có màu sắc khác nhau, và từ đó mà ta biết đến nhóm Miêu đen, trắng, hoa, đỏ và xanh. Mỗi nhóm lại cử lên một tộc trưởng, một chức vụ như là tiểu vương (kiatong). Tuy vậy họ vẫn luôn tìm cách liên kết với nhau khi cần chống lại kẻ thù chung là Hán tộc.

Có một bài phóng sự trong nước mới đây mô tả về trang phục của phụ nữ Mông một cách khá thơ mộng, xin được trích dẫn nguyên văn như sau:

"Họ cư trú trên các thung lũng của miền núi phía Bắc (Việt Nam). Leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao một ngàn ta bắt gặp những bản làng của người Mông, bốn mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh những bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, với những con đường mòn vừa đủ cho người đeo gùi, cho ngựa thồ nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo.

Giữa khung cảnh tịch mịch hoang vu ấy, du khách bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ, bộ trang phục nữ với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sở, lóng lánh vòng khuyên, nổi bật lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng cao, bên cạnh các cô gái Thái, Tày, Nùng, Dao... vẫn nổi bật sắc mầu của các cô gái Mông: Đây là cô gái Mông Trắng mặc váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều mầu, yếm hoa phô sau gáy, kia là các cô gái Mông Hoa, váy xếp nếp xòa đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở ngực, còn mang trên mình khăn và túi. Rồi phải kể đến cô gái Mông Đen quấn vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vành bạc đủ bộ, làm mỗi bước đi rung lên thành nhạc, còn cô gái Mông Lai trong tiết rời se lạnh sặc sỡ một mầu đỏ thắm của y phục truyền thống." ...

Trở lại câu chuyện gốc gác người Hmong ở Tầu thì sau khi bị phân tán vào các vùng cao nguyên và rừng rậm, người Miêu tạm sống yên ổn bởi vì nhà Tống bận rộn trong việc chấn hưng nền kinh tế và giao thương của Trung quốc mà xao lãng quân sự, đưa đến việc rợ Khế-đơn (Kitans) lập nên nước Liêu (Liao) ở mạn Tây bắc và rợ Tiên-ti (Tartars) lập nên nước Tây Hạ (Western Xia) ở vùng Giang bắc, Ninh-hạ và Cam-túc. Từ đó nước Tầu lại can qua giữa ba nước.

Những năm về sau ở nước Liêu, Mãn-tộc bắt đầu hưng thịnh tách ra lập ra nước Đại-Kim (Juchen Chin hay Kin: 1115 - 1234). Tống Hy-tông liên kết với Đại-Kim để diệt Liêu, rồi nhà Tống quá suy yếu lại phải triều cống vua Kim. Trong khi ấy, giống Mông-cổ phát triển hùng mạnh với Thành-cát-tư-hản (Genghis Khan) khởi binh chiếm nữa phía bắc nước Kim vào năm 1215 rồi quay sang chiếm trọn Trung Á và tàn phá vùng Nga-la-tư. Khi quay về đông phương lại diệt luôn nước Tây Hạ vào năm 1224, chọn Yên-kinh (Yenkin: về sau trở thành Bắc Kinh ngày nay) làm kinh đô, xưng là Nguyên-thái-tổ.

Sau khi Thành-cát-tư-hản mất năm 1227, thì con là Oa-khoát-đài hay A-loa-đài (Ogadai) thôn tính trọn nước Kim năm 1234 và khủng bố đến tận vùng Trung Âu. Sau khi Oa-khoát-đài mất, Mông-kha (Mongke) lên ngôi một mặt tiếp tục tàn phá châu Âu và mặt khác sai cháu của Oa-khát-đài là Hốt-tất-liệt (Kublai Khan) cử binh đánh và diệt nước Đại Lý, hậu thân của nước Nam chiếu (ở vùng Vân-nam bây giờ) vào năm 1253, rồi tiến đánh nhà Nam Tống và nước An-nam. Khi Hốt-tất-liệt đánh vào Quế-châu, Tứ-xuyên, quân Mông-cổ đã không tiến sâu vào vùng cao nguyên cho nên Miêu tộc không bị sát hại nhiều.

Khoảng từ năm 1267 đến 1279 Hốt-tất-liệt, diệt được nhà Tống vừa khi Mông-kha mất, liền lên ngôi xưng hiệu là Nguyên-thế-tổ, lập nên nhà Nguyên (Yuan: 1279 - 1368) ở Trung- quốc. Vua Tống Cung-đế và các đại thần phải nhảy xuống biển tự vận.

Đến năm 1368 Châu Nguyên Chương (Zhu Yuanzhang), vốn là một nhà sư nổi lên đánh đuổi được quân Mông-cổ lập nên nhà Minh (Minh: 1368 - 1644).
Nhà Minh lại nhắm vào Miến-điện như là cửa ngõ buôn bán với vùng Đông-nam Á, nên quyết bình định vùng Vân-nam.
Trước tiên họ đặt ra hệ-thống thổ-ty (Tu Si system) và ưu đãi nhóm người Lô-lô mà đàn áp người Miêu đẫn đến việc người Miêu thường xuyên nổi dậy.

Năm 1459 quan quân nhà Minh đã thiết lập hơn 2 ngàn đồn biên phòng tại Quế-châu, Tứ-xuyên, để từ đó liên tục mở các cuộc hành quân đánh phá làng mạc và căn cứ địa của người Miêu, và tàn sát đến hơn 40 ngàn người.

Từ đó cho đến cuối thế kỷ thứ 16, không năm nào mà người Miêu không vùng lên đòi độc lập, và tung hoành một cõi từ Quế-châu đến tận Hồ-nam. Để ngăn chận họ, nhà Minh cho xây một trường thành nhỏ giống Vạn-lý trường-thành gọi là Miêu Thành cao 8 bộ và kéo dài hằng trăm dặm ở biên giới Hồ-nam và Quế-châu.

Số phận vẫn còn bi đát

Năm 1616, người Mãn-châu là hậu duệ của nước Kim lại bắt đầu cường thịnh, Nỗ-nhỉ-cáp-xích quật khởi ở miền Liêu-ninh xưng là Thái-tổ và đặt tên nước là Hậu Kim, đặt đô ở Thẩm-dương chống lại nhà Minh. Năm 1636, Hoàng-thái-cực kế vị vua cha, đổi tên nước là Đại Thanh đi chinh phục Triều-tiên, Nội Mông-cổ và miền Đông-bắc của Minh triều và đến năm 1644 thì Thuận-trị dứt được nhà Minh, thiết lập Thanh triều ở Trung-quốc (Ch'ing hay Qing: 1644 - 1911).

Tàn quân nhà Minh kéo nhau tị nạn sang Nhật-bản và Việt-nam.

Một số khác do Hoàng Minh và Mã Báo bỏ Quảng-tây trốn vào Quế-châu cốt tìm đường sang Vân-nam.

Để đền ơn cưu mang của Miêu tộc, Hoàng Minh giao lại cho họ toàn bộ vũ khí và còn bày cho cách chế tạo súng hỏa mai mà ngày nay người Miêu vẫn còn sử dụng.

Sự kiện này đã làm cho nhà Thanh thêm lo ngại, nên năm 1727, Thân vương Oa-đài (Ortai), thống đốc Quế-châu mở chiến dịch càn quét, sai tướng Dương Quang Sĩ (Zhang Kwang Si) tấn công vào Quí-dương (Guiyang) là thủ phủ rồi vào Liễu-bình (Lip'ing).

Quân Hmong đông đến hơn 10 ngàn người trang bị đầy đủ vũ khí với súng hỏa mai và đại bác nghênh chiến. Tổn thất hai bên rất cao, nhưng cuối cùng quân Thanh thắng thế, tịch thu tất cả vũ khí của người Miêu đúc thành một trụ tượng kỷ niệm chiến thắng bằng sắt cao 11 bộ dựng ở một hòn đảo trên sông Liên, cửa vào Quí-dương.

Để trả thù, quân Miêu kéo từ núi xuống tàn sát dân ở 4 thị trấn ven sông. Nhà Thanh phải đem viện binh từ các tỉnh lân cận đến tấn công vào cứ điểm của người Hmong từ ba mặt. Quân Miêu vỡ, số thua trận đầu hàng đều bị giết sạch. Điều này làm cho các bộ lạc Miêu rút vào rừng sâu và liên kết dựng những hỏa đài báo hiệu sự tiến công của quân Thanh trên các sườn núi. Di tích của những hỏa đài này hiện vẫn còn. Quân Miêu nổi loạn cắt máu ăn thề kháng cự đến chết. Họ còn giết hết vợ con để khỏi phải bận tâm luyến ái. Họ phản công điên cuồng chẹn các đèo vào núi, làm cho cả Bắc-kinh lo lắng.

Dương Quang Sĩ được cử thay Oa-đài ra sức giải tỏa hết các chốt và cắt đường tiếp tế của quân nổi dậy làm cho họ đói khát phải mở đường máu. Hai mươi ngàn quân Miêu bị giết trên chiến trường. Khoảng hai mươi bảy ngàn khác bị bắt và một nửa số bị sát hại sau đó. Tổng số súng dài tịch thu lên đến gần 50 ngàn khẩu. Dương Quang Sĩ còn khủng bố dân lành, cướp phá hơn 20 ngàn làng mạc của người Hmong, tước đoạt đất đai của họ. Dân Miêu lại phải trốn chạy vào các vùng lân cận để thoát thân, một số vượt biên giới vào miền bắc Việt-nam, định cư ở Đông Quan và núi Hoàng Su-Phi. Tuy vậy số người Hmong còn ở lại vẫn chưa chịu hoàn toàn khuất phục, thỉnh thoảng vẫn tìm cách nổi dậy.

Đến năm 1740, đời Ung-chính, nhà Thanh ra lệnh dẹp bỏ hệ thống thổ-ty mà đặt quan trực tiếp cai trị vùng Tứ-xuyên, Quế-châu, Vân-nam, Quảng-tây cốt để đồng hóa họ và khai thác các quặng than, bạc và đồng cũng như lâm sản trong vùng. Nhà Thanh cũng gia tăng thuế má làm cho nhiều nông dân người Miêu điêu đứng, khiến họ nổi dậy không ngừng.

Năm 1796 người Miêu lại tập hợp đủ mạnh dưới sự lãnh đạo của hai tù trưởng là Thỉ Sanh Báo và Thỉ Liêu Đăng (Shih San-Pao và Shih Liu-teng) ở biên giới Quế-châu, Hồ-nam để khủng bố nông dân người Hán vốn do Thanh triều di dân đến dưới mỹ danh là "khách trú" và được quân đội bảo vệ. Bắc-kinh phải vội tăng viện để dập tắt cuộc bạo loạn, và chiến dịch kéo dài đến 13 năm mới xong.

Quân Thanh tái thiết bức Miêu Thành từ lâu đã bị bỏ hoang và tăng cường thêm quân bố phòng để kiểm soát chặt chẽ những hoạt động của người Hmong và quyết tâm đồng hóa họ.

Người Thanh còn bắt trẻ con Miêu phải theo học chữ Hán và Hán tộc được quyền cưới phụ nữ Miêu.

Nhiều nhóm Miêu không chịu đựng được sự áp bức đành phải trốn sâu hơn vào rừng ở những tỉnh lân cận. Vài nhóm Miêu đen kéo xuống vùng nam của Hồ-nam và bắc của Quảng-tây, Miêu trắng dời về phía bắc vào vùng Tứ-xuyên, và Miêu hoa trốn về phía tây vào vùng Vân-nam.

Lúc bấy giờ ở vùng Vân-nam, vốn xưa là nước Đại Lý đã có giống người Hản (Haw) cư ngụ. Họ là người theo đạo Hồi có liên hệ với người Panthay ở Miến-điện, chuyên về buôn bán thương mãi. Họ thường bị quan lại nhà Thanh khinh miệt và kỳ thị cho nên cũng đã nổi dậy nhiều lần đòi độc lập, như vào các năm 1818, 1826 và 1834 nhưng lần nào cũng bị đàn áp tàn bạo.

Nhưng từ năm 1855 cho đến 1873 người Hản vùng dậy và làm chủ được toàn vùng dưới sự lãnh đạo của Trịnh Chiếu (Tu Wen-hsiu) vì nhà Thanh còn bận đương đầu với loạn Thái-bình (Taiping) ở trung thổ. Trịnh Chiếu tuyên bố Vân-nam là một nước Hồi giáo độc lập cho đến khi nhà Thanh rảnh tay quay lại tái chiếm.

Người Hmong cùng tham gia với người Hản nổi dậy nên cũng chịu chung số phận bị tàn sát dã man. Người ta ước tính có đến cả triệu người Vân-nam thiệt mạng sau khi quân Thanh trở lại. Thế là người Hản và người Miêu lại kéo nhau tràn vào Miến-điện và Đông dương lánh nạn. Nhóm đến Việt-nam lần này đông khoảng 6 ngàn người kéo vào Đồng Văn ở gần biên giới.

Miêu tộc vào Việt Nam

Trước đấy từ năm 1815 đến 1818 đã có người Miêu chạy thoát đến cư ngụ ở Đồng Văn. Sau đó một nhóm tách ra di dân đến vùng bắc của ngọn núi Fan Si Pan, rồi bỗng dưng vài năm sau không ai tìm thấy dấu vết của họ đâu nữa, làng mạc bị bỏ hoang.

Câu chuyện thật ra rất ly kỳ có liên quan đến một tay buôn nha phiến người Tầu tên là Tôn Mã. Nhân một chuyến ghé qua Fan Si Pan để thu mua thuốc phiện, y kể cho dân làng nghe về một vùng đất hoang mầu mỡ ở dãy núi Xieng Khoảng phía đông nước Lào.

Thực ra thì y chỉ muốn thủ lợi riêng bởi vì người Miêu lúc bấy giờ chuyên trồng cây nha phiến để bán lại. Trong chuyến buôn kế tiếp y hướng dẫn một nhóm người Miêu tiên phong được "tiểu vương" (kiatong) Lo See Pa giao cho Kue-Vue cầm đầu, tìm đến vùng gần Nong Het. Khu đất rừng thật là phì nhiêu, thế là trong vòng vài năm, họ di dân đến đấy và thiết lập làng mạc xung quanh Nong Het và để tri ân kẻ chỉ đường, họ đặt tên con sông chảy qua là Tôn Mã.

Họ sống yên ổn ở vùng đất mới được vài năm thì Lo See Pa bị bọn cướp người Hán giết chết trong một trận tấn công vào làng không thành cốt để đoạt nha phiến. Kẻ kế vị là Lo Sue Xia vẫn thuộc dòng họ Lo. Truyền thống này vẫn được duy trì vài thập niên mãi đến khoảng 1850 có vài sự kiện gây xáo trộn: Nhóm họ Lý và nhóm họ Moua xuất hiện.

Nhóm người Miêu họ Lý, lãnh đạo bởi Lý Nghia Vue vốn ở nước Đại Lý xưa kia bị quân Thanh truy kích trong vụ nổi dậy cùng với người Hán, kéo nhau đến Nong Het lánh nạn cùng với nhóm họ Moua cầm đầu bởi Moua Kai Chong. Dĩ nhiên là họ không chịu thần phục dòng họ Lo, và vẫn giữ nguyên tiểu vương của họ. Tuy vậy Lo Sue Xia vẫn được tôn kính hơn cả.

Cùng đợt tị nạn từ khi vùng Vân-nam bị thất thủ vào năm 1860 và loạn Thái-bình bị đập tan vào năm 1863, một khối lượng đông đảo người từ Trung-quốc tràn xuống Việt-nam, trong đó có cả Miêu tộc. Bọn họ là đám tàn quân nên còn mang theo vũ khí, đi cướp phá mạn thượng du Đồng Văn, Yên Minh và Quản Bá, miền bắc nước ta dưới triều Tự Đức, nên sử ghi là giặc khách. Mạn Tuyên-Quang có Nông hùng Thạc, mạn Cao bằng có Ngô Côn và Lý hợp Thắng chiếm tỉnh lỵ năm 1865. Về sau có dư đảng là bọn Hoàng sùng Anh, hiệu cờ vàng và Lưu vĩnh Phúc, hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, hiệu cờ trắng cùng với giặc biển tên Phụng liên tục quấy phá khắp nơi ở miền Bắc .

Lúc bấy giờ tình hình nước ta thật điêu đứng với giặc ngoại xâm, trong nam thì đã bị quân Pháp chiếm, mà chúng còn đang hăm he đặt nền bảo hộ và đánh Bắc kỳ. Ngoài bắc thì đám giặc khách uy hiếp làm quan quân ta chống đỡ không nổi. Riêng giặc ở thượng du đã có lúc tràn xuống tận Yên Bái vùng đồng bằng sông Hồng. Vua Tự Đức phong cho Nguyễn Tri Phương làm Tây-bắc tổng-thống quân-vụ đại-thần đốc thúc việc tảo trừ, năm 1863 quân ta tái chiếm thành Tuyên-Quang. Miêu tộc rút lui về Quảng Bá.

Tại núi Phước ở Quảng Bá lại xuất hiện một thủ lãnh người Miêu tên là Xiong, với tài nhào lộn và phi thân rất giỏi, tự xưng là tân vương của Miêu tộc. Các sắc dân thiểu số khác trong vùng như Mán và Nùng cũng thần phục y, gây một thế lực rất lớn. Chỉ trừ giống Thổ là chống đối. Y xây lâu đài, dựng triều đình, lập quân đội, làm vũ khí với súng hỏa mai. Xiong liền đem quân tấn công tàn phá Làng Dận và vùng cư dân lớn hơn khác của người Thổ gần Quảng Bá. Chiến thắng này làm tăng thêm uy danh của Xiong. Trong vòng 12 năm sau, y giao việc hành quân cướp phá các vùng lân cận cho thuộc hạ, còn y thì chỉ vui hưởng tại cung điện mà thôi.

Sau khi Xiong chết vì ám sát thì vương quốc của y cũng tan rã, kẻ kế vị là Cha Shue, một tù trưởng ở dãy núi Hoàng Su Phi. Vùng y tự trị nằm vắt qua hai biên giới Việt-Hoa, và vào năm 1894 y còn được Thanh triều phong cho chức thổ-ty. Người Pháp lúc bấy giờ đã chiếm Việt-nam làm thuộc địa cũng để yên cho Cha Shue, vì họ cần người Miêu cung cấp gỗ độc quyền cho họ. Về sau Cha Shue còn gây thế lực bằng cánh đánh thuế trên số gỗ bán cho người Pháp. Uy tín của Cha Shue còn được truyền tụng ở Nong Het.

Người Hmong ở Lào và thuốc phiện

Sau khi định cư ở Lào, người Hmong lại phải ác chiến với người Khạ ở vùng Xiêng Khoảng vào nửa cuối thế kỷ thứ 19. Người Khạ hay còn gọi là người Kh'mu vốn là cư dân lâu đời tại Lào, có thể từ thế kỷ thứ 5; ban đầu họ là phiên bang của nước Phù-nam (Funan), sau lại lệ thuộc vương quốc Chân-lạp (Chenla), và rồi Khmer.

Vào thế kỷ 13 và 14, khi nước Nam-chiếu bị người Mông-cổ diệt, bộ tộc Lào và Tày di dân qua đất hạ Lào trở nên đa số và thiết lập vương quốc độc lập Luang Prabang. Từ đó người Khạ bị người Lào khinh miệt và bị bạc đãi tàn tệ, phải sống ở vùng thượng du.

Khi người Hmong định cư ở Xieng Khoảng, người Khạ bắt họ phải cống nạp nông sản và súc vật. Nhưng đến khi biết người Hmong còn sống sung túc bằng nghề trồng trọt nha phiến người Khạ lại đòi hỏi thêm thuốc phiện. Điều này đã đưa đến chiến tranh và người Khạ bị thua trận phải kéo chạy về vùng núi gần Luang Prabang.

Thị trường nha phiến trên thế giới khởi phát từ Á-châu bởi đế quốc Anh và Pháp vào đầu thế kỷ 19 đã giúp cho người Hmong đóng một vai trò quan trọng trong việc sản xuất chất thô. Bọn đế quốc lại dùng số lợi nhuận khổng lồ để tái tài trợ cho những âm mưu bành trướng thế lực và cai trị thuộc địa. Cuối thế kỷ 19 khi quốc hội Anh thông qua đạo luật ngăn cấm chính phủ tham gia thì Pháp độc quyền thị trường ma túy. Chính vì nguồn lợi này mà Pháp đã thôn tính luôn cả Cam Bốt và Lào để có đường thông thương với thượng du Vân-nam. Ngay cả sau khi Pháp bị đánh bật ra khỏi Đông Dương vào 1954, ảnh hưởng của họ trên thị trường ma túy vẫn không giảm, và chính tập đoàn buôn lậu đã mua chuộc và làm thối nát chính quyền miền Nam để bọn họ dễ dàng làm ăn, và chắc chắn là bọn họ cũng lũng đoạn chế độ hiện nay tại Việt-nam. Cuối năm 1960, người ta ước tính là nông dân người Hmong ở Lào đã cung cấp khoảng 70% nhu liệu cho thị trường ma túy của thế giới.

Khi người Pháp đô hộ Lào từ năm 1893, họ dùng người Lào và Tày cai trị dân miền núi cho nên đã xảy ra khá nhiều chuyện bóc lột hà hiếp dân Miêu với thuế khóa nặng nề trên nông sản nha phiến. Năm 1896 người Pháp lại tăng thuế và đòi trả một phần bằng thuốc phiện, làm cho Miêu tộc nổi loạn, họ gọi người Pháp là Fa-ki theo âm của người Tầu là Pháp quỉ (Fa kouie). Lần đầu họ thành công khi tấn công đồn lính tây ở Ban Khang Phanieng, nhưng lại đại bại ở lần thứ hai khi đánh vào tiểu khu Xieng Khoảng. Vì vậy tiểu vương họ Lo bị truất phế và được thay vào bởi họ Moua, tên Tong Ger. Tân tiểu vương liền xin hòa đàm với nhà cầm quyền thuộc địa tại Bản Ban để được giảm bớt thuế, và sự giao thiệp giữa Pháp và người Hmong bớt căng thẳng.

Quân Cờ Đen và Miêu tộc

Năm 1870, dư đảng của giặc Thái-bình ở Trung-quốc sau khi tràn vào Việt-nam, chia làm hai phe Cờ vàng ở Tuyên-quang và Cờ đen ở Lào-kay chống chọi nhau ở mạn thượng du. Đến năm 1875 giặc cờ vàng bị dẹp tan. Còn Lưu hữu Phúc đầu đảng Cờ đen xin thần phục triều đình nhà Nguyễn rất sớm. Vua Tự-Đức phong cho Phúc làm đề đốc, và khi quân Pháp dưới quyền của Đại úy Hải quân Francis Garnier đánh thành Hà-nội, Garnier đã bị quân của Lưu hữu Phúc phục binh giết chết tại Cầu Giấy năm 1873.

Âm mưu của Pháp muốn chiếm Bắc-kỳ vẫn không phai, nên đầu năm 1882 Đại-tá Hải-quân Henri Riviere được lệnh đem tàu chiến ra đánh chiếm thành Hà-nội lần thứ hai, thừa thắng hạ luôn thành Nam-định vào tháng ba, năm 1883. Nhưng đến khoảng cuối tháng 5 thì Riviere lại bị quân cờ đen phục ở Cầu Giấy giết chết. Quân cờ đen còn bêu đầu của Riviere từ làng này qua làng khác.

Nhiều cánh quân cờ đen khác thường đem quân sang Lào, đánh cướp nha phiến của người Hmong để mua lương thực và vũ khí, và bắt đi đàn bà con gái cho nên Miêu tộc phải nhờ người Pháp bảo vệ. Tháng 11, 1914 quân cờ đen tấn công đồn lính tây ở Sầm Nứa. Sau đấy tiến đánh Phong Saly và đã đụng độ đến mấy tháng với lực lượng Hmong và Pháp, trước khi bị bại phải tháo chạy trở về Trung-quốc.

Một thủ lãnh Miêu ở Hà Giang, Việt-nam tên Yang Yilong được tin bèn xin nhà cầm quyền địa phương Pháp trang bị vũ khí để mở những trận du kích đuổi quân cờ đen. Từ đó mở đầu cuộc hợp tác quân sự giữa người Miêu và Pháp, và kéo dài cho mãi về sau. Để trả thù quân cờ đen đốt phá các buôn làng của người Miêu mà họ đi qua.

Cuộc hợp tác giữa người Miêu và Pháp cũng chẳng mấy êm trôi khi chính quyền thuộc địa lại tăng thuế vào năm 1914, gánh nặng bất công đè trĩu trên vai người Hmong. Đã vậy thực dân Pháp lại quyết định mở những trục lộ giao thông giữa Việt-nam và Lào chạy qua Xiêng Khoảng và Phong Saly, và bắt dân Hmong đi làm phu, làm cho việc mùa màng bị đình trệ càng thiếu tiền đóng thuế. Nhiều làng kéo nhau trốn vào rừng sâu.

Năm 1917, phụ tá của kiatong Moua Tong già nua là Lo Bliayao lại tham nhũng bóc lột phu phen người Miêu đã đưa đến sự nổi dậy. Bliayao lại cậy vào quân địa phương của Pháp để đàn áp.

Lãnh tụ Chay Pa

Trong khi đó ở buôn làng người Miêu trong vùng Điện-biên-phủ xuất hiện một thủ lãnh tên là Chay Pa, gốc gác từ Vân-nam, biết nói và viết ba thứ tiếng Hoa, Lào và Việt, rành ma thuật, cầm đầu người Miêu chống lại ngươi Tày vốn đàn áp họ, và xúi dục người Miêu không đóng thuế. Quân Pháp được gởi từ Sơn La đến để truy lùng Chay Pa, nhưng thường bị tập kích. Nhưng đến năm 1919, Chay Pa yếu thế phải rút quân sang Xieng Khoảng và hô hào người Hmong đứng lên chống Pháp để lập một vương quốc độc lập với kinh đô là Điện-biên-phủ. Chay Pa được sự hưởng ứng của người Miêu ở Xieng Khoảng nổi lên đánh phá các căn cứ của lính thuộc địa. Họ còn ám sát hụt tên Lo Bliayao làm tên này càng hợp tác với Pháp chặt chẻ hơn. Nhà cầm quyền thực dân Pháp tăng phái quân chính qui từ Việt-nam sang, và áp dụng kế sách ấp chiến lược cô lập quân nổi dậy. Chiến lược này lần hồi thành công và khiến loạn quân tan rã, nhưng quân Pháp vẫn treo giải cho đầu của Chay Pa. Y rút vào rừng sâu sống với vài bộ hạ thân tín nhưng lại bị theo dõi và bị ám sát vào tháng 11, năm 1922.

Lãnh tụ Lý Foung Touby

Sau vụ nổi dậy bất thành của Trịnh Chiếu ở Vân-nam, Tứ-xuyên, người Hản và Miêu trốn chạy sang Lào. Trong số đó có một người họ Lý đến được Nong Het năm 1865. Y lập gia đình và có 3 con; trong số có cậu Foung rất thông minh. Foung lấy con gái của Lo Bliayao tên May. Hai người có 2 đứa con, trai tên là Touby và gái tên Mousong. Foung lấy thêm vợ bé, và May buồn rầu tự vận. Điều này làm cho quan hệ giữa hai họ Lo và Lý trở nên căng thẳng. Các thổ hào liền phải nhờ quan Pháp can thiệp, và để tránh rắc rối nhà cầm quyền liền chia cho họ Lý cai quản Miêu tộc vùng Keng Khoai và họ Lo xem vùng Phac Boun. Năm 1935 Lo Bliayao qua đời, con là Tou Song thay thế chức kiatong.

Cùng năm này người Hmong lần đầu theo học trường tiểu học của Pháp mở tại Xieng Khoảng. Các danh gia họ Lo, Lý và Moua đều cho con đi học để hy vọng tranh dành ngôi thứ chính trị về sau. Theo thời gian, Touby Lý đỗ xong trung học và theo học trường Hành chánh mở tại Vientiane.

Lo Tou Song ít học lại ham mê cờ bạc nên thâm lạm công quĩ rất phật lòng quan cai trị người Pháp. Nhưng Lý Foung lại khôn khéo đem tiền của mình đền bù giùm nên được lòng tin của quan bảo hộ. Từ đấy mà chẳng mấy chốc vai trò chính trị xán lạn của đứa con trai Lý Touby đã được dọn sẵn. Đến khi người Pháp sa thải Tou Song khỏi chức kiatong ở Phac Boun, Touby liền được thay thế. Nhưng người em của Tou Song là Faydang rất lấy làm bất bình sinh oán hận Touby, khiếu nại đến hoàng thân Phetsarath ở Vientiane nhưng vẫn bị người Pháp lấn át.

Sau khi ra trường Hành chánh, với chỗ đứng vững chãi trong guồng máy chính trị, uy thế của Touby càng gia tăng. Y đã dùng sản lượng nha phiến do người Hmong trồng trọt để làm áp lực với người Pháp, vì Pháp đang muốn chiếm độc quyền thị trường thế giới lúc bấy giờ. Y còn thuyết phục người Pháp nâng cao vai trò của người Hmong trong xã hội Lào.

Đến năm 1949 Trung-quốc hoàn toàn do đảng Cộng sản thống trị, làm cho nguồn cung cấp nha phiến ở Vân-nam và biên giới Miến điện vốn nằm dưới sự cai quản của tàn dư quân đội Quốc dân đảng bị cắt đứt. Nguồn cung cấp từ Iran và A-phú-hản lại quá đắt, cho nên Pháp tận dụng nguồn nha phiến của người Hmong để chiếm lĩnh thị trường. Năm 1953 Liên hiệp quốc ký công hàm chấm dứt việc các chính phủ tham gia buôn bán nha phiến, dẫn đến thị trường chợ đen. Sản lượng càng gia tăng và lợi nhuận càng cần thiết cho việc tài trợ việc tái chiếm Đông dương vì chiến tranh leo thang.

Hợp tác với Pháp chống Nhật

Khi nước Pháp bị Đức Quốc Xã cai trị vào năm 1940, quân Nhật liền chiếm đóng Đông Dương. Toàn quyền Decoux được Nhật để yên tiếp tục phụ trách hành chánh, đã ra lệnh quân Pháp không kháng cự. Nhưng đến tháng 8 năm 1944, khi Paris được giải phóng thì cuộc diện liền thay đổi. De Gaule vội tiến hành kế hoạch phản công ở Đông Dương. Tháng 11, quân biệt động Pháp được thả dù xuống Cánh đồng Chum để lập khu kháng chiến. Không quân Mỹ lại dội bom các hải cảng ở Việt-nam.

Tháng 3, 1945 Nhật liền đảo chánh và ra lệnh tước khí giới của quân Pháp ở Đông Dương. Tuy vậy Pháp vẫn âm thầm tăng phái quân nhảy dù từ Ấn-độ vào thượng Lào với sự bao che của người Hmong. Khi Nhật biết có sự dính líu của người Hmong vào kế hoạch bí mật cuả Pháp, họ liền bắt Lý Touby và định đem xử bắn, nhưng nhờ giám mục Mazoyer ở Vientiane can thiệp nên được tha. Chẳng sờn lòng, Touby liền liên lạc với Đại úy Bichelot, chỉ huy quân biệt động Pháp để hợp tác chống Nhật.

Việc này làm cho quân Nhật điên cuồng, họ liên tục tàn phá các bản làng người Miêu nghi ngờ hợp tác với Pháp, và vô tình làm cho Miêu tộc càng ủng hộ Touby thêm nữa. Nhưng không phải người Miêu nào cũng ủng hộ người Pháp, trái lại nhóm Miêu theo Faydang lại hợp tác với người Nhật truy diệt lính Pháp.

Tháng 3, 1945 người Nhật bắt giam tất cả viên chức chính quyền thực dân Pháp ở Lào, khuyến cáo vua Vong Sisavang tuyên bố Lào độc lập. Hoàng thân Phetsarath xây dựng đảng Lao Isalla (hay Lào tự do), và đứng ra thành lập tân chánh phủ vào tháng 10. Nhưng đội biệt động Pháp ra tay tấn công Luang Prabang, chiếm hoàng cung và ép vua Lào tuyên bố hủy bỏ độc lập và tước hết quyền của Phetsarath. Đảng Lao Isalla cầu cứu với Việt minh, cùng với nhóm Hmong của Faydang để chống Pháp, thế là bộ đội Việt minh được chính thức mời vào lãnh thổ Lào cùng với một khối cư dân Việt. Việt minh lại còn tuyên bố Xieng Khoảng là một căn cứ của Việt-nam. Tháng 11, lực lượng biệt động Pháp phối hợp với dân quân Hmong của Touby đánh bật Việt minh ra khỏi Xieng Khoảng. Pháp kết án Faydang là cộng sản, và đến mùa hè năm 1950 Faydang gia nhập đảng Pathet Lào (Cộng đảng Lào).

Lúc bấy giờ Hoa Kỳ, là đồng minh với Liên Xô chống phe trục, lại âm thàm liên lạc và trang bị vũ khí cho du kích quân Việt minh để quấy phá quân Nhật ở Đông dương làm cho thế lực của Việt minh gia tăng thêm. Đến khi Nhật đầu hàng đồng minh vào tháng 8, 1945, Hồ-chí-Minh cướp thời cơ dành lấy chính quyền ở Hà-nội, thành lập chánh phủ liên hiệp và tuyên bố Việt-nam độc lập. Khi bị tước khí giới, quân Nhật lại không chịu giao lại cho Pháp mà lại giao cho Việt minh.

Pháp không chịu công nhận Việt-nam độc lập, nhưng lại mời Hồ chí Minh sang Pháp để thương thảo điều kiện để Pháp ở lại Đông dương, và dời chuyện trao trả độc lập đến 1947 sau khi trưng cầu ý dân. Đồng thời Pháp lại hổ trợ cho một nội các chống Việt minh được dựng lên ở Sài gòn, và còn có ý định lập một nước Nam Kỳ độc lập. Nhưng cuộc sống hòa bình gượng gạo với Việt minh không kéo dài được lâu. Tháng 11, 1946 một cuộc đụng độ võ trang Việt Pháp ở Hải Phòng dẫn đến cuộc chiến tranh toàn Đông dương.

Năm 1946, Pháp thuận cho Lào được độc lập trong Liên Hiệp Pháp và mở cuộc bầu cử dân biểu quốc hội. Một người trong gia đình Touby đắc cử vùng Xiang Khoảng, đó là Lý Foung Toulia. Họ tranh đấu để được đối xử bình đẳng như công dân Lào, và có đại diện trong hội đồng tỉnh. Và để tranh thủ mối lợi nha phiến Pháp đề cử Touby làm phó tỉnh trưởng Xieng Khoảng, từ đó y gia tăng ảnh hưởng của người Hmong trong chính quyền Lào.

Việt Minh cũng chú ý đến nguồn lợi nha phiến để mua vũ khí ở biên giới Tầu. Sản lượng thuốc phiện của một tỉnh có thể trang bị vũ khí cho một sư đoàn. Người ta ước tính là chỉ riêng năm 1947, trị giá của mùa thu hoạch nha phiến lên đến 400 triệu đồng bạc Đông dương, gần bằng với trị giá tổng số gạo xuất cảng của toàn Đông dương cùng năm. Vì thế Pháp đã bằng mọi giá phải kiểm soát được nguồn tài nguyên này, năm 1948, một nghị định của Cao ủy Đông dương cho phép người Hmong hầu như độc quyền trồng nha phiến ở Lào.

Cùng năm, Touby được đưa về Sàigòn để Phủ cao ủy giao công tác thành lập một lực lượng biệt động địa phương chống Việt minh. Từ năm 1951 cho đến 1954, tư lệnh tối cao quân viễn chinh Pháp cho thi hành "chiến dịch X" để tài trợ trang bị các lực lượng người thiểu số. Phi cơ quân sự được lệnh chở thuốc phiện của người Hmong từ vùng đông bắc Lào về Sài Gòn, giao cho Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, bấy giờ là Giám Đốc Cảnh Sát phân phối. Qua một thời gian ngắn đó, Touby đã nhận được khoảng 4 triệu đô-la cho lực lượng người H'mong.

G.C.M.A.

Cuối năm 1950, quân Pháp không còn kiểm soát nổi vùng biên giới Việt-Hoa sau những trận đánh đẫm máu với Việt-minh. Việt-minh quyết làm chủ mạn bắc là cốt mở rộng đường bộ để dễ dàng tiếp nhận viện trợ vũ khí từ cộng sản Hoa lục, mà trước đây chỉ nhờ dân công chuyển qua đường rừng núi.

Việt-minh mở những trận phản công lại trùng với chiến cuộc Cao-ly, nên trước những đe dọa phối hợp của Cộng sản quốc tế, tổng thống Hoa Kỳ Truman ra lệnh viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông dương trong vòng bốn năm lên đến 3 tỷ đô-la để tiếp tục ngăn chận Việt cộng.

Đầu năm 1950, đại tá Grall được Pháp bổ nhiệm chỉ huy một bộ phận hoạt động bí mật mang tên là GCMA (Groupement de Commandos Mixtes Aeroportes: Đội Biệt Động Dù) có 20 sĩ quan chuyên tuyển mộ, huấn luyện và trang bị cho nhiều toán du kích người sắc tộc thiểu số Đông dương, đặc biệt ở 4 khu: Bắc, Nam, Cao nguyên trung phần Việt nam và Lào. Đại tá Roger Trinquier phụ trách khu Lào. GCMA lại được điều khiển bởi Cơ quan Tình báo và Phản gián của Pháp ở Hải ngoại; tiền tài trợ dĩ nhiên là qua kinh tài ma túy. (CIA về sau cũng áp dụng y như vậy!). Toán du kích tân tuyển được đưa về Cap St. Jacques (Vũng Tàu) để huấn luyện. Touby cũng đã được huấn luyện tại đây để về lãnh đạo hệ thống du kích Hmong ở Phong Saly, Xieng Khoảng và Sầm Nứa.

Trinquiner quyết gấp rút thành lập một lực lượng du kích ở tây bắc Lào để gây rối an toàn khu của Việt-minh tại Sip Song Chau Thai, phía tây Hắc giang và gần biên giới Việt-Lào. Y chọn Lo Quang Chao, tù trưởng Hmong ở Lào Kay sức vóc hơn người, mang bí danh là Sô-cô-la. Đến tháng 4 năm 1952, GCMA ở Hà nội đã thả dù cho Lo 2,500 cây súng trường để đám này kiểm soát vùng Lào Kay và núi Hoàng Su Phi. Trinquiner hài lòng với những chiến công của Lo, đến nỗi y đồng hóa cấp Trung úy quân viễn chinh Pháp cho Lo, và truy tặng Anh dũng bội tinh bằng cách thả dù huy chương xuống căn cứ cho Lo Quang Chao. Lo tung hoành ở vùng biên giới Việt-Hoa một thời gian nhưng rốt cuộc bị giết chết vào tháng 8 năm 1953, và nhóm du lích của y tan rã.

Tháng 4 năm 1953, Việt minh và Pathet Lào phối hợp chia thành hai gọng kìm tấn công Sầm Nứa và Luang Prabang, Faydang có mặt ở tuyến đầu. Pháp vội xây dựng phi trường dã chiến tại Cánh đồng Chum để tăng phái quân cơ động. Nhờ sự đưa tin hiệu quả của nhóm Hmong thuộc cánh Touby, và nay có thêm một phụ tá trẻ Vang Pao. Pháp đã đẩy lui được các cuộc tấn công của địch tại Lào, và Việt minh rút quân về lại Việt nam để tập trung vào chiến dịch Điện biên phủ.

Vang Pao và Ảnh hưởng của Chú Sam

Pháp bị đại bại tại Điện biên phủ vào tháng 5 năm 1954, đưa đến Hiệp Định Geneva. Pháp rút lui dần khỏi địa bàn Đông dương. Việt Nam bị chia cắt thành hai miền theo vĩ tuyến 17. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower cương quyết chận đứng sự lan tràn cộng sản ở Đông Nam Á nên gia tăng viện trợ mọi mặt và gởi cố vấn sang các nước Thái Lan, Nam Việt và Lào. Hoạt động của CIA cũng gia tăng không ngừng trong vùng để khuynh đảo các chính quyền địa phương, và đã đi vào con đường mà GCMA đã vẽ ra.

Quân Bắc Việt chỉ rút về một số, nhưng phần lớn ở lại Lào để gây dựng quân đội Lào cộng (Neo Lao Hak Sat), đưa đến việc tranh giành quyền lực với Hoàng gia Lào. Năm 1957, Lào cộng được tham gia vào chính phủ liên hiệp Lào. Chính phủ này chỉ kéo dài được 8 tháng khi phe hữu làm đảo chánh và bắt giam đại biểu của Pathet Lào. Quân đội Bắc Việt liền chiếm hết những tỉnh của Lào chạy dọc theo đường mòn Hồ-chí-Minh, và yểm trợ cho quân Lào cộng trong cuộc nội chiến. Hoa Kỳ hậu thuẫn phe Hoàng gia.

Cuối năm 1960, đại úy Kong Le của Quân đội hoàng gia, tự cho mình là trung lập, làm đảo chánh với kỳ vọng chấm dứt được cuộc nội chiến, đã ra lệnh cho các lực lượng ngoại quốc phải rút ra khỏi lãnh thổ Lào. Chỉ vài tháng sau, cánh hữu được CIA ủng hộ lật đổ Kong Le, làm cho phe trung lập phải liên kết với Pathet Lào, lại đưa Lào vào chiến tranh.

Dù phe hữu nắm quyền ở Vientiane, nhưng luôn thất bại ở chiến trường, nên đến tháng 7 năm 1962, một chính phủ liên hiệp khác được thành lập gồm 3 thành phần do hoàng thân Souvana Phouma lãnh đạo. Phe cộng không chịu đựng được sự khuynh đảo trắng trợn của Hoa Kỳ vào chính trường Lào, bất lợi cho họ nên đã rút vào rừng tiến hành vũ trang với sự tiếp tay của quân Bắc Việt. Cuộc chiến giằng co mãi làm Hoa kỳ sốt ruột, quyết định dội bom ồ ạt phe cộng trên Cánh đồng Chum từ 1968 cho đến 1972, nhưng chẳng làm nghiêng được cán cân.

Đến cuối năm 1972, Mỹ quyết định rút khỏi Lào và cả Đông dương. Thủ Tướng Souvana Phouma vội thương thảo với Pathet Lào để thành lập chính phủ liên hiệp trong thế yếu vào ngày 21 tháng 2 năm 1973. Phe Pathet Lào tìm mọi cách chiếm ưu thế nên chiến tranh lại bộc phát từ 1974 cho đến 1975.

Tháng 3 năm 1975 Pathet Lào và quân Bắc Việt mở các cuộc tấn công cuối vào các cứ điểm của quân Hoàng gia, dẫn đến chiến thắng hoàn toàn của phe cộng vào tháng 8. Tháng 12, nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân dân Lào được thành lập do Souvanouvong làm chủ tịch, và bãi bỏ chế độ quân chủ ở Lào.

Trong cuộc chiến ở Lào, phe có tử vong cao nhất lại là người H'mong, có lẽ đến 1/3 dân số Miêu tộc, và 1/2 số trai tráng trên 15 tuổi đã bị hy sinh. Số phận của họ đều nằm trong tay một người phụ tá của Ly Foung Touby vốn là một cậu bé chạy giấy cho lính biệt động Tây, rồi lên chức đội cò và theo thời gian với chiến cuộc gia tăng đã leo lên đến cấp tướng trong quân đội hoàng gia Lào, đó là Vang Pao.

Suy Ngẫm

Đọc lịch sử nổi trôi của một bộ tộc suốt mấy ngàn năm, đã từng một thời chen vai thích cánh với các sắc dân khác ở Trung quốc. Nhưng đã không may thất thổ rồi mai một trước tham vọng bành trướng của Hán tộc mà trở nên một sắc tộc miền núi, sống đậu vào các nước khác ở Đông Nam Á. Luật đào thải của thiên nhiên luôn luôn là nguyên lý. Mạnh được yếu thua, cá lớn nuốt cá bé, nước lớn luôn tìm cách thôn tính nước bé. Một khi sức tự cường của một dân tộc không còn thì sự tồn vong chắc là chóng mai một.

Tìm hiểu lịch sử để chúng ta phải thấm sâu ơn nghĩa đối với tổ tiên Hồng Lạc, qua bao đời đã không chịu khuất phục trước mọi kẻ thù của dân tộc gần và xa. Bọn xâm lăng này, ngày nay tinh vi hơn, chúng ngụy trang dưới nhiều lớp áo vẫn không ngừng chực chờ cơ hội để xâu xé và ngay cả âm mưu xóa tên Việt Nam khỏi bản đồ thế giới. Cha ông ta, qua bao đời đã kiên cường liên tục đánh đuổi lũ xâm lược to lớn gấp trăm lần để cho con cháu vui hưởng độc lập. Hậu duệ có quên được điều đó chăng?

Trần Trúc-Lâm

Tháng Giêng, 1999
Mùa Giổ Tổ Hùng Vương

Tài liệu tham khảo

1. Cultural Atlas of China, Caroline Blunden, Mark Elvin - Facts on File, Inc. N.Y. 1983.
2. A Short History of the Chinese, Mary A. Nourse - 3rd Edition, The New York Library, N.Y. 1943.
3. Trung Hoa Sử Cương, Đào Duy Anh - Xuất Bản Bốn Phương, 1942.
4. Hmong - History of a People, Keith Quincy, EWU Press, 2nd Edition, 1995.
5. Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - CSXB Đại Nam tái bản 1971.
6. Microsoft Encarta 97 Encyclopedia CD, Microsoft Corporation.


Nguồn:
http://navygermany.gerussa.com/main/quehuongvietnam/baivo/VN_NguoiMieu_LichSuCuaMotDanTocLuuVong.htm

Dân tộc H'Mông
Tên gọi khác
Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lềnh (Mông Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán).
Nhóm ngôn ngữ
Mèo - Dao
Dân số
558.000 người.

Cư trú
Cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.

Đặc điểm kinh tế
Nguồn sống chính của đồng bào Mông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi của gia đình người Mông có trâu, bò, ngựa, chó, gà.
Xưa kia người Mông quan niệm: Chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.

Tổ chức cộng đồng
Đồng bào Mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.

Hôn nhân gia đình
Hôn nhân của người Mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Người Mông có tục "háy pù", tức là trong trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Vợ chồng người Mông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè...

Văn hóa
Tết cổ truyền của người Mông tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong ba ngày tết, họ không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường thổi khèn gọi bạn.
Nhạc cụ của người Mông có nhiều loại khèn và đàn môi. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gọi bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, của quê hương, đất nước.

Nhà cửa
Nhà có những đặc trưng riêng. Nhà thường ba gian không có chái.
Bộ khung bằng gỗ, vì kéo kết cầu đơn giản, chủ yếu là ba cột có một xà ngang kép hoặc hai xà ngang, một trên một dưới.

Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian: gian chính giữa giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hằng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam. Ơở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt của nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Mèo thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc.

Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà
Riêng nhà người Mèo ở Thuận Châu và Mộc Châu, Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà còn giữ lại hình thức cổ truyền của người Mèo.

Trang phục
Quần áo của người Mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kỹ thuật đa dạng. Trang phục nam Hmông độc đáo khác nhiều tộc người trong khu vực; trang phục nữ khó lẫn lộn với các tộc khác bởi phong cách tạo dáng và trang trí công phu, kết hợp kỹ thuật nhuộm, vẽ sáp ong, thêu, ghéo, dệt hoa văn với kiểu váy rộng và đẹp.

+ Trang phục nam
Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng. Áo nam có hai loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên, hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài quá mông. Loại bốn thân thường không trang trí loại năm thân được trang trí những đường vằn ngang trên ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ, có khi không mang.

+ Trang phục nữ
Người HMông có nhiều nhóm khác nhau, trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung có thể thấy phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ông tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ Hmông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ H'mông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là một tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông (Hóa, Xanh, Trắng, Đen... ).

Đó là các loại váy trắng, váy đen, váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là 'giao thoa' giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật; phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

http://chimviet.free.fr/dangnet/54dantoc/dtv0100f.htm


.................................................................................................................

Giao Chỉ và Tượng Quận

Trần Việt Bắc

Người Việt chúng ta ai đã đọc và tìm hiểu về sử thì đều biết là sử nước Việt chỉ được bắt đầu được viết từ thời nước Việt có tự chủ, nói cho đúng hơn là từ thời Lý. Quyển sử đầu tiên được viết là Sử ký của Đỗ Thiện, rồi sau đó là Việt Chí của Trần Chu Phổ, rồi Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu. Những quyển sử này đã bị thất lạc. Quyển sử đầu tiên còn lại là Đại Việt Sử Ký Toàn thư (ĐVSKTT) của ông Ngô Sĩ Liên, từ khi lưu hành, đã được coi là bộ chính sử và được tham khảo bởi nhiều bộ sử khác. Quyển sử này đã ghi lại được những tài liệu trong sách của ông Lê Văn Hưu để chúng ta – hậu thế- có thể biết được những việc đã xảy ra trong quá khứ của tộc Việt.

Bộ sử này đã viết lại những việc từ ngày lập quốc của nước Việt, thời điểm cả ngàn năm trước khi ĐVSKTT được viết. Từ thời dựng nước mơ hồ với những truyền thuyết, rồi sau đó là hàng chục thế kỷ bị đô hộ, nào có ai ghi lại những việc đã xảy ra! (Mà nếu có ghi chép lại cũng sẽ bị thiêu hủy bởi những kẻ chiếm đóng; vì khác với quan niệm của họ!).

Những sự kiện thành văn, ĐVSKTT một phần lớn đã tham khảo từ các sử sách của Trung Quốc. Tuy nhiên đây là những văn bản đầy thành kiến, theo quan niệm của một quốc gia thống trị viết về một quốc gia bị trị, thí dụ như Hậu Hán Thư quyển 116 chép về văn hóa của người Lạc Việt như sau:

Người Giao Chỉ không phân biệt trưởng ấu… Không biết lễ giá thú, chỉ theo dâm hiếu mà không biết tình cha con, không biết đạo vợ chồng…” (trích từ Việt Sử Toàn Thư của sử gia Phạm Văn Sơn).

Đây là những câu viết của người có quan niệm thống trị, tác giả là Phạm Việp. Ông ta không hiểu phong tục người Việt xứ Âu Lạc, cũng như không tìm hiểu thêm; để viết về một dân tộc có văn hóa và truyền thống khác hẳn Trung Quốc, nhận định theo quan điểm riêng, thiếu sự khách quan của một người viết sử.

Bởi thế, sau khi tham khảo chúng ta chỉ nên lấy những sự kiện – sự kiện mà thôi - của các sử gia Trung quốc cho thời khuyết sử của tộc Việt. Sau đó phải so sánh các sự kiện này với sự kiện khác, kiểm chứng và rút tỉa ra những điều không bị cảm tính chi phối, may ra chúng ta mới biết được đâu là sự thật của quá khứ đã được ngoại bang ghi chép. Vì thế chúng ta phải rất thận trọng khi tham khảo cổ sử của Trung Quốc để tìm hiểu về sử nước nhà. Từ những tham khảo này, bộ ĐVSKTT đã dựng nên một quá khứ của tộc Việt cho thời khuyết sử mà một phần lớn đã tham khảo từ sử liệu của Trung Quốc. Điều này đã gây nên nhiều nghi vấn cho hậu hậu thế!

Hậu thế chúng ta may mắn có được những phương tiện truyền thông tân tiến. Tham khảo sử liệu qua “internet” là một việc hết sức dễ dàng – nếu chúng ta muốn làm – ai cũng có thể tra cứu những tài liệu, mà ngày xưa, tiền nhân mong muốn nhưng không tìm được. Bằng chứng là rất nhiều người đang bàn thảo về sử Việt trong các diễn đàn ở các “Web site” khác nhau. Người viết cũng chỉ là một trong những người đang làm việc này, hoàn toàn làm theo sở thích và vì sự tò mò, với mong muốn được hiểu biết thêm về sử Việt. Biết đâu có thể góp ý cho những bạn đọc cùng sở thích, và đặc biệt là có thể cống hiến cho các bạn trẻ muốn tìm hiểu về sử Việt.

Dù sự hiểu biết về sử rất giới hạn và cũng không biết lượng sức (hiểu biết về Hán học của người viết rất là thô thiển!), nhưng cũng cố gắng tìm câu trả lời để mong biết đâu là sự thật(!) cho những câu hỏi về nguồn gốc của mình, (với sự trợ giúp của các nhu liệu thông dịch (1) cũng như bộ tự điển Hán Nôm của Thiều Chửu và những “chức năng” (function) của “Word”).

Mong mỏi được học hỏi thêm từ các học giả thông hiểu về sử học cũng như Hán học.

Đại Việt Sử Ký Toàn thư là bộ chính sử của nước Việt, được viết lại với nhiều truyền thuyết của nhân gian và những tham khảo từ cổ sử của Trung Quốc cho thời gian khuyết sử của nước Việt, như Sử Ký của Tư Mã Thiên, Hán Thư của Ban Cố, Hậu Hán Thư của Phạm Việp cùng các bộ sử khác. Tuy nhiên ĐVSKTT đã có nhiều vấn đề khi tham khảo từ những sử liệu này. Như sử liệu bị chi phối vì hoàn cảnh và cảm tính của các sử gia, cùng những sự kiện đôi khi mâu thuẫn đã được nêu lên trong cổ sử của Trung Quốc. Việc này đã gây nên những tham khảo vòng quanh và sự suy đoán theo những chiều hướng khác nhau đầy hoang mang của hậu thế. Rồi những giả thuyết được đưa ra những tranh luận triền miên.

Bài viết này, người viết xin nêu lên vấn đề tương quan giữa Giao Chỉ, tức là cổ Việt và Tượng Quận thời Tần để mong có sự góp ý của các bậc thức giả, ngõ hầu chúng ta có thể hiểu biết thêm về vấn đề nan giải này trong sử Việt.

ĐVSKTT: [i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2), đặt các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận (tức là An Nam); …”.

Sau đó là An Nam Chí Lược của Lê Tắc (Trắc), 1335, được in bởi Viện Đại Học Huế, Ủy ban phiên dịch sử liệu Việt nam, 1961. Được chuyển qua ấn bản điện tử bởi các ông Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc năm 2001: “QUYỂN ĐỆ NHẤT, Tống Tự. Nhà Tần (246-207 trước công nguyên) lấy Giao Chỉ làm Tượng-Quận;…”.

Theo như trích dẫn trên thì An Nam (cổ Việt gồm Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam) là Tượng Quận thời Tần. Câu viết này đã nêu lên một số nghi vấn cho các sử gia. Rồi từ nghi vấn này dẫn đến những nghi vấn khác cùng với các giả thuyết khác nhau. Điều này đã gây nên nhiều khó khăn cho sự tìm hiểu về sử Việt cho hậu thế – mà người viết là một.

1- Quan tâm của các sử gia về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Đại Việt Sử Cương (ĐVSC) của sử gia Trần Gia Phụng, tập 1, trang 74:

1. Trung Hoa xâm chiếm cổ Việt. …. Năm 214 TCN (đinh hợi), Tần Thủy Hoàng Đế (Ch’in Shih Huang-ti, trị vì 221-210 TCN) sai Đồ Thư và Sử Lộc cầm quân tiến xuống phía nam, vượt sông Dương Tử, chiếm vùng đất mà người Trung Hoa gọi là vùng Bách Việt, lập ra ba quận là Quế Lâm (Kueilin, nay là vùng bắc và đông Quảng Tây), Nam Hải (Nanhai, tức Quảng Đông) và Tượng Quận (Hsiang, vùng Bắc Việt ngày nay).

Mặc dù ông Trần Gia Phụng viết là -- quân Tần xâm chiếm cổ Việt vì Tượng Quận là vùng Bắc Việt ngày nay, nhưng trong ghi chú số 27, trang 65, ông đã nêu lên vấn đề như sau:

[i]” Toàn Thư cũng như các bộ sử khác, kể cả Cương Mục chép theo các bộ sử Trung Hoa việc tướng nhà Tần đã chiếm đất Lĩnh Nam và đặt ra các quận Quế Lâm (nay là vùng bắc và đông bắc Quảng Tây), quận Nam Hải (nay là Quảng Đông) và Tượng Quận (vùng cổ Việt) năm 2q14 TCN. Sau đó toàn thư và các bộ sử cũ của nước ta lại [b]viết thêm[/b] (tvb: do tác giả tô đậm) rằng: Lúc đó, tại cổ Việt có triều đại An Dương Vương (trị vì 257-208TCN).
Về các sự kiện liên quan đến triều đại An Dương Vương, các câu hỏi được đặt ra là: Thục Phán, người nước Ba Thục ở tận Tứ Xuyên (Sichuan), Trung Hoa, sao có thể qua tới cổ Việt để đánh Hùng Vương? [Phía bắc của Bắc Việt là hai tỉnh Vân Nam (Yunnan) ở tây bắc và Quảng Tây (Giangxi) ở đông bắc. Phía bắc hai tỉnh này mới là Tứ Xuyên.] Chuyện nỏ thần có thể là lịch sử hay không? Cuối cùng,[b] nếu năm 214 TCN cổ Việt bị quân Hán chiếm và đổi thành Tượng Quận[/b] rồi, thì cần gì Triệu Đà phải đánh lần nữa vào các năm 210 TCN và 208 TCN? Vậy phải chăng chuyện An Dương Vương chỉ là truyền thuyết
“.[/i]

Một lần nữa, trong ghi chú số 5, trang 100, ông lại nêu lên sự quan tâm của mình:

[i]” …. . Ở đây có một điểm trong các sách sử cũ cần cẩn án:

1) Nếu theo các bộ sử cũ, năm 214TCN, Đồ Thư và Sử Lộc chiếm đất Lĩnh Nam (phía nam núi Ngũ Lĩnh) lập ra ba quận Quế Lâm, Nam hải và Tượng Quận,[b] mà Tượng Quận bao gồm cả cổ Việt,[/b] thì tại sao các bộ sử cũ còn chép rằng Triệu Đà hai lần đánh cổ Việt, năm 210 TCN và năm 208 TCN? Nếu Triệu Đà phải đem quân đi đánh cổ Việt,[b] có nghĩa là lúc đó người Trung Hoa chưa chiếm được cổ Việt.[/b]

2) Thứ nhì, nếu cổ Việt đã rơi vào tay Đồ Thư từ năm 214 TCN, thì chuyện An Dương Vương dùng nỏ thần để chống cự với Triệu Đà chỉ là chuyện truyền thuyết không có thật”
. [/i]

Vậy Nếu Tượng quận gồm cổ Việt, thì sử liệu nói về An Dương Vương chỉ là truyền thuyết!

Việt Nam Sử Lược (VNSL) của sử gia Trần Trọng Kim, ấn bản đầu tiên năm 1921, được in lại bởi nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin, 1999, trang 29:

3. Nhà Tần Ðánh Bách Việt. Khi An Dương Vương làm vua nước Âu Lạc ở bên này, thì ở bên Tàu vua Thủy Hoàng nhà Tần, đã thâu tóm thiên hạ.

Ðến năm Đinh Hợi (214 trước Tây lịch). Thủy Hoàng sai tướng là Ðồ Thư đem quân đi đánh lấy đất Bách Việt (vào quãng tỉnh Hồ Nam, Quảng Ðông và Quảng Tây bây giờ). An Dương Vương cũng xin thần phục nhà Tần. Nhà Tần mới chia đất Bách Việt và đất Âu Lạc ra làm ba quận, gọi là: Nam Hải (Quảng Ðông), Quế Lâm (Quảng Tây) và Tượng Quận (Bắc Việt
(2) ).

Người bản xứ ở đất Bách Việt không chịu để người Tàu cai trị, trốn vào rừng ở. Ðược ít lâu quân của Ðồ Thư, vốn là người ở phương bắc, không chịu được thủy thổ, phải bệnh rất nhiều. Bấy giờ người Bách Việt thừa thế nổi lên giết được Ðồ Thư”.

Theo sử gia Trần Trọng Kim; thì Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận thời nhà Tần.

Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt (NGMLCDTV) 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California. Tác gỉa là nhà văn và cũng là học giả Bình Nguyên Lộc. Đây là một bộ sách khá dầy, nặng phần khảo cứu về ngữ pháp, gần 900 trang (khổ nhỏ). Tác giả đã viết một đoạn khá dài (từ trang 221 đến trang 287) trong chương 2.

“Những sai lầm”, tiết mục D:
“NƯỚC TÂY ÂU MƠ HỒ VÀ TƯỢNG QUẬN BÍ MẬT”, để nói về sự phản tương quan giữa cổ Việt và Tượng Quận. Ông đã đưa ra những nhận xét (với cách hành văn châm biếm và đôi khi hài hước của một văn sĩ, cùng với những kiến thức của một học giả uyên bác về ngữ học, phê bình về những sử liệu mà theo ông là ngụy tạo, đây là một điều rất hào hứng cho người viết!) để nói lên những sai lầm về giả thuyết của các học giả như:
L. Aurousseau, H. Maspéro, Trần Kinh Hòa, Nguyễn Phương…. Sau đó ông dùng “bốn bằng chứng”, đặc biệt là bằng chứng thứ bốn, đã được coi là bằng chứng “quyết định” để ông có thể đi đến những kết luận như sau:

Trang 283:

“Với câu sử của Tư Mã Thiên và Lưu An (3) và những gì chúng tôi đưa ra để bác bỏ các thuyết, ta đã làm sáng tỏ được:

1.- Tần không hề đánh xuống khỏi Hạ-chí - Tuyến Bắc, tức Tây Âu không là cổ Việt.

2.- Tây Âu Lạc là một địa danh hoàn toàn không có.

3.- Huyện Tây Vu không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

4.- Thượng du tả ngạn Nhĩ Hà không thể là nước Tây Âu hùng mạnh.

5.- Trạch Hu Tống là vua của Tây Âu, theo Lưu An chép. Khi Tây Âu không là Bắc Kỳ, không là Thượng du Bắc Việt thì Trạch Hu Tống (4) chẳng dính líu gì tới cổ Việt hết.

6.-Tượng Quận không hề là Bắc Kỳ, vì Tần Thỉ Hoàng không có chiếm Tượng Quận.

7.- Không có chánh sách trồng người tại cổ Việt Nam để đẩy dân Việt Nam vào thế thiểu số.”

Đặc biệt là trong chương này ông cũng đã đưa ra một giả thuyết khá lý thú về nguồn gốc của An Dương Vương, tuy nhiên đây không phải là trọng tâm của đề tài, nên người viết hy vọng có thể sẽ trình bày vấn đề này trong một bài viết khác trong tương lai.

Việt Sử Toàn Thư (VSTT) của sử gia Phạm Văn Sơn, ấn bản đầu tiên năm Canh Tí (1960), tái bản bởi nhà xuất bản Đại Nam, tủ sách sử học, trang 50:

Về Tượng Quận, Việt Nam Sử Lược chép là Bắc Việt. Chúng tôi không đồng ý vì Bắc Việt khi đó là Âu Lạc đã thành Tượng Quận thì sau nầy đâu có sự kiêm tính của Triệu Ðà bằng binh đao, chúng tôi cũng không thấy sách nào nói như Việt Nam Sử Lược rằng An Dương Vương đầu phục nhà Tần để quyết định rằng vì sự thần phục nầy mà Âu Lạc biến thành Tượng Quận. Tóm lại, ảnh hưởng của nhà Tần bấy giờ chỉ mới đến địa phận Tây Âu là tỉnh Quảng Tây và miền Uất Lâm cùng Nam Hải.

Sau đó Tần triều phái 50 vạn người tù đầy đến chiếm đóng các nơi đã cướp được để bảo vệ bộ máy cai trị vừa mới thiết lập”.

Ông Phạm Văn Sơn cũng đưa ra thêm ghi chú ở cuối trang 50 này như sau:

Theo Trúc Khê tiên sinh: Sử ta nói Tượng Quận nhà Tần là đất Bắc Kỳ. Trung Kỳ bây giờ, song so sánh địa lý và dẫn chứng với các sách thì Tượng Quận chính thuộc về một phần đất của tỉnh Quảng Tây nước Tần ngày nay. Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim nói Tượng Quận là đất Bắc Kỳ có thể không đúng..

Sử gia Phạm Văn Sơn đã không đồng ý Giao Chỉ là Tượng quận, tuy nhiên ông không đưa ra những chứng minh qua sử liệu để phản bác vấn đề Giao Chỉ là Tượng quận thời Tần.

Vậy qua sử sách hiện đại và cận đại, chúng ta thấy vẫn đang có những sự mâu thuẫn. Sự việc đã dẫn tới nghi vấn lớn và khó hiểu hơn nữa là xuất xứ của An Dương Vương. Nhiều giả thuyết đã nêu lên về vấn đề này, tác giả ĐVSKTT- ông Lê Văn Hưu và sau đó là ông Ngô Sỹ Liên cùng các sử gia khác trong các thời sau – đã đặt làm một thời kỳ riêng là “Kỷ nhà Thục, An Dương Vương” trong sử Việt.

Điều này làm cho hậu thế hoang mang, vì không biết đâu là sự thật của lịch sử!

2- Giao Chỉ và Tượng quận qua thư tịch cổ (5) của nước Việt

Ngược dòng thời gian, người viết xin trích dẫn những tài liệu trong thư tịch có liên quan đến vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận.

Phương Đình Địa Dư Chí (PĐĐDC)của Nguyễn Văn Siêu (6), “Lần đầu in bằng chữ Hán vào năm Canh Tý (1900), niên hiệu Thành Thái thứ 12”, tái bản bởi nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, trang 28: “Nhật Nam thái thú: Vua Hán Vũ đế đổi Tượng quận nhà Tần là Nhật Nam. Nhà Ngô lại đặt là quận Cửu Đức.…”.

Ông Nguyễn Văn Siêu cho là Nhật Nam thuộc về Tượng quận (Nhật Nam ở xa hơn về về phía nam so với Cửu Chân và Giao Chỉ).

Đại Nam Nhất Thống Chí (ĐNNTC) của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa, khi viết về các tỉnh miền trung châu Bắc Việt đã viết như sau (thí dụ điển hình là tỉnh Bắc Ninh):

Dựng đặt và diên cách. Đời Hùng Vương xưa là bộ Vũ Ninh, đời Tần thuộc Tượng quận, đời Hán thuộc quận Giao Chỉ, tức là đất hai huyện Luy Lâu và Long Biên,….”.

Các sử quan triều Nguyễn vẫn coi Bắc Việt (cổ Việt) là Tượng quận đời Tần.

Vân Đài Loại Ngữ (VĐLN) của Quế Đường Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực, trang 167:

“Đời An Dương Vương, quân nhà Tần sang đánh cướp lấy miền đất Lục-lương của Nam Việt (người Lĩnh-nam phần nhiều ở vào khoảng đất núi, tính người cương cường nên gọi là Lục Lương), đặt ra các quận: Quế-lâm; Nam hải; Tượng-quận (Quế-lâm nay là Quảng-tây; Nam-hải nay là Quảng-đông; Tượng-quận nay là nước Việt Nam ta).

Qua trích dẫn trên, ông Lê Quí Đôn cũng đã viết Tượng Quận là cổ Việt.

Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (KKĐCSTGCM hay Cương Mục). Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch (1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998. Trong quyển 1: đề tài “Hùng Vương dựng nước” viết như sau:


” Năm Đinh Hợi (214 tr.c.ng.) (Thục An Dương Vương năm thứ 44; Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần sai Đồ Thư và Sử Lộc sang lấy đất Lĩnh Nam, đặt ra Tượng quận.

Bấy giờ nhà Tần hám đất Việt có nhiều ngọc trai và ngọc cơ, muốn chiếm lấy đặt làm quận huyện, mới bắt kẻ trốn tránh, người gửi rể và lái buôn ở các đạo đi làm lính, sai hiệu úy là Đồ Thư làm tướng, Sử Lộc thì khơi cừ lấy lối tải lương, đi sâu vào cõi Lĩnh Nam, cướp lấy đất Lục Lương, đặt ra Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đày những kẻ phải đi thú. Người Việt bấy giờ đều rủ nhau núp vào trong rừng rậm, không ai chịu để cho người Tần dùng. Lại ngầm bầu những người tài giỏi lên làm tướng, đánh nhau với người Tần, giết được hiệu úy Đồ Thư.

Lời chua: …. Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận: Theo sách Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi nhà Tống, ba quận ấy là đất Bách Việt ngày trước, từ Tần Thủy Hoàng lấy được thiên hạ, mở núi dọn đường, cướp lấy đất Dương, Việt, đặt ra Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận. Bây giờ tỉnh Quảng Tây tức là Quế Lâm, tỉnh Quảng Đông tức là Nam Hải, đất Giao Chỉ tức là Tượng Quận đời Tần.“.

Các sử quan triều Nguyễn nói cổ Việt là Tượng quận thời Tần.

Việt Sử Tiêu Án, soạn giả: Ngọ Phong Ngô Thời Sỹ 1775. Dịch giả: Hội Việt Nam Nghiên Cứu Liên Lạc Văn Hóa Á Châu 1960. Nhà xuất bản: Văn Sử 1991. Chuyển sang ấn bản điện tử bởi: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc 2001. Kỷ: Ngoại Thuộc: Nhà Triệu, Triệu Đà.

Nhà Tần cho là nước Việt ta nhiều châu báu, muốn chia nước ta ra làm quận huyện, sai Hiệu úy là Đồ Thư mang quân vào sâu mãi Lĩnh Nam lấy đất Lục Lương đặt ra Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận.

1. Người Việt ta
đều chạy trốn vào trong rừng rậm, không chịu để cho nhà Tần dùng, ngầm đặt Kiệt Tuấn làm tướng, đương đêm đánh Đồ Thư, nhà Tần bèn mang 500 vạn dân phát vãng đi đày sang ở đó, cử Nhâm Ngao làm quan Úy ở Nam Hải, Triệu Đà là quan lệnh Long Xuyên”
.

Không thấy ông Ngô Thời Sỹ nói rõ về việc Giao Chỉ là một phần của Tượng quận, nhưng chữ “nước Việt ta” và “người Việt ta” đã nói lên việc quân Tần đã tấn công cổ Việt.

Khi nói về thời Triệu Đà ông viết như sau:

Xét sử cũ: An Dương Vương mất nước, để quốc thống về họ Triệu, chép to bốn chữ: “Triệu Kỷ Vũ Đế”. Người đời theo sau đó không biết là việc không phải. Than ôi! Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam. Triệu Đà khởi ở Long Xuyên, lập quốc ở Phiên Ngung, muốn cắt đứt bờ cõi, gồm cả nước ta vào làm thuộc quận, đặt ra giám chủ để cơ mi lấy dân, chứ chưa từng đến ở nước ta”.

Qua câu viết này, dù không trực tiếp viết ra, nhưng người viết cho là ông cũng đã gián tiếp công nhận Giao Chỉ nằm trong Tượng quận.

Ở cuối trang, dịch giả viết trong ghi chú 1 như sau:
“1 Tượng Quận. Quận do nhà Tần đặt, song chỉ có tên, chưa có đất và chưa có bộ máy hành chính cấp quận. Xưa nay nhiều người lầm Tượng Quận bao gồm cả đất Việt Nam ngày nay.

Đại Việt Sử Ký Tiền Biên của ông (Ngô Thời Sỹ) cũng viết: “Đất Việt Nam Hải, Quế Lâm không phải là Đất Việt Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam”. Người viết xin đặt câu hỏi về đoạn văn này.

[b]Đại Việt Sử Ký Toàn Thư[/b] (ĐVSKTT quyển 1, trang 138) viết như sau (với ghi chú số 2 và 3, của người dịch):

[i]Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể [8b] người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất [b]Lục Dương [/b] (2) (7), đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây), Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam); cho Nhâm Ngao làm Nam Hải, úy Triệu Đà làm Long Xuyên lệnh (Long Xuyên là thuộc huyện của Nam Hải), đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh, Ngao và Đà nhân đó mưu xâm chiếm nước ta.

(Chuế tế: con trai không có tiền nộp sính lễ, lấy thân ở gửi nhà vợ nên gọi là chuế tế [ở gửi rể] như cái bướu ở mình người ta, là vật thừa.
Lục Lương là người Lĩnh Nam phần nhiều ở chỗ núi rừng, trên cạn (lục), tính người mạnh tợn (cường lương) nên gọi là [b] Lục Lương [/b]). [/i]

Câu hỏi được đặt ra: Tượng Quận bao gồm cổ Việt hay ở ngoài cổ Việt? Đâu là sự thật của lịch sử?

3- Tìm hiểu nguồn gốc của vấn đề.

Chúng ta cũng biết rằng, thư tịch hay các sách về sử của nước Việt chỉ được viết ra từ thời Lý. Đầu tiên là Sử Ký của Đỗ Thiện (8), Việt Chí của Trần Chu Phổ (9), Đại Việt Sử Ký của Lê Văn Hưu (10) (những sách này đã bị thất lạc), Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh (11), ĐVSKTT của Ngô Sĩ Liên, v.v….

Những sách này đã tham khảo và lấy những sử liệu từ những bộ sử của Trung Hoa như sách Hoài Nam Tử của Hoài Nam Vương Lưu An (trình cho Hán Vũ Đế năm 139 TCN), Sử Ký của Tư Mã Thiên (năm 97 TCN), Hán Thư của Ban Cố (khoảng năm 92, là năm ông này bị chết trong ngục, bộ sử này sau đó đã được hoàn tất bởi cô em gái là Ban Chiêu), Hậu Hán Thư của Phạm Việp (khoảng trước năm 445 là năm ông này bị giết) v.v.….

Tuy nhiên, khi tham khảo những sử liệu được viết từ một quốc gia “thống trị”; để viết sử cho một quốc gia đã qua một thời gian “bị trị”, các sử gia phải vô cùng cẩn thận, từ việc so sánh các sử liệu về việc đồng nhất của các sự kiện, còn phải phân tách, phán đoán, giải thích để tìm hiểu sự thật của lịch sử. Vì các sử gia của quốc gia thống trị đã viết sử theo quan niệm của họ, nhiều khi đến độ sai lầm vì nhiều lý do khác nhau. Nếu những tham khảo được lấy từ những điều chủ quan hay sai lầm để viết sử nước nhà, hậu thế sẽ đọc được những sự việc trong quá khứ với đầy nghi vấn và hoang mang với câu hỏi đâu là sự thật?

Sử gia Phạm Văn Sơn đã nêu ra vấn đề là -- cổ Việt (hay Giao Chỉ và Cửu Chân) không phải là Tượng quận thời Tần, dù trong các thư tịch và cổ sử của nước Việt cũng như cận và hiện đại đều nói như thế.

Người viết đã trích dẫn đoạn văn của ĐVSKTT nói về Tượng Quận: “… đặt các quận Quế Lâm (nay là huyện Quý của đất Minh, Quảng Tây)30, Nam Hải (nay là tỉnh Quảng Đông) và Tượng Quận (tức là An Nam) (3)”.

Đoạn văn với cước chú số (3) trang 138, tập 1 viết như sau:

“3 - Tượng Quận: tên quận đời Tần mà trước đây nhiều sách sử của ta và của Trung Quốc đều chú giải là:
Quận Nhật Nam, hay bao gồm cả ba quận: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam thời Hán, tức đất An Nam.

Thuyết đó là dựa vào một câu cước chú của Hán Thư (q.28 hạ, tr. 11a) về quận Nhật Nam thời Hán: “Quận Nhật Nam – quận Tượng thời Tần ngày trước”. Nhưng từ cuối thế kỷ XIX, thuyết đó đã bị phê phán. Chính Hán thư phần Bản Kỷ (q.7 tr.9a) chép rõ rằng: “Năm thứ 5 hiệu Nguyên Phương (76 TCN), bãi bỏ quận Tượng, chia đất“.

Dù đây chỉ là cước chú (12) trong ĐVSKTT, nhưng tài liệu này đã chỉ ra manh mối cho người viết, đã giúp rất nhiều cho việc tìm hiểu về cội nguồn của vấn đề.

Hán Thư, quyển 28 (13)Địa lý chí đệ bát hạ” viết về quận Nhật Nam như sau:
Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần….. Thuộc Giao Châu

Hán Thư, quyển 7 (14)Thiệu Đế kỷ đệ thất” viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha: “Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sáp nhập vào Uất Lâm, Tường Kha”.

Hai quận Uất Lâm và Tường Kha ở phía đông bắc tỉnh Quảng Tây và một phần của Tứ Xuyên, rất xa quận Nhật Nam, nên khó có thể nghĩ rằng Nhật Nam là Tượng Quận thời Tần. Vì thế người viết nhận thấy vấn đề về “Giao Chỉ và Tượng quận” bắt nguồn từ việc tham khảo sử liệu trong Hán Thư của Ban Cố. Bộ sử này; hai quyển 7 và 28 đã nêu lên mâu thuẫn về vấn đề Tượng Quận và Giao Chỉ. Vì chỗ tọa lạc của hai địa danh này ở quá xa nhau.

Câu hỏi được đặt ra:

– Tượng Quận thời Tần nằm ở đâu?
Ở phía tây bắc Quảng Tây ngày nay; hay kéo dài xuống phía nam tới tận quận Nhật Nam, và bao gồm cả Giao Chỉ là nước Việt cổ?

– Giao Chỉ có bị quân Tần đánh và chiếm đóng không?

Bởi vì nếu Giao Chỉ là Tượng Quận hay nằm trong Tượng Quận thì Giao Chỉ đã bị quân Tần đánh và chiếm đóng. Còn như nếu Giao Chỉ nằm ngoài Tượng Quận thì Giao Chỉ không bị quân Tần xâm lăng, vì chỉ có thể chiếm đóng sau khi đã thành công trong việc dùng võ lực để xâm lăng.

Theo thiển ý, để hiểu rõ về một biến cố xảy ra, chúng ta cần ba yếu tố chính. Đó là nhân vật, thời gian và không gian (địa điểm). Các sử liệu đã đưa ra tên của nhân vật, thời gian, và địa điểm – nơi đã xảy ra những diễn biến này. Tuy nhiên tên những địa điểm nơi xảy ra biến cố đã bị biến đổi theo thời gian; cũng như qua các triều đại. Vì vậy, hậu thế rất khó có thể mường tượng được những nơi liên quan đến biến cố này nếu không có họa đồ để tham khảo.


1. “HanoConv1.0”, “Hanosoft”. Xin thành thật cám ơn các quý vị trong hội Hán Nôm đã thiết lập nên những nhu liệu (software) này và cho phép sử dụng miễn phí. Không có các nhu liệu này thì bài viết này sẽ không thể hoàn tất!.

2. Trong ấn bản điện tử hiện đang lưu hành trên internet ghi là “Tượng Quận (Bách Việt)”. Tuy nhiên người viết thấy trong bản chính (sách), ông Trần Trọng Kim viết là “Tượng Quận (Bắc Việt)”

3. Lưu An viết sách Hoài Nam Tử. Người viết sẽ viết thêm về nhân vật này trong phần sau của bài viết.

4. Nhiều sách viết là Dịch Hu Tống. Người viết sẽ dùng tên này.

5. Người viết mạn phép gọi là “thư tịch cổ” cho những tài liệu từ thời nhà Nguyễn trở về trước là những thư tịch viết bằng Hán tự.

6. Nguyễn Văn Siêu sinh năm Kỷ Mùi (1799), tự là Tốn Ban, hiệu là Phương Đình, người làng Lủ (Kim Lũ), huyện Thanh Trì, Hà Nội.

Văn nhân nổi tiếng cùng thời với Cao Bá Quát với câu đối khen tặng của vua Tự Đức:

“Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường”

Tùng: Tùng Thiện vương. Tuy: Tuy Lý Vương.

7. (2) ĐVSKTT: Đây viết là Lục Dương, cuối câu viết là Lục Lương.

Sử Ký của Tư Mã Thiên trong “Nam Việt Úy Đà liệt truyện viết là Dương Việt. Cũng trong Sử Ký, phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết là Lực Lượng. Vậy theo thiển ý, tác giả ĐVSKTT gồm hai chữ Lục Lương và Dương Việt thành chữ Lục Dương ở đây.

8. Sử Ký của Đỗ Thiện được viết sau năm 1135, khoảng dưới triều Lý Anh Tông (1138-1175).

9. Quyển sử này được viết trước sách Đại Việt Sử Ký (1272) của Lê Văn Hưu.

10. Đại Việt Sử Ký (ĐVSK) của Lê Văn Hưu, gồm 30 quyển, hoàn tất năm 1272.

11. Đầu thời nhà Trần, người viết phỏng đoán là sách này được viết trong khoảng thời gian từ 1234 đến 1258.

12. Trang mở đầu của bộ ĐVSKTT: “ĐẠI VIỆT SỬ KÝ TOÀN THƯ”. Bản in Nội các quan bản. MỘC BẢN KHẮC NĂM CHÍNH HÒA THỨ 18 (1697).

Tập 1. Lời giới thiệu: Giáo sư Viện sĩ: Nguyễn Khánh Toàn. Khảo cứu về tác giả, văn bản và tác phẩm: Giáo sư Phan Huy Lê. Dịch và chú thích: Ngô Đức Thọ. Hiệu đính: Giáo sư Hà Văn Tấn. NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC XÃ HỘI, HÀ NỘI – 1998

13.http://www.chinaknowledge.de/Literature/Historiography/hanshu.html
“Nhật Nam quận, cố Tần Tượng quận, Vũ Đế Nguyên Đỉnh lục niên khai, cánh danh. Hữu tiểu thủy thập lục, tịnh hành tam thiên nhất bách bát thập lý (3110 dặm). Thuộc Giao Châu”.

14. Hán Thư quyển thất. Thiệu Đế kỷ đệ thất: “thu, bãi Tượng quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha”.Hán thư của Ban Cố, quyển 7 viết:[i] “Thu, bãi Tượng Quận, phân thuộc Uất Lâm, Tường Kha [/i]

4- Quân Tần mang quân đi đánh Bách Việt từ lúc nào?

Sau khi gồm thâu tóm sáu nước để gom thành nước Trung Quốc năm 221BC, Tần Thủy hoàng muốn mở rộng đế quốc. Về hướng nam Bách Việt, Thủy Hoàng đã ra lệnh cho Đồ Thư mang quân đi chinh phục Lĩnh Nam.

Như đã trích dẫn trong ĐVSKTT trong phần trên cùng với sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, Tần Thủy Hoàng bản kỷ, dịch giả Nhữ Thành:
“Năm thứ 33 (214TCN), Thủy Hoàng đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, lập thành Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ”.(1).

Qua đoạn sử liệu trên chúng ta chỉ biết là năm 214 TCN, nhà Tần coi như đã chiếm được một vùng đất ở Lĩnh Nam, đặt làm ba quận. Tuy nhiên sử liệu này đã không nói là quân Tần bắt đầu mang quân vào Lĩnh Nam từ lúc nào.

Để biết lúc nào quân Tần bắt đầu xâm lăng, “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” (Sử Ký) viết: “Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải”.

Câu dịch “Như thế đã mười ba năm” rất khó hiểu, vì câu viết có tính cách tương đối, 13 năm so với thời điểm nào? Vì việc này, người viết xin trích dẫn sách Sử Ký với tam gia chú - quyển 113 - Nam Việt Úy Đà liệt truyện: Tập giải Từ Quảng viết: “Tần tịnh thiên hạ, chí Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) thập tam niên. Tịnh thiên hạ bát tuế (8 năm), nãi bình Việt địa, chí Nhị Thế nguyên niên lục niên (214 TCN) nhĩ”.

Qua lời chú này, chúng ta thấy là khi nhà Tần chiếm xong sáu nước kể từ năm Nhị Thế nguyên niên (209 TCN) là 13 năm:
209 +(13-1)(2) = 221 TCN.
Phù hợp với việc “biên niên” trong chính sử Trung Quốc.

Nhà Tần “bình Việt địa” trong tám năm, tới năm thứ sáu thời Nhị Thế là năm 214 TCN. Vậy nhà Tần bắt đầu chuẩn bị sự bành trướng đế quốc nhà Tần là:
214 + (8 -1) = 221 TCN.
Tuy nhiên người viết nhận thấy là khi vừa chiếm xong sáu nước, Thủy Hoàng đế phải có một thời gian để chuẩn bị quân đội, như việc “bắt lính” từ các nước vừa chiếm như “đưa những người thường trốn tránh, những người ở rể và những người đi buôn” (ĐVSKTT) cũng như lương thực cho đạo quân nam chinh này.

Vì thế, người viết nghĩ là một năm sau, đó là năm 220 TCN, thời điểm này quân Tần mới có đủ thời gian để mang quân đi xâm lăng Bách Việt.

5- Địa điểm đóng quân của quân Tần

Quân Tần đóng quân ở chỗ nào?

Không thấy các bộ chính sử nói rõ về việc này, chỉ viết vắn tắt là Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư mang 500 ngàn quân vượt Ngũ Lĩnh (?) để xâm chiếm Lĩnh Nam (?).

ĐVSKTT: “Đinh Hợi, năm thứ 44 [214 TCN], (Tần Thủy Hoàng năm thứ 33). Nhà Tần phát những người trốn tránh, người ở rể người đi buôn, ở các đạo ra làm binh, sai hiệu úy Đồ Thư đem quân lâu thuyền, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương, đi sâu vào đất Lĩnh Nam, đánh lấy miền đất Lục Dương…

…đem những binh phải tội đồ 50 vạn người đến đóng đồn ở Ngũ Lĩnh.‧

a. Sách Hoài Nam Tử (3)

Tuy nhiên, có một tài liệu khá lý thú đã nói về nơi chốn quân Tần đồn trú, cũng như những biến cố trong chiến dịch này, dù rất sơ lược, nhưng rất là quý giá. Đó là sách Hoài Nam Tử của Lưu An, quyển 18, chương “Nhân Gian Huấn”, có đoạn đã viết về việc này như sau (4):

Kiến kỳ truyện viết:
“Vong Tần giả, hồ dã”
. Nhân phát tốt ngũ thập vạn, sử Mông công – “ Tương ông tử tướng, trúc tu thành, tây thuộc Lưu Sa, bắc kích Liêu thủy, đông kết Triều Tiên, Trung quốc nội quận vãn xa nhi hướng chi. Hựu lợi Việt chi tê giác – tượng xỉ - phỉ thúy – châu cơ, nãi sử úy Đồ Tuy (Nôm: Thư) phát tốt ngũ thập vạn, vi ngũ quân, nhất quân tái Đàm Thành chi lĩnh, nhất quân thủ Cửu Nghi chi tái, nhất quân xử (xứ) Phiên Ngu (Phiên Ngung) chi đô, nhất quân thủ Nam Dã chi giới, nhất quân kết Dư Can chi thủy, tam niên bất giải giáp trì nỗ. Sử Giám Lộc vô dĩ chuyển hướng, hựu dĩ tốt tạc cừ nhi thông lương đạo, dĩ dữ Việt nhân chiến, sát Tây Ẩu (Nôm: Âu) quân Dịch Hu Tống. Nhi Việt nhân giai nhập tùng bạc trung, dữ cầm thú xứ, mạc khẳng vi Tần lỗ. Tương trí kiệt tuấn dĩ vi tướng, nhi dạ công Tần nhân, đại phá chi, sát uý Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn.

Tạm dịch (5):

Truyện xưa viết:
“Nhà Tần vong, tại sao vậy”. Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi
chinh chiến.

Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (Bách Việt).

■ Một đạo đóng ở Đàm Thành,
■ Một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu,
■ Một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành,
■ Một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới,
■ Một đạo đóng ở sông Dư Can.

Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc (6) không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người (Bách) Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người (Bách) Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Họ kén chọn người tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.

Địa danh và sự việc đã được sách Hoài Nam Tử nói qua, những điều này, người viết xin lần lượt trình bày qua những tham khảo, suy luận cùng những phỏng đoán của cá nhân trong phần sau.

Trước khi tìm hiểu về những địa danh và sự kiện được nêu lên trong tài liệu này, người viết xin nói sơ lược về tiểu sử tác giả sách Hoài Nam Tử, hầu chúng ta có thể biết thêm về thời điểm lúc quyển sách này ra đời.

Tác giả sách Hoài Nam Tử là Hoài Nam Vương Lưu An, ông là cháu của Hán Cao Tổ Lưu Bang (gọi Lưu Bang bằng ông), con của Lưu Trường, em họ (?) của Hán Cảnh Đế Lưu Khải (156 TCN – 141 TCN) và là chú họ (?) của Hán Vũ Đế Lưu Triệt (140 TCN – 87 TCN). Được phong làm Hoài Nam Vương ở vùng sông Hoài (7) (tỉnh An Huy ngày nay). Ông sinh năm 179 TCN, ông tự sát năm 122 TCN (hay 123 TCN?) vì có ý định mưu phản Hán Vũ đế, nhưng sự việc bị tiết lộ. Lưu An là người đã dâng biểu can Hán Vũ đế về việc nhà Hán định đánh Mân Việt khi Triệu Văn Vương của nước Nam Việt là Triệu Hồ (con Trọng Thủy, cháu Triệu Đà) trình cho Hán Vũ đế biết việc Mân Việt mang quân đánh Nam Việt (135 TCN).

Sách Hoài Nam Tử là bộ sách của Đạo gia, được viết bởi tám học giả ở vùng Hoài Nam gọi là Hoài Nam bát tiên, dưới sự chỉ đạo của Hoài Nam Vương Lưu An. Sách này được trình cho Hán Vũ Đế xem năm 139 TCN. Sách này ra đời trước cả bộ Sử Ký của Tư Mã Thiên (145 TCN – 93 TCN, đây là bộ chính sử sớm nhất của Trung quốc, hoàn tất năm 97 TCN).

Nhà Tần đặt Lĩnh Nam thành quận huyện năm 214 TCN, sách Hoài Nam Tử hoàn tất năm 139 TCN, được viết sau biến cố này 75 năm, tương đối khá ngắn so với chiều dài của lịch sử, nên người viết nhận thấy sự khả tín khá cao, hơn nữa có lẽ đây là sách duy nhất nói về việc này còn lưu truyền. Vì thế sự tìm hiểu về việc tiến quân của quân Tần được đặt căn bản theo đoạn văn đã trích dẫn ở trên của sách Hoài Nam Tử.

Qua sử liệu, chúng ta biết -- quân Tần vượt Ngũ Lĩnh để xâm chiếm Lĩnh Nam. Câu hỏi được đặt ra là -- Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam ở đâu so với địa danh ngày nay?

b. Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam

bando-1

~~



giao-chi-8.gif


~~~

giao-chi-8.gif

bando-2

***

Ngũ Lĩnh
Là rặng Nam Lĩnh ngày nay, gồm năm dãy núi nằm kế nhau theo hướng đông bắc, từ phía tây qua đông theo thứ tự như sau:

● Việt Thành lĩnh (Yuechengling)
● Đô Bàng lĩnh (Dupangling)
● Minh Chử lĩnh (Mengzhuling)
● Kỵ Điền lĩnh (Qitianling)
● Đại Du (Dữu) lĩnh (Dayuling)

Rặng Ngũ Lĩnh kéo dài từ phía bắc tỉnh Quảng Tây sang đến một phần phía bắc tỉnh Quảng Đông. Ngũ Lĩnh phân chia ranh giới các tỉnh Hồ Nam – Quảng Tây, Hồ Nam – Giang Tây – Quảng Đông, thành hai vùng địa lý khác biệt.

Phía bắc Ngũ Lĩnh, tỉnh Hồ Nam có sông Tương theo hướng nam – bắc chảy vào hồ Động Đình và sông Dương Tử.
Sông Cám (hay Cống giang) cũng theo hướng nam – bắc chảy vào hồ Bá Dương.

Phía nam, ở tỉnh Quảng Tây có sông Li theo hướng bắc – nam chảy vào sông Chu. Quảng Đông có sông Bắc cũng theo hướng bắc – nam chảy vào sông Tây (Tây giang).

Rặng Ngũ lĩnh không cao, trung bình từ 1000 tới 1500 mét (khoảng 3300 tới 5000 feet). Tuy nhiên rất hiểm trở và khó vượt qua bằng đường bộ.

Những quan ải tại Ngũ Lĩnh:

Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện: “(Nhâm) Ngao chết, Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàng Khê rằng: Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ”.

Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay (Meiguan) (8).
Đây là một cửa ải quan trọng bậc nhất trên rặng Ngũ Lĩnh từ Hoa Hạ
đến Lĩnh Nam. Ngày nay tại đây vẫn còn một thị xã nhỏ sát ranh giới Giang Tây và Quảng Đông mang tên này.
Từ Mai quan tới thị xã Nam Hùng tỉnh Quảng Đông khoảng 30 km (19 dặm).

Thời Tần có tên là Hoành Phổ quan, cửa quan này nằm trên Đại Du (Dữu) lĩnh là một trong Ngũ Lĩnh, rất hiểm trở khó qua lại. Thời Đường gọi là Tần quan. Năm 716, Tể tướng Trương Cửu Linh (9) mở rộng thêm bằng cách đục đá xuyên qua núi bên dưới lối đi cũ để bớt độ dốc và lát gạch cho dễ qua lại.

Phía bắc cửa ải có khắc hàng chữ “Nam Việt Hùng quan”, phía nam có khắc hàng chữ: “Lĩnh Nam Đệ Nhất quan”.

Dương Sơn quan (10) ở phía đông nam Kỵ Điền lĩnh, gần Liên giang (Lian jiang). Ngày nay thuộc huyện Dương Sơn (Yangshan), Thanh Viễn thị, góc tây bắc tỉnh Quảng Đông.

Hoàng Khê quan ở phía nam Kỵ Điền lĩnh, gần núi Hoạt Thạch, chỗ ba con sông hợp lại là Bắc Giang (Beijiang), Liên giang (Lianjiang) và Ống giang (Wengjiang). Ngày nay thuộc huyện Anh Đức (Yingde), Thanh Viễn thị (Qingyuan), phía bắc đô thị Quảng Châu.

Ngoài những ải trên được ghi lại trong Sử Ký, còn có:

Ly Thủy quan là chỗ Sử Lộc đào kinh. Linh Cừ thông thủy đạo từ Tương giang nối với Ly giang để chuyển lương trong chiến dịch xâm chiếm Lĩnh Nam.

Lĩnh Nam.

Địa thế: Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của rặng Ngũ Lĩnh. Tùy theo sự giải đoán của từng người hay nói chung là tùy theo quan niệm của từng dân tộc.

Người Trung Quốc gọi vùng Lĩnh Nam là đất của người Bách Việt gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến và phía nam của Chiết Giang (vùng đất của các nước cổ thời là Mân Việt và Đông Việt).

Người Việt Nam gọi Lĩnh Nam là vùng đất gồm Quảng Tây, Quảng Đông và Cổ Việt là Bắc Việt ngày nay, vì trong cổ sử của nước Việt nói về cuộc khởi nghĩa của Hai bà Trưng như sau: ĐVSKTT:” Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:… Cho nên Trưng Nữ Vương tuy đánh lấy được đất Lĩnh Nam, nhưng không giữ được nơi hiểm yếu ở Ngũ Lĩnh, rốt cuộc đến bại vong”.
Cũng như truyện “Lĩnh Nam Chích Quái”của Trần Thế Pháp. Trong khi đó học giả Tây Phương (11) nói Lĩnh Nam chỉ gồm có hai tỉnh là Quảng Tây và Quảng Đông. Tuy nhiên, nếu hiểu một cách phổ quát thì:
Lĩnh Nam là vùng đất phía nam của Ngũ Lĩnh, gồm Quảng Tây, Quảng Đông, Phúc Kiến, đảo Hải nam, phía nam Chiết Giang và Bắc Việt Nam ngày nay.
Vùng đất có các sắc dân không thuộc Hán tộc, khác hẳn về ngôn ngữ, phong tục lẫn văn hóa với dân vùng Hoa Bắc và Hoa Nam thời cổ (Nước Xích Thần [Hoa Bắc] và nước Xích Quỷ [Hoa Nam] tên gọi nước cổ Việt trước kia.)

Phía tây Lĩnh Nam là vùng cao nguyên của hai tỉnh Vân Nam và Quý Châu, cũng là phía tây của tỉnh Quảng Tây với rặng Ô Mông sơn (Wumeng shan) và Lục Chiếu sơn (Liuzhao shan (sát với biên giới Việt Nam- Vân Nam và Quảng Tây).

Đây là những rặng núi tương đối khá cao để có thể phân biệt về ranh giới thời cổ. Phía đông bắc Lĩnh Nam là các rặng núi Vũ Di sơn, Tải Vân Sơn và Liên Hoa Sơn, phân chia hai vùng Lĩnh Nam và Dương Việt (huyện Mân Trung thời Tần). Phía đông và phía nam của Lĩnh Nam giáp biển Nam Hải.

Vùng Lĩnh Nam có sông lớn thứ ba của Trung Quốc là Tây Giang sau Hoàng Hà và Dương Tử (Trường giang), đây là thủy đạo chính của vùng Lĩnh Nam.
Sông này tùy từng đoạn đã được đặt bằng những tên khác nhau. Các đoạn sông này nối tiếp với nhau từ tây qua đông theo thứ tự sau: Nam Bàn giang (tên cổ thời là sông Tường Kha) – Hồng Thủy hà, Tây giang và Chu giang là đoạn nối với biển Nam Hải.

Sông Tây giang có những chi lưu chính ở phía bắc như Bắc Bàn giang, Liêu giang, Li giang, Bắc giang và Đông giang. Những chi lưu ở phía nam như Hữu giang và Tả giang (phát nguyện từ bắc Việt Nam) hợp lại là Uất giang, chảy vào Tây giang.

Khí hậu: Lĩnh Nam khác hẳn với khí hậu Hoa Hạ (Đất Hoa Hạ là nước Xích Thần cũ của Đế Nghi). Phía bắc Ngũ Lĩnh lạnh và khô, nhiều khi mùa đông có tuyết, nhưng phía nam Ngũ Lĩnh – Lĩnh Nam - thì ấm áp quanh năm, đây là vùng khí hậu nhiệt đới. Nhiệt độ thay đổi từ 10°C (tháng 11, 12, 1, 2) đến 30°C (tháng 5, 6, 7, 8). Thời gian trồng cấy từ 250 đến 320 ngày trong một năm (nhiệt độ tối thiểu để có thể cấy lúa là 10°C).

Lĩnh Nam có nhiều mưa, tháng 5, 6, 7, 8 là mùa mưa, cao điểm là tháng 6, vũ lượng lên tới 25cm (10 inches). Vũ lượng cho cả năm khá cao:

– 170 cm (67 inches) tại Quảng Châu,
– 200 cm (80 inches) tại Hồng Kông,
– 180 cm (71 inches) tại Hà Nội.

Lịch sử: Trước khi quân Tần theo lệnh của Tần Thủy Hoàng đi mở rộng đế quốc nhà Tần về phía nam của Lĩnh Nam thì Lĩnh Nam không có những liên hệ nào đáng kể với vùng Hoa Hạ (nước Xích Thần cũ vùng trung nguyên của Việt tộc), ngoại trừ những việc giao thương rất lẻ tẻ qua những vùng có thể đi bằng đường bộ. (12).
Sự qua lại cực kỳ chật vật vì phải vượt qua những đường đèo hiểm trở tại rặng Ngũ Lĩnh. Văn hóa của Trung Quốc/Hán tộc chưa xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam/Bách Việt.

Về phía đông bắc, sau khi nước Sở và Tề xâu xé nước Việt của Câu Tiễn. (13) Năm 333 TCN, hậu duệ của vua Việt của Câu Tiễn và một số dân Việt (người Việt cổ) chạy về phía nam là hai tỉnh Chiết Giang và Phúc Kiến, tại đây hai nước nhỏ được lập nên, đó là Đông Việt và Mân Việt, vùng này được gọi chung là Dương Việt.

Phía tây bắc của Lĩnh Nam có nước Dạ Lang thuộc tỉnh Quý Châu, phía tây Lĩnh Nam có nước Điền ở vùng hồ Điền Trì sát đô thị Côn Minh, tỉnh Vân Nam ngày nay. Mới đây các nhà khảo cổ đã khai quật được 118 di chỉ của nước Điền, từ những di chỉ này, chúng ta biết dân nước Điền rất điêu luyện về cách đúc đồng thau (bronze) (14) lúc cổ thời.

Tại trung tâm của Lĩnh Nam có nước Tây Âu là một nước khá lớn, nước này đã chống trả lại với đội quân của Tần Thủy Hoàng nam chinh một cách kịch liệt.

Phía cực nam của Ngũ Lĩnh là nước Âu Lạc tức là Giao Chỉ hay nước Việt Nam thời cổ.

Các sắc tộc: Lĩnh Nam (Quảng Đông, Quảng Tây và cổ Việt) gồm nhiều sắc tộc, người Hán gọi chung là người Bách Việt, gồm nhiều bộ tộc đã định cư ở đây từ lâu đời. Cổ thời, trước khi nhà Tần mang quân xâm chiếm, Lĩnh Nam có hai sắc tộc chính thuộc chủng tộc Thái là:

— Tráng (15) (Zhuang) ở vùng Quảng Tây và Quảng Đông,

— Lê (16) (Li) ở vùng bán đảo Lôi Châu (Leizhou) và ven đảo Hải Nam. (17).

Xa về phía nam là chủng tộc Lạc Việt tại vùng Âu Lạc.

Sau này lại có các sắc tộc thiểu số khác di dân đến đây sinh sống như:

— Người H’Mông(18),

— Người Dư (19),

— Di tộc (Lô Lô) (20),

— Người Dao (21) v.v…


Dân số Lĩnh Nam:

Theo như Hán Thư, Địa Lý chí của Ban Cố thì các quận Nam Hải, Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, cộng lại được 215,448 nhà dân, và số nhân khẩu là 1,272,390 (22) người.
Đây là dân số Lĩnh Nam theo thống kê thời Tiền Hán (206 TCN – 9).

Nước cổ Việt (Âu Lạc) gồm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam tổng cộng là 143,643 nhà và 981,835 người.

Vùng Quảng Tây và Quảng Đông gồm bốn quận: Nam Hải, Hợp Phố, Thương Ngô và Uất Lâm là 71,805 nhà và 390,555 người.

Tỷ lệ dân số cổ Việt nhiều hơn 2.5 lần so với dân số hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây

Tuy nhiên, không phải tất cả dân chúng tham gia kiểm kê, nên người viết phỏng đoán là dân số Lĩnh Nam ở đầu thế kỷ thứ nhất có khoảng 2 triệu người. Ngược lại, hai thế kỷ, trước khi nhà Tần sang xâm chiếm, người viết phỏng đoán dân số tại Lĩnh Nam có khoảng 1.5 triệu người: 500 ngàn tại vùng Quảng Tây và Quảng Đông (23), 1 triệu người tại cổ Việt.

C. Những địa điểm đóng quân

Sau vài nét đại cương về Ngũ Lĩnh và Lĩnh Nam, người viết xin trình bày từng địa điểm đồn trú của quân Tần, mà sách Hoài Nam Tử đã viết. Những vị trí này được truy tầm qua các tài liệu cổ của Trung Quốc như: Sử Ký, (Tiền) Hán thư, Hậu Hán thư, Tấn thư, Thủy Kinh chú, Thủy Kinh chú sớ, cùng với bản đồ của Trung Quốc và các phương tiện truyền thông tinh vi ngày nay như “Internet và “”Google Earth”. Sau đó sẽ phỏng đoán đường hành quân đặt căn bản qua các tài liệu trên, để chúng ta có một khái niệm tổng quát về chiến dịch xâm lăng Bách Việt của quân Tần.

Đàm Thành

Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, “Chí đệ thập nhị”, “Quận quốc tứ” (24) thì Đàm Thành là một huyện của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần). Thời Hậu Hán, Hán Quang Vũ chia quận này ra làm 6 huyện. Đàm Thành là một trong 6 huyện, tọa lạc tại phía tây nam của quận Vũ Lăng.

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong “Thủy Kinh Chú Sớ” của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 37, trang 483): “Sông Ngân Thủy ra từ khe Nguyên Thủy ở biên giới phía bắc huyện Tầm Thành (25) (nv: Đàm Thành, xin coi ghi chú) quận Vũ Lăng“.

Quận Vũ Lăng, theo Hán Thư của Ban Cố, “Địa lý chí”, quyển 28 hạ (26), thì Vũ Lăng là một trong các quận của nước Sở ngày trước.

Theo như bản đồ ngày nay thì quận lỵ của Vũ Lăng là Hoài Hóa thị ở phía tây tỉnh Hồ Nam của Trung Quốc, phía nam rặng núi Vũ Lăng. Hoài Hóa thị có sông khá lớn là Nguyên giang (27) chảy qua. Sông này bắt nguồn từ ranh giới Quý Châu, Quảng Tây và Hồ Nam, chảy về hướng đông-bắc đổ nước vào vùng hồ Động Đình.

Đàm Thành tọa lạc tại Tịnh huyện (Tịnh châu Miêu tộc đồng tộc tự trị huyện), thuộc Hoài Hóa thị (Huaihua), phía tây nam tỉnh Hồ Nam, là một trong 12 thành của quận Vũ Lăng thời Hán (quận Kiềm Trung thời Tần).

Người viết phỏng đoán thành này nằm trên bờ sông Nguyên, là thị trấn Tịnh Châu (Jing Zhou) của tỉnh Hồ Nam ngày nay. Vì đây là một vùng phẳng duy nhất để có thể đủ chỗ cho 100 ngàn quân trú đóng và tiện việc vận chuyển quân lương bằng đường thủy.

bando-3.jpg

Bản đồ số 3 – 3 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Đàm Thành, Cửu Nghi, Nam Dã.


Cửu Nghi

Theo Hậu Hán thư của Phạm Việp, “Chí đệ thập nhị”, “Quận quốc tứ” (28) thì Cửu Nghi là một vùng núi ở quận Linh Lăng.

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong “Thủy Kinh Chú Sớ” của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 38, trang 519) (29): “… Lại chảy về phía đông bắc, qua phía tây huyện Tuyền Lăng.Sông Doanh Thủy ra từ núi Lưu Sơn ở phía nam huyện Linh Đạo quận Doang Dương, chảy về phía tây đi qua dưới núi Cửu Nghi, chân núi uốn khúc khắp đồng Thương Ngô, ngọn núi mọc cao vút trong khoảng mấy quận. Núi bày ra chín ngọn, một ngọn dẫn một con suối, núi khe hiểm trở, núi tuy khác nhau, nhưng hình thế giống nhau, làm cho du khách nghi hoặc, cho nên gọi là núi Cửu Nghi ”.


Cửu Nghi Sơn: địa danh này ngày nay vẫn còn. Tọa lạc Vĩnh Châu thị (Yongzhou), cách huyện Ninh Viễn (Ningyuan) khoảng 15 km (chừng 10 miles) về phía nam, nằm gần cực nam tỉnh Hồ Nam, một trong những núi thuộc Minh Chử lĩnh (sát ranh giới Hồ Nam – Quảng Đông). Đỉnh cao nhất là núi Phấn Cơ (Fenji -1959m). Phía bắc chân núi này vẫn còn một thị xã nhỏ có tên là Cửu Nghi.


Phía đông núi Cửu Nghi có sông Xuân Lăng, sông này thông với Tương giang ở phía bắc tại thị trấn Hành Dương (Hengyang-tỉnh lớn thứ nhì của tỉnh Hồ Nam sau Trường Sa).
Bên bờ sông Xuân Lăng ngày nay có thị trấn Lam Sơn (Lanshan) tương đối khá phẳng Người viết phỏng đoán là một đạo quân Tần đã đóng ở đây để tìm cách vượt Ngũ Lĩnh.

Phiên Ngung

bando-4 (1)

Bản đồ số 4 – 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Phiên Ngung

Địa danh này đã được nói tới trong Sử Ký của Tư Mã Thiên – “NamViệt Úy Đà liệt truyện” ba lần. Đây là kinh đô của nước Nam Việt thời Triệu Đà. Khi quân nhà Hán mang quân sang đánh Nam Việt (thời Triệu Ai vương là vua chót của nhà Triệu -112 TCN). Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành: ” Sau quân Việt mở thẳng đường, mang lương thực người Việt đem quân đánh bọn Thiên Thu, diệt được họ cách Phiên Ngung bốn mươi dặm,…Năm thứ năm niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 112 trước Công nguyên….. đưa quân từ đất Dạ Lang xuống đường sông Tường Kha. Các quân ấy đều gặp nhau ở Phiên Ngung…..Năm thứ sáu niên hiệu Nguyễn Đỉnh (năm 111 trước Công nguyên), mùa đông….. Phục Ba cùng quân của Lâu thuyền họp lại mới có được hơn nghìn người, bèn cùng tiến. Quân của Lâu thuyền đi trước đến Phiên Ngung, Kiến Đức cùng Gia đều giữ thành.

Tuy nhiên, trong các cổ sử của Trung Quốc, nếu phiên dịch ra Hán Nôm thì đều gọi là Phiên Ngu. Như đã trích dẫn trong sách Sử Ký, quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng Quận được thành lập thời Tần. Sau khi Hán Vũ đế chiếm Nam Việt (111 TCN), đặt Nam Hải là một quận của Giao châu.

Hán thư của Ban Cố viết: Nam Hải là một trong 7 quận thời Tiền Hán (30) thuộc Giao châu, đất của Triệu Đà, Phiên Ngung là thủ đô. Giao châu gồm các quận: Thương Ngô – Uất lâm – Hợp Phố – Giao Chỉ – Cửu Chân – Nam Hải – Nhật Nam. Nam Hải là đất của người (Bách)Việt. Sau đó (cũng năm 111 TCN) đã đặt thêm hai quận là Đam Nhĩ và Chu Nhai (31) ở đảo Hải Nam.

Hậu Hán thư của Phạm Việp viết là Phiên Ngung thuộc quận Nam Hải (32), là một trong những quận thuộc Giao châu thời Hán

Theo Tấn thư, Phiên Ngung (Ngu) là một trong 6 huyện của quận Nam Hải. Quận Nam Hải gồm có Phiên Ngung, Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên và Bình Di (33).

Qua những trích dẫn trên, chúng ta biết là Phiên Ngung nằm ở thị trấn Quảng Châu thuộc tỉnh Quảng Đông ngày nay, tại đây đã tìm được mộ phần của Nam Việt Văn Vương Triệu Hồ (137 TCN -125 TCN).

Phiên Ngung (Ngu) ngày nay vẫn còn tên và là một chi khu trong đô thị Quảng Châu. Nếu tra cứu trong bản đồ thì Phiên Ngung ( Panyu) là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Châu, phía đông nam, kế cận với xa lộ vòng quanh đô thị này.

Một trong 5 đạo quân Tần (mà người viết phỏng đoán là dưới sự lãnh đạo của Nhâm Ngao) đã vượt Ngũ Lĩnh đến đây chiếm đóng. Đạo quân không gặp sức kháng cự nào đáng kể của dân Bách Việt.

Nam Dã

Hậu Hán thư của Phạm Việp, “Chí đệ thập nhị”, “Quận quốc tứ” viết (34): Nam Dã là một huyện của quận Dự Chương. Huyện này được đặt ra từ thời Cao đế nhà Tiền Hán (Hán Cao Tổ Lưu Bang, 206 TCN – 195 TCN).

Quận Dự Chương có những huyện: Nam Xương, Kiến Thành, Tân can, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (hay Cống), Vu Đô, Nam Dã, Nam Thành, Bá Dương, Lịch Lăng, Dư Hãn, Bành Trạch, Bành Lãi, Thạch Dương, Lâm Nhữ, Kiến Xương, Sài Tang, Ngải, Hải Hôn hầu quốc, Bình Đô hầu quốc.

Tấn thư viết Nam Dã là một huyện của quận Lư Lăng. Quận này do nhà Ngô dựng lên thời Tam Quốc (35) (220 – 280)

Sách Thủy Kinh chú (bản dịch trong “Thủy Kinh Chú Sớ” của ông Nguyễn Bá Mão, quyển 39, trang 655) (36): ” Sông Cống (Cám) Thủy ra từ phía tây huyện Nam Dã quận Dự Chương, chảy về phía bắc qua phía đông huyện Cống.

Ban Cố gọi là huyện Nam Dã, nơi sông Bành Thủy chảy ra, chảy vào phía đông vào sông Hồ Hán…..Lưu Trừng Chi nói:… Sông Dự Chương dẫn nguồn chảy về phía đông bắc, đi qua phía bắc huyện Nam Dã“.

Sông Dự Chương mà Ban Cố viết là Cám (Cống) giang ngày nay.

Huyện Nam Dã quận Dự Chương thời Tần ở về phía cực nam tỉnh Giang Tây, thuộc Tráng (Cám) Châu thị (Ganzhou shi), thị trấn Tráng (Cám) Châu, phía đông bắc của Mai quan (thời Tần là Hoành Phổ quan) thuộc Dại Du lĩnh, tọa lạc trên bờ đông nam của Cám (Cống) giang. Sông này là thủy lộ chính theo hướng bắc-nam của tỉnh Giang Tây.

Một đạo quân khác đến đồn trú tại Nam Dã, sau khi đạo quân trước đã tiến vào Lĩnh Nam và chiếm đóng Phiên Ngung.

☛ Dư Can

bando-5

Bản đồ số 5 – 1 trong 5 địa điểm đồn trú của quân Tần: Dư Can

Trước khi tìm hiểu về vị trí của địa danh này, người viết xin trình bày một vấn đề về từ ngữ có liên quan đến chữ “can“, vì chữ này đã gây trở ngại rất nhiều cho người viết trong việc tra cứu.

phiên dịch là “Dư Can“, bản sao lại là chữ Hán phồn thể, nên chỉ có thể dịch là “Dư Can“. Nếu chữ là giản thể thì có thể dịch là “Dư Can” hay “Dư Hãn”. Nếu chữ thêm bộ “thủy” thành chữ thì có thể phiên dịch chữ Hán phồn thể là “can” hay “hãn”

Các bộ cổ sử như Hậu Hán thư, Tấn thư viết là: , có thể phiên dịch là “Dư Can” hay “Dư Hãn”. Dù cổ sử được viết như thế, nhưng người viết không thể phỏng đoán một cách vô căn cứ là sách Hoài Nam Tử viết chữ “can” thiếu bộ “thủy”, để có thể đọc là “hãn” cho phù hợp với cổ sử. Trở ngại này do khả năng Hán học của người viết quá thô thiển.

Sự tra cứu tưởng như phải ngưng ở đây vì chữ “can“, vì người viết nghi ngờ chữ “can” có thể phiên dịch là “can, hãn”, vì nghĩ là đã bị ghi sai khi chuyển lên ấn bản điện tử. May mắn thay! Sự việc đã không như thế, sách “Thủy Kinh Chú sớ” của hai học giả Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh (37) đã giải thích về chữ “can” và “hãn” khá rõ ràng như sau:
Bản dịch: Nguyễn Bá Mão dịch từ “Thủy Kinh Chú Sớ“, (quyển 33 đến quyển 40).

Trang 684: “Sông Cống Thủy lại chảy về phía bắc, đi qua huyện Nghiêu Dương (38), Thủ Kính chú: thời Hán, huyện thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc quận Bà Dương, thời Tấn y theo, thời Tống bớt. Huyện ở phía tây bắc huyện Bà Dương ngày nay 120 dặm(39), là huyện Dự Chương thời Vương Mãng. Có sông Dư Thủy chảy vào. Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn, thời Vương Mãng gọi là Trị Can. Sông Dư Thủy chảy về phía bắc đến huyện Nghiêu Dương chảy vào sông Cống Thủy. Thủ Kính chú: “Hán chí”, “Tấn chí” viết chữ “hãn” là “mồ hôi”, “Tống chí” và “Tề chí” viết chữ “can” là “liên can”. Thời Hán, huyện Dư Hãn thuộc quận Dự Chương, thời Hậu Hán y theo, thời Ngô thuộc là quận Bà Dương, các thời Tấn, Tống, Tề, Lương y theo. Huyện ở phía đông bắc huyện Dư Can ngày nay“.

Vậy nếu theo như giải thích của học giả Dương Thủ Kính thì chữ “Dư Hãn” trong “Hán Chí” (Hậu Hán thư, Chí) và “Tấn chí” (Tấn thư, Chí) cũng là chữ “Dư Can” như trong sách Hoài Nam Tử, nhưng đã bị thay đổi theo thời gian. Vậy cũng có thể hiểu “Dư Can” thời Tần cũng là “Dư Hãn” thời Hán; như đã viết trong sách Hoài Nam Tử.

Hậu Hán thư của Phạm Việp, “Chí đệ thập nhị”, “Quận quốc tứ” viết Dư Hãn là một huyện của quân Dự Chương (xin đọc trong trích dẫn nói về huyện Nam Dã).

Tấn Thư viết Dư Hãn là một huyện của quận Bá (Bà) Dương (Poyang) thời Ngô (40)
Qua những trích dẫn trên, ta có thể biết được là “Dư Can” trong sách Hoài Nam Tử tọa lại tại huyện Dư Can tỉnh Giang Tây ngày nay. Huyện lỵ là thị xã Dư Can ở sát phía bắc của sông Tín (Xin jiang ).

Dư Can thủy

Địa danh Dư Can đã được biết qua dẫn chứng trên, tuy nhiên vị trí sông Dư Can vẫn chưa biết rõ. Qua câu phiên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ”: “Sông Dư Thủy ra về phía đông ở huyện Dư Hãn” (Thủy đông xuất Dư Hãn huyện). Ta có thể biết rằng sông Dư Thủy nói ở đây là sông Dư Hãn, cũng là Tín giang (Xin jiang ) ngày nay. Sông này bắt nguồn từ rặng Vũ Di sơn (Wuyi shan) chảy về phía tây, hợp với một nhánh của sông Cám đổ vào hệ thống sông ngòi phức tạp quanh vùng hồ Bá Dương.

Một đạo quân Tần đã dùng thủy đạo đến đóng tại thượng lưu Dư Hãn thủy (Tín giang), gần ranh giới phía đông bắc tỉnh Giang Tây và tây bắc tỉnh Phúc Kiến, để chuẩn bị vượt Vũ Di Sơn tiến vào Mân Việt. Người viết phỏng đoán quân Tần đã đóng gần thị xã Ưng Đàm (Yingtan) ngày nay, vì tại đây có đường xe lửa cũng như xa lộ băng qua Vũ Di Sơn tới Nam Bình (Nanping) và Phúc Châu (Fuzhou) tỉnh Phúc Kiến (Mân Việt thời Tần) là hai thị trấn lớn. Điều này ám chỉ là ngày xưa có thể có đường bộ băng qua vùng núi này. Hơn nữa khi vừa băng qua Vũ Di sơn là có sông Phú Đồn (nối với sông Mân. Đây là thủy lộ thuận tiện nối Nam Bình với Phú Châu).

Vậy là chúng ta đã biết được năm địa điểm đóng quân của 500 ngàn quân Tần trong chiến dịch xâm lăng Bách Việt. Những địa điểm này được ghi lại trong bản đồ đính kèm dưới đây:

bando-6

Bản đồ số 6 – 5 địa điểm đồn trú của quân Tần (tổng quát)

bando-7

Bản đồ số 7 – 5 địa điểm đồn trú của quân Tần

(1) Phiên âm Hán Nôm: “Tam thập tam niên, phát chư thường bô vong nhân, chuế tế, cổ (giả) nhân lược thủ Lục Lương địa, vi Quế Lâm,Tượng quận, Nam Hải, dĩ thích khiển thú”.

2)” 209 +(13-1) = 221 TCN”: năm thứ 1là 209 TCN, đếm thêm 12 (thứ 13) là 221 TCN

(3) Độc giả có thể sao lại nguyên bản bằng chữ Hán tại: http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html

(4) Nguyên bản:

(5) Đương nhiên là người viết có thể có những thiếu sót và sai lầm trong đoạn phiên dịch này, xin các bậc tinh thông Hán học chỉ bảo.

(6) Người viết dùng tên Sử Lộc như trong sách “Việt Sử Toàn Thư “, của sử gia Phạm Văn Sơn, trang 56

(7) Lưu An được phong Hoài Nam Vương (164BC). Ông không nhập bọn theo “loạn 7 nước năm 154 TCN” thời Hán Cảnh Đế, nên được triệu về Trường An để tham chính. Nguồn: Hán Thư của Ban Cố quyển 44, ” Hoài Nam Hành Sơn Tế Bắc vương liệt truyện”

(8) Tham khảo từ sách “Tigers, Rice, Silk & Silt” của Robert B. Marks, trang 21-24, và trong http://en.wikipedia.org/wiki/Mei_Pass

(9) Trương Cửu Linh (Zhang Jiuling 678-740, thời Đường Huyền Tông 712-756). Ông này quê ở Thiều Quan (Shaoguan), phiá tây nam Mai quan, nên hăng hái mở đường thông thương giũa Hoa Hạ và Lĩnh nam

(10)Sử Ký: Tam gia chú Dương Sơn, Linh Tác ẩn diêu thị án: Địa Lý chí vân Yết Dương hữu Dương Sơn huyện. Kim thử huyện thượng lưu bách dư lý hữu Kỵ Điền lĩnh, đương thị Dương Sơn quan.

(11) Robert B. Marks: “Tigers, Rice, Silk & Silt- Environment and Economy in Late Imperial South China”, Cambridge University Press, 1998

(12) Hidden Trade Routes of The South: http://www.uglychinese.org/vietnamese.htm

(13)Lúc này vua nước Việt là Việt Vương Vô Cương 337 TCN-333 TCN

(14) Độc giả có thể xem những di chỉ này tại: http://news.gov.hk/en/citylife/041109/html/041109en20004.htm#

(15) Ngày nay, Quảng Tây là Tráng tộc tự trị khu (Guangxi Zhuang Autonomous Region). Tổng số dân tộc Tráng khoảng 18 triệu người.

(16) Lê tộc ngày nay có khoảng 1.3 triệu người, hầu hết định cư tại đảo Hải Nam

17) Robert B. Marks: “Tigers, Rice, Silk & Silt - Environment and Economy in Late Imperial South China”, Cambridge University Press, 1998, trang 54.

(18) H’Mong (Miao), tên cũ để gọi dân tộc thời xưa là Miêu tộc, tiếng Việt gọi là người Mèo. Đây là một sắc tộc rất lớn, dân số lên tới 7.5 triệu người. Dân tộc H’Mông định cư tại các tỉnh của Trung Quốc như Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam, Tứ Xuyên, Hải Nam. Tại Việt Nam có khoảng có khoảng 800 ngàn người. Tại Hoa Kỳ có khoảng 275 ngàn người.

(19) Dư tộc (She) khoảng trên 600 ngàn người, định cư tại các tỉnh Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông

(20) Di tộc (Yi) tiếng Việt gọi sắc tộc này là Lô Lô. Đây là sắc tộc lớn khoảng 6.5 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng hơn 3 ngàn người Lô Lô tại các tỉnh Hà Giang, Lào Cai và Cao Bằng.

(21) Người Dao (Yao) khoảng trên 2 triệu người, định cư tại các tỉnh Tứ Xuyên, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông của Trung Quốc. Việt Nam có khoảng nửa triệu người Dao.

(22) Quận Nam Hải: 19613 nhà, 94253 người. Quận Uất Lâm: 12415 nhà, 71162 người. Quận Thương Ngô: 24379 nhà, 146160 người. Quận Hợp Phố: 15398 nhà, 78980 người. Quận Giao Chỉ: 92440 nhà, 746237 người. Quận Cửu Chân: 35743 nhà, 166113 người. Quận Nhật Nam: 15460 nhà, 69458 người.

(23) Theo tác giả Robert B. Marks: “Tigers, Rice, Silk & Silt-Environment and Economy in Late Imperial South China”, Cambridge University Press, 1998, trang 55, Lĩnh Nam gồm Quảng Đông và Quảng Tây (năm 206 TCN đến 200 TCN) có khoảng 72,000 nhà và từ 350,000 tới 400,000 người

(24) Hậu Hán thư của Phạm Việp, “Chí đệ thập nhị”, phiên dịch Hán Nôm: “Vũ Lăng quận Tần Chiêu Vương trí, danh Kiềm Trung quận, Cao Đế ngũ niên cánh danh. Lạc Dương nam nhị thiên nhất bách lý. Thập nhị thành, hộ tứ vạn lục thiên lục bách thất thập nhị (46672), khẩu nhị thập ngũ vạn cửu bách nhất thập tam (250913)…… Lâm Nguyên Hán thọ cố tác, Dương gia tam niên cánh danh, thứ sử trị. Sàn (sán) Lăng, Linh Dương, Sung, Nguyên Lăng tiên hữu Hồ Đầu sơn. Thần Dương, Dậu Dương, Thiên Lăng, Đàm Thành, Nguyên Nam, Kiến Vũ nhị thập lục niên (36AD) trí.

(25) Thủy Kinh Chú quyển tam thập thất: “Ngân Thủy xuất Vũ Lăng Đàm Thành huyện bắc giới Nguyên thủy cốc”.

(26) Phiên dịch Hán Nôm: “Sở địa, dực – chẩn chi phân dã. Kim chi Nam quận – Giang Hạ – Linh Lăng – Quế Dương – Vũ Lăng – Trường Sa cập Hán trung – Nhữ Nam quận, tận Sở phân dã”.

(27) Nguyên giang chảy qua Hồ Nam khác với Nguyên giang tại Vân Nam. Nguyên giang ở Vân Nam là thượng nguồn sông Hồng của Việt Nam.

(28)Linh Lăng quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam tam thiên tam bách lý. Thập tam thành, hộ nhị thập nhất vạn nhị thiên nhị bách bát thập tứ (21,284), khẩu bách vạn nhất thiên ngũ bách thất thập bát (1,001,578). Tuyền Lăng, Linh Lăng, Dương Sóc sơn Tương thủy xuất. Doanh đạo nam hữu Cửu Nghi sơn. Doanh Phổ linh đạo, Thao Dương, Đô Lương hữu Lộ sơn., Phù Di hầu quốc (cố thuộc Trường Sa). Thủy An hầu quốc. Trọng An hầu quốc, cố Chung Vũ, Vĩnh Kiến tam niên (422AD) cánh danh. Tương hương, Chiêu (Thiệu) Dương hầu quốc. Chưng Dương hầu quốc, cố thuộc Trường Sa.

(29) Nguyên bản:

Phiên âm Hán Nôm: “…Hựu đông bắc quá Tuyền Lăng huyện tây. Doanh Thủy xuất Doanh Dương linh đạo huyện nam lưu xuất. Tây lưu kính Cửu Nghi sơn hạ, bàn cơ Thương Ngô chi dã, phong tú số quận chi dản (gian, nhàn). La nham cửu cử, các đạo nhất khê, tụ hác phụ trở, dị lĩnh đồng thế, du giả nghi yên, cố viết Cửu Nghi sơn”.

(30) Phiên âm Hán Nôm: Hán thư, Địa lý chí, quyển 28:

“Nam Hải quận, Tần trí Tần bại, Úy Đà vương thử địa. Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai. Thuộc Giao Châu. Hộ vạn cửu thiên lục bách nhất thập tam (19613), khẩu cửu vạn tứ thiên nhị bách ngũ thập tam (94253). Hữu Bổ (Phố) Tu quan. Huyện lục: Phiên Ngu, Úy Đà đô. Hữu Diêm quan. Bác La, Trung Túc, hữu Khuông Phổ quan. Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương.

Việt địa, khiên ngưu – vụ nhữ (nữ) chi phân Dã. Kim chi Thương Ngô – Uất lâm – Hợp Phố – Giao Chỉ – Cửu Chân – Nam Hải – Nhật Nam, giai Việt phân dã”.

(31) Phiên âm Hán Nôm :Hán thư, Địa lý chí, quyển 28: “Vũ Đế nguyên phong nguyên niên (111BC) lược dĩ vi Đạm Nhĩ – Châu Nhai quận”.

(32) Phiên âm Hán Nôm: Hậu Hán thư, Chí đệ nhị thập nhị, quận quốc tứ: “Nam Hải quận Vũ Đế trí. Lạc Dương nam thất thiên nhất bách lý. Thất thành, hộ thất vạn nhất thiên tứ bách thất thập thất (71,477), khẩu nhị thập ngũ vạn nhị bách bát thập nhị (250,282). Phiên Ngung (Ngu), Bác La, Trung Túc, Long Xuyên, Tứ Hội, Yết Dương, Tăng Thành hữu Lao Linh sơn”.

(33) Phiên âm Hán Nôm: Tấn thư, quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: ” Giao Châu: …. Nam Hải quận Tần trí. Thống huyện lục, hộ cửu thiên ngũ bách. Phiên Ngung (Ngu), Tứ Hội, Tăng Thành, Bác La, Long Xuyên, Bình Di”.

(34) Phiên âm Hán Nôm:

“Dự Chương quận Cao Đế trí. Lạc Dương nam nhị thiên thất bách lý. Nhị thập nhất thành, hộ tứ thập vạn lục thiên tứ bách cửu thập lục (406,496), khẩu bách lục thập lục vạn bát thiên cửu bách lục (1,668,906).

Nam Xương, Kiến Thành, Tân Cam, Nghi Xuân, Lư Lăng, Cám (Cống) hữu Dự Chương thủy. Vu Đô, Nam Dã hữu đài Linh (Lãnh) sơn., Nam Thành, Bá Dương hữu Bá thủy. Hoàng kim thái (thải). Lịch Lăng hữu Phó Dương sơn. Dư Hãn, Bá Dương, Bành Trạch, Bành Lãi trạch tại tây. Sài Tang, Ngải Hải Hôn hầu quốc. Bình Đô hầu quốc, cố An Bình., Thạch Dương, Lâm Nhữ, Vĩnh Nguyên bát niên (97) trí., Kiến Xương, Vĩnh Nguyên thập lục niên (105) phân Hải Hôn trí”.

(35) Phiên âm Hán Nôm: Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: “Lư Lăng quận Ngô trí. Thống huyện thập, hộ nhất vạn nhị thiên nhị bách (12200). Tây Xương, Cao Xương, Thạch Dương, Ba Khâu, Nam Dã, Đông Xương, Toại Hưng, Cát Dương, Hưng Bình, Dương Phong”.

(36) Phiên âm Hán Nôm:

Thủy Kinh chú quyển tam thập cửu (39): “Cám (Cống) thủy xuất Dự Chương Nam Dã huyện tây, bắc quá Cám (Cống) huyện đông. …

Ban Cố xưng Nam Dã huyện, Bành thủy sở phát, đông nhập Hồ Hán thủy.

Lưu Trừng Chi viết:…. Dự Chương thủy đạo nguyên đông bắc lưu, kính Nam Dã huyện bắc”.

(37) Nguyễn Bá Mão, người biên dịch sách “Thủy Kinh Chú sớ: “Đến thời cận đại, vào đầu thế kỷ 20, hai nhà học giả gồm thầy là Dương Thủ Kính (1839-1915) và trò là Hùng Hội Trinh (?-1936), trên cơ sở sách “Thủy kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên, đã bỏ ra toàn lực trong mấy chục năm trời, thu thập rộng rãi trong các thư tịch, gom góp lại lời của nhiều học giả, để sớ, nghĩa là chú thích kỹ hơn sách “Thủy kinh chú” hợp lại sạn thành bộ sách “thủy kinh chú sớ” cũng gồm 40 quyển, với hơn 1, 510, 000 chữ, nhiều gấp năm lần sách “Thủy kinh chú”, và gấp 100 lần sách gốc “Thủy kinh”.

(38) Những chữ in đậm là phiên dịch từ “Thủy Kinh chú” của Lịch Đạo Nguyên.
Phiên dịch Hán Nôm: ” Cám (Cống) thủy hựu bắc kính Nghiêu Dương huyện, Vương Mãng chi Dự Chương huyện dã. Dư Thủy chú chi. Thủy đông xuất Dư Hãn huyện, Vương Mãng danh chi viết Trị Can dã. Dư Thủy bắc chí Nghiêu Dương huyện chú Cám (Cống) thủy”.

(39) Đây là dặm của Trung Quốc, một dặm = 0.56 Km, không phải dặm Anh (1.6 km)(40) Phiên âm Hán Nôm:

“Tấn thư quyển thập ngũ, chí đệ ngũ: Bá Dương quận Ngô trí. Thống huyện bát, hộ lục thiên nhất bách (6100).

Quảng Tấn, Bá Dương, Lạc (Nhạc) An, Dư Hãn Nghiêu Dương, Lịch Lăng, Cát Dương, Tấn Hưng”

 

6- Đường hành quân của quân Tần cùng các diễn biến

Nửa triệu quân Tần chia là năm đạo đóng tại năm địa điểm để xâm lăng Bách Việt, phỏng đoán là mỗi đạo có 100 ngàn quân.

Nhận xét qua những địa điểm quân Tần đóng: chỉ có bốn đạo quân tiến vào Lĩnh Nam là các đạo:

– Nam Dã,
– Phiên Ngung,
– Cửu Nghi và
– Đàm Thành.

Đạo Dư Can tiến vào Mân Việt là Phúc Kiến ngày nay. Quân Tần đóng sát các thủy lộ chính, điều này cho thấy họ đã dùng thuyền để chuyển quân cũng như lương thảo. Tuy nhiên không thể băng qua núi bằng đường sông, nên phải đào kinh để vận chuyển, họ đã dùng rất nhiều nhân công và thời gian để đào Kinh Linh Cừ, khởi công đào từ năm 219 TCN do thiết kế của giám quan Sử Lộc. Đạo quân nam chinh của Tần Thủy Hoàng đã đào núi làm sông để chuyển lương. Người viết phỏng đoán là việc đào kinh này tốn khoảng ba năm (hoàn tất năm 216 TCN).

Đạo quân ở Dư Can

Đạo Dư Can vượt Vũ Di Sơn để tấn công vào Phúc Kiến là đất của người Mân Việt và Đông Việt: Quân Tần từ hồ Bá Dương ngược dòng sông Dư Can lên đóng tại thượng nguồn. Sau đó đã theo một nhánh của sông Dư Can (Tín giang) đi về phía nam là nơi có đường đèo để vượt qua Vũ Di sơn đến sông Mân, rồi theo sông này đến Phúc Châu để chinh phục Mân Việt.

Thấy quân Tần tiến sang quá đông đảo, vua Mân Việt bỏ chạy. Vùng này rơi vào tay quân Tần. Quân Tần đã chiếm đóng vùng này tới khi bị Hán diệt. Đạo quân Tần này đã thành công trong việc xâm chiếm Mân Việt và Đông Việt, hai nước này bị đặt là quận Mân Trung, gồm tỉnh Phúc Kiến và phía nam tỉnh Chiết Giang ngày nay.

7.gif

Đạo quân của Nhâm Ngao ở Phiên Ngung: Phỏng đoán là một đạo quân Tần từ vùng hồ Bá Dương, theo sông Cám tiến về phía nam, đến đóng gần Hoành Phổ quan, là Mai quan ngày nay, rồi vượt Đại Du lĩnh để tiến vào Lĩnh Nam. Sau khi vượt ải, đạo quân tiến vào Phiên Ngung bằng một chi nhánh chính của Bắc giang. Quân cũng như lương thảo theo thủy lộ này nhập vào Chu giang đến Phiên Ngung là Quảng Châu ngày nay.

Câu hỏi được đặt ra là tại sao đạo quân Tần chiếm Phiên Ngung không gặp bất cứ trở ngại nào (theo như cổ sử Trung quốc)? Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện có một câu đáng chú ý:
“Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi”.
Nếu căn cứ vào sử liệu này; thì Triệu Đà đã hiện diện ở Lĩnh Nam 49 năm, tức là năm 228 TCN (179 TCN + 49 = 228 TCN), năm nước Triệu bị Tần diệt.

Nếu căn cứ vào sử liệu này thì Triệu Đà đã không theo đám quân Tần tiến vào Lĩnh Nam, vì ông đã ở đây từ trước. Triệu Đà đã đến Lĩnh Nam từ năm 228 TCN khi quân Tần xâm lăng nước Triệu. Khi Nhâm Ngao mang quân đến Phiên Ngung, ông được phong làm huyện lệnh ở Long Xuyên là một trong bảy huyện

Ở quận Nam Hải, đạo quân Tần tiến vào Phiên Ngung đã thành công trong việc xâm lăng. Nhà Tần đặt vùng này làm quận Nam Hải, dưới quyền cai trị của quan úy là Nhâm Ngao. Nhâm Ngao chết, Triệu Đà lên thay thế.

Đạo quân của Đồ Thư tại Nam Dã, Cửu Nghi và Đàm Thành

image008.gif


image008.gif

Ghi chú: Chữ màu đào là các quận được thành lập thời Tần (ngoại trừ Dạ Lang là một nước chưa bị quân Tần chiếm đóng)

Khoảng năm 216 TCN, sau khi đào xong kinh Linh Cừ, đạo quân (khoảng 300 ngàn người) dưới sự lãnh đạo của Lâu thuyền tướng quân là quan Uý Đồ Thư theo Ly giang tiến vào Tây Âu. Khi tiến đến vùng hợp lưu của sáu con sông lớn: nước Tây Âu, các đạo quân này chia quân ngược dòng các thủy đạo thiên nhiên để đánh chiếm đất của người Bách Việt tuy nhiên đã gặp sự chống trả mãnh liệt của người Bách Việt.

7 - Nước Tây Âu

Nước Tây Âu ở đâu? Đã có nhiều giả thuyết nói đến Tây Âu qua các bài viết tham khảo khác nhau, mỗi tác giả có một nhận định khác biệt. Người viết không tìm thấy sử liệu cổ nào (hay chưa!) nói qua về địa lý của nước này cũng như vị lãnh đạo của nước này, ngoại trừ danh xưng Tây Âu được viết trong sách Hoài Nam Tử của Lưu An: “Giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống” và trong Nam Việt Úy Đà liệt truyện: “Cao Hậu mất, liền bãi binh. Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình”

Dân bản địa vùng này là dân tộc Tráng, họ đã định cư tại phía nam Ngũ Lĩnh từ lâu đời, trước thời Xuân Thu bên Trung Quốc. Nơi cư ngụ là những thung lũng của các dòng sông tương đối lớn tại Lĩnh Nam, để có một diện tích canh tác thích hợp. Những hợp lưu chính của Tây giang là những sông Ly giang, Quế giang, Hồng Thủy hà, Liễu giang, Hữu giang, Tả giang và Uất giang. Đây là những nơi cư ngụ của dân tộc Tráng. Do sự định cư tương đối gần nhau, cùng một thể thức canh tác để có thực phẩm chính là lúa và kê, nuôi gia súc và săn bắn, cũng như các thực phẩm phụ thuộc như cá, tôm, nghêu, sò từ các dòng sông. Các bộ tộc người Tráng đã tạo nên một xã hội chung. Từ đây, một thể chế chính trị được thành lập tại vùng này. Đây là nước Tây Âu – vùng hợp lưu của các sông nối với Tây giang – với vị vua tên là Dịch Hu Tống đã được nhắc tới trong cổ sử, mặc dù cương vực của nước Tây Âu chỉ là phỏng đoán.

image010.gif


image010.gif

Dân số Tây Âu khoảng bao nhiêu?

Chúng ta không biết rõ! Tuy nhiên người viết phỏng đoán là dân số Tây Âu khoảng
nửa triệu hay hơn, khi ba đạo quân Tần với nhân số khoảng 300 ngàn người kéo đến.

Cách chiến đấu của người Tây Âu như thế nào?

Khi vừa kéo đến Tây giang, với số quân đông đảo, quân Tần ở thế chủ động, tấn công vào các vùng trung tâm về chính trị của nước Tây Âu, giết vua của người Tráng là Dịch Hu Tống và bắt dân Tráng làm tù binh. Nhưng họ đã ” vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Họ kén chọn người tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần,” (Sách Hoài Nam Tử).

Sau khi đồn trú tại các nơi đã chiếm đóng một thời gian tại Tây Âu, quân Tần đã trở nên bị động, vì những trận phục kích bất ngờ của người Tráng, đặc biệt là về ban đêm. Như sách Hoài Nam Tử đã viết: người Tráng tại Tây Âu đã “đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn (Hán Nôm: đại phá chi, sát úy Đồ Tuy (Nôm: Thư), phục thi lưu huyết số thập vạn.”, đấy là không kể những người chết về bệnh tật.

Quân Tần đã bị “sa lầy” một cách trầm trọng tại Tây Âu như Sử Ký viết: “quân đội trấn giữ ở vùng đất vô dụng, tiến không xong, lui chẳng được. Hơn mười năm trời, nam thì phải mang giáp, nữ thì phải lo vận chuyển, khổ sở khó mà sống (khổ bất liêu sanh”)……

Phía đông của nước Tây Âu, đạo quân Tần do Nhâm Ngao lãnh đạo đã đạt được thắng lợi và đã chiếm đóng vùng này – Phiên Ngung hay Quảng Châu ngày nay.

Phía đông bắc của Lĩnh Nam đã chiếm xong nước Mân Việt và Đông Việt để lập thành quận Mân Trung – Phúc Kiến và phía nam Chiết Giang ngày nay.

Tuy nhiên, về phía nam và tây nam nước Tây Âu, quân Tần đã bị bức trường thành của người bản xứ là dân tộc Tráng ngăn chặn.

Vậy nếu muốn bành trướng thêm lãnh thổ, quân Tần chỉ còn một hướng để tiến quân và chiếm đóng là phía tây và tây bắc của nước Tây Âu. Quân Tần đã làm được việc này. Dù số quân bị chết “cả chục vạn”, các đạo quân Tần vẫn còn “lâu thuyền” để có thể tiến xa thêm về phía tây và tây bắc vì có các thủy đạo thuận lợi và gần như không có sự phản kháng của người bản xứ.

Vùng tây bắc Quảng Tây và nam Quý Châu là vùng rất thưa thớt dân bản địa. Hai sông Nam Bàn giang và Hồng Thủy hà cùng những chi lưu chảy giữa những khe núi khá cao. Hai bên bờ sông không có những bãi đất bồi của phù sa. Tộc Tráng gần như không định cư ở vùng này vì không có đất đai để canh tác. Vì thế quân Tần chiếm đóng vùng này dễ dàng.

Đây là vùng đất mà nhà Tần đặt làm Tượng quận, vùng này ở phía tây bắc tỉnh Quảng Đông và một phần đất phía tây nam tỉnh Quý Châu ngày nay.

8- Nước Âu Lạc

Sử liệu cổ của Việt Nam, An Nam Chí Lược của Lê Tắc cũng như Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên không nhắc đến tên Âu Lạc. Đại Việt Sử Lược của tác giả Khuyết Danh, có nói đến chuyện “An Dương Vương và nhắc đến tên Âu Lạc một lần. Lĩnh Nam Chích Quái nói đến tên Âu Lạc hai lần trong “Truyện rùa vàng”. ĐVSKTT nhắc đến chữ Âu Lạc hai lần.

Cổ sử của Trung Quốc đã nói đến nước Âu Lạc ra sao?

Sử ký của Tư Mã Thiên – Nam Việt Úy Đà liệt truyện đã nhắc tới tên nước Âu Lạc ba lần và chữ “Tây Âu Lạc” một lần.

Chữ Âu Lạc để chỉ nước cổ Việt của dân Lạc Việt thời An Dương Vương (đã có nhiều giả thuyết nói sự hiện hữu của An Dương vương chỉ là truyền thuyết!). Tuy nhiên chữ “Tây Âu Lạc” - được dùng một lần duy nhất trong Sử Ký cũng như Hán Thư (chép lại từ Sử Ký) – đã gây nên nhiều tranh luận. Các học giả Trung Quốc trong bản Hán văn của “Sử Ký Tam gia chú “đã tách ra là ”Tây Âu – Lạc”, là hai nước khác nhau: Tây Âu và Lạc Việt. Hán thư, quyển 95 – Tây Nam di lưỡng Việt Triều Tiên truyện đệ lục thập ngũ cũng đã nói đến Tây Âu – Lạc và Âu Lạc, dù sao chép lại gần như nguyên văn từ Sử Ký. Hán thư, quyển 17, “Công Thần biểu” đệ ngũ cũng đã nhắc đến tên Âu Lạc hai lần.

Vậy nước Âu Lạc đã được nói rõ ràng trong Sử Ký cũng như Hán Thư, tên nước này còn hiện hữu đến thời nhà Hán, dù Âu Lạc đã bị lệ thuộc vào Nam Việt.

Tuy nhiên Sử Ký cũng như Hán Thư nói về nước Âu Lạc, nhưng lại không viết về vua của nước này, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư viết đây là An Dương Vương và đặt riêng làm một “kỷ” cho triều đại này, cũng như nói đến chiến tranh hai lần giữa An Dương Vương và Triệu Đà và cuối cùng Triệu Đà đã chiếm Âu Lạc.

Nhà Tần bị diệt năm 207 TCN (thời Tần Nhị Thế), “Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Triệu Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương” (Sử Ký). Theo như sử liệu này thì Triệu Đà đã chiếm đất của quân Tần đang chiếm đóng là hai quận Quế Lâm và Tượng quận. Tuy nhiên nước Tây Âu chưa bị quân Tần chiếm đóng hoàn toàn (Quân Tần đã không chiếm đóng được vùng hợp lưu của Tây giang trở về phía nam tới biển Nam Hải). Sử liệu không nói đến việc Triệu Đà đánh chiếm phần còn lại của nước Tây Âu.
Vậy nếu theo cách tách chữ “Tây Âu – Lạc” của “Sử Ký tam gia chú” thì Tây Âu và Lạc Việt không có chiến tranh với Nam Việt. Tây Âu và Lạc Việt chỉ “lệ thuộc” vào Nam Việt bằng đường lối “ngoại giao” và Âu Lạc vẫn còn tên cho đến thời tiền Hán.

Nhưng Sử Ký cũng viết: ” Thái sử công nói: … Đà càng được thể kiêu căng. Âu Lạc đánh nhau làm rung động nước Nam Việt”. Câu “Âu Lạc đánh nhau”
Thì Âu Lạc đã có chiến tranh, nhưng với nước nào?
Chiến tranh Âu Lạc - Tây Âu tại sao lại có thể làm “rung động nước Nam Việt”! Ngoại trừ Âu Lạc và Nam Việt có chiến tranh?

Khó có thể nói là Tư Mã Thiên đã không biết về nước Tây Âu trong khi ông đã viết trong Sử Ký, quyển 112 “Bình Tân hầu Chủ Phụ liệt truyện đệ ngũ thập nhị”:
“….Mất nhiều ngày chờ đợi, lương thực bị hết, rồi bị người (Bách) Việt phản công, quân Tần thua trận….” .
Trong khi đó lại nhắc đến tên Âu Lạc ba lần.

Mặc dù như vậy, tên Âu Lạc vẫn còn tồn tại, Sử Ký và Hán Thư nhắc đến lúc cuối thời nhà Triệu và đầu đời tây Hán. Vậy sử liệu đã nói rõ về sự tồn tại của nước Âu Lạc sau thời Tần (207 TCN), và quân Tần không chiếm đóng Cổ Việt (nước Âu Lạc).

Vua nước Âu Lạc là An Dương Vương?

Có nước Âu Lạc thì Âu Lạc phải có vua, hay một người lãnh đạo. Tuy nhiên không thấy Sử Ký và Hán Thư là những bộ sách cổ nhất của Trung Quốc nói đến vị vua này, khi viết về nước Âu Lạc. Lĩnh Nam Chích Quái đã nhiều lần nói đến An Dương Vương trong truyện “Lý Ông Trọng”, “Thần Kim Quy” v. v….

ĐVSKTT có nguyên một kỷ là “Kỷ Nhà Thục 257 TCN – 207 TCN” để nói vị vua này. Tuy nhiên, nhiều giả thuyết nói đây chỉ là truyền thuyết và không có thật. Vì những tài liệu này được viết từ thế kỷ 13 hay sau đó!

Dù Sử Ký hay Hán Thư không nói về An Dương Vương, nhưng sách Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên (năm 466 hoặc 472-527) đã ghi lại các câu viết (107) của “Giao Châu Ngoại Vực ký” và “Tấn Thái Khang chí” liên quan đến tên An Dương Vương (9 lần)”.

Sách “Thủy Kinh Chú sớ”, học giả Dương Thủ Kính đưa ra những dẫn chứng: “Thủ Kính chú: theo “Quảng Châu ký” An Dương Vương đóng đô ở huyện Phong Khê, cho nên họ Lịch dẫn “Giao Châu ngoại vực ký” ở chỗ này”. Qua những cổ thư được học giả Dương Thủ Kính tham khảo, chúng ta thấy có một điểm chung là An Dương Vương đóng đô ở Giao Chỉ (thuộc nước Âu Lạc). Vậy vua của Âu Lạc có thật trong lịch sử chứ không phải là truyền thuyết.

Ngoài ra, sách “The Birth of Vietnam”, trang 316, Appendix F, “The Legend of the Turtle Claw” của tác giả Keith Taylor cũng đã nêu ra tên bốn tài liệu nói về An Dương Vương:

“Nhật Nam truyện”,
“Tấn Thái Khang địa chí”,
“Tấn Lưu Hân Kỳ Giao Châu ký” và
“Giao Châu Ngoại Vực ký”

Như học giả Dương Thủ Kính đã nói đến.

An Dương Vương là ai? Từ đâu tới?

Người viết xin dời lại vấn đề, vì đây là một đề tài rất phức tạp. Trong phạm vi bài viết, chỉ xin trích dẫn những sử liệu cổ nói đến tên ông để có thể dẫn chứng là: Nước Âu Lạc hay cổ Việt đã không bị quân Tần chiếm đóng. Vua nước Âu Lạc là An Dương Vương.
Nước Âu Lạc đã có chiến tranh với nước Nam Việt, thất trận và nước Âu Lạc bị “lệ thuộc” vào nước Nam Việt như một nước chư hầu.

Phải hiểu là nhà Tần (của Triệu Đà) đã dùng người Bách Việt/Nam Việt đánh người Bách Việt/Âu Lạc có nhà Tần chống lưng (giúp vũ khí và lương thực trong khi Triệu Đà dùng chính sách di dân, cho người nước Tần di dân tới nước Nam Việt để quân bình dân số với dân nước Nam Việt/Lưỡng Quảng).

Các quận thuộc Lĩnh Nam thời Tần / Hán Dạ Lang và Tây Âu trong hình bầu dục (ellipse) chưa bị quân Tần xâm chiếm hoàn toàn, vẫn còn hiện hữu đến thời Tiền Hán.

Ghi chú: Màu xanh (lá cây) là các quận thời Tần (214 TCN), màu nâu là các quận thời Tiền Hán. Dạ Lang và Tây Âu trong hình bầu dục (ellipse) chưa bị quân Tần xâm chiếm hoàn toàn, vẫn còn hiện hữu đến thời Tiền Hán.

Nhìn lại về vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận

Như đã trình bày trong phần đầu của bài viết, vấn đề Giao Chỉ và Tượng quận được đặt ra vì câu viết trong Hán Thư của Ban Cố: “Hán Thư, quyển 28 “Địa lý chí đệ bát hạ” viết về quận Nhật Nam như sau: “Quận Nhật Nam, là Tượng Quận cũ thời Tần….. Thuộc Giao Châu”. Từ câu viết này, các sử gia đời sau, đặc biệt là các sử gia và học giả của Trung Quốc, cho là quận Nhật Nam ở phía cực nam của Cổ Việt (nước Âu Lạc thời An Dương Vương) thuộc về Tượng quận, nếu thế thì hai quận phía bắc của quận này là Giao Chỉ và Cửu Chân cũng thuộc Tượng quận?

Đây là một sử liệu mâu thuẫn trong Hán Thư, vì câu viết này ngược lại với các sử liệu khác cùng trong một bộ sách. Hán Thư, quyển 7 “Thiệu Đế kỷ đệ thất” viết về việc bãi bỏ Tượng quận và chia quận này làm hai, sát nhập vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha: “Mùa thu, bãì bỏ Tượng Quận, chia và sát nhập vào Uất Lâm, Tường Kha”. Thời Tiền
Hán, Uất Lâm nằm phía bắc Quảng Tây (ngày nay) và Tường Kha ở phía nam Quý Châu (ngày nay).

9- Kết luận

Qua những điều đã trình bày đặt căn bản trên sử liệu, người viết xin tóm tắt về việc quân Tần xâm chiếm Lĩnh Nam như sau:

Năm 221 TCN, Tần vương Doanh Chính hoàn tất việc gom thâu sáu nước là Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề, kết thúc thời Chiến Quốc và dựng nên một đế quốc thống nhất. Để tự vinh danh, Tần vương xưng là (Tần) Thủy Hoàng Đế. Dù đã gồm thâu sáu nước, Thủy Hoàng vẫn không ngừng tham vọng mở rộng thêm lãnh thổ cho đế quốc của mình. Phía bắc thì đánh Hung Nô, phía nam thì xâm lăng Bách Việt.

Để đánh chiếm Bách Việt, nhà Tần huy động một đoàn quân khổng lồ là 500 ngàn người, gồm có các lính của nhà Tần, các kẻ bị ép buộc tòng quân và lao dịch (gồm những người trốn tránh, những kẻ đi ở rể, những người đi buôn) vào xâm chiếm đất Bách Việt. Đoàn quân này chia làm năm đạo:

• Một đạo quân đến đóng ở Dư Can trên Vũ Di sơn, sau đó vượt rặng núi này để tiến chiếm Mân Việt và Đông Âu.
Đạo quân này đã không gặp trở ngại nào đáng kể, nên đã chiếm đóng vùng này, đặt là quận Mân Trung – phía nam tỉnh Chiết Giang và tỉnh Phúc Kiến ngày nay.

• Một đạo quân khác do Nhâm Ngao lãnh đạo đã vượt Ngũ Lĩnh tiến thẳng đến Phiên Ngung.
Chiếm đóng vùng này và đặt là quận Nam Hải – tỉnh Quảng Đông ngày nay.

• Ba đạo quân còn lại do quan úy Đồ Thư làm Lâu thuyền tướng quân lãnh đạo, đến đồn trú tại các địa điểm trên Ngũ Lĩnh, như:
– Đàm Thành,
– Cửu Nghi và
– Nam Dã.

Sau đó vượt Ngũ Lĩnh đánh chiếm vùng đất kế bên phía nam Ngũ Lĩnh, đặt vùng này là quận Quế Lâm – phía bắc tỉnh Quảng Tây ngày nay.

Để có thể có đủ lượng thực và tiếp liệu cho một cuộc viễn chinh lâu dài, các đạo quân đóng tại quận mới chiếm là Quế Lâm đã đào kinh Linh Cừ nối thượng nguồn của Tương giang với Ly giang, dưới sự điều hành và giám sát của Sử Lộc. Nhờ có thủy đạo này, tiếp vận có thể chuyển từ phía bắc đến phía nam của Ngũ Lĩnh. Khi có lương thực tiếp tế, các đạo quân của Đồ Thư lãnh tiến đánh dân Bách Việt ở phía nam là nước Tây Âu, bắt dân bản địa làm tù binh, sát hại vua nước này là Dịch Hu Tống.

Dù tạm được lợi thế ban đầu, nhưng sau đó quân Tần đã gặp sự chống trả mãnh liệt của dân Tây Âu. Quân Tần không đủ nhân lực để chống cự trong những trận chiến lớn, dân bản địa đã dùng du kích chiến, và chiến cuộc trở nên lâu dài, Đồ Thư bị giết, nhân mạng quân Tần bị tổn thất nặng nề, cả trăm ngàn.


Người bị tử thương cũng như bị chết vì bệnh tật. Quân Tần đã không tiến xa hơn được về phía nam, nên đã theo những thủy đạo thiên nhiên, tiến về phía tây, xâm chiếm vùng này, đặt vùng này là Tượng quận – phía nam tỉnh Quý Châu và phía tây bắc tỉnh Quảng tây ngày nay.

Từ những dẫn chứng bằng sử liệu cũng như tìm hiểu về chỗ đóng quân và đường hành quân của quân Tần, người viết đi đến kết luận là -- quân Tần chưa hề đánh vào Giao Chỉ, chứ chưa nói đến phần đất xa hơn về phía nam là Cửu Chân và Nhật Nam. Nước Âu Lạc hay cổ Việt thời vua An Dương không hề bị quân Tần xâm chiếm; vì thế, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam không phải là Tượng quận thời Tần.

Nhà Tần thâu tóm sáu nước. Các sử gia và học giả Trung Quốc muốn Cổ Việt (Âu Lạc) cũng là một phần đất của hoàng đế nhà Tần, nhưng quân Tần đã không làm được điều này. Lạc Việt vẫn còn đó. Vùng đất phía nam của dân Lạc Việt là cái gai trong mắt của Trung Quốc, không xâm chiếm được bằng quân lực thì “vơ lấy” bằng văn hóa, lợi dụng mâu thuẫn của sử liệu để ngụy tạo. Bao nhiêu tộc Việt thuộc Bách Việt đã bị Hán hóa? Còn lại duy nhất là Lạc Việt chưa bị Hán hóa Cũng là đích nhắm: Hán hóa vùng đất Lạc Việt này. Đây là một âm mưu truyền kiếp của Hán tộc!

Nam California,
Ngày 23, tháng 6, năm 2007


Tham Khảo

– Đại Việt Sử Lược, soạn giả: Khuyết danh, dịch giả: Nguyễn Gia Tường, 1972. Ấn bản điện tử: Công Đệ, Lê Bắc.
– Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, bản in Nội các quan bản, mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697). Nhà xuất bản Khoa
Học Xã Hội, Hà Nội 1998.
– Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn soạn thảo (1856-1881). Viện Sử Học dịch
(1957-1960). Nhà xuất bản Giáo Dục (Hà Nội) ấn hành 1998.
– An Nam Chí Lược, Lê Tắc, dịch giả: Ủy ban dịch sử liệu Việt Nam, nhà xuất bản: Viện Đại Học Huế, ấn bản điện tử:
Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.
– Việt Điện U Linh tập của Lý Tế Xuyên, bản dịch của Lê Hữu Mục, cơ sở xuất bản Đại Nam
– Lĩnh Nam Chích Quái của Trần Thế Pháp, nguồn từ Internet: http://www.dunglac.net/thuvien/linhnam-00-ml.htm
- Vân Đài Loại Ngữ của Lê Quí Đôn do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải, xuất bản bởi nhà sách Tự Lực.
– Phương Đình Địa Dư chí của Nguyễn Văn Siêu, nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin.
– Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn, nhà xuất bản Thuận Hóa.
– Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim - Nhà xuất bản Văn Hóa Thông Tin-1999.
– Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam.
– Việt Sử Toàn thư- Phạm Văn Sơn-Nhà xuất bản Đại Nam
– Đại Việt Sử Ký Tiền Biên, Ngô Thời Sỹ, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội 1997.
– Việt Sử Tiêu Án, Ngô Thời Sỹ, dịch giả: Hội Việt nam ngiên cứu liên lạc văn hóa Á Châu, nhà xuất bản Văn Sử. Ấn bản
điện tử: Công Đệ, Doãn Vượng, Lê Bắc.
– Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt 1971, được in lại bởi nhà xuất bản Xuân Thu, Los Alamitos California
– Đại Việt Sử Cương của Trần Gia Phụng, Nhà xuất bản Non Nước, Toronto 2004
– Sử Trung Quốc của Nguyễn Hiến Lê, nguồn từ Internet: http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?
tid=2qtqv3m3237n2n1n4nqn31n343tq83a3q3m3237nvn
– Lịch Sử Trung Quốc 5000 năm của Lâm Hán Đạt và Tào Dự Chương, dịch giả Trần Ngọc Thuận, nhà xuất bản Trẻ.
– Hoài Nam Tử của Lưu An,nguồn từ Internet: http://www.geocities.com/fengshui_clasicos/HuaiNanZi.html
– Sử Ký của Tư Mã Thiên, nguồn từ Internet: http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
– Hán Thư của Ban Cố, nguồn từ Internet http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
– Hậu Hán Thư của Phạm Việp, nguồn từ Internet http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
– Tấn Thư, nguồn từ Internet http://www.chinapage.com/big5/big5-history.html
– Thủy Kinh chú của Lịch Đạo Nguyên, nguồn từ Internet: http://www.workgroup.cn/dir.aspx?45
– Thủy Kinh Chú Sớ của Dương Thủ Kính và Hùng Hội Trinh, dịch giả Nguyễn Bá Mão, nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005
– Từ Điển Văn Học Cổ Điển Trung Quốc, Nguyễn Tôn Nhan sưu tập tư liệu và biên dịch, nhà xuất bản Văn Nghệ
– The Birth of Vietnam của Keith Weller Taylor, Unversity of California Press
– Tigers, Rice, Silk & Silt của Robert B. Marks, Cambridge University Press
– Các bài viết của Dr. Rafe de Crespigny, Faculty of Asian Studies, Australian National University trong http://www.anu.
edu.au/asianstudies/decrespigny/south_china.html
– Các bài viết trong http://www.chinaknowledge.de/History/Myth/prehistory-map.html
– The Atlas of China Knowledge, Xi’aqn Cartographic Publising House, SinoMaps press in 2002
– Historical Atlas of South-East Asia của Jan M. Pluvier, nhà xuất bản E.J.Brill, Netherland 1995
– The Zhuang: A Longitudinal Study of Their History and Their Culture by Jeffrey Barlow,
http://mcel.pacificu.edu/as/resources/zhuang/index.html
– Bản đồ từ các bài viết của Dr. Rafe de Crespigny, Faculty of Asian Studies, Australian National

Giao Chỉ và Tượng quận – Phụ chú:

Đọc “Tần Hán Tượng quận biện tích” của học giả Lý Long Chương- Trần Việt Bắc

Tượng quận tọa lạc tại đâu theo ông Lý Long Chương? Học giả họ Lý đã tham khảo rất nhiều để dẫn chứng cũng như phản biện. Bài viết này đã nêu lên đầy đủ những tài liệu cổ, giúp cho sự biện luận của ông, để đưa ra kết luận về nơi toạ lạc của Tượng quận thời Tần theo địa lý ngày nay.

Trong phần mở đầu, học giả họ Lý đã nêu lên nguồn gốc của sự tranh luận từ câu viết trong Hán thư, Địa lý chí: “cố Tần Tượng quận, Vũ đế Nguyên Đỉnh lục niên (111BC) khai”

Trong phần hai, ông Lý đưa ra những tài liệu đã gây nên vấn đề mâu thuẫn trong sử liệu, mà ông gọi là “Thuyết Nhật Nam”

Sau khi đã nêu lên những sai lầm trong “thuyết Nhật Nam”, trong phần 3 ông Lý đưa ra “Thuyết Uất Lâm” để phản biện, cũng như những chứng minh bằng dẫn giải.

Trong những đề mục trên, họ Lý đã đưa ra những dẫn chứng từ sách địa lý thời cổ là “Sơn Hải kinh”, sách này đã viết về Tượng quận (mục 1 và 2). Sau đó ông đưa ra mâu thuẫn để phản biện. Vị trí của Tượng quận theo kết luận của ông Lý được vẽ lại theo những địa danh nêu trên trong bản đồ dưới đây:

image014

Vậy theo như ông Lý Long Chương thì Tượng quận không bao gồm phần đất nào của Giao Chỉ, như Ban Cố đã viết lầm về quận Nhật Nam: “cố Tần Tượng quận, Vũ đế Nguyện Đỉnh lục niên khai (111BC) khai”.

Vì không có nhiều tài liệu cổ cũng như không đọc được Hán văn trực tiếp, mà chỉ có thể đọc được bản chuyển âm Hán Việt (qua HannoConv 1.0) với tự điển của Thiều Chửu, nên người viết đã phải dùng cách khác, là theo đường tiến quân của quân Tần, tìm hiểu những nơi đội quân này đã chiếm đóng để truy cập vị trí của Tượng quận.

Mặc dù là cách tìm hiểu khác nhau, nhưng đã đi đến kết luận tương đương về vị trí của quận Tượng, đã được nói tới trong bài viết “Giao Chỉ và Tượng quận” như sau:

    “Từ những dẫn chứng bằng sử liệu cũng như tìm hiểu về chỗ đóng quân và đường hành quân của quân Tần, người viết đi đến kết luận là: Quân Tần chưa hề đánh vào Giao Chỉ, chứ chưa nói đến phần đất xa hơn về phía nam là Cửu Chân và Nhật Nam.

    Nước Âu Lạc hay cổ Việt thời vua An Dương không hề bị quân Tần xâm chiếm, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam không phải là Tượng quận thời Tần”.


Nguồn bài đăng

 

6 thoughts on “Giao Chỉ và Tượng Quận

  1. Xin jới thiệu với tác jả blog của nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Nhật (NQN) để bổ sung fản biện với nghiên cứu của tác jả:
    https://huvi.wordpress.com/category/su%CC%89-hung-vie%CC%A3t/

    Xin nói thêm về jả thuyết của mình về Tượng wận ở đâu, thì theo chính là ở Vân Nam. Còn dấu tích của của tên Tượng wận chính là dòng Lan Thương, xin đừng hiểu “lan thương” theo nghĩa Hán, hãy dùng cách fát âm Lạn-xạng theo tiếng Thái – Lào (vốn là chủ nhân của tên Lan Thương kia) có nghĩa là Vạn Tượng. Mà theo cổ dịch (dịch học) thì “tượng, tịnh”, “khương, khang” là những từ ngữ định nghĩa fương “Tây”. Sông Mê-Kông hay Mễ Khương hiểu nôm na tiếng ta là 'sông cái Tây'. Vạn Tượng vốn chỉ hàm nghĩa là 'vạn voi', 'triệu voi' nhưng chính nghĩa là "vùng đất Tây núi non trùng điệp", theo xưa thì fương Tây vốn là vùng nhiều núi.

  2. Tượng quận nằm ở đâu? Vấn đề này tưởng khó nhưng lại không.

    Hán thư chép: Năm thứ 5 niên hiệu Nguyên Phượng thời Hán Chiêu Đế (76 TCN), quận Tượng bị bãi bỏ, chia cắt vào hai quận Uất Lâm và Tường Kha”.
    Quận Uất Lâm thuộc Quảng Tây, quận Tường Kha ở phía tây Uất Lâm và gồm một phần Quý Châu. Như vậy quận Tượng cũ của nhà Tần (bị bỏ thời Hán) là ở phía tây Quảng Tây và một phần Quý Châu.

    Trị sở của quận Tượng, theo Mậu Lăng Thư do Hán thư dẫn tại phần chú, là đất Lâm Trần ở phía tây Nam Ninh, thuộc huyện Tân Dương, tỉnh Quảng Tây.

    Như vậy đã rõ, Tượng quận là vùng đất nằm giữa hai quận Uất Lâm và Tường Kha, tức nằm trong tỉnh Quảng Tây ngày nay.

    Thế thì tại sao Ban Cố lại chép: Nhật Nam cố Tần Tượng quận? Có mâu thuẫn rất lớn với đoạn chép cũng của chính ông ở trên kia chăng?

    Thật ra thì không hề mâu thuẫn. Trước khi đưa quân xâm chiếm Bách Việt thì thông qua bọn lái buôn, nhà Tần đã biết vùng đất có nhiều voi rừng (Hoài Nam tử – Nhân gian huấn chép: Nhà Tần lại ham sừng tê, ngà voi, ngọc trai… nên phát binh xâm lược Bách Việt). Trong tâm thức của nhà Tần thì vùng đất mà họ gọi là Tượng quận gồm tỉnh Quảng Tây, Bắc và Bắc Trung Việt, có thể gồm một phần của Lào và Vân Nam ngày nay nữa và họ đã gồm cả những vùng đất ấy thành một quận (quận khống, chưa chiếm được) gọi là Tượng Quận. Nhưng thực tế khi Đồ Thư tiến quân xâm lược Bách Việt đã bị chặn lại bởi nước Tây Âu ở phía nam Quảng Tây và không chiếm được hết phần đất họ mong muốn. Dù vậy, họ vẫn gọi phần đất mới chiếm được ấy là Tượng quận và cố thủ, chờ viện binh để tiến tiếp.

    Nếu năm 210 TCN, Thủy Hoàng không mất thì có lẽ nhà Tần sẽ tiếp tục hành quân xuống phương Nam và sẽ có một Tượng quận như những gì họ đã vẽ ra trước cuộc xâm lược.
    Tóm lại: Tượng quận gồm có hai phần:
    1 - Phần do nhà Tần vẽ ra trước cuộc xâm lược và
    2 - phần thực tế chiếm được sau khi xâm lược.

    Phần nhà Tần vẽ ra trước khi xâm lược Bách Việt gồm cả quận Nhật Nam thời Hán, nhưng phần thực tế nhà Tần chiếm được thì chỉ giới hạn đến phía Nam tỉnh Quảng Tây ngày nay mà thôi.



No comments:

Post a Comment