Thursday, June 18, 2015

Tượng Đài "Thương Tiếc"

 



Tượng Đài "Thương Tiếc"




Nghĩa Trang Quân Đội tọa lạc trên một đồi cao nên từ ngã tư xa lộ Sài Gòn--Biên Hòa và lối vào Thủ Đức, mọi người có thể nhìn thấy. Ngay từ lối vào, sừng sững bức tượng quân nhân trẻ tuổi, ngồi nghỉ, vai đeo ba lô, đầu đội nón sắt, tay cầm khẩu Garand M1 để trên đùi. Đó là tác phẩm điêu khắc "THƯƠNG TIẾC” của Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu.

Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thu, cấp bậc Đại Úy, phục vụ Tại Cục Chiến Tranh Chính Trị, là người lãnh trách nhiệm thực hiện tượng đài kỷ niệm “THƯƠNG TIẾC” cho Nghĩa Trang Quân Đội. Mới đầu nghệ Sĩ Thu tốn biết bao tháng ngày phác họa trên mô hình, trên giấy và thạch cao những “mẫu” Tượng Đài nhưng vẫn chưa hài lòng tác phẩm nào cả.

Tình cờ một hôm, Đại Úy Thu đến thăm bạn ở Tiểu Đoàn III Nhảy Dù. (Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Trần Quốc Lịch, Tiểu Đoàn Phó, Nhiếp Ảnh Gia Nguyễn Ngọc Hạnh). Bạn Thu cư ngụ trong doanh trại ở Ngã Tư Bảy Hiền Sài Gòn (Sau này là Bệnh Viện Vì Dân). Nhưng trước khi vô nhà bạn, Thu ghé vào quán giải khát trước cổng, Lúc vào quán Đại Úy Thu chú ý một Hạ Sĩ Nhảy Dù đang ngồi nhậu La De (bia). Trên bàn chỉ một mình anh nhưng có hai ly bia đầy đối nhau. Mỗi khi cầm ly bia lên, anh Hạ Sĩ Nhảy Dù vẫn không quên cụng ly bia đối diện và nói:

- Uống đi mày, uống đi mày…

Tiếng cụng ly, lời mời vẫn đều đặn theo nhịp uống của anh ta. Thoạt đầu, Đại Úy Thu nghĩ là anh này đã say nên không kềm chế được hành động, nhưng nhìn xung quanh chẳng ai thắc mắc thái độ lạ lùng đó, có lẽ họ đã hiểu tâm sự của anh.

Anh Hạ Sĩ lại tiếp tục, tay cụng ly, miệng nói:

- Uống đi mày…

Ông Thu hiếu kỳ, nhìn nét mặt buồn, đau xót vời vợi của anh Hạ Sĩ. Ông hỏi chủ quán sự tình rồi đến bàn anh để biết chi tiết hơn. Anh Hạ Sĩ điềm tĩnh trả lời:

- Trình Đại Úy, tôi và người bạn ở Vùng 4, rủ nhau gia nhập binh chủng Nhảy Dù cùng một ngày. Sau thời gian huấn luyện, cả hai về Tiểu Đoàn III. Nay… người bạn thân đã chết ở trận địa…

Nói tới đây anh Hạ Sĩ nghẹn ngào. Ngưng lại một lúc như để cho cơn xúc động lắng xuống, anh lại nâng ly, cụng vào ly bên kia và miệng lại nói:

- Uống đi mày… Có Đại Úy đang uống với tao đây.

Sau đó anh nói tiếp:

- Từ ngày bạn tôi mất tôi rất buồn, khi ra đi có nhau, nay còn một, đôi lúc tôi muốn đào ngũ về quê, nhưng về quê tôi cũng không tìm lại được nó nữa, ở đâu tôi còn tìm thấy hình bóng của nó?

Người Hạ Sĩ Nhảy Dù buồn vời vợi và tình bạn thắm thiết của anh đã gây cho Nghệ Sĩ Thu một xúc động tràn ngập, vô bờ. Từ giao cảm thiên thu đó, nhà điêu khắc xin phép Tiểu Đoàn Trưởng cho biệt phái anh Hạ Sĩ làm người mẫu để ông hoàn thành bức tượng đài kỷ niệm. Bức tượng “THƯƠNG TIẾC” được hoàn thành đầu tiên bằng xi-măng.

Sau đó, anh Hạ Sĩ Nhảy Dù trở về đơn vị, và trong một trận chiến quyết liệt ở Tam Quan, Bồng Sơn, anh đã hy sinh trên trận địa để sang bên kia thế giới với người bạn cố tri ngày nào. Anh Hạ Sĩ sầu vời vợi vĩnh viễn ra đi, nhưng hình ảnh còn ghi mãi mãi trong lòng chúng ta.

Nguồn

 



Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương

Sáng tác: Trần Duy Đức

Ngoài trời vẫn còn mưa,
Người nằm dưới mộ sâu,
Ôi thiên thu phôi phai hình hài,
Hỡi người ơi tủi lòng,
Hỡi người ơi tủi lòng...
Bao năm tháng cô đơn nằm đây,
Bên bia xanh ai qua từng ngày,
Cơn mưa xuống nuôi xanh cỏ hoang,
Trên quê hương xương khô mộ gầy.
Đã ngủ yên một ngày,
Anh đã ngủ yên một đời.

Ngoài trời vẫn còn mưa,
Người nằm Dưới mộ sâu,
Trong âm u thương thay phận người,
Hỡi người ơi tủi lòng,
Hỡi người ơi tủi lòng...
Anh có biết quê hương giờ đây,
Đang điêu linh tang thương từng ngày.
Anh có biết anh em giờ đây,
Đang lao lưng mang thân tù đầy.
Sống lầm than nhọc nhằn,
Ôi sống lầm than nhọc nhằn.

Ngoài trời mưa chưa kịp tạnh,
Người nằm im trong huyệt lạnh,
Buổi chiều mưa chưa kịp tạnh,
Lòng nào chưa nguôi hờn căm?
Lạy trời cho mưa kịp tạnh,
Để người vơi cơn hận sầu,
Nguôi ngoai hận sầu.

Ngoài trời vẫn còn mưa,
Người nằm vẫn nằm đây,
Nơi hoang vu u linh nghẹn ngào,
Hỡi người ơi tủi lòng,
Hỡi người ơi tủi lòng.
Tôi đã khóc cho anh chiều nay,
Trong cơn mưa, mưa rơi lạnh đầy,
Ai sẽ khóc cho anh ngày mai?
Dâng hai tay tôi xin nguyện cầu,
Dẫu niềm tin phụ người...
Ôi dẫu niềm tin phụ người.


 



Đọc thêm: Tượng Đài "Thương Tiếc"
http://caybut2.blogspot.com/2016/04/tiec-thuong.html

 

Đọc thêm: NHỮNG CÂU CHUYỆN VỀ BỨC TƯỢNG “THƯƠNG TIẾC”
https://caybut2.blogspot.com/2016/04/tiec-thuong.html

 

Bức Tượng Thương Tiếc - Thơ Nhạc Cho Anh
https://caybut2.blogspot.com/2016/12/buc-tuong-thuong-tiec.html

 

Thursday, June 4, 2015

ƯỚC VỌNG CỦA TÔI Hồi Ký Người Nhái

 

 

ƯỚC VỌNG CỦA TÔI

Hồi Ký Người Nhái

huy-hieu-lien-doan-nguoi-nhai-4


NN Lê Đình An

Vào năm 1950, khi tôi vừa được 10 tuổi, tôi thấy một hình vẽ trong tạp chí ngoại quốc: hình vẽ một tổ Người Ếch (vì lúc đó chưa có Người Nhái) lặn xuống biển và đang đặt chất nổ để phá hủy trái Thủy Lôi. Hình ảnh trầm hùng đó đã in sâu vào ký ức của tôi mãi mãi….

Hoàn cảnh gia đình của tôi từ nhỏ lúc tôi vừa tám tuổi đã mất cha. Vì thời buổi chiến tranh, người anh của tôi cũng như bao nhiêu thanh niên cùng lứa tuổi đã vào bưng biền kháng chiến chống Pháp từ năm 1945, cho đến năm 1948. Một đêm bão bùng mưa gió đã phủ xuống gia đình tôi. Đêm đó có vài người mặc đồ đen đến gõ cửa nhà tôi và bắt Ba của tôi đem đi. Và mãi mãi ba tôi không còn trở về nữa. Má của tôi đi tìm kiếm thăm hỏi tin tức của ba tôi. Sau mấy tháng trời, má của tôi mới biết được tin ba và anh của tôi đã bị bọn Cộng Sản đem đi thủ tiêu với lý do ba và anh tôi là tín đồ đạo Cao Đài.

Gia đình tôi còn lại bốn anh em. Người Anh lớn đã có gia đình rồi nên ở riêng. Nhà của tôi ở tại làng Xuân Hiệp chỉ cách quận lỵ Thủ Đức khoảng 3 cây số, nơi đây có dòng suối Xuân Trường uốn mình chảy ngang qua ngôi đình làng và xuyên qua Quốc Lộ 1 xuôi về hạ nguồn ngang qua trước nhà của đại văn hào Nguyễn Văn Vĩnh. Lúc đó vùng này đã trở thành vùng mất an ninh, má của tôi đành phải rời xa đất đai, đem ba anh em tôi ra chợ Thủ Đức để lo buôn bán tảo tần kiếm sống nhưng vẫn không đủ ăn. Người anh kế tôi mới có 12 tuổi, may mắn được người quen giới thiệu vào giúp việc cho một quán cà phê. Ông chủ quán cà phê thấy anh tôi siêng năng chịu khó làm việc nên tôi cũng được ông chủ cho vào làm luôn trong tiệm của ông. Hai anh em tôi cố gắng đi làm để giúp cho đứa em nhỏ có đủ phương tiện học hành (Sau này em tôi Lê Đình Thành, tốt nghiệp kỹ sư trường Kỹ Thuật Phú Thọ và là giáo sư trường Kỹ Thuật Cao Thắng), còn tôi và anh tôi thì chỉ đi học tư trong những giờ thích hợp.

oOo

Lúc thơ ấu tôi rất ngưỡng mộ các vị danh tướng trong lịch sử Việt Nam như Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Văn Duyệt, v. v... như kim chỉ nam cho cuộc đời. Do đó tôi rất mong muốn được học võ nghệ, và cũng mong sau này có dịp đóng góp được phần nào cho quê hương như câu Quốc Gia hưng vong, thất phu hữu trách.

Tôi nhập môn Võ Lâm Tân Khánh

Qua sự giới thiệu của ông Ngoại tôi với vị võ sư Nguyễn Văn Đại là Cậu bà con bên ngoại nên tôi và người anh kế của tôi được võ sư nhận làm đệ tử sau buổi lễ bái sư.

Vì hoàn cảnh khó khăn của thời điểm 1950 Quân đội Pháp bị kháng chiến quân Việt Minh tấn công khắp nơi. Chúng ra lệnh cấm không cho dân chúng tập võ. Võ sư phải lén dạy võ cho thanh niên trong làng chia ra nhiều nơi nhiều nhóm. Vì vậy hai anh em chúng tôi chỉ học võ trong những đêm có trăng còn những đêm trăng mọc trễ thì đốt đèn dầu. Trung bình học được khoảng 15 ngày trong một tháng.

Anh tôi Lê Đình Trị sanh năm 1937 lớn hơn tôi ba tuổi, hai anh em tôi đều rất say mê võ thuật, về sức khỏe mặc dầu là tôi nhỏ tuổi hơn nhưng không chênh lệch bao nhiêu so với anh tôi. Những đêm học võ, chúng tôi cỡi xe đạp chở nhau từ nhà ở tại chợ Thủ Đức vào làng Bình Phú nơi nhà Thầy khoảng 3 cây số đường làng và học võ từ 6 giờ chiều cho đến 11 giờ đêm chúng tôi mới chở nhau về bằng xe đạp. Phương pháp huấn luyện là 2 giờ đầu học tập đường thảo (Bài quyền) giờ còn lại là tập song đấu, mỗi đầu giờ được nghỉ giải lao khoảng 10 phút. Với bản tánh say mê và háo thắng của tôi trong lúc tập song đấu đã thường làm cho anh tôi bị trúng đòn hơi nặng, có lúc thầy tôi phải cho ngưng đấu để anh tôi uống giấm pha đường cho đỡ đau.

Một cuộc khảo sát bất ngờ của thầy.

Sau hai tuần trăng (2 tháng) chúng tôi mới học vỡ lòng bài quyền Đồng Nhi. Hôm nay chúng tôi vừa vào đến nhà thầy, ông gọi hai anh em tôi đến gần và nói:

- “Hôm nay hai đứa bây theo Cậu đến chỗ này.”

Rồi ông dẫn anh em tôi đi theo bờ ruộng mía quanh co khoảng 1 cây số thì đến một căn nhà bỏ hoang giữa ruộng mía. Khi bước vào trong căn nhà, tôi nhìn thấy tranh tối tranh sáng khoảng hai ba chục người ngồi xung quanh một ngọn đèn dầu. Khi thấy ba thầy trò tôi vào tất cả đều đứng lên cúi đầu chào vị võ sư, ông ra dấu cho tất cả ngồi xuống rồi ông chậm rãi giới thiệu anh em tôi là học trò nhỏ nhất mới nhập môn với tất cả mọi người và cũng giới thiệu tên của những sư huynh của chúng tôi. Lúc đó tôi hồi hộp quá nên không còn nhớ rõ tên các người đó chỉ nhớ có một tên người trưởng tràng là Nguyễn Văn Hương 18 tuổi, vì tôi được nghe thầy thường khen anh Hương là giỏi nhất trong tất cả các võ sinh của ông, trong thâm tâm anh em tôi đều ái mộ nên nhớ rất rõ và cũng rất mong có ngày được gặp anh Hương. Với dáng điệu trầm hùng võ sư Đại ra lệnh:

- “Hương bước ra!”
Anh Hương lên tiếng “dạ” rồi bước ra giữa khoảng trống.

Võ sư Đại ra lệnh tiếp:

- “An bước ra!”


Tôi giật mình vì bất ngờ. Hơi chần chờ, Võ sư Đại nhắc lại:
- “An bước ra!”.

Tôi “dạ” rồi bước ra sân, Võ sư ra lệnh:

- “Hai đứa song đấu!”


Tiếng lệnh song đấu đó đã làm cho tôi chới với. Trời! Thật sự tôi học Đường Thảo còn chưa nhuần nhã thì làm sao mà dám song đấu với một sư huynh, trưởng tràng của môn phái? Tôi lo lắng vô cùng nhưng cũng đành phải tuân lời thầy.

Tôi và anh Hương cùng bái tổ rồi bỏ bộ thủ thế thì tôi đã bị lọt vào thế hạ phong rồi.

Ghi chú: Môn võ thuật Tân Khánh khi học tập đều được huấn luyện quyền cước và chiến thuật cùng lúc, thí dụ như khi bước ra sân đấu ta phải chiếm vị trí thượng phong dồn địch thủ vào thế hạ phong. Có nghĩa là vào sân đấu phải chiếm vị trí trên gió địch thủ ở vị trí dưới gió, khi giao đấu địch sẽ bị bất lợi vì bụi bặm bay vào mắt mũi của mình. Ban ngày có ánh sáng mặt trời thì Thượng phong ánh sáng mặt trời ở phía sau lưng của ta còn địch thủ ở thế Hạ phong bị ánh sáng mặt trời chói thẳng vào mắt không thấy đường. Ban đêm cũng giống như ban ngày Thượng phong là ánh sáng ở phía sau lưng ta và địch Hạ phong sẽ bị chói mắt.

Tôi hoang mang vì bị ánh sáng ngọn đèn dầu chói vào mắt, những bóng người bao vây chung quanh ẩn hiện lẫn với bóng anh Hương, sau khi đảo bộ anh Hương phóng thẳng quả đấm vào mặt tôi một tiếng “bốp”. Cùng lúc với tiếng “bịch” vang lên, má bên phải của tôi đã lãnh cú đấm như sấm sét, mắt tôi hoa lên như có nhiều đốm lửa tung tóe. Tôi bị sức dội thối lui mấy bước. Và ngược lại bóng anh Hương theo tiếng “bịch”, cũng văng ra xa khoảng hai thước té ngồi xuống đất.

Võ sư Đại ra lệnh tiếp tục đấu. Trong lúc đó tôi chưa kịp hoàn hồn, anh Hương đã vào thế, tôi cũng đảo bộ theo.

Anh Hương chuyển đổi phương vị từ trái qua phải và bất thần như cơn gió lốc tung một quả đấm vào má trái của tôi, tôi cũng không tránh né kịp nên lại lãnh thêm một quả thôi sơn. Nhưng lạ lùng là anh Hương lại cũng nhận một cú đá do phản ứng tự nhiên của tôi văng ra té ngồi xuống đất một lần nữa.

Võ sư Đại mỉm cười gật đầu mấy cái ra chiều thỏa thích, ông cho ngưng trận đấu và bảo tất cả võ sinh thu dọn rồi giải tán. Võ sư dẫn anh em tôi về nhà nhưng ông không nói lời nào cả, đêm đó anh em tôi được ông cho nghỉ tập để về sớm.

Trên đường về nhà, tôi đưa tay xoa nhẹ trên hai gò má nơi mà anh Hương đã tặng hai quả đấm còn sưng vù. Anh em tôi hỏi nhau và lấy làm lạ về những việc đã xảy ra vừa rồi, vì anh em tôi thật tình chưa học được căn bản về võ thuật chút nào cả vì mới nhập môn và còn quá nhỏ, tôi thì mới có 10 tuổi còn anh Trị anh của tôi cũng mới có 13 tuổi. Câu hỏi tại sao cứ quanh quẩn trong đầu tôi.

Thứ 1: Tại sao đêm nay ông võ sư lại tập họp tất cả võ sinh khắp nơi về mà không thấy các anh đó tập võ hoặc song đấu với nhau.

Thứ 2: Tại sao lại chỉ định anh Hương, trưởng tràng nổi tiếng giỏi nhất trong hàng đệ tử song đấu với tôi là đệ tử nhỏ nhất và mới nhập môn. Và chỉ đấu một trận duy nhất?

Với tinh thần tôn sư trọng đạo anh em tôi không dám hỏi gì cả nếu ông thầy không muốn nói ra. Suốt năm đầu chúng tôi được học về quyền cước, anh em chúng tôi rất cố gắng tập luyện bộ pháp di hành, nhanh, mạnh và phản ứng nhập tâm qua cách luyện tập với tám trái bưởi treo chung quanh.

Hai năm sau, chuyên tập về Côn (Roi) và Siêu Đao. Đến giai đoạn này anh em tôi phải đi về quê tìm mua cây Tầm Vông (đực) đặc ruột vừa tầm tay để đem về luyện tập khoảng 20 đến 30 mươi cây cho mỗi năm.

Phương pháp luyện tập để cho bàn tay chịu đựng được sức đàn hồi. Tập chịu đựng sức dội ngược của ngọn roi giáng thẳng đầu roi cấn xuống đất, lúc đầu mới tập bàn tay chịu không nổi bị bung sút ra, bàn tay bị tê thốn đôi khi bị tét da chảy máu dầm dề. Tập chịu đựng với va chạm mạnh của ngọn roi mà bàn tay vẫn giữ được ngọn roi, lần hồi không còn bị sút văng ra như lúc mới tập nữa. Chúng tôi lần lần nhuần nhuyễn hơn lanh lẹ hơn, và luyện tập chiêu thức Tám lượng chống ngàn cân để đỡ ngọn roi của địch, v.v.

Rồi về sau những ngọn roi bị đập cấn gãy càng lúc càng nhiều với những lúc tập luyện song đấu roi, tiếp theo là tập ngọn roi đâm với những trái vú sữa non hư rụng, anh em tôi gom lại và đem rải trên sân để thực tập ngọn roi đâm cho chính xác, chúng tôi cố gắng mong sẽ tiến đến đỉnh cao của võ thuật là tinh thần hợp nhất vì ý tưởng phát sinh ra hành động.

Thời gian 3 năm lần lượt trôi qua, anh em tôi đã học xong một bộ võ thuật gồm có Quyền, Cước, Đoản, Trường Côn và Siêu Đao. Trong thời gian 3 năm, thỉnh thoảng anh Hương trưởng tràng cũng có đến giúp thầy để chỉ dẫn thêm cho anh em tôi.

Nhưng có một ngày anh Hương đi chợ Thủ Đức gặp tôi cũng đang đi chợ. Anh Hương và tôi rất vui mừng anh Hương cùng tôi kéo nhau vào tiệm nước uống cà phê, sau khi thăm hỏi vài câu, anh Hương nói:


- “Có một việc mà từ lâu tôi muốn hỏi chú nhưng không có dịp”.


Tôi hỏi:

- “Anh muốn hỏi việc gì vậy?”


Hương nghiêm mặt:
- “Xin chú cho tôi biết cái đêm đầu tiên tôi và chú gặp nhau trong ngôi nhà hoang trong ruộng mía đó, tôi và chú đã đấu với nhau”.


Hương ngưng lại trầm ngâm như hồi tưởng hình dung lại trận đấu rồi tiếp:
- “Cho tới bây giờ tôi vẫn chưa biết khi tôi tấn công chú lúc đó chú đã dùng chiêu thế gì phản lại mà tôi không thể đỡ được vậy?”


Tôi nhìn anh Hương trả lời:
- “Tôi xin nói thật với anh, lúc song đấu với anh thì tôi mới nhập môn mới có 2 tuần trăng (2 tháng) tôi chưa biết cũng như chưa hiểu gì về võ nghệ cả, thật sự là tôi chưa thuộc lòng đường thảo nữa đó anh.”


Anh Hương ngạc nhiên trợn tròn đôi mắt:
- “Chú nói sao? Chú nói thiệt chứ?”.

Tôi gật nhẹ đầu và nói: – “Đêm đó khi nghe thầy kêu tên tôi ra đấu với anh, tôi bấn loạn vì tôi được biết anh là trưởng tràng, là người giỏi nhất trong hàng đệ tử của thầy. Anh cũng đã thấy tôi không tránh né gì được hết nên đã bị anh đánh trúng mặt hai lần…”.

Anh Hương ngắt lời tôi với vẻ ẩn ức:
– “Nhưng tôi bị chú phản lại một cú đá, chẳng những là một mà lại tới hai lần. Thật tôi không thể nào tưởng tượng nổi…”


Tôi nói: – “Thật tôi cũng không hiểu lúc đó tôi phản ứng ra làm sao đó anh. Tôi xin anh cũng đừng để tâm mà buồn tôi.”


Anh Hương giật mình vì biết anh nóng nảy đã gay gắt với tôi, anh xin lỗi tôi rồi yên lặng suy nghĩ. Bỗng anh mỉm cười như tỉnh ngộ anh ôm vai tôi rồi nói:
– “Chú An à! Tụi mình thì không biết nhưng thầy mình biết và có lẽ trận đấu đó là để thầy xác định nhận xét của thầy về khả năng của chú đó!”


Anh Hương cười rồi tiếp:
- “Xin chúc mừng cho chú!”


Lúc đó tôi mới chợt nghĩ ra lời nói của anh trưởng tràng về việc làm của thầy trong đêm đấu võ!

Anh Hương đã vào quân ngũ và kể từ đó chúng tôi không còn gặp lại nữa vì “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?”.

Trong suốt thời gian ba năm học võ, chúng tôi được võ sư Đại dạy phần lý thuyết trong những giờ nghỉ giải lao về chiến thuật, chiến lược, địa hình và giải thích phân thế các đòn trong Đường Thảo Quyền, Cước, Côn và Siêu Đao một cách khéo léo tiềm ẩn qua các mẫu chuyện, qua các trận trao đổi võ thuật của chính ông và thầy của ông với các bậc võ sư danh tiếng thời bấy giờ ở khắp nơi từ các tỉnh miền Đông cho đến sáu tỉnh miền Tây Hậu Giang. Nhưng vì lúc đó tôi còn nhỏ quá nên không thấu hiểu được ẩn ý của ông Cậu tôi (mãi cho đến khi tôi được huấn luyện thêm về môn Thái Cực Đạo của Đại Hàn Tae Kwon Do tại võ đường khối Cận Vệ phủ Tổng Thống tôi mới hiểu được thâm ý của ông thầy.)

Những điểm đặc biệt riêng của môn phái Tân Khánh Bà Trà như sau:

• Chỉ sử dụng duy nhất một thế “ĐINH” tấn. Khi sử dụng sẽ biến đổi “Lặn, Mọc” tùy theo tiến hay thối.

• Môn Côn (Roi) và Siêu đao đều dùng thế đỡ “Tám lượng chống ngàn cân”.

• Thế tấn công “Cương mãnh” xuyên tâm mục tiêu (không bị hạn chế trong thế tấn)

• Ngọn Côn là căn bản chính của binh khí (18 môn binh khí). Có lẽ vì bị cấm học võ và dùng binh khí bằng sắt cho nên các võ sư ngày xưa đã tập trung vào ngọn roi và quyền cước để dễ qua mắt bọn điềm chỉ?

• Tùy theo khả năng thiên phú, người học võ Tân Khánh có thể biến tất cả những vật có trong tay đều trở thành binh khí.

oOo

Mộng ước trở thành Người Nhái

Hoàn cảnh khó khăn mồ côi cha và nghèo khổ của gia đình, lúc đó tôi thì còn quá nhỏ mà lại tứ cố vô thân chẳng có ai hướng dẫn và giúp đỡ, tôi phải tự mình tìm cách để vươn lên. Sau khi đã học võ thuật, mộng ước sau này được trở thành Người Nhái của tôi cứ lớn lần theo năm tháng. Cho đến năm 1956. Tôi suy nghĩ nếu muốn hoàn thành tâm nguyện thì phải tự tạo điều kiện cho mình, vì Người Nhái là phải biết bơi lội thật giỏi, phải có sức khỏe dẻo dai và phải chiu đựng nhiều thử thách gian khổ và nhất là phải kiên nhẫn trì chí, v.v... Tôi quyết định theo đường hướng của mình vạch ra.

Tôi xin vào hội đoàn Bơi Lội Thanh Long tại Chi Thanh Niên Quận Thủ Đức. Nhưng tôi bị từ chối vì tôi không có người giới thiệu, mặc dầu có người biết tôi! Chỉ một bước đầu mà đã có khó khăn. Nhưng tôi đã tự nói với mình dầu cho trở ngại cỡ nào tôi cũng phải tự tạo điều kiện để đạt cho được mục đích. Tôi đến hồ bơi Cộng Hòa gặp ông chủ hồ bơi để đóng tiền hàng tháng và xin ông vui lòng giúp đỡ cho tôi được vào hồ bơi lội lúc 5 giờ sáng, vì hồ bơi đến 8 giờ sáng mới mở cửa. Ông chủ hồ bơi thấy tôi ham thích bơi lội nên cũng đồng ý. Tôi bắt đầu tự đặt chương trình tập luyện thử xem mình có thể vượt qua được hay không?

Bắt đầu:

Ngày Thứ Hai = Bơi 100 thước môn Ếch
Thứ Ba = Bơi 200
Thứ Tư = Bơi 400
Thứ Năm = Bơi 800
Thứ Sáu = Bơi 1,600
Thứ Bảy = Bơi 3,200

Tôi rất vui mừng vì mình đã cố gắng vượt qua được, tôi tiếp tục giữ 3,200 thước làm chuẩn như là phần khởi động cho mỗi ngày tập và tập thêm phần tập bơi tay riêng, bơi chân riêng. Cái khó khăn nhất là tôi không biết mình tập dượt nó có tiến triển gì không, bởi vì tôi không có ai giúp bấm giờ. Thôi thì đành chịu vậy! Tôi tập dượt được khoảng 6 tháng thì đến ngày lễ Song Thất năm 1957. Chi Thanh Niên Quận tổ chức tranh giải Vô Địch Bơi Lội Toàn Quận. Tôi đến ghi tên Độc Lập vì tôi không phải là Hội viên của các hội đoàn Bơi Lội.

Đến ngày tranh giải gồm có các hội đoàn Bơi Lội Thanh Long, Hội Bơi Lội trường La San, v.v.. Các lực sĩ của các Hội được săn sóc viên thoa dầu nóng cho ấm. Huấn luyện viên dặn dò. Thôi thì đủ thứ. Còn tôi thì đứng gần đó để chờ một mình vì tôi chẳng có ai ủng hộ hay cổ võ cho tôi cả. Bắt đầu tranh các môn như bơi Tự Do, bơi Ngửa và đến phiên tôi bơi Ếch 100 thước. Tôi đã thắng các lực sĩ của các hội đoàn qua vòng loại và vòng chung kết, khoảng cách gần nửa mặt hồ giữa tiếng hoan hô cổ võ của các khán giả đi xem. Các Trưởng Đoàn của các Hội Bơi Lội ngạc nhiên. Sau khi kêu tên tôi nhận lãnh giải Vô Địch Toàn Quận, các anh Trưởng Đoàn có đến nói chuyện và mời tôi gia nhập Hội, tôi từ chối vì thấy vào hội đoàn phải đi họp hành theo điều lệ nội quy, mà tôi không có giờ để nghỉ ngơi vì còn phải đi làm.

Đơn độc dự tranh giải Vô Địch Bơi Lội toàn quốc Việt Nam

Tôi tiếp tục thao dượt dự tính sẽ tranh giải cao hơn cấp Quận là cấp Tỉnh vì đã có thông cáo trên các báo chí, Bộ Thanh Niên Thể Thao sẽ tổ chức Giải Vô Địch Bơi Lội toàn quốc vào dịp lễ Quốc Khánh 26-10-1957. Các lực sĩ phải có thành tích là phải thắng liên tục từ cấp Tỉnh hay cấp đô thành Sài Gòn, rồi tranh giải cấp Khu (gồm 5 tỉnh) và sau cùng là cấp toàn quốc.

Tôi hơi lo lắng vì biết các lực sĩ của các Hội Bơi Lội của đô thành và Gia Định là giỏi nhất trong toàn quốc. Nhưng vì muốn thực hiện mộng ước của mình để sau này có đủ khả năng theo học Người Nhái nên tôi đi ghi tên tại Ty Thanh Niên đô thành. Lúc ghi tên không phải hội viên của các Hội Bơi Lội, ông thư ký đã gạn hỏi tôi mấy lần vì ông ta lấy làm lạ có lẽ ông nghĩ: Ở đâu lại có thằng nhỏ lạ này không biết khả năng tới đâu mà dám ra tranh giải với các lực sĩ nổi tiếng của đô thành? Nhưng ông cũng cho tôi ghi tên độc lập. Đáng lẽ tôi phải ghi tên ở Ty Thanh Niên Gia Định nhưng vì tôi không biết Ty Thanh Niên Gia Định ở đâu, mà chỉ biết có Ty Thanh Niên đô thành ở đường Hiền Vương (vì tôi là một chú nhỏ nhà quê mà!).

Tôi càng cố sức tập dượt nhiều hơn vì biết mình sẽ gặp nhiều khó khăn hơn với các lực sĩ có kỹ thuật và thành tích cao, có huấn luyện viên nhiều kinh nghiệm chỉ dẫn. Nhưng với lòng hăng say quyết thắng tôi muốn được trực diện tranh tài.

Đến ngày tranh, tôi phải thức dậy lúc 5 giờ sáng, điểm tâm một chén cơm nguội sơ sài rồi ra chợ Thủ Đức đón xe đò đi xuống bến xe An Đông Chợ Lớn, gần Hồ Bơi đô thành, tôi thay đồ bơi lội xong đi lên thành hồ bơi. Xung quanh hồ đã đông khán giả và quan khách. Tôi nhìn mặt hồ bơi mà lo lắng vì là lần đầu tiên tôi mới tới đây.

Hồ bơi này khác với hồ bơi mà tôi thường tập dượt, vách thành chỗ trở đầu rất cao, tôi chưa biết khi trở đầu phải làm thế nào? Loa phóng thanh của ban giám khảo lần lượt kêu tên các lực sĩ tranh tài từng bộ môn và ban giám khảo tuyên bố sẽ áp dụng luật thi của Quốc Tế. Riêng về môn tranh bơi Ếch, các lực sĩ khi lội đến bờ hồ, hai tay phải chạm thành hồ, nếu người nào chỉ chạm thành hồ một tay sẽ bị loại vì không đúng luật. Khi chạm thành hồ rồi thì phải xoay người lại đầu phải thẳng hướng đàng trước rồi mới lội đi, và cấm không được nhào ngửa lại khi tay chạm thành hồ. Chỉ được bơi một đạp chân và một quạt tay dưới mặt nước mà thôi, nếu lực sĩ nào vi phạm sẽ bị loại.

Ngày hôm nay chỉ tranh vòng loại vì lực sĩ quá đông. Mỗi lần lội là tám người, ban giám khảo chỉ chọn hai người về nhất và nhì được vào tranh chung kết trong tuần lễ sau. Tôi suy tính, vì chưa biết hết luật lệ và hồ bơi lạ nên tôi quyết định sẽ cố gắng lội về hạng nhì trong vòng loại này để được tuyển vào tranh chung kết mới quan trọng. Ban giám khảo cũng là các huấn luyện viên của các Hội Bơi lội, nên khi đến môn Ếch, ban giám khảo thấy chỉ có tên tôi là độc lập nên họ sắp lực sĩ giỏi lội vòng đầu với tôi để họ xem khả năng của tôi. Vì tôi đã có chủ ý nên chỉ lội thật đúng luật và về nhì, thua lực sĩ về nhất tới nửa mặt hồ. Tôi xem toán lực sĩ lội vòng sau và tôi đã biết cách trở mình. Tôi được tuyển vào vòng chung kết của giải Vô Địch đô thành trong cuối tuần lễ tới. Tôi trở về hồ bơi lo tập lại cách trở mình cho nhuần nhã để chuẩn bị tranh vòng chung kết. Ngày tranh vòng chung kết, các đấu thủ của tôi họ không còn để ý đến tôi nữa, vì họ thấy tôi thua đến nửa mặt hồ quá xa trong vòng loại, nên nói năng rất vui vẻ. Tiếng còi hiệu của trọng tài vừa ré lên, tôi phóng mình xuống nước bơi thật nhanh vì tôi đã tập nhuần nhã cách trở mình khi đến bờ hồ. Đấu thủ đã thắng tôi trong vòng loại bất ngờ khi tôi bơi vượt qua mặt, anh ta cố hết sức theo tôi đến mặt hồ thứ ba thì anh đã đuối sức. Tôi đã về nhất ở mặt hồ thứ tư, bỏ anh về nhì khoảng cách gần nửa mặt hồ…. Với niềm vui cảm xúc khi đoạt giải Vô Địch cấp đô thành, nhưng đường đi vẫn còn nhiều chông gai vất vả với hai chặng tranh tài càng lúc càng khó khăn. Tôi còn phải tiến lên, còn phải cố gắng thật nhiều mới mong đạt thành.

Cái trở ngại mà tôi gặp phải là đơn độc một mình, không ai chỉ bảo, hoặc bấm giờ khi tập luyện. Tôi không biết được kỷ lục của mình hàng ngày có tiến triển gì không? Ngoài giờ tập dượt ra, tôi còn phải lo nghỉ ngơi để đủ sức làm việc suốt đêm nơi quán cà phê (vì tôi muốn có giờ để tập dượt nên xin đổi việc làm về đêm.) Nhiều khi tôi tự mỉm cười một mình, vì các lực sĩ khác họ có đủ phương tiện cơm áo bạc tiền nên mọi thứ cần thiết họ đều có, họ tranh giải Vô Địch để hãnh diện với bạn bè v. v... Còn tôi nghèo nàn, mọi thứ đều không. Tôi chỉ có một ý chí kiên cường và sự chịu đựng gian khổ. Các lực sĩ khác, họ tập luyện có một thì tôi phải tập luyện cực khổ mấy lần hơn. Nhưng đó lại là ý muốn của tôi tự tìm cách để thắng mình. Lúc nào tôi cũng tự an ủi lấy mình “nếu ta chịu đựng được thì mới mong có ngày hoàn thành lý tưởng của mình mà đã nhiều tháng nhiều năm mong đợi…”

Cách hai tuần lễ sau là ngày tranh Vô Địch cấp Khu tại hồ bơi Chi Lăng Gia Định gồm có năm tỉnh miền Đông. Các tay vô địch của các Tỉnh sẽ về đây tranh tài. Các lực sĩ của đô thành cho tôi biết tôi sẽ tranh với lực sĩ Nguyễn Phú Đức, vô địch tỉnh Gia Định, thành tích rất cao, kỷ lục vô địch 100 thước Ếch là 1 phút 27 giây. Còn tôi thành tích vô địch đô thành là 1 phút 32 giây. Tôi biết sẽ gặp những địch thủ rất khó thắng nổi, nên tôi phải tập luyện nhiều giờ hơn. Và qua hai tuần lễ khổ công luyện tập, tôi cảm thấy có tiến bộ nhưng cũng không dám chắc.

Đến ngày đi tranh, tôi đến hồ bơi Chi Lăng cũng là lần đầu tiên tôi biết hồ bơi này. Thấy hồ bơi này lại khác với các hồ bơi đô thành, hai đầu hồ bơi để trở mình lại có một khoảng trống, vách hồ bơi sát với mặt nước, tôi không biết phải chạm tay bằng cách nào cho đúng? Tôi nghĩ là phải áp dụng lại chiến thuật cũ, là phải chịu thua vòng loại trước, chỉ cần được chọn vào vòng chung kết, để tôi xem lại cách trở mình của các lực sĩ khác và rút kinh nghiệm. Tôi nghi ngờ ở nơi đây ban giám khảo cũng sẽ cho tôi bơi tranh với anh Nguyễn Phú Đức vì tôi là lực sĩ độc lập, và ban giám khảo sẽ sắp đặt cho tôi và anh Nguyễn Phú Đức tranh vòng loại đầu để họ có dịp xác định khả năng của tôi. Nếu tôi có thể thắng Nguyễn Phú Đức trong vòng loại thì họ sẽ chỉ bảo cho Nguyễn Phú Đức biết những ưu và khuyết điểm của tôi để Nguyễn Phú Đức có thể khai thác mà thắng tôi….

Đến giờ tranh, quả thật như tôi đoán, anh Nguyễn Phú Đức và tôi được sắp xếp gần nhau để tranh vòng loại đầu. Kết quả là Nguyễn Phú Đức thắng tôi khoảng nửa mặt hồ trong vòng loại, tôi xem vòng loại kế các đấu thủ bơi tranh, và tôi đã nắm vững cách chạm tay vào mặt hồ rồi! Ban giám khảo tuyên bố kết quả cuộc thi vòng loại xong, các lực sĩ ra về tuần sau sẽ tranh chung kết giải Vô Địch cấp Khu. Trên đường về, tôi nghĩ cách phải tập như thế nào để có thể đoạt giải. Nguyễn Phú Đức anh được sự huấn luyện theo phương pháp và kỹ thuật bơi lội mới nhanh hơn và ít mất sức hơn, còn lối bơi của tôi đã quá lỗi thời rồi, vì tôi không có khả năng và phương tiện để học hỏi, chỉ bắt chước theo cách lội của các phim ảnh đã quá xưa. Nhưng bây giờ không có thời giờ để mình sửa đổi kịp nữa! Thôi thì đành cố đem hết sức mình để tranh lần này vậy.

Đến ngày tranh vô địch vòng chung kết cấp Khu, tôi đến hồ Chi Lăng với chiếc khăn tắm, đã thấy ban tổ chức trưng bày trên bàn các chiếc Cúp Vô địch cấp Khu, chiếu sáng chói lấp lánh dưới ánh sáng của mặt trời. Anh Nguyễn Phú Đức đang khoe với các bạn của anh: Chiếc cúp này một chút nữa tao sẽ lãnh! Khi anh quay đầu lại thấy tôi đang đứng chấp tay sau lưng. Anh hơi ngượng cúi đầu chào tôi, tôi cũng cúi đầu chào lại, tôi thầm nghĩ anh Nguyễn Phú Đức nói như vậy cũng đúng, vì anh đã thắng tôi trong vòng loại gần nửa mặt hồ rồi nên không còn e dè gì nữa!

Lần lượt các môn bơi đã tranh, bây giờ đến môn 100 thước Ếch giữa tôi và anh Đức là gay cấn, vì là hai tay vô địch của hai vùng nổi tiếng trong toàn quốc là Sài Gòn và Gia Định. Tất cả các ông trong ban giám khảo đều đứng dậy để cổ võ cho anh Nguyễn Phú Đức. Lượt tranh này có bốn vô địch của vòng loại, tôi và Đức được sắp sát đường dây để dễ dàng theo dõi. Sau tiếng còi hiệu, tôi và Đức phóng mình xuống nước, Đức bơi theo lối mới một đạp chân dưới nước, một quạt tay khi nổi lên như Kình Ngư vượt sóng ào ạt, còn tôi thì bơi theo kiểu xưa, chân và tay cùng quạt một lúc phải chờ cho bớt trớn lướt mới ngóc đầu lên thở nên nhìn giống như chiếc tàu lặn, không động sóng… anh Đức và tôi đều đem hết sức ra tranh, vì Đức ỷ y nên khi tôi bơi vượt qua Đức, Đức vội vã rượt theo tôi thì đã muộn rồi. Khi về đến điểm cuối, tôi cũng chỉ hơn anh Đức một cái vói tay mà thôi. Đức và tôi đều lả người, ngâm mình dưới nước để lấy lại sức. Nhưng khi ban giám khảo tuyên bố kết quả lại là Nguyễn Phú Đức về nhất còn Lê Đình An về nhì? Bỗng có tiếng phản đối Ban Trọng Tài và Giám Khảo là thiên vị, tiếng la ó của khán giả vang lên:

- “Anh bên này thắng! Anh bên này thắng!”

khán giả chỉ tay vào tôi. Lúc đó có mấy anh mặc quân phục đi đến bàn của ban giám khảo phân trần và yêu cầu ban giám khảo phải chấm điểm cho công bằng. Sau vài phút bàn thảo, ban giám khảo tuyên bố xin lỗi khán giả vì có sự lầm lẫn của đồng hồ bấm giờ, và xin tuyên bố lại Lê Đình An về nhất với số giờ 1 phút 21 giây 5/10 sao. Nguyễn Phú Đức về nhì với số giờ 1 phút 22 giây….

Sau khi lãnh giải Vô Địch bơi lội với chiếc cúp danh dự, tôi nhìn về phía khán giả cúi đầu chào với ánh mắt biết ơn các anh quân nhân đã giúp tôi có được danh dự này, khi tôi đi ra ngoài các anh quân nhân bước đến vỗ vai tôi và khen ngợi. Tôi ngỏ lời cám ơn các anh. Khi ra về lòng tôi cảm thấy hơi buồn. Các ông giám khảo đã vì tình riêng mà làm mất lẽ công bằng. Có lẽ các ông biết tôi đi dự tranh mà không có Trưởng Đoàn đại diện và cũng không có bạn bè hay người thân nào theo giúp đỡ nên mới xử thiên vị ép tôi như vậy!

Chỉ còn một bước nữa là đến tột đỉnh danh dự của ngành bơi lội là vô địch toàn quốc mà tất cả các lực sĩ đấu thủ đều ao ước. Với một tháng tập dượt thêm mới đến ngày tranh, tôi cảm thấy phấn chấn mặc dầu rất khổ cực.

Hôm nay là buổi tranh tài của các vô địch khắp nước từ Bến Hải đến Cà Mau về đây để dự thi. Bắt đầu ban trọng tài và giám khảo giới thiệu thành phần quan khách và các mạnh thường quân bảo trợ giải thưởng cho cuộc tranh Vô Địch Bơi Lội toàn quốc đến tham dự. Lần này ban tổ chức tuyên bố lực sĩ các môn bơi phải tranh vòng loại và vòng chung kết cùng một ngày, vì lý do lực sĩ ở các nơi về quá đông, cho nên Ban Tổ chức không thể cung ứng nơi ăn chốn ở đầy đủ, nên phải tổ chức rút ngắn thời gian lại! Tôi suy tính khi tranh vòng loại tôi phải về nhì như hai lần trước để dưỡng sức cho vòng chung kết. Sự việc đã xảy ra đúng như dự tính của tôi, sau khi qua vòng loại và thắng vòng chung kết bộ môn lội Ếch 100 thước, với thành tích là 1 phút 16 giây.

Buổi lễ phát giải thưởng Vô Địch Bơi Lội toàn quốc 1957, do Ông Bộ Trưởng Thanh Niên Thể Thao Trần Chánh Thành chủ tọa tại sân Vận Động Phan Đình Phùng. Các Lực sĩ Vô Địch gồm có các anh Phan Hữu Dõng, Nguyễn Văn Phân, Trương Kế Nhơn, Dương Văn An và tôi Lê Đình An.

oOo

Tham gia Phong Trào Lực sĩ Thẩm Mỹ và Cử Tạ Việt Nam

Sau khi tôi đã chiếm giải vô địch bơi lội toàn quốc Việt Nam, tôi thực hành dự tính kế tiếp là phải tập cho có sức mạnh bằng cách tham gia Phong Trào Thể Dục Thẩm Mỹ và Cử Tạ Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn sáng lập. Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn là anh ruột và cũng là huấn luyện viên của lực sĩ Nguyễn Công Án khi còn du học tai Pháp. Lực sĩ Nguyễn Công Án đã từng chiếm giải Lực sĩ Đẹp Nhất Thế Giới vào năm 1955 và 1957.
Tôi bắt đầu tập tạ năm 1958. Mỗi ngày tôi phải đạp xe đường dài khoảng 14 cây số từ Thủ Đức xuống phòng tập Trung Ương tại số 203 đường Võ Tánh Phú Nhuận, để được Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn huấn luyện phương pháp tập tạ. Sau hai năm tập tạ, tôi tốt nghiệp khóa huấn luyện viên Thể Dục Thẩm Mỹ, phụ trách Huấn Luyện phòng tập tại Trung Ương Phong Trào Thể Dục Thẫm Mỹ, buổi sáng từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa….

Buổi Thi Lực sĩ Đẹp (Thẩm Mỹ) 1961 tại Ty Thanh Niên Đô Thành. Góc đường Hai Bà Trưng và Hồng Thập Tự, Sài Gòn. Là lần cuối cùng. Vì sau đó Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu đã cấm vì cho là “Công xúc tu sĩ”.

oOo
Tôi tham dự khóa Huấn Luyện Săn Bắn Cá Dưới Biển Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Thành Nhơn huấn luyện và tham gia tranh giải Săn Bắn cá năm 1960 (sau này khi vào Hải Quân, tôi tranh giải săn bắn cá cho Đoàn Hải Quân, đã chiếm ba giải vô địch 1961, 62 và 1965).

Giáo Sư Nguyễn Thành Nhơn Chủ Tịch Tổng Cuộc Săn Bắn Dưới Biển VN và
Đội Hải Quân đoạt giải Vô Địch.196-1962 và 1965.

oOo

Nhìn lại đoạn đường mà tôi đã cố gắng, kiên nhẫn vượt qua không biết bao nhiêu là trở ngại, tôi nghĩ đã có nhiều hy vọng để đạt được điều mơ ước của mình!

Năm 1961, lại xảy ra một việc rất khó lựa chọn là vì tôi đã đến tuổi động viên. Tôi rất mong muốn tình nguyện vào binh chủng Hải Quân, nhưng vào Khóa Sĩ Quan thì tôi không đủ điều kiện về bằng cấp. Vì hoàn cảnh của gia đình, nên việc học của tôi không liên tục, tôi chỉ học được tới Đệ Tứ Trung Học mà thôi.

Hai người bạn thân là Nguyễn Văn Định, thư ký của phòng tập Trung Ương và Đỗ Cao Luận em ruột của Đại Tướng Đỗ Cao Trí, hai anh rủ tôi cùng ghi tên nhập khóa 14 Sĩ Quan Bảo An, vì điều kiện chỉ cần Chứng Chỉ Đệ Tứ Trung Học. Tôi suy tính mãi hơn một tháng đã qua, hai bạn tôi đã nộp đơn rồi mà tôi vẫn chưa quyết định. Vì giấc mộng trở thành Người Nhái tôi đã ôm ấp, và tôi đã cố công tạo dựng cho mình những thành tích như đã nêu phần trên, bây giờ mà đổi hướng đi vào binh chủng khác. Thì tôi không đành lòng. Cuối cùng tôi quyết định đi theo con đường mà mình đã chọn từ hồi còn thơ ấu là tình nguyện đầu quân vào binh chủng Hải Quân khóa Tân Binh Thủy Thủ để sau này hy vọng được tuyển chọn về học khóa Người Nhái.

Tôi ghi tên tình nguyện đầu quân nơi phòng Tuyển Mộ tại đường Thi Sách ngày 4-10-1961 khóa 26 Thủy Thủ Chuyên Nghiệp. BTL/HQ/Phòng Quân Huấn (PQH) gởi khóa sinh Tân Binh lên TTHL/Quang Trung để học căn bản quân sự. Sau khi mãn khóa căn bản quân sự, BTL/HQ/PQH gởi chúng tôi xuống các chiến hạm để thực tập về hải nghiệp.

https://i0.wp.com/brownwater-navy.com/vietnam/photos2/LCSL225b.jpg

Thực tập hải nghiệp trên chiến hạm HQ 225 “Nõ Thần”

Sau đó chúng tôi được đưa ra TTHL/HQ/Nha Trang nhập khóa chuyên nghiệp. Sau 4 tháng huấn luyện, tôi mãn khóa với bằng chuyên nghiệp Vận Chuyển. Khóa 26 được tàu đưa về tạm trú tại Trại Bạch Đằng 2 để chờ lệnh thuyên chuyển ra đơn vị. Vài ngày sau tôi nhận lệnh thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy Hải Trấn, Liên Đội Người Nhái.

Tôi rất vui mừng vì đó là kết quả của bao nhiêu năm trải qua biết bao là khó khăn vất vả, để tự tạo cho mình có được một quá trình đạt thành ước mơ từ khi tôi còn nhỏ mà BTL/HQ/Phòng Nhân Viên đã nhìn thấy qua hồ sơ cá nhân của tôi, và mặc dầu đây chỉ là bước đầu.

Nhưng có một việc mà tôi không biết và cũng không ngờ là từ hồi nhỏ, khi tôi thấy được tấm hình một tổ Người Nhái trên tờ báo Pháp vào năm 1950, đã làm cho tôi say mê… mãi cho đến bây giờ Binh Chủng Hải Quân vẫn chưa có Quyết Định thành lập đơn vị Người Nhái.

Vì theo tài liệu thành lập Hải Quân VNCH. Nếu tính thời gian năm 1950 lúc đó thì còn Hải Quân của Pháp, mãi cho đến ngày 20 tháng 8 năm 1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm mới ban hành Nghị Định thành lập Hải Quân VNCH.

Tôi trình diện Trung Úy Lâm Nhật Ninh, Liên Đội Trưởng LĐNN. Trung Úy Ninh cho biết hiện đang huấn luyện hai khóa Biệt Hải tại Đà Nẵng, còn LĐNN thì còn đang chờ Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH chấp thuận cho thành lập. Trung Úy Ninh giao việc bí thư LĐNN cho tôi tạm giữ. Vài ngày sau Trung Úy Ninh đem một số trợ huấn cụ ra Đà Nẵng để tiếp tục huấn luyện khóa 2 Biệt Hải.

Năm 1963, sau khi huấn luyện khóa 2 Biệt Hải xong, toàn ban huấn luyện trở về Sài Gòn.

Trong thời gian này tôi đã nhận được văn thư của BTTM/QLVNCH, chấp thuận cho Bộ Tư Lệnh Hải Quân thành lập LĐNN, tôi trình cho Trung Úy tất cả các văn thư tôi đã nhận. Trung Úy LĐT duyệt lại hết văn thư và giao lại cho tôi và bảo tôi xem lại Bản Điều Lệ và Nội Quy thành lập LĐNN để biết và lưu vào hồ sơ.

Sau khi tôi xem xong tôi cảm thấy có một vài điểm không được công bằng cho Người Nhái.

(Trong điều lệ ghi:…

– Sau khi đậu Khóa Người Nhái, hàng năm, mỗi 6 tháng định kỳ đều phải khám sức khỏe và trắc nghiệm lại thể năng. Nếu nhân viên không còn đủ tiêu chuẩn NN thì sẽ trả về Hải Quân….

– Nhân viên NN thi hành công tác nếu chẳng may hy sinh, mất tích hay bị thương tật thì hồ sơ sẽ đưa trả về Ban Xã Hội Hải Quân giải quyết như các quân nhân HQ mà không được hưởng đặc ân chi cả….

Tôi nghĩ những điểm này không công bằng vì NN đã hy sinh mạng sống trong những công tác hiểm nghèo mà khi bị thương tật hay mất tích v. v. gia đình của NN không được hưởng sự đền bù xứng đáng, không khác gì vắt chanh bỏ vỏ.)

Hôm sau tôi đem những điểm trong Bản Điều Lệ và Nội Quy ra bàn thảo với Trung Úy Lâm Nhật Ninh. Trung Úy nói những điểm này là do Bộ TTM đã sửa lại. Tôi đề nghị Trung Úy làm văn thư trình lên BTL/ HQ can thiệp với Bộ TTM để giúp cho quân nhân Người Nhái khỏi bị thiệt thòi, vì những điểm đó bạc đãi nhân viên Người Nhái…. Trung Úy Liên Đội Trưởng lắc đầu và cho tôi biết rất khó khăn lâu nay bây giờ mới được Bộ TTM chấp thuận cho thành lập đơn vị Người Nhái, bây giờ mình không thể xin gì được nữa. Tôi đành làm thinh mà lòng buồn vời vợi….

Sau khi được chấp thuận cho thành lập LĐNN, Bộ TLHQ chỉ thị Trung Úy LĐT mở khóa 1 huấn luyện Người Nhái tại TTHL/HQ Nha Trang. Tất cả Ban HLNN lo chuẩn bị trợ huấn cụ. Còn tôi thì quyết định không xin ghi tên nhập học, lại làm đơn xin trở về Hải Quân, vì tôi thất vọng bởi các điều khoản ghi trong Nội Quy. Trung Úy LĐT không chịu ký cho tôi về Hải Quân mà khuyên tôi, nếu tôi không muốn học thì cứ ở lại đây để giúp cho Ban HL, vì Trung Úy LĐT biết tôi hiểu biết nhiều về kỹ thuật Người Nhái. Sau khi suy nghĩ tôi đồng ý làm bí thư cho đơn vị phụ giúp cho ban huấn luyện khóa 1 NN tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang.

Sau khi mãn khóa huấn luyện, tất cả di chuyển về Sài Gòn. Vài tháng sau, Bộ Tư Lệnh Hải Quân thi hành chỉ thị của Bộ TTM. Trung Úy Liên Đội Trưởng và đa số NN khóa 1 tình nguyện tăng phái cho Sở Phòng vệ Duyên Hải, và di chuyển ra Đà Nẵng.

Trung úy Lâm Nhật Ninh bàn giao chức vụ Liên Đội Trưởng lại cho HQ Trung Úy Phan Tấn Hưng. Vài tuần sau BTL/HQ phổ biến văn thư đến tất cả các đơn vị Hải Quân để tuyển mộ quân nhân Hải Quân tình nguyện theo học khóa 2 Người Nhái. Ban huấn luyện NN lo sắp đặt chương trình và lãnh trợ huấn cụ.

Trung úy Phan Tấn Hưng sau khi nhận bàn giao chức vụ Liên Đội Trưởng, xem lại hồ sơ nhân viên phục vụ tại Đơn vị NN, Tr/Úy Hưng gọi tôi vào văn phòng và hỏi lý do tại sao tôi đủ điều kiện học khóa NN mà lại không học? Tôi trình bày vì có vài điều khoản trong Nội Quy và Điều Lệ không công bằng cho NN nên tôi không muốn học. Sau khi tôi chỉ các điều khoản đó, Tr/Úy Hưng nói để Tr/Úy xem lại. Vài ngày sau gọi tôi vào văn phòng Tr/Úy Hưng cho tôi biết là đồng ý với tôi vì các điều khoản đó thiệt thòi và bất công cho NN. Tr/Úy Hưng khuyên tôi nên học khóa 2 NN và hứa sẽ làm văn thư xin điều chỉnh lại cho đơn vị sau khi mãn khóa. Sau khi suy nghĩ tôi ghi tên theo học khóa 2 NN.

Khóa sinh tình nguyện theo học NN từ các đơn vị HQ lần lượt về trình diện và được đưa đi khám sức khỏe, và phải qua phần trắc nghiệm thể năng rất gay go mệt nhọc trong vòng 1 tuần lễ để thử sức chịu đựng của khóa sinh.

Trắc nghiệm bơi lội: Thứ hai, bơi 200 thước tính giờ; đến ngày thứ bảy, phải bơi được 1,000 thước, tính giờ.

Trắc nghiệm chạy bộ: Thứ hai, chạy 1 giờ; đến ngày thứ bảy, khóa sinh phải chạy được bốn giờ liên tục, vượt qua các chướng ngại vật, vượt đường cát, chạy nhanh, đường quanh co v. v...

Tất cả khóa sinh về trình diện hơn 400 người, sau hai tuần lễ trắc nghiệm chỉ còn lại là 120 người. Tất cả khóa sinh và Ban HL di chuyển ra TTHL/HQ Nha Trang vào mùa Đông năm 1964, để nhập khóa. Tất cả khóa sinh chúng tôi đều hồi hộp lẫn lo âu. Chương trình HL rất nặng nhọc cực khổ, đòi hỏi khóa sinh phải dẻo dai chịu đựng, không được bỏ bất cứ một giờ học nào, nếu khóa sinh nào bỏ học vì lý do bệnh thì sẽ bị trừ điểm, và cũng là lý do duy nhất dành cho khóa sinh. Ngoài lý do bệnh khóa sinh nghỉ sẽ bị loại khỏi khóa và được đưa trả về đơn vị gốc.

KHÓA HUẤN LUYỆN NN BẮT ĐẦU.

Ngày đầu tiên sau phần thể dục, Thượng sĩ 1 Đào Ngọc Kỳ, Trưởng ban Huấn Luyện giới thiệu chương trình khóa học. Và bắt đầu vào chương trình qua các môn, thực tập bơi bằng chân nhái với ống thở băng ngang qua biển, chèo xuồng cao su Zodiac, chạy bộ đường trường, đường cát, đường sỏi đá và đường núi. Thực tập đột kích, phục kích và phản phục kích, thực tập xử dụng chất nổ phá hoại v. v.. Khóa sinh được HL trong bốn tuần lễ đầu cho đủ sức để bước vào tuần lễ Địa Ngục. “Tuần lễ Địa Ngục”... Chỉ nghe qua chúng tôi cũng đã hình dung được sự kham khổ khó nhọc vô cùng. Nhưng chúng tôi vừa được trang bị với câu Những gì người khác không làm được, Người Nhái phải làm được.

Thể dục “Người Nhái”

Tuần lễ Địa Ngục của Người Nhái.

Tất cả các nơi trong khu vực trại của khoá sinh đều được căng những tấm biểu ngữ màu đen tang tóc với những dòng chữ rất “ân cần” như Mời các bạn khoá sinh vào thăm tuần lễ Địa Ngục. Nào là Quỷ Môn Quan đang chờ các bạn. Và Các bạn hãy tranh đấu với bản thân để vượt qua khổ ải này thì mới lột xác trở thành Người Nhái. Tấm thực đơn nơi phòng ăn cũng được đổi món hàng ngày với các món ăn toàn là họ hàng của Người Nhái như: Ếch chiên bơ, Nhái xào lăn, Cóc Tía nấu canh chua, Nòng nọc lăn bột chiên v.v. Khóa sinh thầm bảo nhau phải hết sức cố gắng nếu vấp ngã thì coi như mộng ước tan thành mây khói.

Khai mạc: 5 giờ sáng còi tập họp. Trưởng Ban Huấn Luyện giới thiệu chương trình trong tuần lễ này tất cả khóa sinh đều phải thi đua tranh thắng với tình đồng đội, mỗi xuồng cao su là một đội. Điều lệ tranh đua, nếu xuồng nào về áp chót và chót thì phải tự động vào thế nhận phạt. Và các bạn được ngủ 7 giờ trong một tuần bắt đầu từ 12 giờ đêm sau buổi ăn khuya, các bạn sẽ được huấn luyện viên hướng dẫn.

Thể dục NN là căn bản cho sức khỏe hàng ngày đều phải tập luyện, tiếp theo là khoá sinh tranh môn Trò Chơi Thuyền Trên Bãi Cát. Nghe thì hấp dẫn nhưng không phải vậy. Tất cả các Đội đều đội trên đầu chiếc xuồng cao su đã sẵn sàng trên lằn mức. Sau tiếng còi của HLV các đội tranh nhau vượt chướng ngại vật trên đường đua để về trước nên đã đụng nhau té lăn trên bãi cát nóng. Cố gắng giành nhau về trước, nhưng vẫn có hai xuồng về sau, và được HLV cho vào thế 20 cái hít đất với chiếc xuồng cao su trên lưng nặng khoảng 200 ký. Và cứ tiếp tục hết tranh đua môn này thì lại tiếp theo môn khác. Quần quật cho đến giờ ăn trưa, khoá sinh có 15 phút để ăn và nghỉ. Chúng tôi phải ăn thật nhanh để còn lo vệ sinh cá nhân và nằm dưỡng sức không dám nói chuyện với nhau vì sợ hết giờ. Sau đó lại tiếp tục tranh đua các môn khác do HLV chỉ dẫn.

Tuần lễ này lại gặp phải thời tiết mưa bão liên miên (bão Lucy kéo dài suốt tuần lễ Địa Ngục.) Khi bóng đêm chìm xuống, người dân xóm Chutt thỉnh thoảng lại thấy qua những lằn sét chớp lên trong cơn mưa, ẩn hiện một đoàn người như bóng ma, âm thầm lặng lẽ miệt mài trong bóng đêm chịu đựng gian khổ. Có đêm phải chèo xuồng vượt sóng dưới cơn thịnh nộ của biển cả. Ngọn sóng cao từ 3 dến 4 thước sầm sập ập vào những chiếc xuồng đầy nước. Có chiếc lạc tay chèo lái bị sóng đánh bay lên bãi cát. Các khóa sinh cố đẩy xuồng vượt sóng ra khơi thật không phải là chuyện dễ dàng. Có chiếc đang vượt ra lại bị sóng đánh lật ngược chiếc xuồng, một khoá sinh không may bị xuồng đè lên bị trật cả khớp xương sống, HLV chở vào nhà thương nên đành bỏ cuộc.

Cũng tuần lễ Địa Ngục này tôi bị trợt chân trong khi vượt đường núi, té xuống gành đá, tôi chống tay trên san hô ngón tay cái bị tét một đường dài, đau nhức vô cùng vì trong san hô có chất nhớt tiết ra rất độc, tôi phải cố chịu đựng ôm ngón tay càng lúc càng sưng lên, tôi chịu đựng trong 3 giờ vượt núi mới được nghỉ và tự lo săn sóc cho mình vì đây là tuần lễ Địa ngục mà (cho đến bây giờ ngón tay cái của tôi vẫn còn vết thẹo xẻ đôi vòng tròn hoa thị, sau khi lành lại đã biến thành hai vòng hoa thị.)

Ban đêm thì cũng tranh đua tìm phương hướng, phục kích, đột kích, phản phục kích. Đến 12 đêm, khoá sinh được ăn cháo và bắt đầu ngủ, khoảng 15 phút sau HLV thổi còi ra lệnh: khoá sinh tập họp, quân phục quần đùi áo trận, giày bên phải boot, bên trái là dép, 2 phút sau tập họp. HLV chờ sẵn ngoài sân đón các khoá sinh ra trễ và 20 hít đất vào thế. Đoàn người khập khễnh chạy ra bãi biển trong mưa gió và ngâm mình dưới nước biển lạnh căm căm. Vài phút sau, chạy lên bờ hú gió kêu mưa vang trong bầu trời mùa đông lạnh lẽo. Nhận thấy khoá sinh đã đuối sức, HLV dẫn chạy về trại cho ngủ tiếp. Và cứ như vậy khoá sinh ngủ được 15 phút lại được đánh thức với lệnh của HLV mà thi hành. Suốt đêm cộng lại ngủ được 1 giờ mà thôi. Vì quá sức chịu đựng nên có một số khoá sinh đã tự động xin bỏ cuộc.

Các môn huấn luyện trong tuần lễ Địa Ngục như sau đây:

• Thực tập chất nổ trên bờ, chất nổ dưới nước.
• Phá hoại trên bờ, phá hoại dưới nước.
• Đột kích, phục kích, phản phục kích.
• Phòng thủ trên bờ, phòng thủ dưới nước.
• Giết lính gác, bắt tù binh, giải thoát tù binh.
• Thu thập tin tức tình báo tác chiến.
• Bơi trên mặt nước, lặn dưới mặt nước ban ngày và ban đêm.
• Đội xuồng vượt chướng ngại vật.
• Chèo xuồng vượt sóng, ban ngày và ban đêm.
• Chạy bộ vượt đèo, vượt núi, chạy bộ đường cát, sình lầy ngày và đêm.
• Thả và vớt bằng xuồng cao su.
• Thám sát trên bờ, thám sát dưới nước.
• Lặn sâu, lặn xa, lặn có bình hơi và không có bình hơi.

Mỗi ngày đều bắt đầu bằng một giờ thể dục Người Nhái và tiếp theo là chạy bộ 30 cây số đường trường, rồi lội 4 hải lý (1 hải lý là 1,852 thước) 1,852 th x 4 hl =7,408 thước. Tất cả vệ sinh thường thức đều hủy bỏ hết, vừa ăn xong là tiếp theo giờ cận chiến trên bãi cát nóng, gồm các thế võ Việt Nam, Judo, Jiu Jitsu, Karate, Aikido và Teakwondo…. Tập luyện những thế võ giết địch không gây tiếng động.

Liên tục như vậy cho đến ngày thứ sáu, chúng tôi đã trải qua khổ nhục:

• 2 lần bơi từ bãi TTHL/HQ qua Hòn Lớn và trở về điểm Cầu Đá (khoảng cách 7,450 thước một lần).
• 2 lần đi dây Tử Thần bên TTHL/Biệt Động Quân.
• 2 lần chèo xuồng cao su quanh Hòn Lớn v.v..

Tất cả khóa sinh chúng tôi đều mệt mỏi dật dờ. Có anh đã ngủ gục trong lúc chèo xuồng vì đuối sức. Nhưng mọi sự việc rồi cũng trôi qua.

Hôm nay là ngày cuối cùng của tuần lễ Địa Ngục, khóasinh chúng tôi lên tinh thần vì chỉ còn buổi hành xác 4 giờ chạy bộ là chúng tôi được “mở ngục”. Đúng 5 giờ sáng, tập thể dục xong, khóa sinh ăn điểm tâm và bắt đầu chạy từ TTHL/HQ dọc theo bãi biển vòng qua thành phố Nha Trang rồi chạy về Cầu Đá, vòng qua núi Lớn xuống Đồng Bò và trở về TTHL/HQ đúng 12 giờ trưa là chấm dứt.

Một khóa sinh gặp rủi ro khi đang chạy, anh bị sụp lỗ trên đường làm anh bị trật gân chân, đau quá nhưng cũng cố lê lết về đến trại thì đã quá giờ ấn định nên bị loại, anh ôm đầu tuôn rơi nước mắt.

oOo

Chấm dứt tuần lễ Địa Ngục, tất cả khóa sinh đều vui mừng nhưng không còn sức để reo hò mà tất cả đều nằm lăn ra ngủ vùi. Sau tuần lễ này cân đo lại mỗi khoá sinh đều sụt mất từ 4 cho đến 5 ký lô. Và nhân số khóa sinh đã rơi rụng từ đầu khóa là 120 người, đến sau tuần lễ Địa Ngục chỉ còn lại khoảng 40 người….

Bắt đầu khóa sinh học qua phần chuyên môn cao cấp tiếp theo như:

• Lặn sâu với bình hơi thở

• Thực tập đo nước lập Thủy Đạo

• Cập nhật hải đồ qua các phương pháp Bình Hành và Tác Chiến

• Thực tập chất nổ TNT, C4, v.v... các phương pháp và công thức khác nhau và các cách phá hoại để chận đường tiến quân, tạo chướng ngại vật để cản trở đường di quân của địch bao nhiêu phần trăm v.v...

• Thực tập Hải bàn và địa bàn của Bộ binh.

• Huấn luyện cận chiến võ thuật chiến đấu dưới nước v.v...

Thực tập Đột Kích. Ngày và đêm

Hôm nay là ngày đầu tiên thực tập nhảy không có dù từ trực thăng xuống biển từ ngoài khơi bơi vào bờ để phá hoại.

Thời tiết biển động cấp 3, cấp 4, sóng cao và gió thổi mạnh. 8 giờ sáng, 2 chiếc trực thăng của TTHL/KQ đáp xuống bãi biển trước TTHL/HQ. Chúng tôi đã sẵn sàng, một chiếc chở 6 khóa sinh bay lên trước để thử tốc độ gió. Khóa sinh Hồ Văn Khếnh được chỉ định nhảy trước vì anh đã được huấn luyện trong khóa Biệt Hải tại Đà Nẵng rồi. Trực thăng bay lượn một vòng rồi hạ thấp xuống lần còn cách mặt nước khoảng 20 thước, anh Khếnh đã đứng trước cửa hông của trực thăng sẵn sàng chờ khi hạ thấp còn chừng 10 thước thì đúng độ nhảy. Theo quy luật 30-30 nghĩa là -- trực thăng bay cách mặt nước 30 feet với tốc độ 30 Knots (30 Miles/giờ hay là 30 dặm/giờ), bỗng chiếc trực thăng bị hụt gió nên giật mạnh về một bên, anh Khếnh bất ngờ bị văng ra khỏi trực thăng vì mất thăng bằng chới với rớt xuống biển chìm luôn, khóa sinh chúng tôi vội nhào xuống biển tìm vớt, nhưng vì biển động mạnh đã cuốn xác anh ra xa.

Tạm ngưng chương trình huấn luyện, chúng tôi lo tìm kiếm xác anh Khếnh. Qua đến ngày thứ ba, toán ca nô đã vớt được xác của anh trôi qua gần tới Hòn Bãi Miếu. Khi khám nghiệm thi thể, bên hông anh bị gãy hết mấy xương sườn vì bị đập xuống mặt nước. Tang lễ tiễn đưa anh Khếnh ra nghĩa trang Khánh Hòa.

Ngày hôm sau chúng tôi bắt đầu thực tập nhảy trực thăng trở lại. Tiếng trực thăng bay vòng qua xóm Chutt làm kinh động người dân họ chạy ra xem chúng tôi đang thực tập. Họ lo sợ xôn xao bàn tán vì thấy tai nạn vừa xảy ra mà sao chúng tôi còn dám tập? Nhưng cuộc thực tập của chúng tôi ngày hôm đó đã thành công.

Lần lượt các môn học và thi mãn khóa. Tôi đậu Thủ khoa của khóa 2NN. Khóa sinh chúng tôi thở phào nhẹ nhỏm. Điểm lại khóa sinh đậu bằng chỉ còn lại 33 người (gồm 2 Sĩ Quan và 31 Hạ Sĩ Quan/ĐV.) Thật là gian nan!

Ngày lễ mãn khóa được ấn định vào tháng 1/65. Khóa sinh được nghỉ ngơi một tuần trước khi làm lễ mãn khóa. Trung úy Hưng giao cho tôi trách nhiệm vẽ Phù Hiệu cho đơn vị.

Tôi nghĩ tới bức hình vẽ một tổ Người Nhái và trái thủy lôi, đã làm cho tôi say mê và đã giúp tôi đạt được ước vọng trở thành Người Nhái như ngày hôm nay. Tôi vẽ hình trái Thủy Lôi đó vào giữa phù hiệu và màu đen của trái Thủy Lôi tượng trưng cho sự nguy hiểm, và cũng có ý nghĩa để tang cho tất cả Người Nhái anh dũng hy sinh vì Tổ Quốc.

BUỔI LỄ MÃN KHÓA 2 NGƯỜI NHÁI tại TTHL/HQ/NT

Hôm nay16-1-1965, là ngày trọng đại của khóa sinh chúng tôi. 5 giờ sáng anh em đã có mặt nơi diễn trường, cùng lo xếp đặt vật liệu, dụng cụ biểu diễn. Nơi khán đài các toán Sinh viên sĩ quan Hải Quân lo chuẩn bị dàn chào danh dự, và kiểm soát các hàng ghế của quan khách. Đúng giờ khai mạc, Đại Tướng Nguyễn Khánh Tổng Tư Lệnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đến, Tư Lệnh Hải Quân Đề Đốc Chung Tấn Cang cùng với Hải Quân Trung Tá Nguyễn Đức Vân Chỉ Huy Trưởng TTHL/HQ, ra tiếp đón quan khách.

Bắt đầu làm lễ, khóa sinh Thủ khoa bước ra khỏi hàng quân tiến lên giữa hàng quay mặt về hướng khóa sinh, dõng dạc hô to: Khóa sinh! Quỳ! Dưới hàng quân Khóa sinh hô to đáp lại: Xuống! Và tất cả khóa sinh đồng quỳ xuống, Thủ Khoa xoay người lại, hướng về phía quan khách rồi quỳ xuống, đưa tay thẳng về trước, đọc lời tuyên thệ Trung thành với Tổ Quốc, từng câu một, và khóa sinh cùng lập lại. Khi dứt lời tuyên thệ, Thủ Khoa đứng lên và bước tới ba bước, đứng nghiêm chào.

Đại Tướng Nguyễn Khánh bước đến trước Thủ khoa trao bằng Danh Dự rồi trở về khán đài. Thủ khoa xoay trở lại trước hàng quân, dõng dạc hô to Người Nhái… Đứng. Khóa sinh hô to đáp lại: Lên! Và kể từ giờ phút đó Khóa sinh đã trở thành Người Nhái.

Cuộc biểu diễn những kỹ thuật đặc biệt của Người Nhái

Bắt đầu các cuộc biểu diễn các môn như: Cận chiến, đột kích, phục kích, đổ quân từ ngoài khơi lội vào bờ phá các chướng ngại vật, phá hủy các công sự phòng thủ. Rồi bơi ra khơi so hàng dưới nước rồi tàu chạy đến kéo vớt lên với kỹ thuật đặc biệt của NN.

Tổ NN đổ quân bằng trực thăng để Người Nhái lặn đến mục tiêu phá hủy tàu ngoài khơi, do tôi và NN Nguyễn Đức Nguyên biểu diễn. Sau khi lặn đến đặt chất nổ dưới lườn ghe (tượng trương cho chiếc tàu), tổ của tôi lặn thẳng vào bờ biển và chạy đến trước khán đài. Đứng nghiêm chào thì là đúng giờ khai hỏa, chất nổ C4 đặt dưới lườn ghe phát nổ và chiếc ghe tan tành theo cột nước khổng lồ tung lên không trung.

Ảnh từ trái qua: Đại Tướng Nguyễn Khánh, Tổng Tư Lệnh QL/VNCH.
Ảnh giữa: Quan Khách chụp ảnh lưu niệm. Khóa 2 NN
Ảnh Phải: Phó Đề Đốc Chung Tấn Cang, Tư Lệnh Hải Quân

Sau buổi biểu diễn mãn khóa, Người Nhái chúng tôi được lệnh phải biểu diễn thêm một lần nữa tại Vũng Tàu theo chỉ thị của Đại Tướng để cho Hội Đồng Quân Lực và Nội Các Chánh Phủ xem, vì Đại Tướng cho biết rất thích cuộc biểu diễn của Người Nhái vừa rồi!

oOo

Riêng về phần tôi, những mơ ước ngày còn thơ ấu, nay đã trở thành sự thật. Sự thành công mà tôi đã phải trả một giá thật đắt, thật gian nan nếu tôi không đủ nghị lực, kiên nhẫn thì chắc không có được như ngày hôm nay. Và sự thành công này cũng đầy hiểm nguy trùng trùng điệp điệp cho đời tôi đang mở ra trước mắt vì nhiệm vụ Người Nhái là phải thi hành công tác đặc biệt trong nhiều lãnh vực, v.v... Với lòng tự tin Người Nhái chúng tôi qua câu “Những gì người khác không làm được, Người Nhái phải làm được” để tự khuyên mình cố gắng nhiều hơn để hoàn thành mọi công tác do cấp trên giao phó.

HUẤN LUYỆN VIÊN NGƯỜI NHÁI

Năm 1965, Sau khi mãn khóa 2 NN, Liên Đội Người Nhái di chuyển ra căn cứ Hải Quân Cát Lở Vũng Tàu. Vào cuối năm BTL/HQ gởi văn thư cho LĐNN mở khóa huấn luyện cho một toán LLĐB gồm 5 người gốc Miên ở Hậu Giang để thi hành công tác bí mật ở Nam Vang.

Huấn luyện viên gồm có: Nguyễn Đức Nguyên (Trâu cổ) Nguyễn Văn Cang (Cang Mão) Huỳnh Ngọc Sâm (Sâm khùng), Nguyễn Văn Đạt (Đạt gồ) và tôi (An trâu nước).

Các khóa sinh ưu tú của LLĐB đã được tuyển chọn gởi đến. Nhưng sau hơn một tuần huấn luyện các khóa sinh LLĐB đã gởi thư xin đơn vị cho bỏ khóa học vì không theo nổi. Nhưng vì nhu cầu cần thiết của công tác nên BTL/LLĐB gởi công điện cho BTL/HQ yêu cầu giảm bớt phần huấn luyện chỉ cần học 1/3 chương trình huấn luyện mà thôi.

Sau khi mãn khóa, toán LLĐB trở về đơn vị. Và khoảng một năm sau báo chí loan tin chánh phủ Nam Vang kiện VNCH lên tới Liên Hiệp Quốc lý do là đã huấn luyện Biệt Kích đưa qua phá hoại Cam Bốt.

Nhân đây tôi xin lược qua nhiệm vụ huấn luyện viên NN là phải tập luyện cho các khóa sinh nếm mùi khổ nhọc, nhẫn nại để đi đến thành công. Vì Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu để sau này tung ra công tác tại các toán trên 4 Vùng Chiến Thuật, khắp 5 vùng Duyên Hải.

Nhưng khi nói đến huấn luyện viên Người Nhái thì phải biết các anh có sức chịu đựng hơn người vì các anh này là thành phần ưu tú trong các khóa học cũng như công tác và cũng từng trải qua các trận chiến. Ngoài chương trình huấn luyện chính, các anh còn đem kinh nghiệm của bản thân để giúp cho các khóa sinh hiểu biết thêm.

Khi huấn luyện nếu các khóa sinh thi hành không đúng lệnh thì huấn luyện viên cũng tự động VÀO THẾ 20 đến 50 cái hít đất với khóa sinh, nhiều khi cùng lúc phạt hết khóa sinh này lại đến khóa sinh khác, khi cộng lại người huấn luyện viên hít đất đến cả ngàn cái trong buổi huấn luyện. Các môn huấn luyện khác HLV luôn luôn hướng dẫn và cùng thi hành với khóa sinh chớ không phải chỉ tay năm ngón, vì thế nên các khóa sinh trong khi thụ huấn đều gọi các huấn luyện viên là HUNG THẦN. Còn các Huấn Luyện Viên khi vào khóa thì cũng giống như đang học thêm một khóa NN.

Mục đích sử dụng hình phạt trong lúc huấn luyện chính yếu là:

1. Phải TỰ GIÁC khi mình lầm lỗi, phải tự động phạt mình để tự mình sửa chữa lỗi lầm, phải cẩn trọng trong mọi công việc, vì khi đi công tác mà lầm lỗi chỉ một lần thôi thì đã về bên kia thế giới rồi (không có lần thứ hai) như ngành Phá hoại dưới nước UDT, tháo gỡ chất nổ EOD, v.v..)

2. Phạt hít đất hay những hình phạt khác đều có tính cách là tạo thêm sức khỏe, sự chịu đựng dẻo dai và nhẫn nhục cho khóa sinh, nhưng huấn luyện viên vẫn phải đi đầu! Nếu đem so sánh với các quân trường khác thì chúng ta sẽ thấy khác biệt, vì các quân trường đều áp dụng hình phạt kỷ luật, huấn luyện viên hoặc huynh trưởng chỉ ra lệnh cho khóa sinh hay sinh viên thi hành mà thôi, mục đích chính là tạo cho khóa sinh, sinh viên sĩ quan sợ kỷ luật mà tuân hành (vì người viết bài đã tốt nghiệp khóa 5/70 SQĐB Quân Trường Bộ Binh Thủ Đức).

Được trui rèn trong lò “Luyện thép” của Người Nhái (South Vietnam Navy SEALS) nên khi đi công tác hành quân, Người Nhái cảm thấy những khó khăn gặp phải đều không bằng trong lúc thụ huấn cho nên họ rất tự tin, và dĩ nhiên nếu NN có can trường xông pha oanh liệt nơi chiến trường thì chúng ta phải hiểu rằng huấn luyện viên của Người Nhái còn cao hơn họ một bậc!

NN Lê Đình An

 

https://dongsongcu.wordpress.com/2016/11/17/nguoi-nhai-uoc-vong-cua-toi/

 

 

 

by

lda_taothanhVC1

Bài viết của NN Lê Đình An

lda_taothanhVC2

Vào khoảng gần cuối năm 1966, thương thuyền của ngoại quốc ra vào trên sông Lòng Tào, từ Vũng Tàu đến Sài Gòn, thường bị Việt Cộng bắn phá. Theo tin tình báo, VC dùng chiến thuật du kích tấn công các tàu bè di chuyển trên dòng sông nầy với ý định cô lập và cắt đứt đường giao thông thủy lộ huyết mạch vào Thủ Đô.Chúng chuyển quân gồm có cả Đặc công thủy từ Mật khu Bình Giã qua ngả Long Thành rồi xâm nhập vào vùng sình lầy Rừng Sát và phân tán ra thành các chốt, các Toán nhỏ tận trong rừng sâu giữa 2 con sông Soai Rạp và sông Lòng Tào và mỗi khi chúng chuyển quân từ mật khu Bình Giã xuống miền Tây thì các nơi nầy là điểm chúng dừng quân tạm... Chúng ẩn núp hai bên bờ sông bắn sẻ vào các thương thuyền. Chúng bắn phá ngay cả vào các chiến đỉnh tuần tiễu của Hải Quân, dùng Đặc công thủy đặt thủy lôi, mìn bẫy để phá hoại các ghe tàu di chuyển trên dòng sông nầy.

Đặc công thủy của Việt Cộng có công tác cũng hơi giống như Người Nhái Hải Quân VNCH, nhưng Đặc công thủy của Việt Cộng không được huấn luyện kỷ mà chỉ được huấn luyện cho từng công tác và chỉ sử dụng cho công tác riêng đó mà thôi, còn Người Nhái HQVNCH thì được huấn luyện khó khăn kỷ lưỡng, đa năng để sử dụng trong mọi công tác, và trong mọi trường hợp tùy theo nhu cầu chiến trường, Người Nhái có thể tự mình ứng biến cho thích nghi với hoàn cảnh địa hình địa vật nơi đó để hoàn thành công tác..

Trong phạm vi bài nầy chỉ nói về chuyến công tác hành quân 3 tháng của 10 Người Nhái đầu tiên phối hợp với Người Nhái Hoa Kỳ tại vùng Rừng Sát Nhà Bè, mở đầu cho các trận chiến phối hợp hành quân giữa Người Nhái Việt Nam và Người Nhái Hoa Kỳ về sau mà thôi.

lda_taothanhVC3

lda_taothanhVC4 Bộ Tự Lệnh Hải Quân /P3 VNCH phối hợp với bộ chỉ huy hành quân Hoa Kỳ. Đại Tướng Westmoreland Tư Lệnh của Quân đội Mỹ, chỉ thị một đơn vị Người Nhái Hoa Kỳ thành lập căn cứ tại Nhà Bè. Còn về phía Bộ Tư Lệnh Hải Quân/P3. VNCH. Chỉ thị cho Liên Đội Người Nhái (Lúc đó cấp số Người Nhái còn ít chưa trở thành Liên Đoàn.) Tuyển chọn 10 nhân viên ưu tú phối hợp với NN Hoa Kỳ để mở màn cho chiến thuật, dùng Du kích chống Du kích hay là chiến thuật “Gậy ông đập lưng ông.”.

Toán Người Nhái 10 người đầu tiên chuẩn bị đầy đủ trang bị tác chiến, xe Liên Đội Người Nhái đưa qua Bộ Tư Lệnh HQP3. Đại Úy Trưởng Phòng 3 cho 10 NN biết chuyến công tác rất quan trọng như là một trắc nghiệm khả năng tác chiến của Người Nhái Việt Nam.

- 10 NN nhận Sự vụ Lệnh công tác rồi xuống trình diện Bộ Chỉ Huy NN Hoa Kỳ đóng kế bên Căn cứ Hải Quân Nhà Bè thuộc Đặc Khu Rừng Sát.

Sau khi trình diện, 10 NN Việt Nam được Đại Úy Trưởng Toán NN/HK (Tôi không còn nhớ tên vì lâu quá.) hướng dẫn đi xem và giới thiệu tất cả các nơi trong căn cứ, và các loại vũ khí trang bị cho cá nhân…(Navy Seals là đơn vị đặc biệt của Hải Quân Hoa Kỳ nên đã có trước các loại vũ khí mới vừa được chế tạo để sử dụng riêng như M-15 (về sau là M-16) hoặc Trung liên cá nhân Stoner .v.v.), các loại tàu hành quân như PBR,

Khi trở về phòng họp, Đại Úy Trưởng Toán NN Mỹ cho biết về việc nơi ăn chốn ở thì bên Căn cứ Hải Quân Việt Nam tại Nhà Bè sẽ lo cho NN Việt Nam.. Trước khi chấm dứt buổi họp, Đại Úy Mỹ hỏi có cần hỏi gì không .? Tôi nhận thấy có trở ngại nên xin phép được bàn thảo với nhau vài phút trước khi trả lời .

Tôi đề nghị anh em khoan nhận công tác với Đại Úy Trưởng Toán NN Mỹ vì có trở ngại, lý do : Về vấn đề ăn, ở của chúng ta không được thuận tiện, vì bên Căn cứ Hải Quân Việt Nam những bữa ăn và ngủ có giờ nhứt định. Còn đi công tác với NN Mỹ thì bất thần.. Và việc quan trọng là chúng ta 10 người Nhái đầu tiên hợp tác với NN Mỹ. Họ muốn biết khả năng của chúng ta, vì vậy mà ảnh hưởng rất quan trọng cho Đơn vị NN Việt Nam về sau.

Tôi nhận thấy điểm quan trọng là trong công tác nầy Hoa Kỳ muốn xem khả năng NN Việt Nam trong công tác phối hợp hành quân, mà chúng tôi không có đủ điều kiện như NN Mỹ thì chẳng khác nào như 2 võ sĩ lên đài thi đấu mà một bên được ăn uống đầy đủ, còn một bên không được ăn uống đầy đủ thì làm sao biễu diển thi thố tài năng cho được?

Sau khi bàn thảo xong NN Việt Nam đưa ý kiến cho Đại Úy Mỹ biết là đang gặp trở ngại nên chưa có thể nhận công tác, sẽ trình diện lại sau khi được Bộ Tư Lệnh Hải Quân giải quyết..

- 10 NN trở về trình diện lại BTL/HQ/P.3 Chúng tôi cho biết những trở ngại và nhờ BTL/HQ/P.3 can thiệp với bên văn phòng Quân sự Hoa Kỳ để được cấp nơi ăn và ở chung với Toán NN Mỹ thì NN Việt Nam mới có đủ sức để hoàn thành công tác được. BTL/HQ/P.3 đồng ý đề nghị của Toán NN và cho trở về LĐNN để chờ.

Qua ngày hôm sau Toán NN được BTL/HQ/P.3 thông báo mọi việc đã giải quyết xong. Bộ Chỉ Huy NN Mỹ đã nhận được chỉ thị sắp xếp cho NN Việt Nam ở chung khu vực, 10 NN trở xuống trình diện lại BCH/ NN Mỹ. Nhưng 10 NN Việt Nam nhận được sự tiếp đón lạnh nhạt của NN Mỹ chớ không thân thiện như lần đầu.. Toán NN Việt Nam họp lại và cùng một nhận xét giống nhau. Bị chạm lòng tự ái , 10 NN Việt Nam bảo nhau. Mình phải cố gắng trong công tác để cho NN Mỹ thấy rõ khả năng của NN Việt Nam..

10 NN [Người Nhái] Việt Nam được chia ra cho 10 Toán NN Mỹ. Nhiệm vụ của NN Việt Nam là Tiền Sát (Point Men) đi trước thám sát và hướng dẫn Toán, bên NN Mỹ cũng có một Point Men cùng đi chung.

Công tác hành quân phục kích.

Chuyến công tác đầu tiên của Toán tôi với 5 NN Mỹ và 1 Trung sĩ NN Porter Phụ tá Cố Vấn của LĐNN cùng đi, tất cả là 7 người. Sau buổi họp nhận lệnh hành quân, tôi nhận xét NN Mỹ khi đi công tác họ được yểm trợ hỏa lực thật là mạnh mẽ và rất an toàn khi cần cấp cứu, chuẩn bị thật kỹ càng nghiên cứu thật tường tận về không ảnh và bản đồ, như chuyến công tác 2 ngày nầy gồm có :

- 4 chiếc Trực Thăng võ trang. (2 chiếc bắn chận để bảo vệ và 2 chiếc cấp cứu.)
- 1 chiếc L.19 Phi cơ Quan sát.
- 1 Căn cứ Pháo Binh Nhà Bè.
- 2 PBR.(Patrol Boat River).
- 1 Seal Boat chở NN đi công tác.
- BCH/Hành Quân có thể liên lạc với Không Lực Hoa Kỳ khi cần đến bất cứ lúc nào .
- Tất cả các lực lượng trên đều ứng trực 24/24.

(NN Việt Nam đánh giặc theo lối “Nhà nghèo” chỉ lấy thân đỡ đạn chứ không thể có được sự yểm trợ đầy đủ và mạnh mẽ như vậy.)

Toán Công Tác được báo thức lúc 3 giờ khuya, tôi cùng Toán Công Tác đi ăn sáng rồi lên đường với đầy đủ trang bị vũ khí, đạn dược và lương khô dùng trong 2 ngày.

Khởi hành lúc 4 giờ sáng, chiếc Seal Boat trong nhiệm sở tác chiến, tất cả nhân viên trên tàu đều phải mặc áo giáp và đội nón sắt, tàu chở Toán Công Tác di chuyển trên dòng sông Lòng Tào, phía trước và sau có 2 chiếc PBR chạy cách khoảng xa xa...

Khoảng 6 giờ sáng, đến khu vực tác xạ tự do (Vùng cấm dân chúng di chuyển) Tất cả NN đều đem súng cá nhân ra bắn thử khoảng chừng nửa băng rồi lắp đạn mới vào cho đầy đủ, bắn thêm vài viên cho thật bảo đảm súng của mình không bị trở ngại rồi khóa an toàn, khi đến địa điểm đổ bộ, cả Toán cởi áo giáp và nón sắt để lại tàu và chuẩn bị đổ bộ.

Đến địa điểm lúc 7 giờ sáng, trời còn mờ sương . Chiếc Seal Boat ủi bãi, NN chúng tôi súng đều mở khóa an toàn sẵn sàng tác chiến. Mũi chiếc Seal Boat vừa chạm vào bãi sình, Toán NN nhanh nhẹn nhảy xuống trước cửa đổ bộ nước ngập đến ngang ngực, chúng tôi đứng yên tại chỗ quan sát trong lúc tàu rút lui ra xa. Toán NN lần lượt di chuyển nhẹ nhàng trong vùng sình lầy nước đọng lẩn khuất vào các lùm cây .

lda_taothanhVC5

“Rừng Sát”. Địa danh thật là bí hiểm đúng nghĩa vì nơi nầy chỉ có toàn là các loại cây sống chìm gốc dưới nước như cây Bần, Đước và Dừa nước.v.v.. Trên một diện tích rộng bao la, và thỉnh thoảng mới gặp vài khoảng đất hơi cao ráo. Toán NN di chuyển lần sâu vào bên trong và vì phải lẩn tránh các bụi cây rậm rạp, vừa đi vừa trầm mình lội dưới nước, có chỗ nước cao ngang đầu gối, có chỗ lại ngập khỏi đầu, trong suốt 5 giờ di hành liên tục (từ 7.giờ sáng đến 12.giờ trưa.) Cả Toán dừng lại lập vòng đai an toàn để nghỉ giải lao và ăn trưa với lương khô mang theo dưới vòm cây rậm rạp.

10 phút ăn và nghỉ xong, Trung Úy Trưởng Toán họp bàn, ông ta cho biết rất khó xác định vị trí trên đường đến địa điểm. Vì trước khi hành quân , tất cả Toán đều họp lại để nghiên cứu địa điểm phục kích trên bản đồ và các không ảnh.. Nhưng trên thực tế thì có nhiều thay đổi về địa hình và địa vật, . .Thí dụ như trên bản đồ hành quân và không ảnh cho biết trên đường di chuyển sẽ qua khoảng 20 con rạch, nhưng Toán NN đã lội qua hơn 30 con rạch rồi mà mới có phân nửa đoạn đường.(theo ước tính phải đến điểm phục kích là 10 tiếng đồng hồ di chuyển ở khoảng giữa hai dòng sông Xoai Rạp và Lòng Tào).

Trưởng Toán quyết định gọi Căn cứ Pháo Binh tại Nhà Bè bắn đạn khói để xác định vị trí. Sau khi nghe tiếng đại bác của Căn cứ Pháo Binh bắn đi, cả Toán NN đã sẵn sàng di chuyển, không đầy 1 phút một tiếng nổ nhỏ trên đầu chúng tôi và tỏa ra một lùm khói trắng rồi tan đi rất mau, cả Toán cấp tốc di chuyển thật nhanh ra khỏi vùng đó vì sợ địch có thể phát giác, trong khi đó Trưởng Toán cũng đã báo cáo về Căn cứ Pháo Binh và BCH/Hành quân là đã xác định được điểm..Điểm ghi nhận NN Mỹ họ rất giỏi về địa bàn và nhận định phương hướng.
Toán NN bắt đầu lọt vào vùng địch đóng quân, vì trên đường đi Toán phát giác qua nhiều con rạch có nhiều lu mái dấu trong các lùm dừa nước, có lẽ Việt Cộng dùng để chứa nước mưa hoặc nước ngọt được tiếp tế từ ngoài vào.. Những tàn tích tro than, các chỗ trống trong các lùm cây còn để lại, theo ước tính cho biết từ cấp Đại Đội đến cấp Tiểu Đoàn của Việt Cộng vừa rút đi. Cả Toán tiếp tục di chuyển rất cẩn thận với cảnh giác cao độ.

Đến điểm phục kích là 5 giờ chiều, Tr/Úy Trưởng Toán chọn địa điểm thích hợp. Toán chia ra nằm rải dọc theo bờ sông, sau khi sắp xếp xong Toán rút lui vào phía trong khoảng chừng 50 thước và lập vòng đai an toàn, Trưởng Toán báo cáo về BCH/Hành Quân. Khoảng chừng 10 phút sau một chiếc L.19 bay lượn trên không để tìm địa điểm của chúng tôi, Trưởng Toán NN hướng dẫn cho L.19 biết tọa độ chính xác, L.19 báo xuống đã thấy được Toán và từ giã rồi bay đi. Tất cả lấy lương khô ra ăn.

Chờ đến khoảng 7 giờ, trời vừa mờ tối tất cả về vị trí phục kích. Nơi đây dòng sông rộng khoảng chừng 30 thước ngang, hai bên bờ tàn lá dừa nước phủ là đà trên mặt nước, Toán NN đang phục kích tại một khúc sông hơi cong hình cánh cung để có thể quan sát trọn 2 chiều, toán phục kích nằm giữa, 2 quan sát viên chia nhau mổi người một đầu sông, thủy triều giờ nầy đang lên chảy vào từ hướng sông Xoai Rạp đổ qua sông Lòng Tào.

Vùng nầy thật hoang vu vì là cấm địa không ai được phép lai vãng, nếu có xuồng ghe di chuyển thì chắc chắn là Việt Cộng chớ không có người dân nào đi trên vùng nầy cả và nhứt là ban đêm.

Tôi đang ngồi dựa gốc cây bần ghìm tay súng nhìn về hướng sông Xoài Rạp, mặt sông phẳng lặng gợn lăn tăn những làn sóng nhẹ dưới bóng mờ của ánh sao đêm, những cơn gió xào xạc đong đưa những tào lá dừa tạo thành âm thanh buồn vời vợi.. Cảnh vật đã tạo cho tôi niềm hoài cảm..Quê hương mình còn đắm chìm trong khói lửa triền miên... biết đến bao giờ mình và các bạn đồng ngũ sẽ được trở về đời sống thanh bình...

Tôi đang miên man trong suy tư… Bổng thấy ánh sáng phản chiếu ánh sao đêm lóe nhẹ lên theo làn sóng gợn từ xa phía bên kia sông phía bên tôi, còn xa nên chưa thấy rõ lắm Tôi tập trung theo dõi trong bóng tối đen, lại thêm một lượn sóng nhô lên lao xao, tôi nhìn thấy và nhận ra là một chiếc xuồng đang chèo hướng về phía Toán đang phục kích. (dòng nước đang chảy từ hướng Xoai Rạp qua sông Lòng Tào nên ghe của chúng cũng di chuyển xuôi theo nước.) Tôi lấy một cục đất nhỏ ném về phía người kế và ra thủ hiệu nhìn theo hướng chiếc xuồng cho người kế biết, và người kế tiếp tục thông báo cho người tiếp theo. Bảy mũi súng tự động tập trung hướng về chiếc xuồng sắp chèo tới. Hơi thở Toán phục kích cũng dập dồn theo nhịp chèo của chiếc xuồng đang từ từ đi vào tử địa... Khi chiếc xuồng lần lần đến gần, trên xuồng hiện lên ba bóng người, một tên ngồi trước mũi xuồng tay cầm súng AK 47 đang quan sát, một tên ngồi giữa có lẽ cao cấp và một tên chèo lái. Mũi súng của Toán NN di động theo chiếc xuồng chờ cho ngang tầm. – Tiếng súng lệnh khai hỏa của Trưởng Toán nổ cùng lúc với 6 khẩu súng tự động M.16 và súng săn nổ theo tạo nên âm thanh vang lên rùng rợn trong màn đêm. Tôi nhìn thấy trên mặt sông, ba vùng nước xoáy như ba chiếc nia phơi lúa, trồi bong bóng ùng ục như ba lỗ mội to trên làn nước chao động, còn chiếc xuồng từ từ trôi ra giữa dòng….

Thi hành nhiệm vụ của Tiền Sát, sau khi bắn xong băng đạn, tôi ném một trái lựu đạn về phía xuồng địch, cấp tốc lắp vào băng đạn khác, tháo dây nịt đạn cùng dây 3 chạc và chiếc nón vải ngụy trang ra để trên mặt đất và gác khẩu súng lên, rút lưỡi dao găm ra khỏi vỏ ngậm vào miệng, Tiền Sát viên Mỹ cũng làm như tôi và chờ lệnh Trưởng Toán để thanh toán mục tiêu sau cùng. Trưởng Toán kiểm soát bên kia bờ sông bằng ống dòm hồng ngoại tuyến, cả Toán đã sẵn sàng yểm trợ cho hai Tiền Sát. Công việc nầy từ lúc bắn xong và chuẩn bị xuống nước không quá 30 giây. Trưởng Toán ra lệnh, tôi và NN Mỹ cùng hụp xuống lặn theo hướng chiếc xuồng đang trôi xuôi dòng nước chảy khoảng hơn 50 thước... Vì từng là vô địch bơi lội ngày trước nên tôi lặn đến mục tiêu nhanh hơn NN Mỹ. Dưới mặt nước tối mờ tôi nhận ra bóng đen của đáy chiếc xuồng. Lấy lưỡi dao găm trong miệng ra cầm tay, đến nơi tôi lấy đà phóng vọt lên khỏi mặt nước, một tay chụp lấy be xuồng giật mạnh xuống, một tay giơ cao lưỡi dao găm đồng thời thân mình tôi cũng vượt lên be xuồng khỏi bụng, chuẩn bị tấn công nếu địch còn sống sót... Nhưng tất cả địch đều bị bắn rớt xuống sông. Tôi gom hai khẩu AK47 lại, NN Tiền Sát của Mỹ cũng đã đến và cùng tôi lội đẩy chiếc xuồng vào bờ, tôi tịch thâu hai khẩu AK47 và một xách tài liệu đem lên giao cho Tr/Úy Trưởng Toán, Trưởng Toán chia ra cho các Toán viên mang giữ. Trước khi rút đi tôi ném một quả lựu đạn vào chiếc xuồng cho nổ tung lên và chìm xuống nước.

Toán NN rút lui vào trong sâu cách bờ sông khoảng 150 thước và lập vòng đai an toàn, ngồi dựa lưng nhau vào hàng cây bần để dễ quan sát bốn phía. Vì Toán NN đang ở giữa sâu trong rừng sát và đã nổ súng náo động nên không thể rút lui ban đêm, Toán phải nằm lại phòng thủ tại chỗ chờ sáng. Vì biết là đang nằm trong lòng địch nên tất cả Toán đều chong mắt canh chừng.
Thời gian trôi qua Toán NN cảm thấy như là thật chậm chạp, giữa cảnh rừng rậm âm u vắng lặng, tiếng muỗi vo ve lẩn tiếng côn trùng rỉ rả... Sự yên lặng như báo trước sẽ xảy ra điềm nguy hiểm sắp đến, như câu người ta thường nói là -- “trước khi bảo thì trời lặng gió...”

Tr/Úy T.Toán sau khi liên lạc về Bộ Chỉ Huy Hành Quân rồi rỉ tai chuyền nhau cho biết kế hoạch sẽ rút vào khoảng đất trống trải cách đó chừng 100 thước để Trực Thăng thả dây cấp cứu, phòng hờ nếu có đụng trận.

Đến 4 giờ sáng chúng tôi thông báo chuyền nhau tất cả đều thắt dây đai để chuẩn bị sẵn sàng (Khi đi công tác NN đều có mang theo bên mình một đoạn dây Nylon khoảng 5 thước, để khi cần Trực Thăng cấp cứu thì tháo ra quấn ngang bụng 2 vòng và vòng qua hai bắp đùi làm thành chiếc đai ghế giả , cuối cùng thắt lại với chiếc khoen nhôm trước bụng, khi Trực Thăng thả dây cấp cứu xuống cho mỗi người thì phải lấy chiếc móc dây đó móc vào chiếc khoen của mình, Trực Thăng sẽ bấm nút kéo lên..)

Đến 5 giờ sáng, 2 Tiền Sát được lệnh bò trở lại chỗ phục kích nơi bờ sông thám sát, khi bò gần đến bờ sông, 2 Tiền Sát ra dấu cho nhau vì nghe có tiếng động bên kia bờ sông. Sau khi lắng nghe có tiếng xào xạc như có rất nhiều người di chuyển trong im lặng, chúng tôi cấp tốc bò trở lại báo cho Tr/Toán biết, lập tức Toán NN lập lại đội hình phục kích hàng ngang hướng về bờ sông, trong khi đó Tr/Toán báo về BCH/Hành Quân. Tr/Toán cho biết trong vòng 15 phút sẽ rút về điểm trống để Trực Thăng đến rước..

Đúng giờ Toán NN rút lui theo đội hình vừa ra bãi trống không rộng lắm, sau khi lập vòng đai an toàn xong thì có tiếng Trực Thăng từ xa đến theo đúng hướng của kế hoạch, Trực Thăng bay thật thấp và nhanh, hai chiếc lướt qua đầu chúng tôi xả súng bắn xuống phía bên kia bờ sông. Sau đó chúng tôi nghe có nhiều tràng đại liên và súng nhỏ của địch bắn trả và tiếng la ó náo loạn. Hai chiếc Trực Thăng đã thấy điểm của địch nên vòng lại bắn hỏa tiễn xối xả xuống địch quân. Trong lúc đó hai chiếc Trực Thăng cấp cứu bay đậu trên không thả dây kéo Toán NN lên mới được vài thước, trong lúc đó có nhiều loạt đạn bắn về phía Trực thăng cấp cứu. Thấy nguy hiểm nên hai chiếc Trực Thăng cấp tốc đảo ngang bay đi với vận tốc thật nhanh, Toán NN đang lơ lửng trên không nên bị va chạm vào các nhánh cây làm rách sướt quần áo và da thịt. Khi lên khỏi ngọn cây, những lằn đạn lửa của Việt Cộng bắn theo hai chiếc Trực thăng tới tấp, Trực Thăng vượt qua vùng lửa đạn rồi tiếp tục bay đi về căn cứ không cần kéo các NN lên nữa, với vận tốc khoảng 200 cây số giờ, thân mình chúng tôi cảm thấy như bị kéo dài ra... và Trực Thăng đã đưa Toán NN về được an toàn, hai chiếc Trực Thăng võ trang bắn chận để cứu Toán NN cũng trở về căn cứ, giao vùng địch lại cho căn cứ Pháo Binh và Không Quân Hoa Kỳ thanh toán mục tiêu với chiếc L 19 chỉ điểm...

Toán Người Nhái Mỹ - Việt được cấp cứu đưa về căn cứ Nhà Bè...

Toán Người Nhái Mỹ - Việt được cấp cứu đưa về căn cứ Nhà Bè.

Toán NN trở về trại lúc 5 giờ sáng, tắm rửa và ăn sáng rồi ngủ một giấc đến khoảng 3 giờ chiều. Buổi họp của Toán NN tại phòng Hành Quân để rút ưu và khuyết điểm… Tất cả đều đưa ra các nhận xét riêng của mình trong trận vừa qua.. Điểm ghi nhận đặc biệt của anh Trung sĩ Porter phụ tá Cố vấn Mỹ cho LĐNN, đưa ý kiến là khẩu M.16 khi bắn liên thanh, quán tính đường khương tuyến của nòng súng, lúc bấm cò, viên đạn khi ra khỏi nòng đã đẩy nòng súng hất lên cao từ từ, tất cả Toán đều cùng một nhận xét như nhau, và cùng thảo luận tìm cách khắc phục.. Cuối cùng cách thức được anh em Toán NN đồng ý là khi bắn liên thanh thì một tay kẹp bá súng vào hông , một tay đè chận trên thân súng trước ấn xuống, để mũi súng không bị ngóc lên. (Khi công tác NN sử dụng súng đều bỏ dây mang súng, tư thế ứng chiến 100%).

Hai Tiền Sát viên được cả Toán tuyên dương về mặt tinh thần can đảm và đã hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao phó. Trung Úy Tr. Toán giao 2 khẩu AK47 chiến lợi phẩm lại cho tôi,.. Tôi đang phân vân chưa biết giải quyết như thế nào thì anh bạn Tiền Sát Mỹ bước lên chúc mừng tôi và cầm giùm 2 khẩu súng đem lại giường ngủ cho tôi. Khi tan buổi họp về phòng ngủ, các bạn Mỹ trong Toán yêu cầu tôi trao đổi 2 khẩu súng AK47, Người thì xin đổi khẩu súng 9 mm , kẻ thì xin đổi súng lục v.v. Tôi suy nghĩ “Mình đang sống trong cuộc chiến chưa biết được sự sống hay chết của ngày mai ..Vậy mình giữ những khẩu súng đó để làm gì ?”. Tôi quyết định đem tặng cho anh bạn Tiền Sát một khẩu và một người khác trong Toán vì anh nầy rất có cảm tình với tôi. Hai anh bạn Mỹ nhận 2 Khẩu súng AK47 trố mắt nhìn tôi và hỏi lại mấy lần.. Khi được tôi cho biết là chỉ tặng không cho hai anh chớ không có trao đổi chi cả… Hai anh vui mừng đến ôm vai tôi và cám ơn rối rít .Hai anh cho biết các anh đến Việt Nam tham chiến nên các anh muốn có một món quà lưu niệm khi các anh trở về Mỹ, và cũng không có gì quý giá hơn đối với người quân nhân là khẩu súng chiếm được của kẻ địch nơi mặt trận mà chính mình đã tham dự..

Toán Người Nhái VN chúng tôi đã thành công chỉ trong chuyến công tác đầu tiên nầy. NN Mỹ đã tỏ ra có thiện cảm với NN Việt Nam.Vì lý do là NN Việt Nam nhỏ con hơn người Mỹ, cho nên khi di chuyển chúng tôi di chuyển lẹ làng và nhanh hơn, mỗi khi qua những vùng sình lầy hoặc qua các sông rạch, Người Nhái Hoa Kỳ di chuyển rất khó khăn. Vì cùng công tác chung nên chúng tôi thường phụ giúp các anh chàng khổng lồ nầy mỗi khi các anh chàng bị lún sình. Nhất là anh mang súng trung liên Stoner loại mới sản xuất dành riêng cho NN Mỹ, khẩu súng nầy bắn liên thanh, dây Nylon kết các viên đạn cỡ .223 đựng trong hộp nhựa chứa 150 viên, anh mang khẩu súng với 4 hộp đạn, người trợ xạ thủ mang thêm cho anh 2 hộp nữa, vì mang nặng nên anh thường bị lún sình – NN Mỹ to xác nên ăn uống cũng rất nhiều, khi đi công tác thường mang theo rất nhiều thức ăn uống, chẳng hạn như nước uống NN Mỹ phải mang theo một túi Nylon chứa 5 quarts nước rồi còn mang thêm 2 Bidon phụ thêm, còn NN Việt Nam chỉ cần 2 Bidon nước mang theo cho những công tác phục kích tại địa điểm lâu chừng 2 hay 3 ngày mà thôi...

 NN hoạt động tại Rừng Sát….

NN hoạt động tại Rừng Sát….

NN. Thái (Cóc Tía) và Seals Mỹ

NN. Thái (Cóc Tía) và Seals Mỹ

Bắt tù binh Việt Cộng

Bắt tù binh Việt Cộng

10 Toán NN thay phiên nhau công tác đêm nào cũng có 3 Toán đi và 3 Toán về 4 Toán ứng trực và cũng tùy theo nhu cầu công tác mà sắp xếp số nhân viên đi công tác.

* * *


Người Nhái đầu tiên trong Toán đã hy sinh vì Tổ Quốc.



Sau vài chuyến công tác, một Toán NN bị Việt Cộng phục kích. - NN Nguyễn Ngợi là Người Nhái VN đầu tiên đã anh dũng hy sinh trong trận phản phục kích cùng với 2 NN Hoa Kỳ đã nằm xuống vĩnh viễn nơi vùng đầm lầy Rừng Sát….. Và máu cũng bắt đầu đổ xuống hòa lẫn với nhau giữa Người Nhái Mỹ và Người Nhái Việt Nam Cộng Hòa trong những lần công tác kế tiếp…

Phải chăng là điềm báo trước?

Trước chuyến công tác cuối cùng, anh Ngợi tâm sự với tôi qua giọng buồn buồn :

- An biết không? Chuyến công tác vừa rồi Toán của tôi đã phục kích suốt đêm tại con rạch nhỏ, khoảng 6 giờ sáng Toán NN định rút về thì nghe tiếng động dưới lòng rạch.. Tất cả nằm im chờ đợi một bóng người từ xa đi lần theo lòng rạch cạn vì lúc đó nước ròng, trời lúc đó còn mờ mờ chưa sáng tỏ. Khi đến gần tôi nhìn thấy là một đứa nhỏ khoảng 16, 17 tuổi đang lần theo lòng rạch, trong tay với chiếc nôm để bắt cá.. Cả Toán đều không nỡ bắn (Vùng cấm địa không ai được lai vãng, hay gọi là vùng tác xạ tự do.) nên Trưởng Toán kề vào tai tôi, bảo tôi gọi đứa nhỏ đó lại hỏi xem nó từ đâu tới. Tôi đứng lên trong lùm dừa nước nhưng vì ngụy trang nên đứa nhỏ tới sát bên tôi mà nó không thấy, tôi lên tiếng gọi nó:
- “Ê nhỏ! lại đây”.
Đứa nhỏ giựt mình nhìn lên tôi rồi ù bỏ chạy... Tôi kêu:
- Đứng lại.. đứng lại…
Đứa nhỏ vẫn bỏ chạy có lẽ vì sợ quá... Tôi chưa biết phải làm sao thì nhiều tràng đạn bắn vào đứa nhỏ.
Anh xúc động nói:
- “Mình nhìn thằng nhỏ bị trúng đạn té xuống nằm oằn oại máu phún lên trên bãi sình mà lòng mình co thắt lại…”

Cả Toán phải rút nhanh ra khỏi vùng đó cách bờ sông khoảng 10 cây số. Thật tình tôi không biết phải nói làm sao? Vì sự an toàn của Toán NN nên đành phải bắn chết đứa nhỏ mà lòng dạ mình không đành, nhưng nếu nó chạy thoát thì rất nguy hiểm cho cả Toán... Ngợi thở dài buồn nản. Tôi cũng cảm thấy lòng xót xa bất nhẫn, vì chiến tranh là chết chóc.. là tan nát, là chia ly, cũng do bọn vô thần Cộng Sản Việt Nam mang vào miền Nam gây thảm họa.

Tôi khuyên Ngợi hãy bình tĩnh lại, vì mình là quân nhân phải thi hành lệnh của thượng cấp, những thảm cảnh nầy chỉ chấm dứt khi nào tiêu diệt được hết bọn chúng…

Tôi không ngờ lần nói chuyện đó lại là lần cuối cùng của anh NN Nguyễn Ngợi.

Chuyến phục kích độc đáo

Thêm vài lần công tác nữa, vài Toán khác cũng chạm súng với địch, cũng mang thắng lợi về, chỉ vài nhân viên bị thương tích nhẹ.

Riêng Toán của tôi liên tục mấy chuyến hành quân vừa qua đều vô sự.

Hôm nay tôi nhận lệnh từ phòng hành quân, đặc biệt là đêm nay chuyến công tác chỉ có ba người, và tôi vẫn là Tiền Sát của tổ.

LĐNN và Navy Seals Mỹ

lda_taothanhVC10

Chuyến công tác lần nầy chúng tôi di chuyển bằng PBR (Tuần giang đỉnh) đi đầu và một PBR hộ tống xa xa phía sau. Khi gần đến địa điểm Tiểu Đỉnh vẫn giữ tốc độ chạy đều, chúng tôi ba người đã nằm sẵn trên sàn tàu, lúc đó khoảng 8 giờ tối. Trời đã tối, ánh sáng chỉ còn hừng lên qua vài đám mây còn phản chiếu ánh mặt trời mờ mờ…

Khi đến điểm Trung Úy Trưởng Toán ra dấu hiệu, cả ba chúng tôi cùng lăn ra khỏi tàu và rớt xuống nước còn tàu thì vẩn tiếp tục di chuyển, chúng tôi lội vào bờ thật nhẹ tránh động nước. Điểm phục kích nầy là ngã ba sông Lòng Tào, đầu con rạch nhỏ bề ngang khoảng chừng 15 thước. Ba người chúng tôi vạch nhẹ cỏ dại mọc cao dọc theo triền lên đến bờ, chúng tôi vừa chọn chỗ nằm thích hợp để quan sát trong vùng cỏ rậm, vì là Tiền Sát tôi phải vào trước và quan sát phía trong ngọn rạch. Vừa yên chỗ tôi bổng thấy bóng một chiếc xuồng đang chèo ra cách chỗ chúng tôi không quá 100 thước, tôi đưa tay bấm nhẹ anh Tr/Úy T. Toán, chúng tôi đều tháo mỗi người hai trái lựu đạn và 2 trái chiếu sáng và một băng đạn phụ để sẵn… Khi xuồng đến gần hiện rõ ba người, một người nằm trước mũi quan sát với khẩu súng AK 47, một người ngồi giữa đội nón cối, người chèo xuồng vừa chèo vừa ngóng cổ lên cao quan sát phía ngoài sông lớn, có lẽ chúng định chèo ra nhưng nghe có tiếng máy tàu của chúng tôi vừa đi đến nên chúng ẩn vào lùm cây phía trong, chờ tàu tuần tiễu đi qua xa rồi chúng nó mới chèo ra...

Ba người chúng tôi chia ba mục tiêu, tôi lãnh phần tên chèo xuồng... Tràng súng lệnh của anh Tr/Úy Trưởng Toán vào tên ngồi giữa cùng lúc với hai tràng đạn của chúng tôi đã hạ gục ba tên VC, mỗi người chúng tôi đều ném bồi theo hai trái lựu đạn miểng, lắp băng đạn mới vào và giựt hai trái chiếu sáng để thông báo cho tàu trở lại đón. Còn tôi thì đã sẵn sàng nhào xuống nước với lưỡi dao găm để tiêu diệt những tên nào còn sống sót và tịch thâu chiến lợi phẩm.. Hai bạn trong tổ bắn phủ đầu để yểm trợ cho tôi lặn đến xuồng với động tác lưỡi dao găm phòng thân tiêu diệt địch, và lần nầy chúng tôi cũng thành công, tất cả ba tên VC/Việt cộng đều rớt xuống nước, tôi lội đẩy xuồng ra sông lớn thì hai chiếc PBR cũng vừa tới. Cả ba chúng tôi nhảy lên tàu, tôi cột chiếc xuồng vào tàu và tịch thâu hai cây AK 47, một súng trường báng đỏ và một túi tài liệu, trong lúc đó hai chiếc PBR ghim mũi vào bờ bắn xối xả vào phía trong ngọn rạch với những tràng đại bác 20 ly và 12.7, cốt ý chận lại nếu có nhiều địch quân... Và cùng rút nhanh ra khỏi vùng phục kích. Hai chiếc PBR cùng về căn cứ với ba người chúng tôi.

Trận phục kích độc đáo nầy tính từ khi tổ 3 người chúng tôi xuống nước cho đến khi rút ra, không quá 15 phút.

Trong trận phục kích nầy tôi học được thêm kinh nghiệm là với quân số quá ít, khi lâm chiến phải dùng chiến thuật Hỏa mù đánh vào tâm lý của địch, cả ba chúng tôi đã bắn thật nhiều, thật dữ tợn và ném sáu trái lựu đạn, giựt sáu trái chiếu sáng, cốt ý là làm cho địch quân nếu có đóng quân gần đó cũng không biết được rõ quân số của chúng tôi là bao nhiêu…

***

Sau nhiều chuyến công tác cùng chung sống chết trong những cuộc hành quân phối hợp, các người bạn NN Hoa Kỳ giờ đây đã thấy được khả năng của NN Việt Nam nên rất quý mến chớ không giống như ngày chúng tôi mới đến. Với tinh thần bất khuất, và vì Danh Dự của đơn vị, trong trận chiến chưa bao giờ NN Việt Nam lùi bước trước địch quân dù cho có bị bao vây. Và đối với NN Mỹ, NN Việt Nam cũng sinh cảm tình vì cùng chung sống chết nơi chiến trường, những ngày nghỉ ngơi, các bạn Mỹ thường rủ chúng tôi cùng đi PX (Hợp tác xã quân đội). Lẽ dĩ nhiên là các bạn NN Mỹ có nhiều tiền thường mua quà về biếu cho NN Việt Nam. Nhưng riêng tôi vẫn còn mang nhiều mặc cảm qua nhiều lý do cho nên suốt thời gian công tác, tôi chưa bao giờ vào PX cả. Một Trung sĩ Mỹ cùng chung Toán với tôi thấy tôi ở lại trại một mình, anh đến nói chuyện với tôi, anh bạn cũng hỏi tại sao tôi không đi PX để mua sắm, tôi lắc đầu mỉm cười không trả lời. Tôi không giỏi Anh ngữ nên chỉ nói rất ít những gì mình biết, anh bạn nầy cũng cảm thông... Và qua nhiều lần nói chuyện tôi và anh đã hiểu nhau qua một vài câu chuyện trao đổi như anh bạn Trung sĩ (Vì câu chuyện nầy đã lâu tôi không nhớ tên anh bạn nầy) quê ở Tiểu Bang Louisiana, có gia đình, lương hàng tháng của anh $500 USD, anh lãnh ra xài phân nửa còn phân nửa để lại cho gia đình. Anh hỏi lại tôi, tôi mỉm cười và cho anh biết lương Hạ sĩ nhứt của tôi là 1.700 Đồng so với đồng Dollars thì khoảng $16 USD (vì 1 Dollar lúc đó đổi được 120 đồng tiền Việt Nam), Anh bạn NN Mỹ ngạc nhiên tròn mắt lắc đầu... Có lẽ anh cũng cảm thông được tại sao tôi từ chối không đi PX.

Qua kỳ lãnh lương của tháng sau, anh bạn Trung sĩ NN Mỹ nầy vui vẻ đến gặp tôi và đưa cho một bao thơ, tôi ngạc nhiên nhìn anh, anh ta cười và bảo mở ra xem. Tôi mở bao thư ra nhìn thấy tờ giấy bạc $10 USD, tôi nhìn anh hỏi lý do. Anh bạn sợ tôi trả lại vội nắm lấy tay tôi và nói anh có nhã ý gởi cho tôi $10 USD là để mua quà tặng bạn gái của tôi... Tôi ngưng lặng vì cảm động trước thân tình của anh bạn NN Mỹ, anh bạn hiểu tâm lý của tôi nếu tặng cho tôi thì chắc chắn tôi không nhận nên anh bảo là tặng cho bạn gái, để tôi không có lý do từ chối.

Những ngày công tác cũng lần qua, những lần đụng trận của các Toán khác cũng vẩn tiếp tục, nhưng vì chúng tôi được lợi thế hơn với những lần phục kích và đột kích bất thần... và mỗi khi đụng trận thì được sự yểm trợ và cấp cứu hữu hiệu nên chúng tôi ít bị thiệt hại so với thiệt hại của địch nhiều hơn gấp 80 hay 90%….

Chỉ còn khoảng hai tuần lễ nữa là mãn hạn công tác ba tháng, trong ngày nghỉ dưỡng sức tôi trở về Liên Đội Người Nhái thăm anh em, tôi gặp Thiếu Tá Liên Đội Trưởng Trịnh Hòa Hiệp, người anh cả của Đơn vị, anh em NN chúng tôi thường gọi ông là “Ông Phật Sống” hiền lành vì ông xem LĐNN như là nhà của mình, tất cả NN đều là con cái trong nhà, vì vậy mà anh em NN chúng tôi có nhiều khi “Lộng hành quá đáng” Th/Tá Hiệp nhận được văn thư cấp trên quở trách ông đều nhận cả và chỉ gọi các “Quái nhân lộng hành” vào văn phòng khuyên bảo chớ ông không nở quở phạt. Đôi khi tôi tự nghĩ đến Th/Tá Hiệp- vị Chỉ Huy Trưởng hiền lành nầy tại sao lại về chỉ huy một đơn vị quá ư là “Dữ tợn”, đơn vị mà đối với VC là Hung Thần, mỗi khi VC gặp Người Nhái là như gặp giờ “Ngọc Hoàng giũ sổ”. Phải chăng là định mạng của ông đưa đẩy ông đến toàn là các đơn vị đặc biệt? Từ khi tốt nghiệp khóa 7 Sĩ Quan Hải Quân, Ông thụ huấn khóa 1 Biệt Hải tại Đà Nẵng và làm Chỉ Huy Trưởng của Đơn vị nầy, rồi qua Đơn vị Hải Tuần và cuối cùng là Chỉ Huy Trưởng của Liên Đoàn Người Nhái.

Thiếu Tá Hiệp thấy tôi liền gọi vào văn phòng thăm hỏi về những công tác phối hợp với NN Hoa Kỳ của chúng tôi, tôi đem những điều học hỏi được trong các chuyến công tác kể cho Th/Tá nghe và những nhận xét riêng của tôi về những đặc biệt của NN Mỹ mà NN chúng ta chưa có học hỏi qua… Th/Tá Hiệp trầm ngâm suy nghĩ rồi nói với tôi: Anh có những nhận xét rất đặc biệt rất quý giá cho đơn vị mình, rồi ông nói tiếp: Tôi sẽ cùng anh và Toán NN Mỹ đi công tác một chuyến…

Tối nay Toán chúng tôi đi phục kích, Chỉ Huy Trưởng LĐNN Trịnh Hòa Hiệp đã có mặt từ sớm và đang trò chuyện cùng Bộ Chỉ Huy Hành Quân NN Mỹ. Đến giờ khởi hành Th/Tá Hiệp cùng đi chung Toán với chúng tôi. Địa điểm phục kích đêm nay là tại một ngã ba của một dòng sông nhỏ thông ra sông Xoai Rạp, tất cả đổ bộ an toàn và phục kích tại địa điểm đã ấn định đi sâu vào trong khoảng 1 cây số cách ngã ba sông.

Cũng với hoàn cảnh tương tự của những lần phục kích trước, phong cảnh tiêu sơ hoang phế, dòng sông vắng lặng lững lờ trôi… Tất cả chúng tôi ngồi dựa lưng vào những gốc Bần, gốc Đước, súng thì gác trên nhánh cây cho khỏi ướt vì giờ nầy nước đang lớn, chỗ chúng tôi ngồi phục kích mà nước lên đến ngang ngực.

Hướng mắt nhìn vào sâu trong ngọn rạch, chúng tôi có mặt tại đây từ 8 giờ tối, bây giờ là 11 giờ khuya, con nước đã bắt đầu ròng, mực nước trên người chúng tôi đã từ ngực xuống tới bụng... Bỗng chúng tôi nghe tiếng chèo gạt nước từ xa, chúng tôi cùng thông báo cho nhau cùng hướng về điểm động. Dưới ánh trăng non mờ nhạt lần lần hiện rõ một chiếc xuồng bên kia dòng, trên xuồng một tên ngồi giữa khoang xuồng, một tên đang chèo... Chờ cho chiếc xuồng vào đúng tầm 8 khẩu súng M 16 và súng săn cùng nhả đạn... và ném hai trái chiếu sáng để gọi tàu đến rước. Như thường lệ tôi đang sẵn sàng với chiếc dao găm, đặc biệt là hôm nay cũng chỉ có một Tiền Sát Viên là tôi, với tinh thần thật căng thẳng, chờ cho Toán sẵn sàng yểm trợ, Trưởng Toán ra lệnh “GO”, tôi lặn một hơi đến chiếc xuồng đang trôi lững lờ cách khoảng 50 – 60 thước. Tôi lấy đà vói nắm be xuồng vọt mạnh lên, qua làn nước nhạt nhòa trên đầu tôi chảy xuống mặt bỗng thấy bóng người cựa quậy chồm úp qua tôi, lập tức tôi lách nghiêng qua phải với một đường dao găm vớt xéo 45 độ từ trái qua phải, bóng người ngã giật trở lại với tiếng kêu ặc ặc... vì bị đứt cổ họng, thân hình vùng vẫy và rơi xuống nước, sự việc nguy hiểm xảy ra như chớp nhoáng, tôi lập tức lội đẩy xuồng về chỗ phục kích, tịch thâu một cây AK 47 và một túi tài liệu. Một trái lựu đạn cho nổ để nhận chìm chiếc xuồng của địch sau khi chúng tôi cấp tốc rút đi ra bờ sông Xoài Rạp chiếc PBR đang chờ đón, và chúng tôi trở về căn cứ an toàn.

Đường Dao Tuyệt Mạng..!!

lda_taothanhVC11

Liền sau đó chúng tôi họp tại phòng Hành Quân, Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Hành Quân NN Hoa Kỳ đến bắt tay Chỉ Huy Trưởng LĐNN Trịnh Hòa Hiệp và bắt tay tôi, cả Toán cùng bắt tay chúc mừng chuyến hành quân thành công.

Sau buổi họp Th/Tá Hiệp cùng tôi ra ngoài, tôi kể lại phản ứng của tôi trong lúc thanh toán tên VC còn sống cho ông nghe. Tôi nói: có lẽ tên VC /vi xi/Việt cộng đã bị thương nặng nên khi tôi nắm be xuồng vọt lên vì giật mạnh quá nên tên VC bị văng úp qua phía tôi và với phản ứng tự nhiên của tôi tên VC đã bị đứt cổ họng… Nếu tên đó chưa bị thương thì thật là nguy hiểm cho tôi, Th/Tá Hiệp cười có vẻ hài lòng và nói với tôi:

- Sau chuyến công tác ba tháng nầy anh phải về phòng Huấn luyện của NN để huấn luyện các khóa sau với những gì mà anh đã học hỏi được…



Qua chuyến công tác nầy đã thật sự chứng minh câu “Cẩn tắc vô ưu”, nếu tôi ỷ y như các chuyến công tác trước đều không có việc gì xảy ra mà xem thường vì nghĩ bao nhiêu hỏa lực đều tập trung vào hai tên VC thì làm sao chúng có thể sống nổi? Nhờ thận trọng nên tôi mới phản ứng kịp thời như đoạn kể trên.

Chuyến hành quân cuối cùng với Người Nhái Hoa Kỳ.

Còn vài hôm nữa là Toán NN chúng tôi mãn hạn công tác 3 tháng phối hợp hành quân với NN Mỹ và Toán NN Việt Nam khác sẽ thay thế. Trung sĩ Porter (Phụ tá Cố vấn của LĐNN) cùng tôi xuống phòng lãnh lương khô, chuyến công tác sẽ nằm lại tại địa điểm 4 ngày theo dự trù. Những thùng giấy đựng lương khô của Quân Đội với hàng chữ do Nhật cung cấp, tôi lựa các gói có ghi cơm khô, súp tôm, và thịt mỗi phần lương khô đều có miếng kẹo đậu phộng hoặc kẹo thơm, Càfé, trà, .v. v... vì mình là Việt Nam ăn cơm hàng ngày thích hơn là bánh mì.

5 giờ chiều, PBR chở Toán sáu người chúng tôi từ sông Xoai Rạp ra cửa biển và cập vào chiếc Dương Vận Hạm USS Harnett. LST 821. của Hoa Kỳ đang neo cửa biển Vũng Tàu. Chuyến hành quân nầy Bộ Chỉ Huy Hành quân được đặt trên chiến hạm LST nầy.

Dương Vận Hạm USS Harnett. LST 821 (hình trên Internet.)

Dương Vận Hạm USS Harnett. LST 821 (hình trên Internet.)

Khoảng 9 giờ Toán chúng tôi khởi hành, chiếc PBR trong nhiệm sở tác chiến chạy với tốc độ thật nhanh cách bờ khoảng chừng 150 thước, bên phải tính từ ngoài biển vào. Đến điểm là ngã ba vào nhánh sông thông luồn vào sâu phần đất giữa 2 con sông Lòng Tào và Xoai Rạp. Khi gần đến nơi chiếc PBR giảm tốc độ chạy chậm lại và bất thần xoay 90 độ đâm thẳng vào bờ chui qua lùm cây rậm ghim mũi vô bờ, 6 người chúng tôi nhanh nhẹn nhảy lên bờ. Tất cả 6 người chúng tôi đều lọt xuống hố cá nhân của VC đào dọc theo bờ. Sự việc xảy ra quá bất ngờ, tất cả Toán ghìm súng nằm im quan sát, trong khi đó chiếc PBR rút mũi ra chạy đi… Xung quanh đều yên lặng, chúng tôi thay phiên nhau dùng ống dòm hồng ngoại tuyến để kiểm soát, trong lúc đó Trưởng Toán báo cáo tình hình về BCH/HQ. Nhìn qua ống dòm tôi nhìn thấy một dãy trại cách chúng tôi khoảng 100 thước, trống không..

Chúng tôi nằm yên trong hố cá nhân do VC để lại với cảnh giác cao độ và thức suốt đêm vì biết mình đang trong tình trạng nguy hiểm vô cùng… Đến gần 5 giờ sáng, hai Tiền Sát được lệnh bò vào thám sát dãy trại, còn tất cả nằm tại chỗ canh súng để bảo vệ cho 2 Tiền Sát viên. Vì con đường mòn dẫn vào dãy trại nhỏ hẹp nên tôi ra dấu cho Tiền Sát Mỹ bò theo sau. Tôi cẩn thận vì kinh nghiệm cho biết, khi rời bỏ nơi đóng quân, cả ta và địch đều thường gài lại mìn bẫy, lựu đạn hoặc hầm chông.. Hiện tình chúng tôi đang ở trong tình thế đó. Bò vào khoảng 15 thước, trước mặt tôi phía bên trái có một nhánh cây cắm xuống đất khác màu vì lá khô... Tôi nghi ngờ ra dấu cho anh bạn Mỹ dừng lại, anh bạn cũng làm dấu hiệu cho Toán biết. Tôi cẩn thận dò từ tấc đất đến gần nhánh cây đó và phát giác ra cách phía sau nhánh cây khoảng 1 thước có một sợi dây cước cột vòng quanh qua gốc cây nhỏ bằng bắp chân, nhìn theo sợi dây cước chuyền qua bên phía trái, đầu dây cước cột vào khoen giật ngòi nổ của quả lựu đạn miểng được ngụy trang vài cọng lá dừa nước đã khô, còn thân quả lựu đạn lật ngược đầu xuống đất được cột chặt vào thân gốc cây... Tôi ra dấu chỉ vào trái lựu đạn cho anh bạn Mỹ biết và làm dấu hiệu cho anh bò lui ra xa... Một mình tôi bò lần lại nhìn kỹ cách gài và kiểm soát xem xung quanh có gì khác lạ không. Tôi thấy không có gì đáng nghi ngờ, tôi bắt đầu đưa tay bóp chặt cái thìa vào thân lựu đạn, còn một tay cầm chốt gài đẩy qua lỗ và bẻ cong hai thanh chốt để giữ an toàn rồi tháo dây cước bỏ trái lựu đạn vào túi áo… Tôi ra giấu tiếp tục bò vào trong, và tôi lại gở thêm một trái mìn nội hóa do Việt cộng chế bằng cách để trái lựu đạn vào trong một hủ sành cũ bỏ nhiều sắt vụn và đinh sét vào hủ... Lần nầy tôi gài lại chốt an toàn và tháo dây cước ra cho trống đường rồi tiếp tục bò vào dãy trại. Tôi và anh bạn Tiền Sát kiểm soát lại trong dãy trại trống không, nên làm thủ hiệu cho Toán tiến vào. Sau khi nhận định Tr/Úy Trưởng Toàn cho biết VC/Việt cộng vừa rời khỏi đây khoảng 1 hoặc 2 tuần, quân số cấp trung đội.

Chúng tôi trở lại hố cá nhân của Việt cộng đào sẵn, nằm phục kích và theo dõi tại ngã ba đầu dòng sông nhỏ nầy suốt 4 ngày. Đến 3 giờ chiều ngày cuối chúng tôi được tin hai Toán Seals bị Việt cộng phục kích trong một nhánh sông cách chúng tôi vài cây số, NN Mỹ tử thương 3, bị thương 6 trong đó có hai NN Việt Nam, năm người sống sót. Tôi hay tin liền nhờ Trung Úy Trưởng Toán liên lạc hỏi xem hai NN Việt Nam tên gì, sau khi liên lạc xong anh Trưởng Toán đánh vần và ghi lại, tôi được biết là Nguyễn Văn Thông (Thông lớn) và Trương Nghĩa Thành bị thương nặng và đã được tản thương về Bệnh viện 3 Dã Chiến Hoa Kỳ.

 Các ổ của Việt Cộng trong Rừng Sát

Các ổ của Việt Cộng trong Rừng Sát

Khoảng 4 giờ chiều, hai chiếc PBR chạy đến một chiếc ghim mũi vào đón chúng tôi và một chiếc chạy vòng gần đó để bảo vệ. Chúng tôi trở lại BCH/HQ. trên LST, khi lên trên boong Tàu, tất cả đều cởi hết quần áo giày vớ để thủy thủ trên tàu đem đi giặt giũ .

Một lỗi lầm của tôi làm náo động trên tàu USS Harnett. LST 821 .

Trong khi cởi áo, cảm thấy nặng trong túi áo tôi mới nhớ đến trái lựu đạn của Việt cộng/VC/vixi gài mà tôi đã tháo và bỏ vào túi tính đem về chơi. Tôi móc trái lựu đạn ra, một thủy thủ nhìn thấy trái lựu đạn màu khác lạ vội la lên và bỏ chạy tôi ngẩn ngơ nhìn lại xung quanh. Tất cả đã chạy vào núp trong cánh cửa phòng. Đang lúc tôi ngơ ngác anh Trung Sĩ Porter đứng trong cánh cửa sắt ra dấu bảo tôi cầm chặt trái lựu đạn chớ đừng bỏ xuống sàn tàu. Tôi làm theo lời cầm trái lựu đạn đứng chờ. Khoảng 2 hay 3 phút sau có hai chuyên viên tháo gỡ chất nổ trang bị quần áo giáp sắt bưng dụng cụ ra một hộp sắt bằng cái rương nhỏ đựng quần áo đến trước mặt tôi rồi để xuống sàn tàu. Họ mở nắp chiếc hộp sắt ra rồi ra dấu tôi bỏ trái lựu đạn vào hộp, xong rồi họ khóa nắp hộp lại rồi bưng vào trong tàu. Toán NN Mỹ lúc đó mới đến gần tôi, anh bạn Tr/sĩ Porter mới giải thích vì sự an ninh và an toàn, anh dặn tôi đừng mang bất cứ vật gì của địch đem về trên tàu hoặc về căn cứ vì rất nguy hiểm. Đến lúc đó tôi mới biết lý do. Tôi mỉm cười và xin lỗi với tất cả mọi người trên tàu. Các thủy Thủ trên tàu nhìn tôi cười rồi lắc đầu bỏ đi với nhiều ý nghĩa…

Về đến căn cứ tôi đi cùng các bạn NN Mỹ đến Bệnh Viện 3 Dã Chiến của Hoa Kỳ gần trước cổng vào Phi trường Tân Sơn Nhứt để thăm các người bị thương vừa qua. Được biết hai bạn NN. Trương Nghĩa Thành bị trúng B.40 của VC, ao giáp rách nát phía trước ngực đang nằm trong phòng giải phẫu để lấy miểng ra, còn Nguyễn Văn Thông thì bị gãy xương cánh tay được tháp nối lại, áo giáp cũng bị rách lủng nhiều chỗ, cả hai bạn đều may mắn thoát chết. Còn bốn NN/HK kia cũng bị thương rất nặng và cùng nằm dưỡng thương nơi đây...

Được biết Toán NN Mỹ vừa bị phục kích là Toán NN gồm 12 người vừa mới ra trường được gởi qua Việt Nam công tác và cũng là chuyến công tác đầu tiên đã bị thiệt hại nặng, ba người chết, bốn người bị thương. Toán chỉ còn lại năm người. Sau đó các anh được chia ra và nhập vào các Toán khác, nhưng năm người nầy sau vài chuyến công tác đã được gởi trả về Hoa Kỳ. Lý do là các anh nầy đã mất hẳn tinh thần chiến đấu vì ra quân lần đầu thua trận, nên sau khi sát nhập vào các Toán khác khi đi công tác mỗi lần đụng trận, vừa nghe tiếng súng nổ, các anh nầy đã hoảng sợ bỏ chạy bất chấp lệnh của cấp chỉ huy. Thật là “Dù cho học ba năm trong quân trường, quân nhân mà chưa lâm trận thì chưa phải là LÍNH”!

Ba tháng phối hợp công tác hành quân đã trôi qua với nhiều kỷ niệm đùa giỡn với Tử Thần, ngày hôm nay chúng tôi từ giã các bạn NN/HK để trở về đơn vị, và Toán NN Việt Nam khác đã xuống để thay thế.

Hôm nay lại cũng đúng ngày lãnh lương của các bạn NN/HK, anh bạn Tr/sĩ thân mến của tôi lại một lần nữa đưa tiễn tôi bằng một bao thơ trong đựng 10 USD với lời nhắn nhủ, “Tôi chỉ nhờ anh tặng quà đến bạn gái của anh mà thôi.”. Anh bạn ôm vai tôi gượng cười, tôi cũng cảm động trước tình cảm của người bạn viễn xứ… Đã từng vào sinh ra tử trong mấy tháng vừa qua…

Tôi về LĐNN chưa đầy 1 tuần lễ thì văn phòng LĐNN nhận được công điện của BTL/HQ/P3.Theo lời yêu cầu của BCH/HQ NN/HK, xin gởi tôi đi công tác phối hợp thêm một nhiệm kỳ 3 tháng nữa. Tôi được CHT/LĐNN gọi vào và cho xem công điện trên. Th/Tá Hiệp nói:
“Những người Mỹ hình như họ cũng tin dị đoan, họ có nói với tôi là Toán Công Tác có anh rất may mắn vì cả Toán đều không bị thiệt hại?!” Th/Tá Hiệp nói tiếp: “Nhưng tôi có trình bày với Phòng 3 rồi. Tôi giữ anh ở lại để huấn luyện khóa 3 NN sắp mở...” Trao đổi thêm vài câu chuyện rồi tôi lui ra…

lda_taothanhVC14 Cách một tuần lễ sau, một buổi sáng tôi đang tập thể dục ở phòng phía trong (dưới lầu Ty Quân Cảng). Thiếu Tá Hiệp đi kiếm tôi và cho tôi hay: “Đại Úy Cố vấn Mỹ đang ngồi chờ gặp anh ở văn phòng”. Tôi ngạc nhiên, Thiếu Tá Hiệp nói tiếp: “Đại Úy Cố Vấn muốn gặp trực tiếp anh để chuyển lời BCH/Người Nhái Hoa Kỳ muốn xin anh đi công tác với họ, tôi có cho Đại Úy Cố Vấn biết là đơn vị đang cần anh ở lại để huấn luyện khóa 3 NN sắp mở, nhưng ông ta vẫn muốn gặp mặt anh...” Th/Tá Hiệp tiếp: “Tôi cho anh hay trước để anh trực tiếp nói với ông ta. Vì quyết định của tôi đã nói với anh lúc trước, anh hãy liệu lời mà nói...”

Tôi đi với Th/Tá Hiệp vào gặp Đại Úy CV, và cũng được Đại Úy Cố Vấn cho biết ý muốn của Bộ chỉ huy Hành Quân Người Nhái Hoa Kỳ như trên. Tôi cám ơn và nhờ Đại Úy Cố Vấn chuyển lời từ chối của tôi là vì nhu cầu cần thiết của khóa 3 HLNN sắp mở nên tôi không thể đi công tác nữa.!

NN Trịnh Hòa Hiệp, vị Niên Trưởng của LĐNN, với lối xử sự nhiều tình cảm, tôi phải nói là “Quá nhiều tình cảm” mới đúng. Ở LĐNN hầu như tất cả NN nào có dịp gần gũi và tiếp chuyện với Ông đều có cảm tình, nhiều khi tưởng như một người anh cả đang hướng dẫn và dìu dắt đàn em trong tình thương yêu của gia đình hơn là tình Huynh đệ chi binh..

Để tưởng niệm người quá cố có quá nhiều ưu ái đối với riêng tôi. Xin thành kính ghi lại chút gì để nhớ.

***

Đến khi Việt Nam Hóa chiến tranh. Nhưng vũ khí, đạn dược và tiếp liệu cho nhu cầu chiến trường đã bị đồng minh bội ước không cung cấp cho QLVNCH. Và NN Mỹ cũng rút lần về nước.

Trong hoàn cảnh thiếu thốn đó. Người Nhái Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa vẩn tiếp tục chiến thuật đột kích, phục kích. và truy lùng địch quân trên khắp các vùng Chiến Thuật của 4 Quân Khu v. v… Và số thương vong của LĐNN càng lúc càng cao... vì không còn phương tiện để yểm trợ và cấp cứu hữu hiệu như lúc còn Người Nhái Mỹ. Nhưng Người Nhái VN vẫn can trường xả thân đền nợ nước trong các trận chiến không tên và đã đóng góp phần xương máu của mình hy sinh cho Tổ Quốc mãi cho đến ngày 30 – 4 1975.

Trong lúc đó vì bảo mật cho nên người dân sống bình an trong thủ đô suốt trong cuộc chiến vẩn không hề hay biết gì đến sự gian nguy, sống hay chết của những Người Nhái vô danh đang âm thầm ngày đêm xông pha trực diện chiến đấu với bọn VC du kích phá hoại, nơi vùng nước đọng sình lầy Rừng Sát, để bảo vệ an toàn thủy lộ huyết mạch cho thủ đô Sài Gòn suốt trong cuộc chiến.

Từ cấp số Liên Đội 48 nhân viên NN khi mới thành lập năm 1963. Và theo nhu cầu chiến trường đòi hỏi Liên Đội NN phát triển lên đến cấp số Liên Đoàn trên 600 nhân viên vào năm 1972. Gồm có năm ngành:

  1. - Hải Kích (Navy Seals) Sea – Air – Land = SEAL.
  2. - Phá hoại dưới nước. (UDT) Underwater Demolition Team.
  3. - Tháo gở chất nổ dưới nước (EOD) Explosive Ordnance Disposal.
  4. - Trục vớt.(Salvage)
  5. - An ninh phòng thủ hải cảng. (Harbor Defense).

LĐNN là một đơn vị bị thiệt hại nhiều nhứt, so với tỷ lệ trong quân đội VNCH. (50% quân số nói riêng về ngành Hải Kích (Navy Seals) là đơn vị trực diện với địch quân).

Vì điều kiện huấn luyện Người Nhái rất khó khăn và tốn kém, LĐNN chỉ huấn luyện được có 7 khóa, đào tạo được 185 NN/Ngành Hải Kích, đến ngày 30-4-75 đã mất hết 90 NN và một số thương phế tàn tật. Cái giá phải trả cho sự tự do an bình của người dân miền Nam nước Việt.

lda_taothanhVC15
Tổng Tham Mưu Phó QLVNCH
Thiếu Tướng Nguyễn Văn Mạnh
trao gắn Anh Dũng Bội Tinh ngôi sao bạc

Ghi chú:

Sau năm 1975, Việt cộng đã xây đài tưởng niệm liệt sĩ tại Nhơn Trạch với số thương vong rất cao.

Dưới đây là số Việt cộng chết trong vùng Rừng Sát trên web site của VC [Việt cộng] được trích ra nguyên văn:

..”625 liệt sĩ Đoàn 10 và 1.400 liệt sĩ của 12 xã huyện Nhơn Trạch đã ngã xuống tại chiến trường sôi động ác liệt này. Để tưởng nhớ công ơn và chiến tích anh hùng của cha anh, Đền thờ Liệt sĩ Nhơn Trạch được xây dựng tại xã Long Thọ, huyện Nhơn Trạch, nơi cửa ngõ bước vào chiến khu Rừng sác năm xưa.”….. (hết trích).

 

 

 photo 912cb321-61df-4e38-bbb4-19fa1b360914_zpsy7v8en6m.png