Kiến trúc Đình Làng Việt
Hình ảnh Cây đa – Bến nước – Sân Đình đã ăn sâu vào tâm thức của người Việt từ hàng ngàn năm, một không gian bình dị gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân miền nông nghiệp lúa nước. Không gian và Kiến trúc Đình làng là minh chứng cho tài nghệ xây dựng của ông cha ta, từ việc chọn địa điểm, quy hoạch hòa lẫn với thiên nhiên, dưới bóng mát rặng cây, soi bóng nước bên hồ, tận dụng hết ưu việt thiên nhiên cho đến hình thức kiến trúc, tỉ lệ, vật liệu, màu sắc phù hợp với thẩm mỹ, điều kiện xây dựng địa phương.
Có thể nói Đình làng công trình kiến trúc cổ truyền độc đáo của Việt Nam, bảo tồn khá trọn vẹn những đặc điểm nghệ thuật kiến trúc độc đáo, tính dân tộc đậm đà sắc thái dân gian.
1.CHỨC NĂNG:
+ Đình làng là nơi thờ thành hoàng và cũng là trung tâm sinh hoạt cộng đồng của làng – 1 đơn vị cư trú của xã hội Việt nam trước Cách mạng tháng 8.
+ Ở Đình làng thường diễn ra các hoạt động: Phân chia công điền thổ, giải quyết tranh chấp, thu thuế, ăn khao…hội làng, biểu diễn hát múa dân gian, rước lễ…
- LƯỢC SỬ:
Theo tự điển Hán Việt của Thiều Chửu, Trần Văn Chánh, Nguyễn Quốc Hùng.
Đình(亭) là Cơ quan hành chính cấp cơ sở đời Tần, Hán, nhà Hán chia đất cứ mười dặm (khoảng 5km) là một đình, mười đình là một làng, nên người coi việc làng là đình trưởng 亭長, tức lí trưởng bây giờ.
Từ Đình này thuộc bộ Đầu, để phân biệt với từ Đình thuộc bộ khác, tuy đồng âm nhưng khác nghĩa.
Từ Đình này ghép một số từ khác như:
- Quá nhai đình: Cái đình, bên đường làm nhà cho khách qua lại trọ.
- Lương đình: Kiến trúc có mái nhưng không có tường chung quanh, thường cất ở vườn hoa hoặc bên đường, cho người ta ngắm cảnh hoặc nghỉ ngơi.
- Vọng đình: Chòi canh gác dùng để quan sát tình hình quân địch.
ĐÌNH LÀNG VIỆT: Theo một số tài liệu, Đình bắt nguồn là trạm dừng nghỉ chân của Vua quan từ thời Lý, sau đấy còn được treo các pháp lệnh vua ban thời Lê sơ, đến thời Trần thêm chức năng thờ cúng Phật, dần đần nó phát triển thành một loại hình kiến trúc công cộng dân gian để cho các hoạt động của làng xã vừa thờ cúng Thành hoàng.
+ Thế kỷ 16, thời Mạc đã gây dựng được nhiều Đình lớn như Đình Thụy Phiêu – Ba vì, Tây Đằng- Ba vì-Hà tây, Thổ hà, Lỗ Hạnh-Bắc giang.
+ Từ thời Lê trung Hưng thế kỷ 17, kiến trúc đình làng phát triển rầm rộ khắp các làng xã với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và sáng tác tập thể. Một số đình thời kỳ này như Đình Thổ tang- Vĩnh phúc, Đình Hương canh – Vĩnh phúc, Đình Hoàng Xá – Hà tây, Thổ hà, Phù lão…
+ Thế kỷ 18 – thời Lê mạt việc xây dựng đình làng có giảm sút do hoàn cảnh xã hội nhưng vẫn xuất hiện những đình quy mô, trang trí tinh xảo như Đình Chu quyến, đình Đình Bảng- Bắc Ninh, Nhân lý- Hải Dương, Thạch lỗi – Hải Dương.
+ Thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, cũng xây dựng một số đình lớn như Tam tảo- Hà bắc, An đông – Quảng ninh… nhưng về kiến trúc và điêu khắc đã giảm sút đi nhiều. Dưới thời vua Minh mạng thì chuyển sang kết cấu xây vôi gạch, ít dùng gỗ, chỉ có ở miền núi dùng gỗ là chính.
- BỐ CỤC TỔNG THỂ
3.1 Vị trí, địa điểm:
Gắn liền với khu ở của dân làng, thuận đường nối với các ngõ, thôn, thế đất thoáng đãng, tuân theo nguyên tắc địa lý phong thủy, phía trước thoáng đãng nhìn ra sông nước, có hồ nước thiên nhiên hoặc nhân tạo theo nguyên tắc “Tụ thủy”.
3.2 Bố cục, Các công trình thành phần của Đình Làng.
+ Đình có thể là một công trình độc lập hay một quần thể kiến trúc, cũng có khi kết hợp với chùa thờ Phật, đền miếu tạo thành một quần thể lớn.
+ Các công trình được Bố cục đối xứng qua trục chính chạy dài.
+ Phát triển qua nhiều thời kỳ. Thời sơ khai ban đầu chỉ có Đại đình hình chữ nhật và hồ bán nguyệt, sau đó phát triển quy mô hơn có nhiều thành phần hơn.
+ Những Đình lớn quy mô đầy đủ gồm: Đại đình, hậu cung, Tiền tế, Tả vu hữu vu, ngoài ra có thể thêm các nhà phụ trợ.
+ Ngoài ra còn có Cổng và phía trước Đình làng thường có sân rộng, hồ nước, cây xanh… để có thể tập hợp đông người những ngày lễ hội…
Đại đình – hậu cung tạo thành một trục chính. Hai bên có thêm nhà Hữu, tả vu đối xứng hai bên. Phía trước cửa Đại Đình thường có hai trụ phía trước.
Đại Đình: Là nơi hành lễ sinh hoạt công cộng, hành chính... nên cần không gian và diện tích lớn, trang trọng, bề thế.
- Các Đại đình thường có 5, 7 gian.
- Mái Đại đình có hai dạng: Dạng bốn mái và dạng hai mái, tường xây bịt hai trái (loại này có niên đại muộn hơn).
- Những Đình có niên đại sớm thường không có tường hay vách gỗ bao quanh.
- Đại đình ban đầu có dạng chữ Nhất, về sau hậu cung phát triển lùi phía sau tạo thành hình chữ Đinh, Công.
- Sàn thường có ba mức cốt thể hiện sự phân cấp thứ hạng về ngôi thứ hay tuổi tác của làng thôn Việt Nam khi tế lễ hay hội hè… Cốt thấp nhất cách mặt đất khoảng 40-60 cm, có lẽ vì lý do cách ẩm.
Hậu cung
Là nơi thờ Thành hoàng làng, giữ các vật thiêng, không gian không lớn lắn nhưng kín đáo, trang nghiêm thường được đóng không cho mọi người vào.
- Ban đầu thường nằm gian chính giữa, phía sau từ cột Cái và cột quân của Đình. Sau này phát triển thành dạng chuôi vồ, lùi ra sau Đại đình tạo thành chữ Đinh hoặc nối với Đại đình bằng một nhà cầu gọi là ống muống tạo thành hình chữ Công.
- Thành hoàng thường là nhân thần có công với làng hay địa phương như: Lý Bí, Triệu Quang Phục, Trần Hưng Đạo... hay một nhân vật theo truyền thuyết như Thánh Tản Viên, hoặc có khi là ông tổ một dòng họ, một nghề thủ công truyền thống.
Phương đình (Tiền Tế): Thường có kích thước và quy mô nhỏ hơn Đại đình, MB chữ nhật hay hình vuông và đa số không có cửa vách bao quanh. Phải đến cuối thế kỷ 17 mới xuất hiện nhà Tiền tế và xuất hiện nhiều vào thế kỷ 19.
Tả vu, hữu vu :(Nhà hành lang bên trái và bên phải): Là không gian có mái che, không có tường bao xung quanh, nếu có cũng không cũng chỉ bao xung quanh, mặt chính để hở.
- KIẾN TRÚC, BỘ KHUNG KẾT CẤU GỖ CỦA ĐÌNH LÀNG
4.1. Kiến trúc:
+ Nhìn từ phía ngoài mái đình có tỉ lệ đồ sộ, chiếm 2/3 chiều cao CT, 4 góc xòe rộng, uốn lượn nhẹ nhàng, đặt trên hệ cột to khỏe, vững chắc.
+ Bờ nóc hơi võng, có khi hai đầu nhô cao vút ra ngoài như hình con thuyền lớn. Trên 2 đầu bờ nóc được đắp hình con Kìm Lạc long thủy quái, ở giữa bờ nóc hình lưỡng long chầu nguyệt (hình thức này sang thời Nguyễn mới thịnh hành), bờ chảy đắp các con xô Lân, phượng…kết hợp với đầu đao cong vút tạo nên những nét duyên dáng nhưng không kém phần khỏe khoắn cho Đình.
+ Các cột thường để mộc, bào nhẵn, cũng có những Đình làng cột Cái được sơn son thiếp vàng, trang trí rồng mây.
4.2. Bộ Khung kết cấu gỗ Đình làng:
+ Hệ kết cấu gỗ, liên kết bằng mộng: Cột, xà, kẻ, bảy, bộ vì kèo Chồng giường hay giá chiêng, hoặc giá chiêng kết hợp chồng giường.
+ Không gian Đình lớn, Bộ Vì gồm 6 hàng cột lớn đứng thẳng trên các bệ đá bằng sức nặng của mái và các mối liên kết mà không cần móng.
+ Khoảng cách các cột xác định theo số lượng khoảng hoành. Kiểu Thượng tam -hạ tứ (trên 3 dưới 4 ), Thượng tứ – hạ ngũ, Thượng ngũ – hạ ngũ.
+ Vì nóc có hình tam giác cân đặt trên hai cột cái, vì nách có hình tam giác vuông đặt trên cột cái và cột quân. Khoảng cách cách hoành qui ước là a, thì chiều cao b = 2/3a, đường xiên c hay còn gọi là khoảng chảy.
- Tính đơn giản, hài hòa, linh động tính điển hình và tính tiêu chuẩn thấy rõ trong bộ khung gỗ chịu lực của công trình.
- Bộ khung kết cấu gỗ khớp nối bằng mộng cực kỳ linh hoạt, có thể tháo dỡ lắp ở vị trí mới.
- ĐỀ TÀI TRANG TRÍ
+ Trang trí khéo léo và tinh tế, trang trí để làm đẹp các thành phần cấu tạo chứ không trang trí thừa thãi, khéo léo lồng ghép yếu tố văn hóa, thiên nhiên, ước nguyện vào đề tài trang trí.
+ Nơi tập trung các tác phẩm điêu khắc độc đáo, văn hóa dân gian. Đề tài thông thường là long, ly, quy, phượng (tứ linh) hay thông, mai, cúc, trúc (tứ quý), đặc biệt là hình ảnh về hoạt cảnh dân gian, những hình ảnh thân thuộc ở làng quê.
+ Các chủ đề dân gian, sinh hoạt làng quê được thể hiện theo quan niệm tạo hình dân gian giàu tính tượng trưng và ước lệ. Không quan tâm đến tỷ lệ cơ thể cân đối, miễn sao truyền được cái “thần” của nhân vật. Nhưng tổng thể tác phẩm lại là sự hài hoà cân đối hợp lý về mặt bố cục, hình khối, đường nét.
Ví dụ, chủ đề “Uống rượu” ở đình Ngọc Canh, Vĩnh phúc thể hiện một cuộc rượu với một tinh thần nho nhã. Đường nét mềm mại, hình khối nhẹ nhàng. Chủ đề “Đánh Cờ” khéo tạo ra sự thay đổi giữa mảng nổi, mảng chìm giữa hình và nền, giữa đặc và rỗng một cách hợp lý tạo nên một bố cục thoáng nhưng rất chặc chẽ, rõ ràng. (Phạm Thị Chỉnh, 2013).
Trong Đình làng Tây Đằng các bức chạm khắc mô tả sống động một quy trình khép kín cuộc sống của người Việt cổ, từ thủa sơ khai với hoạt động săn bắt, hái lượm, thuần hóa động vật hoang dã (hình tượng voi đi cày) đến cảnh đấu tranh chống giặc giã, sau đó đất nước thanh bình (hình ảnh người chồng ngồi chải tóc cho vợ dưới gốc cau), trai tráng luyện tập võ nghệ, nhân dân nô nức trong lễ hội đua thuyền đến cảnh cha mẹ, ông bà xum vầy, thầy đồ dạy học biểu tượng cho sự chăm lo tới thế hệ sau…
Sự tài tình của các bậc tiền nhân chính là ở chỗ toàn bộ hơn 1.300 chi tiết chạm khắc gỗ trong đình không hề trùng nhau một chi tiết nào và được bố trí rất hài hòa, không mang tính đối xứng như các chi tiết kiến trúc ở những ngôi đình khác…
Lời kết:
Đình Làng Việt thực sự là nơi lưu giữ tâm hồn người Việt và trí tuệ người Việt. Ngôi đình là một sự chuyển hóa và tái hiện lại trung thực thế giới quan của người nông dân Việt nam qua bao thế hệ. Đó là mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cấu trúc xã hội làng xã Việt cổ đến cách tương xứng với môi trường thiên nhiên, tất cả những khái niệm “vô hình” được “phiên dịch” và “tái hiện” trong bộ khung gỗ chắc chắn mà linh hoạt, trong cấu trúc không gian thoáng mở mà tầng bậc, trong chủ đề trang trí mộc mạc mà tinh tế.
Đình là một di sản phi vật thể và vật thể vô giá cần được lưu giữ và bảo tồn.
24 Mar 2019Tác giả: ThS. KTS Vũ thị Ngọc Anh.
Nguồn: https://ltlskt-dhxd.com/2019/03/24/kien-truc-dinh-lang-viet/
1
2
3
4
5
6
Ding (building)
Vietnamese communal temple
This term has other meanings.
Dinh (Vietnamese Đình) is a communal house, a religious building, which is a typical architecture in the countryside in Vietnam. Dedicated to the founder of the village and plays a role as a gathering place for people in the local community.
Previously, the ding was a pavilion for relaxation. In 1231, King Tran Nyan Tong issued a decree designating the ding as a place to worship the Buddha.
The community house existed as a place of worship for the deity and a meeting place for people to worship. Starting from the end of the 15th century, with the development of Confucianism, the building began to serve as the head or founder of the village, this went from 1489 with the Van Kuang dynasty. But earlier traces of the use of the ding for the residence of the founders of the village are found from the 16th century. Previously, families consisted of 2-3 generations living in the same house.
Vietnamese communal temple
Đình (亭) or Vietnamese communal houses typical of buildings found in Vietnam villages, dedicated to worship the village God Thành hoàng, the village founder or a local hero. They also play the role as a meeting place of the people in the community, akin to modern civic centers.
History
Previously, the ding was a pavilion for relaxation. In 1231, King Tran Nyan Tong issued a decree designating the ding as a place to worship the Buddha.
The community house existed as a place of worship for the deity and a meeting place for people to worship. Starting from the end of the 15th century, with the development Thành Hoàng the building began to serve as the head or founder of the village, this went from 1489 with the Van Lang dynasty. But earlier traces of the use of the ding for the residence of the founders of the village are found from the 16th century. Previously, families consisted of 2-3 generations living in the same house.
============================================
Dự Án Khôi Phục Kiến Trúc Nhà Rong
nhà rong
Architecture Art Planning
https://aap.cornell.edu/news-events/rachel-kaplan-ritual-and-resilience-nh-r-ng-vietnam
Cornell AAP
1
--
Giai Điệu Cồng Chiêng Ha Tây
| RUPtv Media
RUP Media
https://youtu.be/woN7XQlKgak
On Ritual and Resilience: The Nhà Rông of Vietnam
Nhà Rong của đồng bào sắc tộc thiểu số miền núi.
Một nhà nguyện, một tòa án, một doanh trại, một ngọn hải đăng. Trong hàng trăm năm, nhà rong, hay Nhà Rông, đã hoạt động như một trung tâm tâm linh, văn hóa, hành chính và đầu mối của các làng đồng bào sắc tộc thiểu số trên khắp Cao Nguyên của Việt Nam. Có thể phân biệt bởi mái dốc lớn, dốc, xây dựng sàn, ban công lớn và vật liệu có nguồn gốc địa phương, tiêu biểu chính thức của Nhà Rông là một sự kết hợp phong phú giữa bối cảnh và biểu tượng. Nhà Rông là một phần của bản sắc của một ngôi làng, và như vậy, quy mô và sự phức tạp của rong được xem là sự phản ảnh sức mạnh và sự giàu có của chính ngôi làng.
Trong bối cảnh chính trị xã hội hiện đại của miền Trung Việt Nam ở miền đồi núi vùng cao, các rắc rối giữa chính phủ cộng sản Việt Nam và các nhóm đồng bào sắc tộc thiểu số trong khu vực có thể được nhìn thấy một cách tinh tế và rõ ràng. Các nhóm sắc tộc thiểu số cư trú vùng Cao Nguyên, được gọi chung là người Thượng, hay "người của núi", đã trải qua một lịch sử lâu dài và thô bạo về xung đột với đa số người Việt Nam và đã chiến đấu với đàn áp, bạo lực, di dời, phân biệt đối xử và thực dân được nhà nước cộng sản. Trong bối cảnh này, vai trò của Nhà Rông luôn thay đổi. Khi các lực lượng bên ngoài đang đe dọa các cộng đồng đồng bào sắc tộc thiểu số này, một số đang tạo ra mối liên kết chặt chẽ gìn giữ với lịch sử của họ, trong khi những người khác đang hướng tới một xu hướng hiện đại và toàn cầu hóa. Do đó, Nhà Rông của thế kỷ 21 là một khái niệm đa dạng và linh hoạt. Mặc dù hầu như luôn luôn hiện diện, theo lựa chọn hoặc ủy quyền của nhà cai trị, nó có thể phản ảnh bản sắc hoặc đại diện cho một nếp sống sinh hoạt thời cổ.
Về nghi lễ và khả năng phục hồi: Nhà Rông của Việt Nam là một cuộc nghiên cứu chính thức và theo phong cácch về Nhà Rông như một kiểu xây dựng bản địa. Triển lãm giới thiệu bốn Nhà Rông nguyên mẫu từ các tỉnh Kon Tum và Gia Rai ở Việt Nam. Thông qua một loạt các bản vẽ và hình ảnh kỹ thuật, dự án điều tra những phẩm chất độc đáo của Nhà Rông trên các nhóm sắc dân thiểu số ở địa phương khác nhau, nghiên cứu các yếu tố môi trường, chính trị và các yếu tố khác đã ảnh hưởng đến thiết kế, sử dụng và phát triển bối cảnh như thế nào.
Rachel Kaplan (M.Arch. '14) là một nhà thiết kế kiến trúc tại MDSzerbaty Associates ở thành phố New York. Về cách thức và khả năng phục hồi: Nhà Rông của Việt Nam trình bày nghiên cứu được tài trợ bởi ban ngành Học bổng Du lịch Eidlitz 2017–18.
Rachel Kaplan
Robert James Eidlitz Fellowship Information
Source: https://aap.cornell.edu/news-events/rachel-kaplan-ritual-and-resilience-nh-r-ng-vietnam
Văn Hóa Kiến trúc triều đại Hồng Bàng của nước Văn Lang/Xích Quỷ thời Hùng Vương
--
9
1
Một ngôi nhà sàn dài trong buôn làng Buôn Jun của người Mnong tại Cao Nguyên Việt Nam.
Toraja house in Indonesia
Tongkonan traditional house in Lempo village. Tana Toraja, Sulawesi. Indonesia
Tongkonan Traditional House, Tana Toraja, Indonesia
Peaked Roof of Tana Toraja Boat House
Replica of Melaka s Sultante Palace
Malacca Sultanate Palace Museum
Nhà Rong của đồng bào sắc tộc thiểu số miền núi.
Một nhà nguyện, một tòa án, một doanh trại, một ngọn hải đăng. Trong hàng trăm năm, nhà rong, hay Nhà Rông, đã hoạt động như một trung tâm tâm linh, văn hóa, hành chính và đầu mối của các làng đồng bào sắc tộc thiểu số trên khắp Cao Nguyên của Việt Nam. Có thể phân biệt bởi mái dốc lớn, dốc, xây dựng sàn, ban công lớn và vật liệu có nguồn gốc địa phương, tiêu biểu chính thức của Nhà Rông là một sự kết hợp phong phú giữa bối cảnh và biểu tượng. Nhà Rông là một phần của bản sắc của một ngôi làng, và như vậy, quy mô và sự phức tạp của rong được xem là sự phản ảnh sức mạnh và sự giàu có của chính ngôi làng.
Trong bối cảnh chính trị xã hội hiện đại của miền Trung Việt Nam ở miền đồi núi vùng cao, các rắc rối giữa chính phủ cộng sản Việt Nam và các nhóm đồng bào sắc tộc thiểu số trong khu vực có thể được nhìn thấy một cách tinh tế và rõ ràng. Các nhóm sắc tộc thiểu số cư trú vùng Cao Nguyên, được gọi chung là người Thượng, hay "người của núi", đã trải qua một lịch sử lâu dài và thô bạo về xung đột với đa số người Việt Nam và đã chiến đấu với đàn áp, bạo lực, di dời, phân biệt đối xử và thực dân được nhà nước cộng sản. Trong bối cảnh này, vai trò của Nhà Rông luôn thay đổi. Khi các lực lượng bên ngoài đang đe dọa các cộng đồng đồng bào sắc tộc thiểu số này, một số đang tạo ra mối liên kết chặt chẽ gìn giữ với lịch sử của họ, trong khi những người khác đang hướng tới một xu hướng hiện đại và toàn cầu hóa. Do đó, Nhà Rông của thế kỷ 21 là một khái niệm đa dạng và linh hoạt. Mặc dù hầu như luôn luôn hiện diện, theo lựa chọn hoặc ủy quyền của nhà cai trị, nó có thể phản ảnh bản sắc hoặc đại diện cho một nếp sống sinh hoạt thời cổ.
Về nghi lễ và khả năng phục hồi: Nhà Rông của Việt Nam là một cuộc nghiên cứu chính thức và theo phong cácch về Nhà Rông như một kiểu xây dựng bản địa. Triển lãm giới thiệu bốn Nhà Rông nguyên mẫu từ các tỉnh Kon Tum và Gia Rai ở Việt Nam. Thông qua một loạt các bản vẽ và hình ảnh kỹ thuật, dự án điều tra những phẩm chất độc đáo của Nhà Rông trên các nhóm sắc dân thiểu số ở địa phương khác nhau, nghiên cứu các yếu tố môi trường, chính trị và các yếu tố khác đã ảnh hưởng đến thiết kế, sử dụng và phát triển bối cảnh như thế nào.
Rachel Kaplan (M.Arch. '14) là một nhà thiết kế kiến trúc tại MDSzerbaty Associates ở thành phố New York. Về cách thức và khả năng phục hồi: Nhà Rông của Việt Nam trình bày nghiên cứu được tài trợ bởi ban ngành Học bổng Du lịch Eidlitz 2017–18.
Rachel Kaplan
Robert James Eidlitz Fellowship Information
Source: https://aap.cornell.edu/news-events/rachel-kaplan-ritual-and-resilience-nh-r-ng-vietnam
Văn Hóa Kiến trúc triều đại Hồng Bàng của nước Văn Lang/Xích Quỷ thời Hùng Vương
--
9
1
Một ngôi nhà sàn dài trong buôn làng Buôn Jun của người Mnong tại Cao Nguyên Việt Nam.
Toraja house in Indonesia
Tongkonan traditional house in Lempo village. Tana Toraja, Sulawesi. Indonesia
Tongkonan Traditional House, Tana Toraja, Indonesia
Peaked Roof of Tana Toraja Boat House
Replica of Melaka s Sultante Palace
Malacca Sultanate Palace Museum
000000000000000000000000000000000000000
List of monarchs of Vietnam
List of monarchs of Vietnam
Monarch of Vietnam | |
---|---|
Details | |
First monarch | Kinh Dương Vương (as king) Đinh Tiên Hoàng (as emperor) |
Last monarch | Bảo Đại (as emperor) |
Formation | 2879 BC |
Abolition | August 25, 1945 |
Residence | Cổ Loa Citadel (257 BC – 967) Imperial Citadel of Hoa Lư (968–1009) Imperial Citadel of Thăng Long (1010–1400; 1428–1789) Citadel of the Hồ Dynasty (1400–1407) Imperial City of Huế (1802–1945) |
Pretender(s) | Guy Georges Vĩnh San (son of Emperor Duy Tân) |
History of Vietnam |
---|
Timeline |
Vietnam portal |
This article lists the monarchs of Vietnam. Under the emperor at home, king abroad system used by later dynasties, Vietnamese monarchs would use the title of emperor (皇帝, Hoàng đế; or other equivalents) domestically, and the more common term sovereign (𤤰, Vua), king (王, Vương), or his/her (Imperial) Majesty (陛下, Bệ hạ).[1][2]
Overview[edit]
Some Vietnamese monarchs declared themselves kings (vương) or emperors (hoàng đế).[1][2] Imperial titles were used for both domestic and foreign affairs, except for diplomatic missions to China where Vietnamese monarchs were regarded as kingship or prince. Many of the Later Lê monarchs were figurehead rulers, with the real powers resting on feudal lords and princes who were technically their servants. Most Vietnamese monarchs are known through their posthumous names or temple names, while the Nguyễn dynasty, the last reigning house is known through their era names.
Titles[edit]
Vietnamese titles[edit]
Vietnamese monarchs used and were referred to by many titles, depending on each ruler's prestige and favor. Except for legendary rulers and the Sinitic-speaking Zhao dynasty and the Early Ly dynasty, the most popular and common Vietnamese designation for ruler, vua 𪼀 (lit. sovereign, chieftain), according to Liam C. Kelley, is "largely based on a pure semantic association based on the benevolent feature associated to the 'father' (but, on the other hand, the image of the father may also be terrifying, strict, or even mean)." Because there is no elaborated Chinese character or any attempt to standardize the Sino-Vietnamese Chữ Nôm script to render vua, the title was rendered in different ways. Vua in Ancient Vietnamese (10th–15th centuries) is attested in the 14th-century Buddhist literature Việt Điện U Linh Tập as bùgài (布蓋) in Chinese or vua cái (great sovereign in Vietnamese),[3] in 15th-century Buddhist scripture Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh as sībù (司布); in Middle Vietnamese (16th–17th centuries) as ꞗua or bua;[4] becoming vua in Early Modern Vietnamese (18-19th centuries) such as recorded by Alexis-Marie de Rochon's A Voyage to Madagascar and the East Indies.[5] Vua is not found in any Vietnamese dynastic records which all were written in the lingua franca Chữ Hán through.[citation needed]
According to Mark Alves, Vietnamese vua was seemingly a loan word borrowed from the Old Chinese form of title Wáng (王, king), *ɢʷaŋ, to Proto-Viet-Muong. Frédéric Pain, however, insists that vua is from a completely indigenous Vietic lexicon, derived from sesquisyllabic proto-Vietic *k.bɔ.[6] While the monarch was commonly referred vernacularly as vua, Vietnamese royal records and official ceremonial titles have used hoàng đế (emperor) or vương (king), which are Vietnamese renditions of Chinese royal titles Huángdì and Wáng, since the time of Đinh Bộ Lĩnh. They were employed to show the Vietnamese monarchs' credence, and the latter was used in tributary relations with the Chinese empires without being considered a Chinese subject.[6][7]
Buddhism exerted influence on a number of Vietnamese royal titles, such as when the late 12th-century devout Buddhist king Lý Cao Tông (r. 1176–1210) demanded his courtiers to refer him as phật (Buddha).[8] His great-grandfather and predecessor Lý Nhân Tông (r. 1072–1127), a great patronizer of the Buddhist sangha, in his stelae inscription erected in 1121, compared himself and his accomplishments with ancient rulers of the Indian subcontinent near the time of Gautama Buddha, particularly king Udayana and emperor Aśoka.[9]
Cham titles[edit]
Cham rulers of the former kingdom of Champa in present-day Central and Southern Vietnam used many titles, mostly derived from Hindu Sanskrit titles. There were prefix titles, among them, Jaya and Śrī, which Śrī (His glorious, His Majesty) was used more commonly before each ruler's name, and sometimes Śrī and Jaya were combined into Śrī Jaya[monarch name]. Royal titles were used to indicate the power and prestige of rulers: raja-di-raja (king of kings), maharajadhiraja (great king of kings), arddharaja (vice king/junior king).[10] After the fall of Vijaya Champa and the Simhavarmanid dynasty in 1471, all Sanskrit titles disappeared from Cham records, due to southern Panduranga rulers styled themselves as Po (native Cham title, which also means "King, His Majesty, Her Majesty"), and Islam gradually replaced Hinduism in post-1471 Champa.
Ancient period
Hồng Bàng period edit
According to tradition there were eighteen of the Hùng kings of the Hồng Bàng period, known then as Văn Lang at that time, from around 2879 BC to around 258 BC. Following is the list of 18 lines of Hùng kings as recorded in the book Việt Nam sử lược by Trần Trọng Kim.[11]
/////King | Given name | Probable Reign, and line of descent |
---|---|---|
Kinh Dương Vương (涇陽王) | Lộc Tục (祿續) | 2879 BC – 2794 BC, Càn line (支乾) |
Lạc Long Quân (貉龍君) | Sùng Lãm (崇纜) | 2793 BC – 2525 BC, Khảm line (支坎) |
Hùng Lân vương(雄麟王), Hùng King III | Lân Lang | 2524 – 2253 BC,Cấn line (支艮) |
Hùng Diệp Vương(雄曄王), Hùng King IV | Bửu Lang | 2252 – 1913 BC,Chấn line (支震) |
Hùng Hy Vương, Hùng King V | Viên Lang | 1912 – 1713 BC,Tốn line (支巽) |
Hùng Huy Vương(雄暉王), Hùng King VI | Pháp Hải Lang | 1712 – 1632 BC,Ly line (支離) |
Hùng Chiêu vương(雄昭王), Hùng King VII | Lang Liêu | 1631 – 1432 BC,Khôn line(支坤) |
Hùng Vĩ vương(雄暐王) Hùng King VIII | Thừa Vân Lang | 1431 – 1332 BC,Đoài line (支兌) |
Hùng Định vương(雄定王), Hùng King IX | Quân Lang | 1331 – 1252 BC,Giáp line (支甲) |
Hùng Hi vương(雄曦王), Hùng King X | Hùng Hải Lang | 1251 – 1162 BC,Ất line (支乙) |
Hùng Trinh Vương(雄楨王), Hùng King XI | Hưng Đức Lang | 1161 – 1055 BC,Bính line (支丙) |
Hùng Vũ Vương(雄武王), Hùng King XII | Đức Hiền Lang | 1054 – 969 BC, Đinh line (支丁) |
Hùng Việt Vương(雄越王), Hùng King XIII | Tuấn Lang | 968 – 854 BC,Mậu line (支戊) |
Hùng Anh Vương(雄英王), Hùng King XIV | Chân Nhân Lang | 853 – 755 BC, Kỷ line (支己) |
Hùng Triệu Vương(雄朝王), Hùng King XV | Cảnh Chiêu Lang | 754 – 661 BC,Canh line (支庚) |
Hùng Tạo Vương(雄造王), Hùng King XVI | Đức Quân Lang | 660 – 569 BC,Tân line (支辛) |
Hùng Nghị Vương(雄毅王), Hùng King XVII | Bảo Quân Lang | 568 – 409 BC,Nhâm line (支壬) |
Hùng Duệ Vương(雄睿王), Hùng King XVIII | Lý Văn Lang or Mai An Tiêm | 408 – 258 BC,Qúy line (支癸) |
....... ....
Âu Lạc (257–207 BC)
King | Images | Given name | Reign |
---|---|---|---|
An Dương Vương (安陽王) | Thục Phán (蜀泮) | 257–207 BC |
....... ....
Kingdom of Nanyue (207–111 BC)
There is still a debate about the status of the Triệu dynasty (Zhao dynasty): traditional Vietnamese historians considered the Triệu dynasty as a local Vietnamese dynasty while modern Vietnamese historians typically consider the Triệu dynasty as a Chinese dynasty. [12]
Emperor or king | image | Given name | Reign |
---|---|---|---|
Triệu Vũ Đế (趙武帝) |
Triệu Đà (趙佗) |
207–137 BC | |
Triệu Văn Đế (趙文帝) |
Triệu Mạt (趙眜) |
137–125 BC | |
Triệu Minh Vương (趙明王) |
Triệu Anh Tề (趙嬰齊) |
125–113 BC | |
Triệu Ai Vương (趙哀王) |
Triệu Hưng (趙興) |
113–112 BC | |
Triệu Dương Vương (趙術陽王) |
Triệu Kiến Đức (趙建德) |
112–111 BC |
1st, 2nd, 3rd Chinese domination period (111 BC - 939 AD)
Trưng Sisters | Lady Triệu | Mai Hắc Đế | |||||||||||||
Triệu dynasty | Early Lý dynasty | Phùng Hưng | Autonomy | Independent time | |||||||||||
111 BCE | 40 | 43 | 246 | 249 | 544 | 602 | 722 | 766 | 789 | 906 | 938 |
Trưng Sisters (40–43)
Queen | image | Full name | Reign |
---|---|---|---|
Trưng Nữ Vương (徵女王) | Trưng Trắc (徵側) | 40–43 |
Mai rebellions (713–723)[edit]
King | Full name | Reign |
---|---|---|
Mai Hắc Đế (梅黑帝) | Mai Thúc Loan (梅叔鸞) | 713–723 |
Mai Thiếu Đế (梅少帝) | Mai Thúc Huy (梅叔輝) | 722–723 |
Mai Bạch Đầu Đế (梅白頭帝) | Mai Kỳ Sơn (梅奇山) | 723 -724 |
Phùng rebellions (766–791)[edit]
King | Full name | Reign |
---|---|---|
Bố Cái Đại Vương (布蓋大王) | Phùng Hưng (馮興) | 766–791 |
Phùng An (馮安) | Phùng An (馮安) | 791–791 |
Early Lý dynasty (544–602)[edit]
Early Lý dynasty (544–602) | ||||
111 BC | 544 | 602 | 938 |
Emperor | Full name | Reign |
---|---|---|
Lý Nam Đế (李南帝) | Lý Bôn (李賁) | 544–548 |
Triệu Việt Vương (趙越王) | Triệu Quang Phục (趙光復) | 548–571 |
Đào Lang Vương (桃郎王) | Lý Thiên Bảo (李天寶) | 549–555 |
Hậu Lý Nam Đế (後李南帝) | Lý Phật Tử (李佛子) | 571–603 |
Đào Lang Vương is not officially considered as king of Early Lý dynasty as he was a self-claimed king.
Autonomous period (866–938) & Independent period (938–1407)[edit]
Ming domination | Nam–Bắc triều * Bắc Hà–Nam Hà | French Indochina | ||||||||||||||||||
Chinese domination | Ngô | Đinh | Early Lê | Lý | Trần | Hồ | Later Trần | Lê | Mạc | Revival Lê | Tây Sơn | Nguyễn | Modern time | |||||||
Trịnh lords | ||||||||||||||||||||
Nguyễn lords | ||||||||||||||||||||
939 | 1009 | 1225 | 1400 | 1427 | 1527 | 1592 | 1788 | 1858 | 1945 |
Tĩnh Hải quân (866–938)[edit]
Khúc Family (905–938) | |||
111 BC | 905 | 938 |
Jiedushi | Full name | Reign |
---|---|---|
Khúc Tiên Chủ (曲先主) | Khúc Thừa Dụ (曲承裕) | 905–907 |
Khúc Trung Chủ (曲中主) | Khúc Hạo (曲顥) | 907–917 |
Khúc Hậu Chủ (曲後主) | Khúc Thừa Mỹ (曲承美) | 917–930 |
Dương Đình Nghệ (楊廷藝) | Dương Đình Nghệ (楊廷藝) | 930–937 |
Kiều Công Tiễn (矯公羡) | Kiều Công Tiễn (矯公羡)[1] | 937–938 |
At this time, the Khúc leaders still held the title of Jiedushi, hence they are not official kings of Vietnam.
Ngô dynasty (939–967)[edit]
Ngô dynasty (939–965) | |||
939 | 965 | 1945 |
King | Image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Tiền Ngô Vương (前吳王) | none | Ngô Quyền (吳權) | 939–944 | |||
Dương Bình Vương (楊平王)[2] | no image | none | Dương Tam Kha (楊三哥) | 944–950 | ||
Hậu Ngô Vương (後吳王)[3] | no image | none | Ngô Xương Ngập (吳昌岌) and Ngô Xương Văn (吳昌文) |
951–954 950–965 | ||
Interregnum (944-968)[edit]
Warring states period[edit]
The throne of Ngô dynasty was upsurged by Dương Tam Kha ,the brother-in-law of Ngô Quyền and this led to anger among those who were loyal to Ngô dynasty. The local warlords decided to make the rebellions to claim the throne.
Anarchy of the 12 Warlords (944–968) | |||
944 | 968 | 1945 |
Warlord | Lifespan | Real name | Description |
---|---|---|---|
Ngô Sứ Quân (吳使君) | ?–968 | Ngô Xương Xí (吳昌熾) | + Grandson of Ngô Quyền and son of Ngô Xương Ngập and the legitimate heir of throne + Surrendered and pardoned in 968 End of Ngô dynasty |
Ngô Lãm công (吳覽公) or Ngô An vương (吳安王) | ? - 979 | Ngô Nhật Khánh (吳日慶) | + Grandson of Ngô Quyền and son of Ngô Xương Văn + Surrendered and pardoned in 968 Deserted to Champa at the end of Đinh dynasty and died in 979 |
Đỗ Cảnh Công (杜景公) | 912 - 967 | Đỗ Cảnh Thạc (杜景碩) | + Chinese ancestry from Jiangsu + General of Ngô Quyền and served in Battle of Bạch Đằng (938) + Injured by arrow-shooting and died in 967 |
Phạm Phòng Át (范防遏) | 910 - 972 | Phạm Bạch Hổ ( 范白虎) | + General of Ngô Quyền and served in Battle of Bạch Đằng (938) + Surrendered and pardoned in 966 and promoted as general by Đinh Bộ Lĩnh |
Long Kiều vương (隆橋王) | ?-967 | Kiều Công Hãn (矯公罕) | + Grandson of Kiều Công Tiễn and served in Battle of Bạch Đằng (938) + Defeated and fled to Ngô Xương Xí's side and killed in 967 . |
Kiều Lệnh Công (隆令公) | ?-? | Kiều Thuận (矯順) | + Grandson of Kiều Công Tiễn and younger brother of Kiều Công Hãn + Defeated and killed . |
Nguyễn Thái Bình (阮太平) | 906 - 967 | Nguyễn Khoan (阮寬) | + Chinese ancestry + Oldest brother of Nguyễn Thủ Tiệp & Nguyễn Siêu + Surrendered and pardoned in 967 then become the monk . |
Nguyễn Lệnh công (阮令公) or Vũ Ninh vương (武宁王) | 908 - 967 | Nguyễn Thủ Tiệp ( 阮守捷) | + Chinese ancestry + Middle brother of Nguyễn Khoan & Nguyễn Siêu + Defeated and killed |
Nguyễn Hữu Công (阮右公) | 924 - 967 | Nguyễn Siêu ( 阮超) | + Chinese ancestry + Youngest brother of Nguyễn Khoan & Nguyễn Thủ Tiệp + Defeated and killed |
Lý Lãng công (李郞公) | ? - 968 | Lý Khuê (李奎) | + Defeated and killed |
Trần Minh Công (陳明公) | 888 - 967 | Trần Lãm (陳覧) | + Chinese ancestry from Guangdong + Later alliance with Đinh Bộ Lĩnh and adopted him as his son + After he died, Đinh Bộ Lĩnh inherited the army of Lãm and fight the unification war with the other warlord |
Lữ Tá công (呂佐公) | 927 - 968 | Lã Đường ( 呂唐) | + Defeated and killed |
State of Đại Cồ Việt (968–1054) & State of Đại Việt (1054–1400, 1427–1804)[edit]
Đinh dynasty (968–980)[edit]
Đinh dynasty (968–980) | ||||
939 | 968 | 980 | 1945 |
Emperor | Image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Đinh Tiên Hoàng (丁先皇) | Thái Bình (太平) | Đinh Bộ Lĩnh (Đinh Hoàn) (丁部領 / 丁環) |
968–979 | |||
Đinh Phế Đế (丁廢帝) | Thái Bình (太平)[4] | Đinh Toàn (Đinh Tuệ) (丁璿 / 丁穗) |
979–980 | |||
Early Lê dynasty (980–1009)[edit]
Early Lê dynasty (980–1009) | ||||
939 | 980 | 1009 | 1945 |
Emperor | Image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Lê Đại Hành (黎大行) | Thiên Phúc (天福) Hưng Thống (興統) (989–993) Ứng Thiên (應天) (994–1005) |
Lê Hoàn (黎桓) | 980–1005 | |||
Lê Trung Tông (黎中宗) | No image | none | Lê Long Việt (黎龍鉞) | 1005 (3 days) | ||
Lê Ngoạ Triều (黎臥朝) | Cảnh Thụy (景瑞) (1008–1009) | Lê Long Đĩnh (黎龍鋌) | 1005–1009 |
Later Lý dynasty (1009–1225)[edit]
Later Lý dynasty (1009–1225) | ||||
939 | 1010 | 1225 | 1945 |
Emperor | image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Lý Thái Tổ (李太祖) | Thuận Thiên (順天) | Lý Công Uẩn (李公蘊) | 1010–1028 | |||
Lý Thái Tông (李太宗) | Thiên Thành (天成) (1028–1033) Thông Thụy (通瑞) (1034–1038) Càn Phù Hữu Đạo (乾符有道) (1039–1041) Minh Đạo (明道) (1042–1043) Thiên Cảm Thánh Võ (天感聖武) (1044–1048) Sùng Hưng Đại Bảo (崇興大寶) (1049–1054) |
Lý Phật Mã (李佛瑪) | 1028–1054 | |||
Lý Thánh Tông (李聖宗) | Long Thụy Thái Bình (龍瑞太平) (1054–1058) Chương Thánh Gia Khánh (彰聖嘉慶) (1059–1065) Long Chương Thiên Tự (龍彰天嗣) (1066–1067) Thiên Huống Bảo Tượng (天貺寶象) (1068–1069) Thần Võ (神武) (1069–1072) |
Lý Nhật Tôn (李日尊) | 1054–1072 | |||
Lý Nhân Tông (李仁宗) | Thái Ninh (太寧) (1072–1075) Anh Võ Chiêu Thắng (英武昭勝) (1076–1084) Quảng Hữu (廣祐) (1085–1091) Hội Phong (會豐) (1092–1100) Long Phù (龍符) (1101–1109) Hội Tường Đại Khánh (會祥大慶) (1110–1119) Thiên Phù Duệ Võ (天符睿武) (1120–1126) Thiên Phù Khánh Thọ (天符慶壽) (1127) |
Lý Càn Đức (李乾德) | 1072–1127 | |||
Lý Thần Tông (李神宗) | Thiên Thuận (天順) (1128–1132) Thiên Chương Bảo Tự (天彰寶嗣) (1133–1137) |
Lý Dương Hoán (李陽煥) | 1128–1138 | |||
Lý Anh Tông (李英宗) | Thiệu Minh (紹明) (1138–1139) Đại Định (大定) (1140–1162) Chính Long Bảo Ứng (政隆寶應) (1163–1173) Thiên Cảm Chí Bảo (天感至寶) (1174–1175) |
Lý Thiên Tộ (李天祚) | 1138–1175 | |||
Lý Cao Tông (李高宗) | Trinh Phù (貞符) (1176–1185) Thiên Tư Gia Thụy (天資嘉瑞) (1186–1201) Thiên Gia Bảo Hữu (天嘉寶祐) (1202–1204) Trị Bình Long Ứng (治平龍應) (1205–1210) |
Lý Long Trát (Lý Long Cán) (李龍翰) | 1176–1210 | |||
Lý Thẩm (李忱) | no image | none | Lý Thẩm (李忱) | 1209–1209 | ||
Lý Huệ Tông (李惠宗) | no image | Kiến Gia (建嘉) | Lý Sảm (李旵) | 1211–1224 | ||
Lý Nguyên Vương (李元王) | no image | Càn Ninh (乾寧) | Lý Nguyên Vương (李元王) | 1214–1216 | ||
Lý Chiêu Hoàng (李昭皇) | Thiên Chương Hữu Đạo (天彰有道)[5] | Lý Phật Kim (Nguyễn Thiên Hinh) (李佛金) | 1224–1225 | |||
Trần dynasty (1225–1400)[edit]
Trần dynasty (1225–1400) | ||||
939 | 1225 | 1400 | 1945 |
Emperor | Image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Trần Thái Tông (陳太宗) | Kiến Trung (建中) (1225–1237) Thiên Ứng Chính Bình (天應政平) (1238–1350) Nguyên Phong (元豐) (1251–1258) |
Trần Cảnh (陳煚) | 1225–1258 | |||
Trần Thánh Tông (陳聖宗) | Thiệu Long (紹隆) (1258–1272) Bảo Phù (寶符) (1273–1278) |
Trần Hoảng (陳晃) | 1258–1278 | |||
Trần Nhân Tông (陳仁宗) | Thiệu Bảo (紹寶) (1279–1284) Trùng Hưng (重興) (1285–1293) |
Trầm Khâm (陳昑) | 1279–1293 | |||
Trần Anh Tông (陳英宗) | Hưng Long (興隆) | Trần Thuyên (陳烇) | 1293–1314 | |||
Trần Minh Tông (陳明宗) | Đại Khánh (大慶) (1314–1323) Khai Thái (開泰) (1324–1329) |
Trần Mạnh (陳奣) | 1314–1329 | |||
Trần Hiến Tông (陳憲宗) | Khai Hữu (開祐) | Trần Vượng (陳旺) | 1329–1341 | |||
Trần Dụ Tông (陳裕宗) | Thiệu Phong (紹豐) (1341–1357) Đại Trị (大治) (1358–1369) |
Trần Hạo (陳暭) | 1341–1369 | |||
Hôn Đức Công (昏德公) | no image | Đại Định (大定) | Dương Nhật Lễ (楊日禮) | 1369–1370 | ||
Trần Nghệ Tông (陳藝宗) | Thiệu Khánh (紹慶) | Trần Phủ (陳暊) | 1370–1372 | |||
Trần Duệ Tông (陳睿宗) | Long Khánh (隆慶) | Trần Kính (陳曔) | 1372–1377 | |||
Trần Phế Đế (陳廢帝) | no image | Xương Phù (昌符) | Trần Hiện (陳晛) | 1377–1388 | ||
Trần Thuận Tông (陳順宗) | no image | Quang Thái (光泰) | Trần Ngung (陳顒) | 1388–1398 | ||
Trần Thiếu Đế (陳少帝) | no image | Kiến Tân (建新) | Trần Án (陳) | 1398–1400 |
State of Đại Ngu (1400–1407)[edit]
Hồ dynasty (1400–1407)[edit]
Hồ dynasty (1400–1407) | ||||
939 | 1400 | 1407 | 1945 |
Emperor | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|
Hồ Quý Ly (胡季犛) | Thánh Nguyên (聖元) | Hồ Quý Ly (胡季犛) | 1400 | ||
Hồ Hán Thương (胡漢蒼) | Thiệu Thành (紹成) (1401–1402) Khai Đại (開大) (1403–1407) |
Hồ Hán Thương (胡漢蒼) | 1401–1407 |
Fourth Chinese domination period (1407–1427)[edit]
Later Trần dynasty (1407–1414)[edit]
Later Trần dynasty (1407–1414) | ||||
939 | 1407 | 1413 | 1945 |
Emperor | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|
Giản Định Đế (簡定帝) | Hưng Khánh (興慶) | Trần Ngỗi (陳頠) | 1407–1409 | ||
Trùng Quang Đế (重光帝) | Trùng Quang (重光) | Trần Quý Khoáng (陳季擴) | 1409–1414 | ||
Thiên Khánh Đế (天慶帝) | Thiên Khánh (天慶) | Trần Cảo (陳暠) | 1426–1428 | ||
|
Second independent period (1427–1883)[edit]
Later Lê dynasty – Early period (1428–1527)[edit]
Later Lê dynasty – Early period (1428–1527) | ||||
939 | 1428 | 1527 | 1945 |
Emperor | Image | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Lê Thái Tổ (黎太祖) | Thuận Thiên (順天) | Lê Lợi (黎利) | 1428–1433 | |||
Lê Thái Tông (黎太宗) | Thiệu Bình (紹平) (1434–1440) Đại Bảo (大寶) (1440–1442) |
Lê Nguyên Long (黎元龍) | 1433–1442 | |||
Lê Nhân Tông (黎仁宗) | Đại Hòa/Thái Hòa (大和 / 太和) (1443–1453) Diên Ninh (延寧) (1454–1459) |
Lê Bang Cơ (黎邦基) | 1442–1459 | |||
Lệ Đức Hầu (厲德侯) | Thiên Hưng (天興) (1459–1460) | Lê Nghi Dân (黎宜民) | 1459–1460 | |||
Lê Thánh Tông (黎聖宗) | Quang Thuận (光順) (1460–1469) Hồng Đức (洪德) (1470–1497) |
Lê Tư Thành (Lê Hạo) (黎思誠 / 黎灝) |
1460–1497 | |||
Lê Hiến Tông (黎憲宗) | no image | Cảnh Thống (景統) | Lê Tranh (黎鏳) | 1497–1504 | ||
Lê Túc Tông (黎肅宗) | no image | Thái Trinh (泰貞) | Lê Thuần (黎㵮) | 1504–1504 | ||
Lê Uy Mục (黎威穆) | Đoan Khánh (端慶) | Lê Tuấn (黎濬) | 1505–1509 | |||
Lê Tương Dực (黎襄翼) | no image | Hồng Thuận (洪順) | Lê Oanh (黎瀠) | 1510–1516 | ||
Lê Quang Trị (黎光治) | no image | none | Lê Quang Trị (黎光治) | 1516–1516 | ||
Lê Chiêu Tông (黎昭宗) | Quang Thiệu (光紹) | Lê Y (黎椅) | 1516–1522 | |||
Lê Bảng (黎榜) | no image | Đại Đức (大德) | Lê Bảng (黎榜) | 1518–1519 | ||
Lê Do (黎槱) | no image | Thiên Hiến (天宪) | Lê Do (黎槱) | 1519–1519 | ||
Lê Cung Hoàng (黎恭皇) | Thống Nguyên (統元) | Lê Xuân (黎椿) | 1522–1527 | |||
|
Northern and Southern dynasty (1533–1592)[edit]
Northern dynasty – Mạc dynasty (1527–1592)[edit]
Mạc dynasty (1527–1592) | ||||
939 | 1527 | 1592 | 1945 |
Emperor | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|
Mạc Thái Tổ (莫太祖) | Minh Đức (明德) | Mạc Đăng Dung (莫登庸) | 1527–1529 | ||
Mạc Thái Tông (莫太宗) | Đại Chính (大正) | Mạc Đăng Doanh (莫登瀛) | 1530–1540 | ||
Mạc Hiến Tông (莫憲宗) | Quãng Hòa (廣和) | Mạc Phúc Hải (莫福海) | 1541–1546 | ||
Mạc Chính Trung (莫正中) | none | Mạc Chính Trung (莫正中) | 1546–1547 | ||
Mạc Tuyên Tông (莫宣宗) | Vĩnh Định (永定) (1547) Cảnh Lịch (景曆) (1548–1553) Quang Bảo (光宝) (1554–1561) |
Mạc Phúc Nguyên (莫福源) | 1546–1561 | ||
Mạc Mậu Hợp (莫茂洽) | Thuần Phúc (淳福) (1562–1565) Sùng Khang (崇康) (1566–1577) Diên Thành (延成) (1578–1585) Đoan Thái (端泰) (1586–1587) Hưng Trị (興治) (1588–1590) Hồng Ninh (洪寧) (1591–1592) |
Mạc Mậu Hợp (莫茂洽) | 1562–1592 | ||
Mạc Toàn (莫全) | Vũ An (武安) (1592–1592) | Mạc Toàn (莫全) | 1592 | ||
Mạc Chính Trung claimed himself as emperor of Mạc dynasty, however Mạc dynasty never considered him as official emperor. After internal fighting with his brothers, he fled to the Ming dynasty of China. After Mạc Toàn, Mạc family was defeated by Later Lê forces and fled to Cao Bằng. Mac family continued to rule there until 1677:
|
Southern dynasty – Revival Lê dynasty – Warlord period (1533–1789)[edit]
Later Lê dynasty – Warlord period (1533–1788) | ||||
939 | 1533 | 1789 | 1945 |
Emperor | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|
Lê Trang Tông (黎莊宗) | Nguyên Hòa (元和) | Lê Ninh (黎寧) | 1533–1548 | ||
Lê Trung Tông (黎中宗) | Thuận Bình (順平) | Lê Huyên (黎暄) | 1548–1556 | ||
Lê Anh Tông (黎英宗) | Thiên Hữu (天祐) (1557) Chính Trị (正治) (1558–1571) Hồng Phúc (洪福) (1572–1573) |
Lê Duy Bang (黎維邦) | 1556–1573 | ||
Lê Thế Tông (黎世宗) | Gia Thái (嘉泰) (1573–1577) Quang Hưng (光興) (1578–1599) |
Lê Duy Đàm (黎維潭) | 1573–1599 | ||
Restoration – Conflict between the Trịnh and Nguyễn lords During this time, emperors of the Lê dynasty only ruled in name, it was the Trịnh Lords in Northern Vietnam and Nguyễn lords in Southern Vietnam who held the real power. | |||||
Lê Kính Tông (黎敬宗) | Thận Đức (慎德) (1600) Hoằng Định (弘定) (1601–1619) |
Lê Duy Tân (黎維新) | 1600–1619 | ||
Lê Thần Tông (黎神宗) (first reign) | Vĩnh Tộ (永祚) (1620–1628) Đức Long (德隆) (1629–1643) Dương Hòa (陽和) (1635–1643) |
Lê Duy Kỳ (黎維祺) | 1619–1643 | ||
Lê Chân Tông (黎真宗) | Phúc Thái (福泰) | Lê Duy Hựu (黎維祐) | 1643–1649 | ||
Lê Thần Tông (黎神宗) (second reign) | Khánh Đức (慶德) (1649–1652) Thịnh Đức (盛德) (1653–1657) Vĩnh Thọ (永壽) (1658–1661) Vạn Khánh (萬慶) (1662) |
Lê Duy Kỳ (黎維祺) | 1649–1662 | ||
Lê Huyền Tông (黎玄宗) | Cảnh Trị (景治) | Lê Duy Vũ (黎維禑) | 1663–1671 | ||
Lê Gia Tông (黎嘉宗) | Dương Đức (陽德) (1672–1773) Đức Nguyên (德元) (1674–1675) |
Lê Duy Cối (黎維禬) | 1672–1675 | ||
Lê Hy Tông (黎熙宗) | Vĩnh Trị (永治) (1678–1680) Chính Hòa (正和) (1680–1705) |
Lê Duy Hợp (黎維祫) | 1676–1704 | ||
Lê Dụ Tông (黎裕宗) | Vĩnh Thịnh (永盛) (1706–1719) Bảo Thái (保泰) (1720–1729) |
Lê Duy Đường (黎維禟) | 1705–1728 | ||
Lê Duy Phường (黎維祊) | Vĩnh Khánh (永慶) | Lê Duy Phường (黎維祊) | 1729–1732 | ||
Lê Thuần Tông (黎純宗) | Long Đức (龍德) | Lê Duy Tường (黎維祥) | 1732–1735 | ||
Lê Ý Tông (黎懿宗) | Vĩnh Hữu (永佑) | Lê Duy Thận (黎維祳) | 1735–1740 | ||
Lê Hiển Tông (黎顯宗) | Cảnh Hưng (景興) | Lê Duy Diêu (黎維祧) | 1740–1786 | ||
Lê Chiêu Thống (黎昭統) | Chiêu Thống (昭統) | Lê Duy Khiêm (Lê Duy Kỳ) (黎維 / 黎維祁) |
1787–1789 |
Tonkin – Trịnh lords (1545–1787)[edit]
Trịnh Lords (1545–1787) | ||||
939 | 1545 | 1787 | 1945 |
Lord | Given name | Reign | ||
---|---|---|---|---|
Trịnh Kiểm (鄭檢) | Trịnh Kiểm (鄭檢) | 1545–1570 | ||
Bình An Vương (平安王) | Trịnh Tùng (鄭松) | 1570–1623 | ||
Thanh Đô Vương (清都王) | Trịnh Tráng (鄭梉) | 1623–1652 | ||
Tây Định Vương (西定王) | Trịnh Tạc (鄭柞) | 1653–1682 | ||
Định Nam Vương (定南王) | Trịnh Căn (鄭根) | 1682–1709 | ||
An Đô Vương (安都王) | Trịnh Cương (鄭棡) | 1709–1729 | ||
Uy Nam Vương (威南王) | Trịnh Giang (鄭杠) | 1729–1740 | ||
Minh Đô Vương (明都王) | Trịnh Doanh (鄭楹) | 1740–1767 | ||
Tĩnh Đô Vương (靖都王) | Trịnh Sâm (鄭森) | 1767–1782 | ||
Điện Đô Vương (奠都王) | Trịnh Cán (鄭檊) | 1782 (2 months) | ||
Đoan Nam Vương (端南王) | Trịnh Khải (鄭楷) | 1782–1786 | ||
Án Đô Vương (晏都王) | Trịnh Bồng (鄭槰) | 1786–1787 |
Trịnh Kiểm never declared himself as Lord during his rule, his titles were posthumously given by his descendants. Hence he is not considered as an official Trịnh Lord.
Cochinchina – Nguyễn lords (1558–1777)[edit]
Nguyễn Lords (1558–1777) | ||||
939 | 1558 | 1802 | 1945 |
Lord | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|
Chúa Tiên (主僊) | Nguyễn Hoàng (阮潢) | 1558–1613 | ||
Chúa Sãi (主仕) | Nguyễn Phúc Nguyên (阮福源) | 1613–1635 | ||
Chúa Thượng (主上) | Nguyễn Phúc Lan (阮福瀾) | 1635–1648 | ||
Chúa Hiền (主賢) | Nguyễn Phúc Tần (阮福瀕) | 1648–1687 | ||
Chúa Nghĩa (主義) | Nguyễn Phúc Thái (阮福溙) | 1687–1691 | ||
Chúa Minh (主明) | Nguyễn Phúc Chu (阮福淍) | 1691–1725 | ||
Chúa Ninh (主寧) | Nguyễn Phúc Trú (阮福澍) | 1725–1738 | ||
Võ Vương (武王) | Nguyễn Phúc Khoát (阮福濶) | 1738–1765 | ||
Định Vương (定王) | Nguyễn Phúc Thuần (阮福淳) | 1765–1777 | ||
Tân Chính Vương (新政王) | Nguyễn Phúc Dương (阮福暘) | 1776–1777 |
Nguyễn Phúc Dương was established by Tây Sơn leaders (Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ and Nguyễn Lữ) as a puppet Nguyễn Lord for their political purpose during Tây Sơn uprising. Hence he is sometimes not considered as an official Nguyễn lord.
Tây Sơn dynasty (1778–1802)[edit]
Tây Sơn dynasty (1778–1802) | ||||
939 | 1778 | 1802 | 1945 |
Emperor | Era name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|
Thái Đức (泰德) | Thái Đức (泰德) | Nguyễn Nhạc (阮岳) | 1778–1788 | ||
Quang Trung (光中) | Quang Trung (光中) | Nguyễn Huệ (阮惠) | 1788–1792 | ||
Cảnh Thịnh (景盛) | Cảnh Thịnh (景盛) Bảo Hưng (寶興) |
Nguyễn Quang Toản (阮光纘) | 1792–1802 |
Nguyễn Nhạc dropped his emperor title in 1788 after his younger brother – Nguyễn Huệ – declared himself as Emperor.
Empire of Great Vietnam (1802–1883), Annam and Tonkin Protectorates (1883–1945), and Empire of Vietnam (1945)[edit]
Nguyễn dynasty (1802–1945)[edit]
Nguyễn dynasty (1802–1945) | |||
939 | 1802 | 1945 |
Emperor | Image | Temple name | Full name | Reign | ||
---|---|---|---|---|---|---|
Gia Long (嘉隆) | Thế Tổ (世祖) | Nguyễn Phúc Ánh (阮福暎) | 1802–1820 | |||
Minh Mạng (明命) | Thánh Tổ (聖祖) | Nguyễn Phúc Đảm (阮福膽) | 1820–1841 | |||
Thiệu Trị (紹治) | Hiến Tổ (憲祖) | Nguyễn Phúc Miên Tông (阮福綿宗) | 1841–1847 | |||
Tự Đức (嗣德) | Dực Tông (翼宗) | Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (阮福洪任) | 1847–1883 | |||
Dục Đức (育德) | Cung Tông (恭宗) | Nguyễn Phúc Ưng Ái (Nguyễn Phúc Ưng Chân) (阮福膺𩡤 / 阮福膺禛) |
1883 (3 days) | |||
Hiệp Hòa (協和) | none | Nguyễn Phúc Hồng Dật (阮福洪佚) | 1883 (6 months) | |||
Kiến Phúc (建福) | Giản Tông (簡宗) | Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登) | 1883–1884 | |||
Hàm Nghi (咸宜) | none | Nguyễn Phúc Minh (阮福明) | 1884–1885 | |||
Đồng Khánh (同慶) | Cảnh Tông (景宗) | Nguyễn Phúc Ưng Kỷ (阮福膺祺) | 1885–1889 | |||
Thành Thái (成泰) | none | Nguyễn Phúc Bửu Lân (阮福寶嶙) | 1889–1907 | |||
Duy Tân (維新) | none | Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊) | 1907–1916 | |||
Khải Định (啓定) | Hoằng Tông (弘宗) | Nguyễn Phúc Bửu Đảo (阮福寶嶹) | 1916–1925 | |||
Bảo Đại (保大) | none | Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy (阮福永瑞) | 1925–1945 |
Non-Vietnamese nations[edit]
Champa (192–1832)[edit]
Dynasty | King | Real name | Reign |
I Dynasty | Sri Mara | Ch'ű-lien[17]: 44 | 192–? |
? | |||
? | |||
Fan Hsiung[17]: 44 | fl. 270 | ||
Fan Yi[17]: 44 | c. 284–336 | ||
II Dynasty | Fan Wen[17]: 44–45 | 336–349 | |
Fan Fo[17]: 47 | 349–? | ||
Bhadravarman I[17]: 48 | Fan Hu Ta[17]: 56 | 380–413[17]: 56 | |
Gangaraja[17]: 57 | Fan Ti Chen[17]: 56 | ||
Manorathavarman[17]: 57 | |||
Fan Diwen | died c. 420 | ||
III Dynasty | Fan Yang Mai I | Fan Yangmai | c. 420–421[17]: 57 |
Fan Yang Mai II[17]: 57 | Fan Duo | c. 431 – c. 455 | |
Fan Shencheng[17]: 57 | c. 455 – c. 484 | ||
Fan Danggenchun[17]: 58 | c. 484 – c. 492 | ||
Fan Zhunong | c. 492 – c. 498[17]: 59 | ||
Fan Wenkuan [17]: 59 or Fan Wenzan |
c. 502 – c. 510 | ||
Devavarman[17]: 59 | Fan Tiankai | c. 510 – c. 526 | |
Vijayavarman[17]: 59 | c. 526/9 | ||
IV Dynasty | Rudravarman I[17]: 70 | c. 529 ? | |
Sambhuvarman[17]: 70 | Fan Fanzhi | 572 – 629 | |
Kandarpadharma[17]: 71 | Fan Touli | 629 – | |
Prabhasadharma | Fan Zhenlong | – 645[17]: 71 | |
Bhadresvaravarman[17]: 71 | 645–? | ||
Isanavarman (FEMALE)[17]: 71 | died 653 | ||
Vikrantavarman I | Zhuge Di | 653–c. 686[17]: 72 | |
Naravahanavarman | c. 686 – c. ? | ||
Vikrantavarman II[17]: 72 | c. 687 – c. 731 | ||
Rudravarman II[17]: 94 | c. 731/58 | ||
V Dynasty (of Panduranga) | Prithindravarman[17]: 95 | ? 758–? | |
Satyavarman[17]: 95 | c. 770/87 | ||
Indravarman I[17]: 103 | c. 787/803 | ||
Harivarman I[17]: 103 | c. 803/17 > ? | ||
Vikrantavarman III[17]: 104 | ? -c. 854 | ||
VI Dynasty (of Bhrigu) | Indravarman II[17]: 123 | c. 854/98 | |
Jaya Sinhavarman I[17]: 123 | c. 898/903 | ||
Jaya Saktivarman[17]: 123 | |||
Bhadravarman II[17]: 123 | fl. 910 | ||
Indravarman III[17]: 123 | c. 918–959 | ||
Jaya Indravarman I[17]: 124 | 959– < 965 | ||
Paramesvaravarman I[17]: 124 | Bo-mei-mei-shui Yang Bu-yin-cha (波美美稅楊布印茶)[18] | < 965–982 | |
Indravarman IV[17]: 125 | 982–986's | ||
Liu Ji-zong[17]: 125 | Lưu Kế Tông (劉継宗)[19][20][18] | c. 986–989 | |
VII Dynasty | Harivarman II[17]: 125 | Yang Tuo Pai (楊陀排)[19][20][18][21] | c. 989–997 |
Yang Bo Zhan, of Fan[17]: 125 | Yang Bozhan (楊波占)[19][20][18][22] | ? | |
Yang Pu Ku Vijaya[17]: 139 | Yan Pu Ku Vijaya Sri (楊甫恭毘施離)[19][20][18] | c. 998–1007 | |
Harivarman III[17]: 139 | Yang Pu Ju-bi-cha-she-li (楊普俱毘茶室離) [19][20][18] | fl. 1010 | |
Paramesvaravarman II[17]: 139 | Yang Pu Ju-bi-cha-she-li (楊普俱毘茶室離) [19][20][18] | fl. 1018 | |
Vikrantavarman IV[17]: 139 | Yang Bu Ju-shi-li (楊卜俱室離) [19][20][18] | ?–?1030 | |
Jaya Simhavarman II[17]: 139 | ?1030–?1044 | ||
VIII Dynasty (of the South) | Jaya Paramesvaravarman I[17]: 140 | Ku Sri Paramesvarmadeva Yang Pu (倶舍波微收羅婆麻提楊卜)[19][20][18] | 1044–1060 |
Bhadravarman III[17]: 140 | ?–1061 | ||
Rudravarman III[17]: 140 | 1061–1074 | ||
IX Dynasty | Harivarman IV[17]: 154 | 1074–1080 | |
Jaya Indravarman II[17]: 154 | 1080–1081, 1086–1114 | ||
Paramabhodhisatva[17]: 154 | – | 1081–1086 | |
Harivarman V[17]: 164 | Yang Bu Ma-die (楊卜麻 曡)[18] | 1114–1139 | |
X Dynasty | Jaya Indravarman III[17]: 164 | 1139/45 | |
XI Dynasty | Rudravarman IV (Khmer vassal) | 1145–1147[17]: 164 | |
Jaya Harivarman I[17]: 164 | 1147–1167 | ||
Jaya Harivarman II[17]: 165 | 1167 | ||
Jaya Indravarman IV[17]: 165–166 | 1167–1190, died 1192 | ||
XII Dynasty | Suryajayavarmadeva (Khmer vassal in Vijaya)[17]: 171 | 1190–1191 | |
Suryavarmadeva (Khmer vassal in Pandurang)[17]: 170–171 | 1190–1203 | ||
Jaya Indravarman V (in Vijaya)[17]: 171 | 1191 | ||
Champa under Cambodian rules | 1203–1220 | ||
Jaya Paramesvaravarman II[17]: 171 | 1220–c.1252 | ||
Jaya Indravarman VI[17]: 182 | c.1252–1257 | ||
Indravarman V[17]: 192 | 1257–1288 | ||
Jaya Sinhavarman III | 1288–1307 | ||
Jaya Sinhavarman IV | 1307–1312 | ||
Chế Nang (Vietnamese Vassal) | 1312–1318 | ||
XIII Dynasty | Chế A Nan | 1318–1342 | |
Trà Hoa Bồ Đề | 1342–1360 | ||
Chế Bồng Nga (Red king-strongest king) | 1360–1390 | ||
XIV Dynasty | Jaya Simhavarman VI | 1390–1400 | |
Indravarman VI | 1400–1441 | ||
Virabhadravarman | 1441–? | ||
Maija Vijaya | 1441–1446 | ||
Moho Kouei-Lai | 1446–1449 | ||
Moho Kouei-Yeou | 1449–1458 | ||
XV Dynasty | Moho P'an-Lo-Yue | 1458–1460 | |
Tra-Toan | 1460–1471 | ||
Dynasty of the South | Po Ro Me | 1627–1651 | |
Po Niga | 1652–1660 | ||
Po Saut | 1660–1692 | ||
Dynasty of Po Saktiraidaputih, vassal Cham rulers under the Nguyễn lords | Po Saktirai da putih | 1695–1728 | |
Po Ganvuh da putih | 1728–1730 | ||
Po Thuttirai | 1731–1732 | ||
vacant | 1732–1735 | ||
Po Rattirai | 1735–1763 | ||
Po Tathun da moh-rai | 1763–1765 | ||
Po Tithuntirai da paguh | 1765–1780 | ||
Po Tithuntirai da parang | 1780–1781 | ||
vacant | 1781–1783 | ||
Chei Krei Brei | 1783–1786 | ||
Po Tithun da parang | 1786–1793 | ||
Po Lathun da paguh | 1793–1799 | ||
Po Chong Chan | 1799–1822 |
Funan (68–550)[edit]
King | Reign |
Soma (fem.) | latter 1st century |
Kaundinya I (Hun-t'ien) | latter 1st century |
? | |
? | |
Hun P’an-h’uang | second half of 2nd century |
P’an-P’an | early 3rd century |
Fan Shih-Man | c. 205–225 |
Fan Chin-Sheng | c. 225 |
Fan Chan | c. 225 – c. 240 |
Fan Hsun | c. 240–287 |
Fan Ch’ang | c. 245 |
Fan Hsiung | 270 ?–285 |
? | |
? | |
Chandan (Chu Chan-t’an) | 357[17]: 46 |
? | |
? | |
Kaundinya II (Chiao Chen-ju) | ?–434 |
Sresthavarman ? or Sri Indravarman (Che-li-pa-mo or Shih-li-t’o-pa-mo) | 434–438[17]: 56 |
? | |
? | |
Kaundinya Jayavarman (She-yeh-pa-mo) | 484–514 |
Rudravarman | 514–539, died 550 |
Sarvabhauma ? (Liu-t’o-pa-mo) | ? |
? | c. 550–627 |
Chenla (550–802)[edit]
Order | King | Reign |
1 | Bhavavarman I | around 550–600 |
2 | Mahendravarman | around 600–616 |
3 | Isanavarman I | 616–635 |
4 | Bhavavarman II | 639–657 |
5 | Candravarman? | ? |
6 | Jayavarman I | around 657–690 |
7 | Queen Jayadevi | 690–713 |
8 | Sambhuvarman | 713–716 |
9 | Pushkaraksha | 716–730 |
10 | Sambhuvarman | around 730–760 |
11 | Rajendravarman I | around 760–780 |
12 | Mahipativarman | around 780–788 |
Ngưu Hống (11th century – 1433)[edit]
Order | King | Reign |
1 | Tạo Lò | ?–? |
2 | Lạng Chượng | around 1000–1067 |
3 | Lò Lẹt | 1292–1329 |
4 | Con Mường | 1329–1341 |
5 | Ta Cằm | 1341–1392 |
6 | Ta Ngần | 1392–1418 |
7 | Phạ Nhù | 1418–1420 |
8 | Mứn Hằm | 1420–1441 |
See also[edit]
- Family tree of Vietnamese monarchs
- List of Vietnamese dynasties
- Vietnamese era name
- Emperor at home, king abroad
==================