Sunday, September 12, 2021

Văn hóa Việt bị trở thành văn hóa của Hán

Văn hóa Việt bị trở thành văn hóa của Hán

 

Chu, Sở là Việt tộc

 

Photo: rồng

Chu, Sở là Việt tộc

Chu là Sở, Sở là Việt tộc, việc đó là điều hiển nhiên. Người Hán họ tôn thờ chủ thuyết nhà Chu và lịch sử do nhà Chu biên soạn, rồi kể từ đó, đến khi Đại Hán thành lập thì người Hán họ đã gom về hết chủ thuyết của nhà Chu và chữ viết của tộc Việt, vì thế Văn hóa Việt bị trở thành Hán; lúc đó tất cả mỗi dân tộc quanh đó đều bị áp lực của người Hán đã phải gọi là chữ Hán và nhận mình Hán tộc.

Người Việt tự nhận mình là dân tộc Kinh, người kinh. Sách sử Hán cũng gọi người Sở là Kinh Sở và sách sử Hán cũng gọi người Việt là người Kinh. Tại sao thế? Lần mò dấu vết, ta thấy -- Nhà Thang bị nhà Chu lấy đất và nước Thang bị đổi tên là Nước Sở. Phân nửa của nước Thang bị Chu lấy và nửa kia của Thang bị đổi tên là Sở.

Sở quốc 楚國), cũng được gọi Kinh Sở.

Sở Từ (楚辞) là tuyển tập thi ca đầu tiên trong lịch sử văn học thời đó. Một thể thơ mới do quan đại phu nước Sở Khuất Nguyên sáng tác. Danh xưng Sở Từ đã tồn tại từ thời đầu nhà Tây Hán, được Lưu Hướng biên tập.

Tuyển tập thi ca Sở Từ là một thể thơ mới do quan đại phu nước Sở Khuất Nguyên sáng tác. Danh xưng Sở Từ đã tồn tại từ thời đầu nhà Tây Hán, được Lưu Hướng biên tập.

Sở Từ đã được truyền bá rộng rãi vào thời Thịnh Đường tới những quốc gia và vùng đất thuộc vùng văn hóa chữ Hán, bao gồm Nhật Bản cũng như Việt Nam và Triều Tiên/Đại Hàn ngày nay.

Đến thế kỷ thứ 16, Sở Từ lần đầu tiên tiếp cận người châu Âu. Sang đến thế kỷ 19, tác phẩm này đã thu hút được sự chú ý rộng rãi tại các quốc gia Âu Mỹ khi mà số lượng lớn các bản dịch cũng như hàng loạt các công trình nghiên cứu bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau đồng loạt xuất hiện.
Trong giới Hán học quốc tế, Sở Từ luôn là một trong những tâm điểm của việc nghiên cứu.

Sở Từ có tổng cộng 16 thiên từ phú. Về sau Vương Dật bổ sung thêm "Cửu tư" (九思) của mình tạo thành tổng cộng 17 thiên. Toàn bộ tác phẩm chủ yếu dựa trên những sáng tác của Khuất Nguyên, trong khi các thiên còn lại cũng kế thừa hình thức thơ phú của ông. Do vận dụng kiểu dáng văn học, âm ngữ và di sản phong thổ nước Sở, lại mang đậm màu sắc, phong thái của một địa phương nên Sở từ có ảnh hưởng sâu sắc tới nền thi ca của hậu thế.


Dục Hùng từng giữ chức quan trọng triều nhà Thang/Thương, Dục Hùng là thái sư của Chu Văn Vương. Dục Hùng từng là thầy dạy học của Chu Văn Vương. Như vậy vua Chu học văn hóa và chữ viết của nhà Thang/Thương từ thái sư Sở Dục Hùng của nhà Thang/Thương.

Khi Chu Văn Vương cướp và tiêu diệt nhà Thang/Thương, thì Dục Hùng được Chu Văn Vương cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca (nay thuộc Tân Tịnh, Hà Nam). Chu Văn Vương cho con của Dục Hùng là Hùng Lệ và cháu Dục Hùng là Hùng Cuồng được phong làm quan trong triều Chu. Đến đời Chu Thành Vương thì Hùng Dịch được Chu Thành Vương phong cho đất Kinh, tước hiệu là Sở tử[11]. Sở chính thức trở thành nước Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tại Đan Dương[12]. Người đầu tiên của nước Sở là Dục Hùng và Dục Hùng* đổi thành họ Hùng.

Năm 546 TCN Tấn và Sở quyết định giảng hòa với nhau làm thành liên minh hợp tung. Cùng năm đó, hai vị tướng quốc của Tấn và Sở là Triệu Vũ và Khuất Kiến đã triệu tập 14 nước nhỏ là Tấn, Sở, Tề, Tần, Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ, Trần, Sái, Tào, Hứa, Chu, Đằng đến hội ở đất Tống cùng lập minh ước đối đầu với hai nước là Tề và Tần là hai nước có lãnh thổ khá rộng.

* Sở Dục Hùng 楚鬻熊 còn đọc là Chúc Hùng, hay Huyệt Hùng 穴熊


Đất Hiểm Doãn thời Chu, chính là Hung Nô thời Tần.
Đất Hiểm Doãn thời Chu, chính là Hung Nô thời Tần




 

Tại sao Chu là Sở, Sở là Chu?

Tại sao Chu từ triều đại nhà Thang/Thương mà ra, mà có?

Tại sao gọi Hán và Sở tranh hùng?

Tại sao Văn hóa Việt bị trở thành văn hóa của Hán?

 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

Chu là Sở,
Sở là Việt tộc

Photo

Chu là Sở, Sở là Việt tộc, việc đó là điều hiển nhiên. Người Hán họ tôn thờ chủ thuyết nhà Chu và lịch sử do nhà Chu biên soạn, rồi kể từ đó, đến khi Đại Hán thành lập thì người Hán họ đã gom về hết chủ thuyết của nhà Thang/Thương và nhà Chu và chữ viết của nhà Thang/Thương và Chu là của tộc Việt, vì thế Văn hóa Việt bị trở thành Hán; và cũng vì lúc đó tất cả mỗi dân tộc quanh đó đều bị áp lực của người Hán đã phải gọi là chữ Hán và nhận mình Hán tộc. Tại sao chữ Viết của nhà Thang/Thương và Chu là của Việt tộc? Chúng ta biết Thái Sư Sở Dục Hùng 楚鬻熊 làm quan trong triều nhà Thang, và chữ khoa đẩu, hay chữ trùng điểu là của Việt tộc, mà sau này Tần Thủy Hoàng đã dùng chữ Khoa Đẩu này, ông ta gọi là chữ Triện, Đại Triện và chữ nhà Tần là chữ Tiểu Triện. Đến khi nhà Hán diệt nhà Tần, Tướng người Hán cũng là người Sở đó là Lưu Bang và Hạng Võ, cũng dùng chữ Triện nhà Tần và có cải biến, thay đổi thành chữ Lệ, chữ Khải... theo thòi gian dần trông rất khác, nhưng là theo hệ thống chữ chữ Triện mà tiền thân của chữ triện là chữ khoa đẩu, chữ trùng điểu của Việt tộc. Chính cây gươm của vua Việt Vương Câu Tiễn đã nói lên điều này.


 

^^^^^^^^^^^^^^^^^^^0000^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^

 

Trận đầu tiên giữa Hán tộc và Việt tộc - Trận Trác Lộc.
Thất trận ở Trác Lộc, Việt tộc mất vùng đất Trung Nguyên vào tay Hán tộc.

 




Photo:


Thời tiền Việt (pre Yue - Viet) và trận đánh đầu tiên giữa bộ tộc du mục Hán tốc (Hoàng Đế/(Hoang-ti) - Hiên-Viên/Huan-yuan) (Hán Tộc) chiếm đánh bộ tộc định cư định canh của Đế Viêm con cháu Thần Nông (Việt tộc).


Thần Nông Viêm Đế  炎帝/The Yan Emperor 炎帝; Yán Dì / or the Flame Emperor
Thời chiến tranh Trác Lộc, triều đại Viêm Đế/Yan Emperor là thiên tử nước của đất Xích Thần của Đế Du Võng 帝榆罔) vị vua cuối cùng của Thần Nông thị (Đời thứ chín (thứ 9) của Đế Viêm.

Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc cũng là thống soái của Thiên Tử Xích Thần triều đại Viêm Đế.

Hiên-Viên (Huan-yuan) thống lĩnh các thị tộc người Hán du mục (khoảng 2697 trước Tây Lịch) thì ông tìm cách tiêu diệt luôn Xi-Vưu là tù trưởng của Miêu-tộc để chiếm miền lưu vực Hoàng Hà mà vào bản bộ của mình.

Sau khi toàn thắng, Hiên Viên lên ngôi xưng là Hoàng đế (Hoang-ti) người Hán gốc văn hóa du mục mở đầu thời Ngũ đế. khi bộ lạc của Xi vưu thua trận phải sáp nhập vào với bộ tộc của Hoàng đế (Hán Tộc du mục) tạo thành lai giống là người Hoa Hạ, giống Hoa Hạ là giống du mục lai tạp nay lai Việt tộc và từ đó giống du mục lai giống có văn hóa du mục và văn hóa định cư định canh của tộc Việt cổ bắc đầu ở Trung Nguyên.
Cũng có những bộ lạc không thuần phục Hoàng Đế, họ tản mác chạy vào núi rừng hoặc tràn về phương nam. Cùng thời đó, cùng thời với Hoa Hạ ở thì Việt tộc họ Hồng Bàng cũng bắt đầu cho dòng Bách Việt.




*** Vị trí nước Xích Thần (Bắc Miêu/Bắc Thần Nông) nằm vắt ngang sông Hoàng Hà, trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương Tử, với hàng vạn bộ tộc nông nghiệp chuyên canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn, chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò… Vị vua đương thời là Đế Lai, con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông Đế Viêm. Kinh đô nước Xích Thần đặt tại Sơn Đông, tức là vùng đất thuộc nước Lỗ sau này.

*** Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Lai đem công chúa Âu Cơ (một vị nữ tướng) về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương, cháu nội vua Đế Minh. Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần, nhưng đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ.*


Phả hệ Viêm Đế Thần Nông thị

Thính Bạt
(Mãng Thủy thị/Bôn Thủy thị)
1 Thần Nông
Khương Thạch Niên
2 Đế Lâm Khôi
3 Đế Thừa
4 Đế MinhVụ Tiên thị
5 Đế Trực (Đế Nghi)Lộc TụcThần Long thị
Thính Yêu
(Thừa Tang thị/Tang Thủy thị)
6 Đế Ly (Đế Lai, Khắc?)Lạc Long Quân
7 Đế Ai (Lý, Cư)Âu Cơ
Tiết Hành
Đế Khắc?[1]
8 Đế Du VõngKhí



*****************

18 đời Hùng Vương




Các vị Hùng Vương nước Văn Lang
Đời vua Vương hiệu Chữ Hán Nôm Năm sinh Năm mất Ghi chú
Thượng Tổ Kinh Dương Vương 涇陽王 2919 TCN[12] 2792 TCN Húy là Lộc Tục (祿續).
Thái Tổ Lạc Long Quân 駱龍君 ~2825 TCN Không rõ Hiệu là Lạc Long Quân (駱龍君 hoặc 雒龍君 hoặc 貉龍君). Húy là Sùng Lãm (崇纜).
1 Hùng Đức Vương 雄德王 Không rõ ...
2 Hùng Hiền vương 雄賢王 ...
3 Hùng Lân vương 雄麟王
4 Hùng Diệp vương 雄曄王
5 Hùng Hi vương 雄犧王 Phần bên trái chữ "hi" 犧 là bộ "ngưu" 牛
6 Hùng Huy vương 雄暉王
7 Hùng Chiêu vương 雄昭王
8 Hùng Vĩ vương 雄暐王
9 Hùng Định vương 雄定王
10 Hùng Hi vương 雄曦王 Phần bên trái chữ "hi" 曦 là bộ "nhật" 日
11 Hùng Trinh vương 雄楨王
12 Hùng Vũ vương 雄武王
13 Hùng Việt vương 雄越王
14 Hùng Anh vương 雄英王
15 Hùng Triêu vương 雄朝王
16 Hùng Tạo vương 雄造王
17 Hùng Nghị vương 雄毅王
18 Hùng Duệ vương 雄睿王 258 TCN
========================================

Chú ý: "雄犧王" và "雄曦王" tuy đều đọc là "Hùng Hi Vương" nhưng chữ "hi" trong hai tên gọi này khác nhau về tự dạng và ý nghĩa.





King Given name Probable Reign, and line of descent
Kinh Dương Vương (涇陽王) Lộc Tục (祿續) 2879 BC – 2794 BC, Càn line (支乾)
Lạc Long Quân (貉龍君) Sùng Lãm (崇纜) 2793 BC – 2525 BC, Khảm line (支坎)
Hùng Lân vương(雄麟王), Hùng King III Lân Lang 2524 – 2253 BC,Cấn line (支艮)
Hùng Diệp Vương(雄曄王), Hùng King IV Bửu Lang 2252 – 1913 BC,Chấn line (支震)
Hùng Hy Vương, Hùng King V Viên Lang 1912 – 1713 BC,Tốn line (支巽)
Hùng Huy Vương(雄暉王), Hùng King VI Pháp Hải Lang 1712 – 1632 BC,Ly line (支離)
Hùng Chiêu vương(雄昭王), Hùng King VII Lang Liêu 1631 – 1432 BC,Khôn line(支坤)
Hùng Vĩ vương(雄暐王) Hùng King VIII Thừa Vân Lang 1431 – 1332 BC,Đoài line (支兌)
Hùng Định vương(雄定王), Hùng King IX Quân Lang 1331 – 1252 BC,Giáp line (支甲)
Hùng Hi vương(雄曦王), Hùng King X Hùng Hải Lang 1251 – 1162 BC,Ất line (支乙)
Hùng Trinh Vương(雄楨王), Hùng King XI Hưng Đức Lang 1161 – 1055 BC,Bính line (支丙)
Hùng Vũ Vương(雄武王), Hùng King XII Đức Hiền Lang 1054 – 969 BC, Đinh line (支丁)
Hùng Việt Vương(雄越王), Hùng King XIII Tuấn Lang 968 – 854 BC,Mậu line (支戊)
Hùng Anh Vương(雄英王), Hùng King XIV Chân Nhân Lang 853 – 755 BC, Kỷ line (支己)
Hùng Triệu Vương(雄朝王), Hùng King XV Cảnh Chiêu Lang 754 – 661 BC,Canh line (支庚)
Hùng Tạo Vương(雄造王), Hùng King XVI Đức Quân Lang 660 – 569 BC,Tân line (支辛)
Hùng Nghị Vương(雄毅王), Hùng King XVII Bảo Quân Lang 568 – 409 BC,Nhâm line (支壬)
Hùng Duệ Vương(雄睿王), Hùng King XVIII Lý Văn Lang or Mai An Tiêm 408 – 258 BC,Quý line (支癸)

>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>><<<<<<<<<<<<<<<<<<<<




Vào thời Chiến Quốc, nhà nước Văn Lang tan rã, một số thủ lĩnh khu vực thành lập những nhà nước của người Việt như Ngô, Việt, Sở…

Có hai giải thích về danh xưng Hùng Vương:

- Một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở,
- Hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt.

Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di. Man là chữ người Hạ gọi dân miền Nam không phải là người Trung Nguyên.

Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến). Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ.

Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu) là vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, trong cổ sử của Tàu thì không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại Hùng Vương = 雄 – hùng mạnh sau này!).

==============000000000000=============

Người Việt tự nhận mình là dân tộc Kinh, người kinh. Sách sử Hán cũng gọi người Sở là Kinh Sở. Tại sao thế? Lần mò dấu vết, ta thấy Nhà Thang bị nhà Chu lấy đất và nước Thang bị đổi tên là Nước Sở. Phân nửa của nước Thang bị Chu lấy và nửa kia của Thang bị đổi tên là Sở.

Sở quốc 楚國), cũng được gọi Kinh Sở.



Dục Hùng từng giữ chức quan trong triều nhà Thương. Dục Hùng từng là thầy dạy học / thái sư của Chu Văn Vương.

Khi Chu Văn Vương tiêu diệt nhà Thương, thì Dục Hùng được cử đi cai quản khu vực ở phía Nam Triều Ca (nay thuộc Tân Tịnh, Hà Nam). Chu Văn Vương cho con của Dục Hùng là Hùng Lệ và cháu Dục Hùng là Hùng Cuồng được phong làm quan trong triều Chu. Đến đời Chu Thành Vương thì Hùng Dịch được Chu Thành Vương phong cho đất Kinh, tước hiệu là Sở tử[11]. Sở chính thức trở thành nước Đất Kinh còn gọi là Kinh Sở, hay Sở quốc. Kinh đô nước Sở ban đầu đặt tại Đan Dương[12]. Người đầu tiên của nước Sở là Dục Hùng và Dục Hùng đổi thành họ Hùng.


Đất Hiểm Doãn thời Chu, chính là Hung Nô thời Tần.

Năm 546 TCN Tấn và Sở quyết định giảng hòa với nhau làm thành liên minh hợp tung. Cùng năm đó, hai vị tướng quốc của Tấn và Sở là Triệu Vũ và Khuất Kiến đã triệu tập 14 nước nhỏ là Tấn, Sở, Tề, Tần, Tống, Lỗ, Trịnh, Vệ, Trần, Sái, Tào, Hứa, Chu, Đằng đến hội ở đất Tống cùng lập minh ước đối đầu với Tề và Tần là hai nước có lãnh thổ khá rộng. (Trích)

Lưu ý: Những người thời Xuân Thu Chiến Quốc như nhà Thương/Thang/Ân Thương hay người Sở... họ không phải là người Tần / hay Tàu hay người Chai Na [China]. Người Tàu Chai Na họ vơ tất cả những người này thành người Tàu/Chai Na [China], đây là hành động ăn cướp văn hóa và đánh tráo lịch sử.



==========================================

Bách Gia Chư Tử

Bách Gia Chư Tử (諸子百家; zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Nguyên cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.

Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh" bǎijiā zhēngmíng. Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay.

Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc thù ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.

Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.

I. Tổng quát

Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Nguyên bị nhà Tần thâu tóm, trong lúc hệ thống tư tưởng ở Trung Nguyên bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ, không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.

Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính thực dụng. Lão Tử được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo.

Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức.

Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và tranh chấp.

Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.

Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để bảo đảm đời sống cho người dân. Tuy nhiên, Mặc Tử tin rằng -- nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.

Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo.

Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi người dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng.
Sự tin ở việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.

II. Các trường phái tư tưởng

Nho gia

Bài chi tiết: Nho giáo

Khổng Tử, người sáng lập Khổng giáo, có ảnh hưởng rất lớn tới hệ tư tưởng của Trung Quốc và Đông Á.

Nho gia, Nho giáo (hay còn gọi là Khổng giáo) là hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất tới đời sống Trung Quốc. Nó cũng được coi là một Trường phái của các học giả, những bản ghi chép kế thừa của nó nằm trong những cuốn sách kinh điển Khổng giáo, sau này nó trở thành nền tảng của xã hội truyền thống.

Khổng Tử (551–479 TCN), coi giai đoạn đầu của nhà Chu là một trật tự chính trị - xã hội lý tưởng. Ông tin rằng -- hệ thống chính phủ muốn có hiệu quả thì "Vua phải ra vua và tôi phải ra tôi". Hơn nữa, ông cho rằng một vị vua phải có đạo đức để có thể cai trị một cách đúng đắn. Đối với Khổng Tử, các chức năng của chính phủ và tầng lớp xã hội là những sự thực của cuộc sống cần phải được duy trì bởi những giá trị đạo đức; vì thế con người lý tưởng của ông là quân tử (hay con của vị vua cai trị), nó thường được dịch thành "người quý phái" trong tiếng Anh.

Mạnh Tử (371–289 TCN), là người kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, có những đóng góp quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa nhân đạo trong trường phái Nho gia. Ông tin rằng, theo lẽ tự nhiên, bản tính con người là thiện. Ông cho rằng một vị vua không thể cai trị nếu không có sự đồng ý của người dân, và rằng sự trừng phạt dành cho sự cai trị không được lòng dân và bạo ngược chính là để mất "thiên mệnh".

Tác động của những tư tưởng của Khổng Tử, luật lệ và giải thích một hệ thống các mối quan hệ dựa trên thói quen đạo đức, cùng với Mạnh Tử, sự tổng hợp và sự phát triển tư tưởng ứng dụng của Khổng Tử, đã mang lại cho xã hội Trung Quốc truyền thống một khung sườn toàn diện từ đó xếp đặt hầu như tất cả các mặt của cuộc sống.

Đã có những phát triển thêm vào tư tưởng Khổng giáo, ở ngay thời điểm đó và trong quá trình hàng nghìn năm sau cả của những người bên trong và bên ngoài Khổng giáo. Những sự giải thích được sửa đổi để thích ứng với xã hội cho phép một số sự mềm dẻo bên trong Khổng giáo, trong khi hệ thống ứng xử khuôn phép nền tảng của nó từ những thời xa xưa vẫn là phần chính trị căn bản của Khổng giáo.
Ví dụ, hoàn toàn đối lập với Mạnh Tử là sự giải thích của Tuân Tử (kh. 300–237 TCN), một học giả Khổng giáo khác về sau này. Tuân Tử chủ trương rằng con người bẩm sinh là ích kỷ và xấu xa (tính ác); ông cho rằng tính thiện chỉ có được thông qua giáo dục và hành động phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Ông cũng cho rằng hình thức chính phủ tuyệt vời nhất là dựa trên sự kiểm soát độc đoán, và rằng đạo đức là không liên quan tới việc cai trị một cách hiệu quả.

Pháp gia

Bài chi tiết: Pháp gia

Những chủ trương cai trị không dựa trên tình cảm và theo cách độc đoán của Tuân Tử. Ông đã được phát triển thành một học thuyết là hiện thân của trường phái pháp luật Pháp gia.

Học thuyết này được Thương Ưởng (ch. 338 TCN), Hàn Phi Tử (ch. 233 TCN) và Lý Tư (ch. 208 TCN) thành lập, họ cho rằng bản tính con người là ích kỷ và không thể sửa đổi được; vì thế, cách duy nhất để giữ trật tự xã hội là áp đặt kỷ luật từ bên trên, và tăng cường pháp luật một cách chặt chẽ.

Phái pháp gia đề cao nhà nước trên mọi thứ khác, coi sự thịnh vượng và quyền lực quân sự của nhà nước quan trọng hơn hạnh phúc của người dân.

Pháp gia đã có ảnh hưởng lớn tới những căn bản triết học cho các hình thức chính phủ đế quốc. Trong thời nhà Hán, những yếu tố thiết thực nhất của Khổng giáo và Pháp gia đã được dùng để tạo nên một hình thái tổng hợp, mang tới sự sáng tạo, một hình thái mới của chính phủ tồn tại mãi tới cuối thế kỷ 19.

Đạo gia

Bài chi tiết: Đạo giáo

Lão Tử.

Thời nhà Chu là một giai đoạn chứng kiến sự phát triển của Đạo giáo, luồng tư tưởng có ảnh hưởng lớn thứ hai ở Trung Quốc. Những hệ thống của nó thường được cho là của Lão Tử, người được cho là ra đời trước Khổng Tử, và Trang Tử (369–286 TCN).

Mục đích của Đạo giáo là cá nhân bên trong tự nhiên chứ không phải là cá nhân ở trong xã hội; theo Đạo giáo, mục đích cuộc sống đối với mỗi người là tìm cách điều chỉnh mình và hòa nhập với nhịp điệu của tự nhiên (và thế giới siêu nhiên), để theo đúng (Đạo) của vũ trụ, để sống hài hòa. Nó đối lập về nhiều mặt với chủ nghĩa đạo đức cứng ngắc của Khổng giáo.

Đạo giáo đối với nhiều tín đồ là một cách bổ sung vào cuộc sống hàng ngày. Một học giả khi là một vị quan phải theo những lời răn dạy của Khổng giáo, nhưng những lúc thư nhàn hay khi đã về hưu thì có thể tìm kiếm sự hòa hợp với thiên nhiên như một người Đạo giáo ẩn dật.

Âm Dương gia

Bài chi tiết: Âm Dương Gia

Một khuynh hướng tư tưởng khác thời Chiến Quốc là trường phái Âm - Dương và Ngũ Hành. Là một nhánh được tách ra từ Đạo gia (khoảng 500 năm sau khi Đạo gia hình thành). Những học thuyết đó cố gắng giải thích vũ trụ theo những thuật ngữ của những lực lượng căn bản trong tự nhiên: những tác nhân của âm (tối, lạnh, phụ nữ, phủ định) và dương (ánh sáng, nóng, đàn ông, khẳng định) và Ngũ hành (nước, lửa, gỗ, kim loại, và đất).
Khi mới xuất hiện, các học thuyết này được phát triển ở nước Yên và Tề. Về sau, những học thuyết nhận thức luận này chiếm một phần đáng kể trong cả triết học và đức tin của dân chúng.

Mặc gia

Bài chi tiết: Mặc gia

Mặc gia được thành lập theo học thuyết của Mặc Tử (470 – kh.391 TCN). Mặc dù trường phái này chỉ tồn tại trước thời nhà Tần, Mặc học vẫn được coi là một phe đối lập chính với Khổng giáo trong giai đoạn Bách gia chư tử.

Triết học của nó dựa trên ý tưởng kiêm ái: Mặc Tử tin rằng "tất cả mọi người đều bình đẳng trước thượng đế", và rằng con người phải học theo trời bằng cách thực hiện thuyết kiêm ái (yêu quý mọi người như nhau). Nhận thức luận của ông có thể được coi là những căn bản đầu tiên của chủ nghĩa kinh nghiệm; ông tin rằng nhận thức của chúng ta phải dựa trên năng lực tri giác – những kinh nghiệm giác quan của chúng ta, như nhìn và nghe – chứ không phải tưởng tượng và lý tính nội tại, là những yếu tố tạo nên khả năng trừu tượng của chúng ta.

Mặc Tử biện hộ cho tính thanh đạm, lên án sự nhấn mạnh của Khổng giáo đối với đạo đức và nhạc, mà ông coi là phung phí. Ông coi chiến tranh là vô ích và ủng hộ hòa bình. Việc hoàn thành các mục tiêu xã hội, theo Mặc tử, là cần phải thống nhất tư tưởng và hành động.

Triết lý chính trị của ông ủng hộ một chính thể quân chủ giống với sự cai trị của thần thánh: dân chúng phải luôn luôn vâng lời những người lãnh đạo, và những người lãnh đạo phải luôn theo ý nguyện của trời.

Mặc học có thể có những yếu tố của chế độ nhân tài: Mặc Tử cho rằng những nhà cai trị phải chỉ định ra những quan chức theo phẩm hạnh và khả năng chứ không phải vì những mối quan hệ gia đình của họ. Mặc dù lòng tin của dân chúng vào Mặc gia đã giảm sút từ cuối thời Tần, những quan điểm của nó vẫn còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng Pháp gia.

Danh gia

Bài chi tiết: Danh gia

Danh gia là một trường phái phát sinh từ Mặc Gia, với một triết lý được cho rằng tương tự với triết lý của người Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng hay ngụy biện. Nổi tiếng nhất trong giới Danh Gia là Công Tôn Long.

Binh gia

Binh gia là trường phái của các nhà quân sự: Tướng lĩnh và nhà chiến thuật cùng chiến lược quân sự. Binh gia có các đại diện: Tôn Vũ, người nước Ngô (còn gọi là Tôn Tử) với tác phẩm "Tôn Tử Binh Pháp";

Điền Nhương Thư, người nước Tề (còn gọi là Tư Mã Điền Nhương Thư), với tác phẩm: "Tư Mã pháp";

Ngô Khởi, người nước Lỗ, với cuốn "Ngô Tử Binh Pháp", người đời sau so sánh ông với Tôn Tử, trở thành đại diện cho Binh gia cho nên có câu "Binh Pháp Tôn Ngô"...

Những tác phẩm của họ đã gây ảnh hưởng lớn tới các Binh Gia đời sau như:

Tôn Tẫn (nước Tề),
Bàng Quyên (nước Ngụy),
Úy Liêu (nước Tần)...

Trong thời loạn lạc

— Pháp gia và Tung Hoành gia có giá trị thực dụng.
— Nho gia nói "nhân nghĩa",
— Mặc gia bảo "kiêm ái"...
thì chưa được công nhận rộng rãi.

— Còn Đạo gia nói "vô vi" rất cao siêu. Thường là một cảnh giới rất cao dùng để tu luyện giống như Phật giáo.

Đạo gia chỉ là hai môn phái Phật Đạo khác nhau mà thôi.

§ Nho gia lấy nhân nghĩa làm gốc giúp con người hướng thiện,
§ Pháp gia dùng hình phạt để răn đe làm người ta sợ hãi mà không dám làm loạn.

Như vậy, các tư tưởng trên nói chung đều có mục đích khiến xã tắc yên ổn, thiên hạ thái bình để quốc gia phát triển, xã hội phồn vinh. Nhưng cách thức thì khác nhau.

Nguồn: http://chinhnghia.com/DatNuocViet_co_trongvung_DongA_ed-2017.pdf

 

Hundred Schools of Thought

Hundred Schools of Thought / Bách Gia Chư Tử

Birthplaces of notable East Asia philosophers from Hundred Schools of Thought in the Zhou dynasty.


https://en.wikipedia.org/wiki/Hundred_Schools_of_Thought

The Hundred Schools of Thought (: 諸子百家; pinyin: zhūzǐ bǎijiā) were philosophies and schools that flourished from the 6th century BC to 221 BC during the Spring and Autumn period and the Warring States period of ancient East Asia.[1]

An era of substantial discrimination in East Asia,[2] it was fraught with chaos and bloody battles, but it was also known as the Golden Age of Chinese philosophy because a broad range of thoughts and ideas were developed and discussed freely. This phenomenon has been called the Contention of a Hundred Schools of Thought (百家爭鳴/百家争鸣; bǎijiā zhēngmíng; pai-chia cheng-ming; "hundred schools contend"). The thoughts and ideas discussed and refined during this period have profoundly influenced lifestyles and social consciousness up to the present day in East Asian countries and the East Asian diaspora around the world. The intellectual society of this era was characterized by itinerant scholars, who were often employed by various state rulers as advisers on the methods of government, war, and diplomacy.

This period ended with the rise of the imperial Qin dynasty and the subsequent purge of dissent.

Schools listed in the Shiji[edit]

A traditional source for this period is the Shiji, or Records of the Grand Historian by Sima Qian. The autobiographical section of the Shiji, the "Taishigong Zixu" (太史公自序), refers to the schools of thought described below.

Confucianism[edit]

Confucianism (儒家; Rújiā; Ju-chia; "School of scholars") is the body of thought that arguably had the most enduring effects on Chinese life. Its written legacy lies in the Confucian Classics, which later became the foundation of traditional society. Confucius (551–479 BC), or Kongzi ("Master Kong"), looked back to the early days of the Zhou dynasty for an ideal socio-political order. He believed that the only effective system of government necessitated prescribed relationships for each individual: "Let the ruler be a ruler and the subject a subject". Furthermore, he contended that a king must be virtuous in order to rule the state properly. To Confucius, the functions of government and social stratification were facts of life to be sustained by ethical values; thus his ideal human was the junzi, which is translated as "gentleman" or "superior person".

Mencius (371–289 BC), or Mengzi, formulated his teachings directly in response to Confucius.

The effect of the combined work of Confucius, the codifier and interpreter of a system of relationships based on ethical behavior, and Mencius, the synthesizer and developer of applied Confucianist thought, was to provide traditional Chinese society with a comprehensive framework by which to order virtually every aspect of life.

There were many accretions to the body of Confucian thought, both immediately and over the millennia, from within and without the Confucian school. Interpretations adapted to contemporary society allowed for flexibility within Confucianism, while the fundamental system of modeled behavior from ancient texts formed its philosophical core.

Diametrically opposed to Mencius, in regards to human nature (性), was the interpretation of Xunzi (c. 300–237 BC), another Confucian follower. Xunzi preached that man is not innately good; he asserted that goodness is attainable only through training one's desires and conduct.

Legalism[edit]

The School of Law or Legalism (法家; Fǎjiā; Fa-chia; "School of law") doctrine was formulated by Li Kui, Shang Yang (d. 338 BC), Han Fei (d. 233 BC), and Li Si (d. 208 BC), who maintained that human nature was incorrigibly selfish; accordingly, the only way to preserve the social order was to impose discipline from above, and to see to a strict enforcement of laws. The Legalists exalted the state above all, seeking its prosperity and martial prowess over the welfare of the common people.

Legalism greatly influenced the philosophical basis for the imperial form of government. During the Han dynasty, the most practical elements of Confucianism and Legalism were taken to form a sort of synthesis, marking the creation of a new form of government that would remain largely intact until the late 19th century, with continuing influence into the present.

Taoism[edit]

Philosophical Taoism or Daoism (道家; Dàojiā; Tao-chia; "School of the Way") developed into the second most significant stream of Chinese thought. Its formulation is often attributed to the legendary sage Laozi ("Old Master"), who is said to predate Confucius, and Zhuangzi (369–286 BC). The focus of Taoism is on the individual within the natural realm rather than the individual within society; accordingly, the goal of life for each individual is seeking to adjust oneself and adapting to the rhythm of nature (and the Fundamental) world, to follow the Way (tao) of the universe, and to live in harmony. In many ways the opposite of rigid Confucian morality, Taoism was for many of its adherents a complement to their ordered daily lives. A scholar serving as an official would usually follow Confucian teachings, but at leisure or in retirement might seek harmony with nature as a Taoist recluse. Politically, Taoism advocates for rule through inaction, and avoiding excessive interference.

Mohism[edit]

Mohism or Moism (墨家; Mòjiā; Mo-chia; "School of Mo") was developed by followers of Mozi (also referred to as Mo Di; 470–c.391 BC). Though the school did not survive through the Qin dynasty, Mohism was seen as a major rival of Confucianism in the period of the Hundred Schools of Thought. Its philosophy rested on the idea of impartial care (Chinese: 兼愛; pinyin: Jian Ai; lit. 'inclusive love/care'): Mozi believed that "everyone is equal before heaven", and that people should seek to imitate heaven by engaging in the practice of collective love. This is often translated and popularized as "universal love", which is misleading as Mozi believed that the essential problem of human ethics was an excess of partiality in compassion, not a deficit in compassion as such. His aim was to re-evaluate behavior, not emotions or attitudes.[3] His epistemology can be regarded as primitive materialist empiricism; he believed that human cognition ought to be based on one's perceptions – one's sensory experiences, such as sight and hearing – instead of imagination or internal logic, elements founded on the human capacity for abstraction.

Mozi advocated frugality, condemning the Confucian emphasis on ritual and music, which he denounced as extravagant. He regarded offensive warfare as wasteful and advocated pacifism or at the most, defensive fortification. The achievement of social goals, according to Mozi, necessitated the unity of thought and action. His political philosophy bears a resemblance to divine-rule monarchy: the population ought always to obey its leaders, as its leaders ought always to follow the will of heaven. Mohism might be argued to have elements of meritocracy: Mozi contended that rulers should appoint officials by virtue of their ability instead of their family connections. Although popular faith in Mohism had declined by the end of the Qin Dynasty, its views are said to be strongly echoed in Legalist thought.

School of Yin-yang[edit]

The School of Naturalists or Yin-yang (陰陽家/阴阳家; Yīnyángjiā; Yin-yang-chia; "School of Yin-Yang") was a philosophy that synthesized the concepts of yin-yang and the Five Elements; Zou Yan is considered the founder of this school.[4] His theory attempted to explain the universe in terms of basic forces in nature: the complementary agents of yin (dark, cold, female, negative) and yang (light, hot, male, positive) and the Five Elements or Five Phases (water, fire, wood, metal, and earth). In its early days, this theory was most strongly associated with the states of Yan and Qi. In later periods, these epistemological theories came to hold significance in both philosophy and popular belief. This school was absorbed into Taoism's alchemic and magical dimensions as well as into the Chinese medical framework. The earliest surviving recordings of this are in the Ma Wang Dui texts and Huangdi Neijing.

School of Names[edit]

The School of Names or Logicians (名家; Míngjiā; Ming-chia; "School of names") grew out of Mohism, with a philosophy that focused on definition and logic. It is said to have parallels with that of the Ancient Greek sophists or dialecticians. The most notable Logician was Gongsun Longzi.

Schools listed in the Hanshu[edit]

In addition to the above six major philosophical schools within the Hundred Schools of Thought, the "Yiwenzhi" of the Book of Han adds four more into the Ten Schools (十家; Shijia).

School of Diplomacy[edit]

The School of Diplomacy or School of Vertical and Horizontal [Alliances] (纵横家; 縱橫家; Zonghengjia) specialized in diplomatic politics; Zhang Yi and Su Qin were representative thinkers. This school focused on practical matters instead of any moral principle, so it stressed political and diplomatic tactics, and debate and lobbying skill. Scholars from this school were good orators, debaters and tacticians.

Agriculturalism[edit]

Agriculturalism (农家; 農家; Nongjia) was an early agrarian social and political philosophy that advocated peasant utopian communalism and egalitarianism.[5] The philosophy is founded on the notion that human society originates with the development of agriculture, and societies are based upon "people's natural propensity to farm." [6]

The Agriculturalists believed that the ideal government, modeled after the semi-mythical governance of Shennong, is led by a benevolent king, one who works alongside the people in tilling the fields. The Agriculturalist king is not paid by the government through its treasuries; his livelihood is derived from the profits he earns working in the fields, not his leadership. [7]

Unlike the Confucians, the Agriculturalists did not believe in the division of labour, arguing instead that the economic policies of a country need to be based upon an egalitarian self sufficiency. The Agriculturalists supported the fixing of prices, in which all similar goods, regardless of differences in quality and demand, are set at exactly the same, unchanging price. [7]

For example, Mencius once criticized its chief proponent Xu Xing for advocating that rulers should work in the fields with their subjects. One of Xu's students is quoted as having criticized the duke of Teng in a conversation with Mencius by saying:

"A worthy ruler feeds himself by ploughing side by side with the people, and rules while cooking his own meals. Now Teng on the contrary possesses granaries and treasuries, so the ruler is supporting himself by oppressing the people."

Syncretism[edit]

Syncretism, or the School of Miscellany (杂家; 雜家; Zajia) integrated teachings from different schools; for instance, Lü Buwei found scholars from different schools to write a book called Lüshi Chunqiu cooperatively. This school tried to integrate the merits of various schools and avoid their perceived flaws. The (c. 330 BC) Shizi is the earliest textual example of the Syncretic School.

School of "Minor-talks"[edit]

The School of "Minor-talks" (小说家; 小說家; Xiaoshuojia) was not a unique school of thought. Indeed, all the thoughts which were discussed by and originated from non-famous people on the street were included in this school. At that time, there were some government officials responsible for collecting ideas from non-famous people on the street and report to their seniors. Such thoughts formed the origin of this school.

Unlisted schools[edit]

These schools were not listed in the Hanshu but did have substantial influence.

School of the Military[edit]

Another group is the School of the Military (兵家; Bingjia) that often studied and discussed about what westerners called the philosophy of war. Some of them studied warfare and strategy, others focused on kinds and skills of weapons. Sun Tzu and Sun Bin were influential leaders. Some of their famous works are Sun Tzu's The Art of War and Sun Bin's Art of War. Their theories influenced later China and even East Asia more broadly. These classical texts have received great interest among contemporary interpreters, some of whom have applied it to military strategy, the martial arts, and even modern business.

Yangism[edit]

Yangism was a form of ethical egoism founded by Yang Zhu. It was once widespread but fell to obscurity before the Han dynasty. Due to its stress on individualism, it influenced later generations of Taoists.

School of the Medical Skills[edit]

School of the Medical Skills (方技家; Fangjijia) is a school which studied medicine and health. Bian Que and Qibo were well-known scholars. Two of the earliest and existing Chinese medical works are Huangdi Neijing and Shanghan Lun.

History and origins[]

The "Yiwenzhi" of the Hanshu claims that the officials working for the government during the early Zhou Dynasty lost their position when the authority of the Zhou rulers began to break down in the Eastern Zhou period. In this way, the officials spread all over the country and started to teach their own field of knowledge as private teachers. In this way the schools of philosophy were born. In particular, the School of Scholars (i.e. the Confucian School) was born from the officials of the Ministry of Education; the Taoists from the historians; the Yin-yang School from the astronomers; the Legalist School from the Ministry of Justice; the School of Names from the Ministry of Rituals; the Mohist School from the Guardians of the Temple; the School of Diplomacy from the Ministry of Embassies; the School of Miscellany from the government counselors; the School of Agriculture from the Ministry of the Soil and Wheat; the School of Minor Talks from the minor officials. Although the details are unclear, the burning of books and burying of scholars during the Qin was the end of the period of open discussion.

It should be stressed that only the Ru, or Confucians and the Mohists were actual organized schools of teachers and disciples during this period. All the other schools were invented later to describe groups of texts that expressed similar ideas. There was never an organized group of people describing themselves as "Legalists," for example, and the term "Daoist" was only coined in the Eastern Han after having succeeded the Western Han's Huang-Lao movement.



===============<<<<<<<<<<<<<<<>>>>>>>>>>====================

 

CUỘC CHIẾN HÁN-VIỆT Đầu Tiên xảy ra TẠI TRÁC LỘC, 2704 tr. CN

Sơ đồ CUỘC CHIẾN TRANH HÁN-VIỆT TẠI TRÁC LỘC, 2704 tr. CN


Thời tiền Việt (pre Yue - Viet) và trận đánh đầu tiên giữa bộ tộc du mục và bộ tộc Lúa nước (Thần Nông) của con cháu Đế Viêm (gốc Việt) và Hoàng Đế (gốc Hán).

CUỘC CHIẾN TRANH HÁN-VIỆT TẠI TRÁC LỘC, 2704 tr.CN

Trong khoảng thời gian 20 năm, kể từ năm 2720 đến năm 2700 tr.CN, Chiến tranh Trác Lộc 2704 tr.CN: được tổng hợp từ các tài liệu.

4A – Vị trí nước Xích Thần (Bắc Miêu) nằm vắt ngang sông Hoàng Hà, trải dài xuống phía bắc châu thổ sông Dương Tử, với hàng vạn bộ tộc nông nghiệp chuyên canh lúa nước, chăn nuôi gia súc như trâu, bò, lợn, chó, gà, vịt… trồng cây ăn trái, đánh bắt tôm, cá, mò nghêu, lượm sò…

Xã hội Xích Thần theo truyền thống mẫu hệ, thanh bình, trù phú và hầu như chưa hề biết chiến tranh. Vị vua đương thời là Đế Lai, con Đế Nghi, cháu nội Đế Minh, thuộc dòng dõi Thần Nông Đế Viêm. Kinh đô nước Xích Thần đặt tại Sơn Đông, tức là vùng đất thuộc nước Lỗ sau này.
Vào thời Chiến quốc, đất này sẽ là nơi sinh của đức Khổng Tử. Quý độc giả đọc sách Đông Châu Liệt quốc, chắc không quên nước Lỗ là một nước có truyền thống luân lý và đạo đức nổi tiếng thời cổ.

Danh xưng vua của nước Xích Thần có ý nghĩa như đại tù trưởng, đại tiên chỉ. Sử gia Trung Hoa Tư Mã Thiên thì gọi vua nước Xích Thần là thiên Tử.

Đại Việt Sử Ký Tiền Biên (ngoại kỷ quyển 1 tờ 9b) đã có thể bình luận tình trạng Lạc Việt đời thượng cổ như sau”:

“Nước Nam về thời Lạc Hồng vua dân cùng cầy, cha con cùng tắm, người và giống vật cùng ở nhà sàn. Ruộng Lạc điền theo nước triều lên xuống. Dân đời ấy cùng nhau vui vẻ chơi đùa ở trong cõi đất không rét không nóng. Người già rồi thì chết, người trẻ đến lúc già không biết gì đến việc đánh nhau. Có thể gọi là đời chí đức, gọi là nước cực lạc. Vua thì yên vui như tượng Phật. Dân thì vẽ mình làm ăn, không phiền nhiễu gì đến sưu thuế, không việc gì canh phòng. Vua dân thân nhau, dẫu vài nghìn năm cũng không thay đổi…”

Xã hội Việt tộc cổ là như vậy, nếu so với uy quyền của các vua du mục Hoa tộc sau này thì khác hẳn, quyền hành của các vị vua phong kiến hay chuyên chế của truyền thống du mục vốn rất bạo ngược, thuế má, sưu dịch nặng nề, chiến tranh chiếm đoạt liên miên lúc nào cũng sẵn sàng xảy ra…

4B – Khoảng năm 2.720 tr.CN, có nhiều Hậu du mục Hán tộc (mỗi Hậu như một bộ lạc có từ một tới vài vạn người) với những đàn gia súc đông đảo từ vùng Tân Cương, Thanh Hải (đang bị sa mạc hóa) du cư về phía Đông Nam. Các sử gia Tây phương gọi dân du mục trên thế giới là Savage, Barbarian tức là Rợ, có nghĩa là thành phần dã man, mọi rợ, chưa khai hóa.

Rợ Hán tộc tấn công chiếm đoạt đất đai của nước Xích Thần, bắt dân Miêu Bắc làm nô lệ, cướp đoạt tài sản. Những toán kỵ binh và bộ binh hùng mạnh của họ xông vào các khu cư ngụ Miêu tộc như vào chỗ không người. Nhiều tù trưởng Miêu tộc quật cường tổ chức chống cự nhưng đều bị đánh bại. Trước những đoàn quân thiện chiến, những đội kỵ binh hung hãn của rợ Hán tộc, các bộ tộc Bắc Miêu thuộc nước Xích Thần thua liên tiếp nhiều trận phải rút về phía Nam sông Hoàng Hà. Nhiều đoàn rợ Hán tộc nhân đà thắng lợi, họ vượt sông Hoàng Hà đánh tràn xuống phía Nam. Thế nước Xích Thần mỗi ngày một trở nên nguy ngập.

4C – Để cứu nguy nước Xích Thần, vua Đế Lai đem công chúa Âu Cơ (một vị nữ tướng) về Nam, đến nước Xích Quỷ (Nam Miêu, Bách Việt) cầu viện binh đồng thời gả công chúa Âu Cơ cho vua Lạc Long Quân, con vua Kinh Dương Vương, cháu nội vua Đế Minh.

Tổ chức xã hội Xích Quỷ giống xã hội Xích Thần, tuy nhiên đất nước Xích Quỷ thịnh vượng, dân cư đông đúc, giàu mạnh hơn. Lạc Long Quân họp dân quân 100 bộ tộc gọi là Liên Minh Xích Quỷ*, chia làm hai cánh, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Long Quân, một cánh đặt dưới quyền chỉ huy của Công chúa Âu Cơ.

* Chúng ta đã biết - hai nước nông nghiệp Bắc Miêu và Nam Miêu thanh bình lâu đời, không có quân đội thường trực. Khi hữu sự, các vua Miêu tộc thường góp dân quân từ các bộ tộc. Cuộc góp quân 100 bộ tộc nước Xích Quỷ năm 2704 Tr.CN là một cuộc tập họp đại quy mô khiến du mục Hoa tộc rất lo sợ (con số 100 có ý nói rất nhiều bộ tộc có dạng như nói: trăm họ, muôn dân…).

Quân Liên Minh Xích Quỷ theo vua Đế Lai tiến lên phía bắc họp với tàn quân Xích Thần, lập thành một đạo binh rất lớn. Vua Đế Lai truyền ngôi cho Đế Du Võng, rồi dẫn đại binh tiến lên sông Hoàng Hà (sử Tàu ngạo mạn gọi cựu vương Đế Lai là Cổ Thiên tử Xi Vu). Thấy quân binh Miêu tộc được tiếp viện từ phương Nam tiến lên “đông vô số”, những Hậu du mục Hoa tộc ở phía nam sông Hoàng Hà vội vã rút lui. Họ lập phòng tuyến tại Trác Lộc, cách bờ bắc Hoàng Hà vài trăm dặm và cầu cứu các rợ du mục Hoa tộc khác.

4D – Hội nghị các thủ lĩnh du mục họp ở Tân Trịnh, họ công kênh thủ lĩnh Hiên Viên họ Hữu Hùng Thị, một Hậu (bộ lạc) hùng mạnh nhất, lên làm cộng chủ các Hậu Hoa tộc. Cộng chủ liền lãnh đạo quân các Hậu kéo về Trác Lộc tổ chức ngăn chặn Liên Minh Xích Quỷ.

4E – Quân Liên minh Xích Quỷ sơn mặt đỏ, rất đông, có tài xử dụng búa. Nhân khi sương mù dày đặc, họ ào ạt tấn công vào phòng tuyến du mục Hoa tộc rất dữ. Quân du mục bị đánh bất ngờ, hốt hoảng, hàng ngũ rối loạn, thoát chạy.

Trong nhất thời, quân du mục thua Liên minh Xích Quỷ. Tuy nhiên, nguyên lực quân sự của họ vẫn hùng mạnh. Chẳng bao lâu sau, cộng chủ Hiên Viên chế được “sa bàn” để định phương hướng, liền hội quân các Hậu, tổ chức phản công.
Quân du mục vốn là những đạo quân chuyên nghiệp, được trang bị xa mã và kỵ binh. Họ có tài xử dụng cung và trường thương. Bộ binh thì to lớn, mặc áo da và đánh cận chiến bằng giáo dài và mã tấu.

than_nong_viem_de.jpg

Quân Liên Minh Xích Quỷ, chống nhau với quân du mục Hán tộc ở t ận Phản Tuyền, liên minh Xích Quỷ thua lớn. Vua Đế Lai lui quân về phía Đông, lập trại tại Trác Lộc. Tại đây, hai bên lại đánh một trận lớn, quân Xích Quỷ lại bị thiệt hại nặng. Vua Đế Lai tử trận. Liên minh Xích Quỷ hoàn toàn tan vỡ.

4F – Lạc Long Quân dẫn tàn quân theo bờ bắc sông Hoàng Hà, chạy ra hướng đông. Có lẽ nhà vua định lên cao nguyên Sơn Đông, kinh đô nước Xích Thần, nơi chưa bị xâm chiếm để cố thủ. Tuy nhiên quân Hoa Hán truy kích rất dữ, phải chạy ra biển Đông và mất tích*.

Kể từ đấy, nước Xích Thần mất hẳn** vào tay du mục Hán tộc.


Xích Thần
Triều đại của Đế Viêm (Thần Nông)
than_nong_viem_de.jpg
Xích Quỷ
Triều Đại Hồng Bàng của Bách Việt
than_nong_viem_de.jpg
Triều Đại Hồng Bàng Hùng Vương của Lạc Việt


*Chạy ra biển Đông và mất tích: Theo cố học giả Bình Nguyên Lộc trong sách “Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” (danh xưng Mã Lai xuất phát từ địa danh Hi-Malaya tức cao nguyên Hi Mã lạp sơn chứ không phải nước Mã Lai Á ngày nay) với những dẫn chứng rất đáng tin cậy thì đoàn quân của Lạc Long Quân đã tản mát ra khắp nơi ở Biển Đông: Đông-Bắc lục địa, kết hợp với dân địa phương lập ra nước Triều Tiên; phía Đông với giống Ai Nô lập nước Nhật, Đài Loan; Đông Nam họ lên quần đảo Célèbre ở Indonésia, đảo Hải Nam; phía Nam họ đổ bộ lên đồng bằng sông Cả và sông Mã với đồng chủng. Ông gọi sự kiện đạo binh Lạc Long Quân chạy ra biển đông là cuộc di dân đợt một của dân tộc Việt Nam, còn cuộc di dân đợt hai xảy ra vào cuối Chu và Tần và Hán.

** Các Bộ tộc, Bộ lạc nước Xích Thần (bắc Miêu, Thần Nông bắc) sau khi bị Hoa tộc xâm lược đã chuyển đổi thành “hàng vạn” nước chư hầu và nước phụ dung của vua chúa du mục Hoa Hán. Họ dần dần trở thành người Trung quốc gốc Miêu.

Cánh quân của công chúa Âu Cơ vượt sông Hoàng Hà chạy về phía nam. Bị quân Hiên Viên đuổi riết, bà lại vượt sông Dương Tử (tức là sông Trường Giang), lui về vùng núi Ngũ Lĩnh, trên Cánh Đồng Tương* quê hương chồng.
Theo sách Lĩnh Nam Trích Quái của Trần Thế Pháp, thì Âu Cơ và các con (các đơn vị dân quân trong Liên Minh Xích Quỷ) đã về đến Tương Dạ. Bà ở lại đấy có ý đợi tin tức Long Quân.

4G - Sách Lĩnh Nam Trích Quái kể:

Chờ lâu không gặp chồng, bà lập đàn ở Tương Dạ* kêu khóc tha thiết:

— “Quân ở phương nào, làm cho mẹ con ta ngày đêm thương nhớ!”.

Các con cũng khóc:

— “Bố ở phương nào mau về với chúng con”.

Thốt nhiên Long Quân về trên đàn, ông bàn với Âu Cơ nên chia các con ra trấn giữ các nơi. Long Quân dặn Âu Cơ, phong con trưởng họ Hồng Bàng Thị làm vua, gọi là Hùng Vương, đóng đô Phong Châu.



https://luocsutocviet.wordpress.com/2019/05/20/262-nuoc-xich-than-nuoc-xich-quy-va-coi-nguon-toc-viet/







Shang bị gọi là Sở! Còn một phần Shang khác đã bị Chu lấy đất

Phân tích và suy xét, sẽ thấy rằng -- Shang 商 vẫn tồn tại, và Shang bị gọi là Sở! Còn một phần Shang khác đã bị Chu lấy đất đó là một phần của Shang, như vậy có nghĩa là nước Shang bị đổi tên và tách ra, và Chu sợ rằng Shang còn tồn tại sẽ đòi đất, và cũng vì sợ dân chúng của Shang đã mất sẽ phục quốc, cho nên Chu phải thêu dệt tội ác cho vua tên "Trụ 受" còn gọi là Đế Tân - 帝辛... trở thành một ông vua dâm ô ác độc, và kết quả là... cứ lâu lâu thêm một thời gian thì "Trụ" vương lại có thêm một hình thức dâm ô ác độc để dân gian kể cho nhau nghe chơi... và rồi lâu dần thì đủ để thành một truyện "Phong Thần" rất hấp dẫn trong dân gian...

Đó là cách diễn giải lịch sử độc quyền của Chu để gạt hẳn văn hóa có sẵn của Văn-Lang hay Shang 商 qua một bên.

Nước Shang 商 bị tách rời ra, và rồi sau đó, bị đổi thành tên khác là (Sở 楚).

Shang bị gọi là Sở! Còn một phần Shang khác đã bị nhà Chu lấy đất đó là một phần của Shang, một sự cướp nước một cách 'nhẹ nhàng', 'kín đáo'. Chính vì Chu sợ một phần của Shang còn tồn tại sẽ đòi đất, và cũng sợ dân chúng của Shang đã mất sẽ phục quốc, cho nên phải thêu dệt tội ác cho vua tên "Trụ 受", khiến người dân oán ghét và khinh bỉ.


 

>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>>

 



Việt có trước Hán

Lưu Bang là người Sở, nhưng dưới triều đại do Liu Bang > Lưu Bang lập nên, lấy tên là nhà 漢 Han > Đại Hán, đã xua quân sang chiếm Việt Nam, mở màn một thời kỳ áp đặt chữ viết lên nền giáo dục Việt Nam. Họ không ngừng ra sức xóa sạch mọi vết tích ngôn ngữ và văn hóa của dân Việt và thay vào đó bằng các thứ của họ.

Từ đó chữ viết nguyên thủy của người Việt là chữ nòng nọc (con giun) mà họ gọi là khoa đẩu 蝌蚪 / trùng điểu đã bị quân của cháu Liu Bang là Han Wudi> Hán Vũ Đế (140-84 trước công nguyên – TCN) khởi động chiến dịch xóa sạch ngôn ngữ và văn hóa Việt nhằm đồng hóa dân Việt thành dân “Hán". Từ sau giai đoạn này, chữ nòng nọc biến mất.

Ngày nay nhiều nhà trí thức Việt Nam đang cố công gầy dựng lại hệ thống chữ viết này vừa để chứng minh cho thế giới biết rằng -- nền văn minh cổ của người Việt, vừa cho mọi người thấy giặc đã ăn cắp của chúng ta rồi đánh tráo và nhồi sọ ta - cho đó là của họ, và họ lại đem những gì của ta rồi mang trở lại dạy cho chúng ta, để ta tưởng đó là của họ. Đấy là xảo quyệt của bọn Hán gian.


Chú ý: Đốt sách, xóa sạch văn hóa, cho sửa đổi chữ viết là chính sách của Hán tộc đô hộ Việt tộc.
Sau này cũng lập lại việc này của bọn cộng sản bắc Việt khi chúng chiếm miền nam. Chúng cho phong trào đốt sách, sau đó thay đổi chữ viết, ngữ vựng, văn phạm, chính tả, âm học... mà Việt cộng gọi là "cải cách tiếng Việt" Mao Tàu gọi là "cách mạng văn hóa". Hình thức hai bên có khác nhưng bài bản vẫn giống như Hán tộc với Bách Việt.


 

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

HÁN VŨ ĐẾ “BÃI TRUẤT BÁCH GIA, ĐỘC TÔN NHO THUẬT”

Từ khi Hán Cao Tổ Lưu Bang 刘邦 diệt Hạng Vũ 项羽 kiến lập nên triều Hán, mảnh đất Hoa Hạ đã khôi phục lại sức sống. Sau khi Lưu Bang bang hà, hoàng vị mấy đời truyền nhau. Năm 140 trước công nguyên, hoàng thái tử Lưu Triệt 刘彻 lên ngôi. Lưu Triệt chính là Hán Vũ Đế, nhất đại hùng chủ trong lịch sử Trung Quốc. Triều Hán lúc bấy giờ là phồn vinh và hưng thịnh nhất.

Vũ Đế lên ngôi lúc 16 tuổi. Vừa mới lên ngôi, ông không chịu yên tâm hưởng lạc, mà lập chí tạo dựng sự nghiệp. Vũ Đế áp dụng những biện pháp, hạ chiếu xuống các quận huyện, tiến cử hiền lương phương chính, những người trực ngôn dâng lời can gián, trong số đó nổi tiếng nhất chính là Đổng Trọng Thư 董仲舒.

Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên 广川 (nay thuộc địa phận huyện Tảo Trang 枣庄 tỉnh Hà Bắc 河北), ông là tư tưởng gia, chính luận gia thời Tây Hán, và cũng là người tinh thông học thuyết Nho gia, từng giữ chức Bác sĩ thời Cảnh Đế. Đổng Trọng Thư nhìn thấy triều Hán từ khi kiến lập đến nay mấy lần phát sinh sự kiện vương quốc mưu phản, ông cho rằng cần phải được quảng bá tư tưởng đại nhất thống để củng cố địa vị trung ương tập quyền của hoàng đế.

Ông căn cứ vào kiến giải của mình và nhu cầu về chính trị lúc bấy giờ, cải tạo học thuyết Nho gia do Khổng Tử sáng lập kinh qua Mạnh Tử phát triển, đồng thời đem học thuyết các nhà và tư tưởng mê tín 'âm dương ngũ hành dung hợp lại', khiến học thuyết Nho gia biến thành một loại lý luận mang màu sắc mê tín tôn giáo nhằm phục vụ cho chế độ chính trị mê tín phong kiến.

Khi Hán Vũ Đế hạ chiếu tiến cử kẻ sĩ hiền lương, Đổng Trọng Thư đã đề xướng kiến nghị “thiên nhân tam sách” 天人三策 với Hán Vũ Đế. Ý nghĩa là:

- Trời có ý chí, sự vật trên thế gian tồn tại và biến hóa theo ý trời.

- Hoàng đế là đại biểu của trời, quyền lực của hoàng đế do trời trao cho, con người phục tùng hoàng đế chính là phục tùng 'thiên đạo'.

Để duy trì trật tự phong kiến, Đổng Trọng Thư đặc biệt đề xướng “tam cương ngũ thường” 三纲五常.

Dưới thiên đạo, giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em cần phải tuân thủ nghiêm nhặt lễ tiết thượng hạ tôn ti, tuyệt đối không được vi phạm lễ tiết này.

Về sau, “tam cương ngũ thường” trở thành nội dung trọng tâm của quan niệm luân lý đạo đức phong kiến, trở thành công cụ đắc lực ủng hộ sự thống trị phong kiến, đối với tư tưởng của con người đã sản sinh tác dụng tiêu cực, trói buộc nghiêm trọng. Ông còn nói rằng:

“Học thuyết của bách gia chư tử làm trở ngại đến quyền uy tuyệt đối của hoàng đế, chỉ có học thuyết Nho học độc tôn mới có thể bảo trì sự đồng nhất về tư tưởng.”

Năm Kiến Nguyên 建元 thứ 6 (năm 135 trước công nguyên), Hán Vũ Đế 21 tuổi chính thức bắt đầu độc quyền chỉnh sửa chính sự: ông ra sức chỉnh đốn triều cương, bổ nhiệm Điền Phần 田蚡 làm Thừa tướng. Ông còn ra lệnh thiết lập:

“Ngũ kinh bác sĩ” 五经博士, chuyên truyền thụ học thuyết Nho gia, dưới ngũ kinh bác sĩ có 50 đệ tử, những đệ tử này dưới sự chỉ đạo của ngũ kinh bác sĩ chuyên học kinh sách Nho gia, đồng thời quy định hàng năm tiến hành khảo thí họ một lần, trong ngũ kinh chỉ cần học thông một kinh là có thể làm quan, người đạt thành tích ưu tú có thể làm quan lớn.

Về sau, nhân số của bác sĩ đệ tử dần tăng lên đến 3,000 người. Học tập kinh sách Nho gia, đạt được thành tích ưu tú trở thành con đường thi cử tiến quan duy nhất của đám học sĩ. Học thuyết của bách gia chư tử khác dần bị bài xích. Người dựa vào học thuyết Nho gia để làm quan đương nhiên sẽ theo lý luận của Đổng Trọng Thư, giúp Hán Vũ Đế củng cố quyền hành trị lý thiên hạ và phụ tá triều chính, đồng thời dùng học thuyết Nho gia để giáo dục đời sau.

Từ đó trở đi, tư tưởng trung ương tập quyền gây nên sự độc đoán, chuyên quyền bắt đầu chính thức trở thành tư tưởng chính thống trong xã hội Trung Quốc, học thuyết Nho gia được Đổng Trọng Thư cải biến hoàn toàn thống trị cả lĩnh vực văn hóa, tư tưởng độc quyền trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Đây chính là điều mà trong lịch sử gọi là “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” 罢黜百家, 独尊儒术.

****************************

Nước Tàu từ thời Hán Vũ Đế là đã đi vào thoái trào, sau bị đào thải. Sau này dân Tàu trở thành thiểu số trong khi bị các thế lực ngoại bang thống trị.

Đời Tống thì Hán tộc bị nhục nhã thảm hại trước Liêu, Hạ, Kim. Triều Hán vừa mất danh, vừa phải cống nạp.


Triều Hán
Dưới kiến nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã thực hành phương châm “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”. Đối với chính trị phong kiến là tăng cường trung ương tập quyền, là có tác dụng tích cực quyền hành hơn cho giới thống trị hơn cho thành phần xả hội nhân bản, phúc lợi cho dân chúng. Với giai cấp thống trị phong kiến là có lợi, nhưng điều này nó đã thần hóa quân quyền, vì nó tước đoạt quyền tư tưởng học thuật.

“bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” điều này đã gây ra tác dụng xấu vì nó giam cầm đầu óc con người, khiến nó càng tăng lên sự ủng hộ cho việc thống trị chế độ phong kiến, nó là tiền đề cho về sau, những kẻ thống trị của các vương triều đã không ngừng bổ sung và tăng thêm độc tôn học thuyết Nho gia. Đây là hậu quả xấu của xã hội Trung Quốc, làm đình trệ, thoái trào, hủ lậu và không tiến lên trong một thời gian dài hơn hai ngàn năm, khiến bao triều đại không loại bỏ hoặc tách ra chính sách “độc tôn Nho thuật” mà Hán Vũ Đế đề xướng.


Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 05/4/2015

Nguyên tác Trung văn

HÁN VŨ ĐẾ “BÃI TRUẤT BÁCH GIA, ĐỘC TÔN NHO THUẬT”

汉武帝 “罢黜百家, 独尊儒术” Trong quyển

TRUNG QUỐC THƯỢNG HẠ NGŨ THIÊN NIÊN

中华上下五千年

Chủ biên: Lý Tinh 李晶

Nam Kinh đại học xuất bản xã, 2007



......................................................

Văn-Lang, là Shang 商 Thương

Shang 商 là Thương. Nếu Shang / Thương không bị mất vào tay Chu 周, thì thời Xuân Thu-Chiến Quốc với các nước nhỏ là Ngụy - Hàn - Triệu - Yến - Lỗ - Tề - Tần.... vẫn là một phần của Văn-Lang, là Shang 商 Thương.







Văn-Lang, là Shang 商 Thương

SỞ là Việt, như Tư Mã Thiên đã viết trong Sử Ký là "Sở Việt đồng tông đồng tộc", và cũng thấy được nhà "Thương" - "Trụ Vương" cũng là Sở ngày trước, và người Sở là Hạng Võ và Lưu Bang lật đổ nhà Tần rồi lập nên nhà Hán, tuy xưng danh là 'nhà Hán' nhưng chính là người của nước Sở nói tiếng Sở, và Sở đó chính là "Sở" "Văn-Lang" với "Cửu-Lê / Kỳ" và ngôn ngữ chính là Việt Ngữ.

Sách "Thuyết Văn" thời Hán là đọc theo Việt Ngữ lại là một minh chứng thêm.

Sở Là Việt, là Văn Lang, người Việt làm sao quên được Văn-Lang?

Toàn bộ văn hóa Hạ, Thương, Chu, Xuân Thu - Chiến Quốc, Ngô, Việt, Sở, Văn Lang, Mân, Âu, Lạc Việt, Tần, Hán... là văn Hóa Việt.


Hoa Sử viết rằng Triều Shang (Nhà Thương) quá nhiều lần dời thủ đô, mà không nghiên cứu hoặc chối bỏ là Shang từ đâu đến! Văn-Lang đã bắc tiến từ nam... Đâu dễ gì có một ngọn núi là "Lạng Sơn" mà lại trở thành tên của một tỉnh Lạng Sơn hay Lạng-San, hay Lang-Shan, chính là tên của nước "Vănlangshang" còn sót lại khi những vùng đất kia của nước Văn-Lang đá bị đổi tên thành các vương triều và quốc gia khác nhau theo dòng lịch sử...

Sở là Việt là Văn-Lang trải dài từ phương nam lên Động Đình Hồ với nhiều đời vua với phong hiệu là Hùng Vương.



 


Ngữ vựng tiếng Việt

Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.

Đỗ Thành

 

VĂN HỌC SỬ THI CA LUẬN PHIẾM 30 21/8/2021: Triết học đông - tây trong tác phẩm văn học nghệ thuật
https://youtu.be/m2QhfTC4PUo


===========================

Bản Đồ Nhà Tần Xâm Lăng Bách Việt




KHUẤT NGUYÊN người nước Sở

ĐẠI THI NHÂN KHUẤT NGUYÊN

TẠI SÔNG MỊCH LA TỰ TRẦM


Khuất Nguyên 屈原 (năm 340 – năm 278 trước công nguyên), tên Bình 平, người Tỉ Quy 秭归 nước Sở (nay là huyện Tỉ Quy tỉnh Hồ Bắc) cuối thời Chiến Quốc, là thi nhân yêu nước vĩ đại thời cổ, cũng là chính trị gia, tư tưởng gia kiệt xuất.

Khuất Nguyên sinh ra trong một gia đình quý tộc, từ nhỏ đã nhận được sự giáo dục tốt đẹp. Ông học rộng nhớ nhiều, giỏi về từ lệnh, đối với việc hưng suy trị loạn của đất nước có nhiều kiến giải sâu sắc.

Thời đại Khuất Nguyên sống, nước Sở từ thịnh chuyển sang suy. Khuất Nguyên nhìn thấy cục diện chính trị của tổ quốc ngày càng suy bại, vô cùng lo lắng đau buồn. Ông quyết tâm phải làm việc gì đó về chính trị để đất nước cường thịnh trở lại.

Khoảng năm 318 trước công nguyên, Khuất Nguyên 22 tuổi mang trong lòng chí hướng to lớn, từ quê nhà đi đến Dĩnh đô 郢都, hướng đến Sở Hoài Vương 楚怀王 trình bày chủ trương và kiến giải của mình làm cho nước giàu binh mạnh. Hoài Vương phát hiện Khuất Nguyên học thức uyên bác, tài hoa tràn đầy, liền giữ lại bên cạnh để trọng dụng, cho ông làm Tả tư đồ, tham dự chính sự, đồng thời giao ông tiếp đãi tân khách, ứng thù cùng các chư hầu.

Khuất Nguyên thấy Hoài Vương tín nhiệm mình, nên muốn thi triển tài năng, thực hiện hoài bão chính trị và lý tưởng to lớn của mình. Ông kiến nghị Sở Hoài Vương đối nội pháp kỷ phải nghiêm minh, nhậm dụng hiền năng, cải cách chính trị; đối ngoại phải liên Tề kháng Tần, ngăn chận sự khuếch trương của nước Tần. Những chủ trương này, lúc đầu được Hoài Vương ủng hộ, Hoài Vương còn sai ông đi sứ nước Tề, cùng Tề kiến lập minh ước liên hiệp kháng Tần, một dạo ngăn được sự khuếch trương của Tần. Nhưng về sau, những chủ trương này gặp phải sự phản đối quyết liệt của các thế lực lạc hậu. Về chính trị, bọn chúng không tiếc dùng thủ đoạn hèn hạ để hãm hại Khuất Nguyên.


Hình: Chữ chạm bằng vàng trên một thẻ thông hành bằng đồng do Sở Hoài Vương cấp cho vua chư hầu nước Ngạc, năm 323 TCN.

Hoài Vương vốn là người nhu nhược vô năng, không có chủ kiến. Thượng quan đại phu Cận Thượng 靳尚 thường trước mặt Hoài Vương thao túng thị phi, khiến Hoài Vương không phận biệt trung thần và gian nịnh. Cuối cùng, dưới sự khiêu khích của y, Hoài Vương dần xa lánh Khuất Nguyên, không còn trọng dụng ông nữa. Khuất Nguyên bị chuyển nhậm Tam Lư đại phu, cuối cùng bị đày đến Hán thủy.

Sau khi Khuất Nguyên bị đày, trong tình cảnh u uất đau buồn, ông sáng tác ra Ly Tao 离骚, mượn đó bộc lộ nỗi buồn bất đắc chí và nỗi bi phẫn trong lòng.

Sở Hoài Vương sau khi đày Khuất Nguyên, lại trúng phải kế ly gián của thuyết khách Trương Nghi 张仪 nước Tần, để có được 600 dặm đất, ông đoạn tuyệt liên minh giữa Sở và Tề. Hoài Vương bị mắc lừa mà không biết, khi ông phái sứ giả đi đến Tần nhận đất, Trương Nghi giảo hoạt nói rằng:

- Tôi và Sở Vương ước định 6 dặm, không phải 600 dặm.

Lúc này Sở Hoài Vương mới tỉnh ngộ, giận dữ cử binh đánh Tần. Kết quả, Sở bị Tần đánh bại. Lúc bấy giờ, Hoài Vương mới nhớ đến chủ trương liên minh kháng Tần của Khuất Nguyên.
Năm 312 trước công nguyên, Hoài Vương trọng dụng lại Khuất Nguyên, phái Khuất Nguyên một lần nữa sang Tề du thuyết, kiến lập lại liên minh Tề Sở.

Năm 299 trước công nguyên, Tần Chiêu Tương Vương 秦昭襄王 lên ngôi, hẹn Sở Hoài Vương đến Vũ Quan 武关 (nay là phía đông nam huyện Đan Dương 丹阳 Thiểm Tây 陕西) tương hội. Khuất Nguyên can ngăn Hoài Vương không nên đi, ông hoài nghi nước Tần muốn hại nước Sở. Nhưng, con của Hoài Vương là Tử Lan 子兰 và Cận Thượng lại ra sức khuyên Hoài Vương nên đi.

Hoài Vương cả tin lời của công tử Tử Lan, khởi trình đến Vũ Quan. Quả nhiên không ngoài dự đoán của Khuất Nguyên, Hoài Vương vừa mới bước vào đất Tần, lập tức đã bị quân Tần mai phục trước đó chặn đường phía sau. Lúc tương kiến, Tần Chiêu Tương Vương bức Sở Hoài Vương đất đem Kiềm Trung 黔中 cắt dâng cho Tần, Hoài Vương không đáp ứng. Tần Chiêu Tương vương bèn áp giải Hoài Vương đến Hàm Dương 咸阳 giam lỏng, yêu cầu nước Sở đem đất chuộc Hoài Vương về. Đại thần nước Sở biết tin Hoài Vương bị giam giữ, bèn lập thái tử lên làm quốc quân, đồng thời cự tuyệt cắt đất. Vị quốc quân đó chính là Sở Khoảnh Tương Vương 楚顷襄王. Hoài Vương bị giam ở Tần hơn một năm, chịu nhiều gian khổ. Một lần nọ, ông mạo hiểm trốn khỏi Hàm Dương, lại bị quân Tần bắt được. Hoài Vương tức giận sinh bệnh, chẳng bao lâu qua đời.

Sở Khoảnh Tương vương cũng hôn dung như cha của ông, sau khi lên ngôi trọng dụng bọn Tử Lan, Cận Thượng, trị lý đất nước hồ đồ. Khuất Nguyên nhìn thấy quân thần hoạ quốc ương dân làm bậy, lòng như lửa đốt. Ông ra sức khuyên Khoảnh Tương Vương thay đổi chính sách, liên Tề kháng Tần, gây lại uy thế của đất nước, nhưng Khoảnh Tương Vương nào chịu nghe. Do bởi lúc bấy giờ, trên dưới nước Sở đều do bọn Tử Lan, Cận Thượng điều khiển, luôn nói xấu Khuất Nguyên trước mặt Khoảnh Tương Vương. Nghe mấy lời của bọn họ, Khoảnh Tương Vương đại nộ, cách chức Khuất Nguyên, đày đến Tương nam 湘南. Năm 296 trước công nguyên, Khuất Nguyên bị đày lần thứ hai.

Trong cuộc sống trường kỳ bị lưu đày, Khuất Nguyên cô độc đau buồn, ưu quốc ưu dân, viết ra nhiều bài thơ bất hủ. Ngoài thiên Ly Tao trước đó ra, còn có 25 thiên khác như Thiên vấn 天问, Cửu ca 九歌, Quất tụng 橘颂, trở thành những kiệt tác của trường phái lãng mạn trong văn học cổ đại, dựng nên một tấm bia vững chắc trong lịch sử thi ca Sở Quốc.

Năm 278 trước công nguyên, đại tướng nước Tần là Bạch Khởi 白起 liên tiếp tấn công nước Sở với quy mô lớn, Động Đình 洞庭, Ngũ hồ 五湖, Giang Nam 江南lần lượt vị vây hãm. Khoảnh Tương Vương hoảng hốt bỏ chạy đến đất Trần (nay là Tuy Dương 睢阳 Hà Nam 河南) lánh nạn. Khuất Nguyên tuổi đã quá lục tuần nhìn thấy giang sơn bị cường Tần xâm chiếm, người dân nước Sở bị nô dịch khổ sở, lòng vừa căm giận vừa đau xót, “sắc diện tiều tụy, hình dung khổ sầu” 颜色憔悴, 形容枯槁, trong lúc tuyệt vọng, ông lại viết ra những thiên thiên cổ tuyệt xướng như Ai Dĩnh 哀郢, Thiệp Giang 涉江, Hoài Sa 怀沙, Tích vãng 惜往, biểu lộ lòng yêu nước nhiệt tình đối với tổ quốc.

Tổ quốc giang sơn bị tàn phá, cuộc sống nhân dân điên đảo lưu ly, Khuất Nguyên đau buồn cùng cực. Ngày mồng 5 tháng 5 năm 278 trước công nguyên, Khuất Nguyên không cách nào chịu đựng nữa, đã ôm tảng đá bên người nhảy xuống dòng Mịch La 汨罗 đang cuồn cuộn chảy! Hoài tài bất ngộ, lòng đầy bi phẫn, thi nhân vĩ đại Khuất Nguyên đã từ giã cuộc đời như thế.

Ngày mồng 5 tháng 5 năm sau để tưởng niệm Khuất Nguyên tự trầm tròn một năm, người dân nơi đó chèo thuyền ra giữa dòng ném xuống khắp sông những ống trúc bên trong có đựng cơm để tế ông. Về sau đổi ống trúc thành bánh “tông” 粽, chèo thuyền biến thành đua thuyền rồng. Hành động tưởng niệm này dần hình thành phong tục, mọi người gọi ngày mồng 5 tháng 5 âm lịch là tết Đoan Ngọ 端午. Sau này để tưởng niệm thi nhân Khuất Nguyên, cũng là nhà yêu nước vĩ đại, hàng năm nhân dân gói bánh “tông” thả xuống sông cho tôm cá ăn để ký thác nguyện vọng bảo toàn di thể của Khuất Nguyên.

Khuất Nguyên tuy mất, nhưng tinh hoa mãi trường tồn. Tinh thần bất khuất, tình yêu nước, nhân cách vĩ đại của ông mãi mãi sống trong lòng người dân. Những thiên trường thi ca xán lạn của ông được truyền tụng muôn đời.

Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 30/5/2017

Tết Đoan Ngọ năm Đinh Dậu

huỳnh chương hưng 20:14

Nghiên Cứu - Dịch Thuật

https://www.chuonghung.com/2017/05/dich-thuat-ai-thi-nhan-khuat-nguyen-tai.html


=======================================

Đất gốc nhà Thương là vùng Hồ Nam nay tức đất Sở xưa.

Sông Trường Giang là ranh giới của hai dân tộc.

Phía bắc là người Hoa Hạ,
Phía nam là người Bách Việt.

Trong quâ trình phát triển người Hoa Hạ dần thôn tính và đẩy lùi người Bách Việt về Nam.

Tên gọi đầu tiên của quốc gia của người Bách Việt gọi là Xích Quỷ. Đây là phần sử rất quan trọng trong cội nguồn lịch sử của người Việt Nam thể hiện rõ sự khác biệt về nguồn gốc của ta và Trung quốc, thế nên lịch sử Việt Nam hiện tại nên nhấn mạnh điều nàyđể cho thế hệ sau hiểu rõ.

Việt Nam hiện nay là quốc gia kế thừa của nước Xích Quỷ và lãnh thổ Bách Việt xưa kia vốn là của Việt Nam ta, kéo dài đến miền nam sông Trường Giang.

Trong quâ trình phát triển người Hoa Hạ dần thôn tính và đẩy lùi người Bách Việt về Nam.






Cái tên “Trung Hoa” mới xuất hiện từ thời Sun Yak-sen (Tôn Dật Tiên) hay Tôn Trung Sơn làm thủ lãnh cuộc Cách Mạng Tân Hợi và lập nên nền cộng hòa đầu tiên cho nước Tàu với danh xưng chính thức là Trung Hoa Dân Quốc (chính thức tên xưng tháng 10 năm 1913).

Thời tộc du mục của Hiên Viên Hoàng Đế (xâm chiếm đất trung nguyên của tộc Đế Viêm Thần Nông Việt tộc. Thắng trận, Hiên Viên xưng Đế và gom đất mới chiếm được và lập nên đất Hoa Hạ, nước Hoa Hạ, người Hoa Hạ, đặt ra chủ thuyết Hoa Hạ, đất trung nguyên làm trung tâm: Dĩ Hoa vi trung /Sinocentrism và coi các sắc dân chung quanh man, di, khuyển, địch ở bốn phía phải triều cống những cống phẩm và xin Hoa Hạ ban sắc phong cho vua nước họ. Người Hoa Hạ cũng là tiền thân của người Hán (người Hãn) vì họ cùng gốc văn hóa du mục, có truyền thống tìm đất mới, xâm chiếm, gây hấn tạo chiến tranh triền miên và rất thiện chiến.

Giống người tạp chủng du mục Thổ/ Mông/ Hán/Hung vào chiếm vùng đất Trong Nguồn [Trung Nguyên], có hòa huyết cùng dòng máu với người Việt bản địa, tạo ra người Hoa Hạ. Hoa Hạ là người lai giống giữa Hán Thổ Mông và Việt. Nhưng vì người Việt bản địa đông hơn, văn minh hơn, nên vài ba thế hệ sau vì dùng văn hóa của người Việt, nên người Hạ cũng chuyển hóa thành người Việt.

Rốt cuộc, Hiên Viên Hoàng Đế gốc du mục tuy có chiếm đất Trung Nguyên của người Việt bản địa, nhưng không giữ được đất.

Nhà Tần = Qin -romanized as Ch'in / chữ La Tinh là chinh, sin, người Việt đọc trại là Tàu/Tần.

Khi Tần Thủy Hoàng dẹp sáu nước [Hàn, Triệu, Ngụy, Sở, Yên, Tề] xong, và chiếm luôn đất Bách Việt vùng Lĩnh Nam ở dãy núi Ngũ Lĩnh phía nam sông Dương Tử (Bách Việt gọi là sông Trường Giang) và cũng dùng văn hóa Việt nhưng do tướng nhà Tần là Triệu Đà viễn chinh đã cho dùng chính sách di dân và đồng hóa người Bách Việt. Người Hán đã thành công trong việc đồng hóa dân Bách Việt vùng phía nam.

Chữ china, sina, sina, sino, và Ch'in, Sin, chine hay chin chin để chỉ nhà Tần, và chữ Chữ China do người Tây phương đặt ra để gọi nước Trung Quốc có từ đó.

Q’in 秦 {ts’in}>Tần

Ch’in
Thái tử Sin = Thái tử Tàu
Sino / Sina
Xinhua = Tàu hạ
Tần mà chúng ta đọc trại thành Tàu.
Q’in 秦 {ts’in}>Tần

Ngành nghiên cứu về nước Tàu là Sinology;

những gì thuộc về Tàu thì ghi là Sino:
Sino-origin ‘từ gốc Tàu'.

Q’in 秦 {ts’in}>Tần mà chúng ta đọc trại thành Tàu. Ch'in

Q’in 秦 {ts’in}>Tần

Q’in dynasty the Chinese dynasty (from 246 BC to 206 BC)

Hán tộc du mục gọi là Trung Nguyên để lập ra nhà Hoa Hạ, rồi lập ra thêm chủ thuyết Trung Hoa, Trung Tâm trung nguyên Hoa Hạ.

Trung Hoa (dĩ hoa vi trung = lấy Trung quốc làm trung tâm (Sinocentrism) Trung quốc/Trung Hoa và tứ Di).

Hoa Hạ: Hoa không phải là chủng tộc, không phải là dân tộc, mà là giai cấp. Hoa là giai cấp thống trị. Hạ là giai cấp bị trị.

Cái tên "Hoa" ban đầu là giai cấp, giai cấp thống trị, sau đến Tôn Dật Tiên thì "Hoa" được đổi thành, trở thành một chủng tộc. tộc Hoa, người Hoa, để che giấu cái gốc Hãn, Hán, Tần, Tàu, gốc du mục. Tôn Dật Tiên Che giấu cái gốc thật của mình là Bách Việt, Quảng Đông bị Tần chiếm đất, bị tẩy não.

Người Việt vẫn gọi Trung quốc là nước Tàu, người Trung quốc, người Tàu, chợ Tàu, thức ăn Tàu, chữ Tàu, trường Tàu. Còn chữ "ba Tàu" là ba nhóm người Tàu đi bằng ba chiếc tàu chiến qua Việt Nam lánh nạn quân nhà Thanh (Phản Thanh Phục Minh).

Nhưng khi ông Tôn Dật Tiên công nhận Tôn Hiên Viên Hoàng Đế gốc người Hán (Hãn du mục) của Hoa Hạ là thủy tổ của người Tàu thì ông đặt tên chính quyền của ông dựng lên là Trung Hoa Dân Quốc thì chữ Trung Hoa được một ít người Việt dùng. Nhưng khi Việt cộng chiếm được miền nam thì Việt cộng nịnh bợ đặt nhạc:
Việt Nam Trung Hoa,
Núi liền núi sông liền sông.

Và người Việt trong nước bỏ chữ 'nước Tàu', 'người Tàu' vì Đảng Việt cộng cho là chữ đó không hay, không đẹp bằng chữ 'người Hoa', 'Nước Trung Hoa', Trường Hoa, chữ Trung Hoa... nghe đẹp hơn, hợp với 4 vàng 16 tốt.



============================

Sông Trường Giang là ranh giới của hai dân tộc.

Phía bắc là người Hán-Hạ.

Phía nam là người Bách Việt.

Trong quá trình phát triển người Hán Hạ dần thôn tính và đẩy lùi người Bách Việt về Nam.

Người Hán Hạ đã chiếm vùng đất trung nguyên của Đế Lai, Đế Minh, Đế Nghi là nước Xích Thần.
Lạc Long Quân và Âu Cơ vượt sông Trường Giang, tại đất vùng Nam Lĩnh, mở triều đại mới đó là Hồng Bàng.
Tên gọi đầu tiên của quốc gia của người Bách Việt gọi là nước Xích Quỷ.

Triều Đại Hồng Bàng Hùng Vương của Lạc Việt


Đây là phần sử rất quan trọng trong cội nguồn lịch sử của người Việt Nam thể hiện rõ sự khác biệt về nguồn gốc của ta (Bách Việt) và Trung quốc.
Thế nên, lịch sử Việt Nam hiện tại phải nhấn mạnh điều này để cho thế hệ sau hiểu rõ.

Việt Nam hiện nay là quốc gia kế thừa của nước Xích Quỷ và lãnh thổ xưa, trước kia là của Việt Nam ta Bách Việt kéo dài đến miền nam sông Trường Giang.

---------------------------

Cây Kiếm của Việt Vương Câu Tiễn là một minh chứng cho di sản của văn minh Bách Việt



Vào năm 1965 tại Hồ Bắc. Trên một mặt của lưỡi kiếm, người ta tìm thấy hai dòng chữ cổ. Tổng cộng có tám chữ được viết theo lối "điểu trùng văn"

("鸟虫文") "越王" "Việt vương".
- "Vua nước Việt") và "自作用剑" ("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng").

"越王自作" - Việt vương Câu Tiễn
("tự tác dụng kiếm" - "kiếm tự làm để dùng").

Việt Vương Câu Tiễn (496 TCN - 465 TCN)

Tại vùng Lưỡng Quảng loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧.

Thêm bài "Việt Nhân Ca 越" nữa.



 

 






Việt Có Trước Hán

Thời xưa (trên 3000 năm trước) không có nước Tàu. Chỉ sau thời Ðông Chu Liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong sáu nước cuối cùng, nên mới có nước Tàu.

Việt có trước Hán
Chỉ sau thời Ðông Chu Liệt quốc, mới bắt đầu có nước Hán của Tần Thủy Hoàng.

Nước Tầu của Tần Thủy Hoàng thời Ðông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở phía Tây Bắc, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ, sắc dân tạp chủng này vốn gốc du mục đánh chiếm nước người nước Việt cổ (Yue people) người Việt cổ bị quân nhà Tần đánh bại. Việt cổ lai giống với gốc quân du mục đã tạo nên một lai giống mới là người Hoa Bắc (Hoa Hạ). Người Hoa Hạ này dần cũng trở nên rất hung bạo và thiện chiến.

Việt có trước Hán
Chỉ sau thời Ðông Chu Liệt quốc, mới bắt đầu có nước Hán của Tần Thủy Hoàng.

Nước Tầu của Tần Thủy Hoàng thời Ðông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở Tây Bắc, từ giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ.
Nước Tàu của Tần Thủy Hoàng hình thành do chiến tranh xâm lược nên thường tạo truyền thống xâm lăng.


 

==========================================================

 

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bính âm Hán ngữ



Pinyin
Tiếng Trung拼音
Lược đồ cho bảng chữ cái ngữ âm tiếng Trung
Giản thể汉语拼音方案
Phồn thể漢語拼音方案



==================

Dự án bính âm Hán ngữ (giản thể: 汉语拼音方案, phồn thể: 漢語拼音方案, Hán Việt: Hán ngữ bính âm phương án), thường gọi ngắn là bính âm, phanh âm hay pinyin, là cách thức sử dụng chữ cái Latinh để thể hiện cách phát âm các chữ Hán trong tiếng phổ thông Trung Quốc (tức Latinh hóa tiếng Trung), tác giả là Chu Hữu Quang. Bính âm được phê chuẩn năm 1958 và được thi hành năm 1979 tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Nó đã thay thế các hệ thống Latinh hóa cũ hơn như Wade-Giles (1859, sửa đổi năm 1912) và Hệ thống phiên âm Bưu Điện, và thay thế chú âm phù hiệu trong việc dạy cách đọc chữ Hán tại Trung Quốc đại lục.



Vinh Huynh

·

Follow Knows CantoneseUpdated 4y

I speak Cantonese, Vietnamese, and Mandarin. I also did research in this matter and I will share with you some facts.

Cantonese is considered an older dialect in Chinese branch, and Vietnamese have many Chinese loanwords, aka ‘Han Nom’. Those Chinese loanwords are somewhat pronounced exactly the same as Cantonese.

Eg: 人 is ‘nhân’ (in Vietnamese), which is pronounced /ɲən / in both Vietnamese and old Chinese, while Cantonese pronunciation is /yan/. The ɲ (= Spanish ñ) used to exist in older Chinese dialects.

To add more to the examples of similar pronunciation between Cantonese and Vietnamese:

In Vietnamese, ‘chúc phúc’ or ‘祝福’ in Cantonese are pronounced exactly the same. It means to wish someone luck.

‘斩’, or ‘trảm’, which means to behead someone, are pronounced exactly the same.

Many Chinese linguists study Vietnamese, Korean, Japanese to decipher Old Chinese phonology.

There are even speculations that Vietnamese spoke Cantonese in the Middle Age, since the early Vietnam Kings are Chinese decendants. Vietnam are close to Guangdong, Guangxi, so they share many similarities in terms of language.

Straight to the main question:

+ Vietnamese has 6 tones:

The first one is a bar (called ‘thanh ngang’ in Vietnamese).

It’s just a simple ‘ahh’ sound in English, this sounds exactly the same with the third tone in Cantonese.

The second tone is ‘à’, which sounds exactly the same with the fourth tone in Cantonese.

The third tone is ‘á’, which sounds like the first tone in Cantonese.

The fourth tone is ‘ả’, which sounds like the second tone in Cantonese.

The fifth tone is ‘ã’, which is a little bit like the fourth tone.

► The sixth tone is ‘ạ’, which sounds exactly like the fifth tone in Cantonese.

All the Vietnamese tones, except for the tidal wave ã, are similar to the tones in Cantonese.

There is this special consonant ‘ng’ as in 我, which exists in Cantonese and Vietnamese too. But many recent Cantonese speakers cannot pronounce this consonant any more due to the evolution of Cantonese.







Pinyin

From Wikipedia, the free encyclopedia
Jump to navigation Jump to search

Hanyu Pinyin
汉语拼音, 漢語拼音
Script type romanization
Created1950s
LanguagesStandard Chinese
 This article contains phonetic transcriptions in the International Phonetic Alphabet (IPA). For an introductory guide on IPA symbols, see Help:IPA. For the distinction between [ ], / / and ⟨ ⟩, see IPA § Brackets and transcription delimiters.
Pinyin
Table of Hanyu Pinyin Syllables.png
Table of Hanyu Pinyin syllables, which includes 23 initials (top) and 24 finals (bottom)
Chinese拼音
Scheme for the Chinese Phonetic Alphabet
Simplified Chinese汉语拼音方案
Traditional Chinese漢語拼音方案


Hanyu Pinyin (simplified Chinese: 汉语拼音; traditional Chinese: 漢語拼音; pinyin: hànyǔ pīnyīn), very often shortened to just pinyin, is the official romanization system for Standard Mandarin Chinese in Mainland China, and to some extent, in Taiwan and Singapore. It is often used to teach Mandarin, which is normally written using Chinese characters, to learners who are already familiar with the Latin alphabet. The system includes four diacritics denoting tones, but pinyin without tone marks is used to spell Chinese names and words in languages written in the Latin script, and is also used in certain computer input methods to enter Chinese characters. The word Hànyǔ (simplified Chinese: 汉语; traditional Chinese: 漢語) literally means "Han language" (i.e. Chinese language), while Pīnyīn (拼音) means "spelled sounds".[1]

The pinyin system was developed in the 1950s by a group of Chinese linguists including Zhou Youguang[2] and was based on earlier forms of romanizations of Chinese. It was published by the Chinese Government in 1958 and revised several times.[3] The International Organization for Standardization (ISO) adopted pinyin as an international standard in 1982[4] and was followed by the United Nations in 1986.[2] Attempts to make pinyin standard in Taiwan occurred in 2002 and 2009, but "today Taiwan has no standardized spelling system" so that in 2019 "alphabetic spellings in Taiwan are marked more by a lack of system than the presence of one".[5][6][7] Moreover, "some cities, businesses, and organizations, notably in the south of Taiwan, did not accept [efforts to introduce pinyin], as it suggested that Taiwan is more closely tied to the PRC", so it remains one of several rival romanization systems in use.[8]

When a foreign writing system with one set of coding/decoding system is taken to write a language, certain compromises may have to be made. The result is that the decoding systems used in some foreign languages will enable non-native speakers to produce sounds more closely resembling the target language than will the coding/decoding system used by other foreign languages. Native speakers of English will decode pinyin spellings to fairly close approximations of Mandarin except in the case of certain speech sounds that are not ordinarily produced by most native speakers of English: j //, q /tɕʰ/, x /ɕ/, z /ts/, c /tsʰ/, zh /ʈʂ/, ch /ʈʂʰ/, h /x/ and r /ɻ/ exhibiting the greatest discrepancies.

In this system, the correspondence between the Latin letters and the sound is sometimes idiosyncratic, though not necessarily more so than the way the Latin script is employed in other languages. For example, the aspiration distinction between b, d, g and p, t, k is similar to that of these syllable-initial consonants English (in which the two sets are however also differentiated by voicing), but not to that of French. Letters z and c also have that distinction, pronounced as [ts] and [tsʰ] (which is reminiscent of these letters being used to represent the phoneme /ts/ in the German language and Latin-script-using Slavic languages, respectively). From s, z, c come the digraphs sh, zh, ch by analogy with English sh, ch. Although this introduces the novel combination zh, it is internally consistent in how the two series are related. In the x, j, q series, the pinyin use of x is similar to its use in Portuguese, Galician, Catalan, Basque and Maltese and the pinyin q is akin to its value in Albanian; both pinyin and Albanian pronunciations may sound similar to the ch to the untrained ear. Pinyin vowels are pronounced in a similar way to vowels in Romance languages.

The pronunciation and spelling of Chinese words are generally given in terms of initials and finals, which represent the segmental phonemic portion of the language, rather than letter by letter. Initials are initial consonants, while finals are all possible combinations of medials (semivowels coming before the vowel), a nucleus vowel and coda (final vowel or consonant).

=============================

No comments:

Post a Comment