HCM và đảng Cộng Sản Đông Dương
Tôn Thất Long
Nhìn lại lịch sử của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN), từ khi được thành lập cho đến nay, ta có thể luôn luôn tìm thấy được một điều căn bản, thể hiện bản chất cố định của Đảng:
- Đặt mọi ưu tiên vào sự tìm kiếm một "điểm tựa", một "sự lệ thuộc" vào các thế lực bên ngoài để xây dựng một guồng máy hữu hiệu trong một mục tiêu củng cố địa vị của một tập đoàn,
- Áp đặt độc quyền thống trị tuyệt đối của tập đoàn này lên trên mọi thành phần khác trong dân tộc Việt Nam,
- Đặt tham vọng của "tập đoàn" và của "điểm tựa" của mình lên trên lợi ích của dân tộc.
Để đạt được mục tiêu này, ĐCSVN đã nhiều lần bắt buộc phải thay đổi "đường lối" của mình cho phù hợp với các đòi hỏi của các điểm tựa bên ngoài.
Qua một vài trích dẫn từ tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1) và một vài sự kiện lịch sử mà ngày nay hầu như các cơ quan chính thức của Đảng cũng không còn có thể phủ nhận, bài viết này muốn nêu rõ các khía cạnh khác nhau của vấn đề này, phân tích quan hệ giữa ĐCSVN và Đệ Tam Quốc Tế (ĐTQT), thành lập năm 1919 ở Moscow và giải tán năm 1943, trước khi ĐCSVN trở thành một Đảng cầm quyền ở Việt Nam vào năm 1945. Muốn nêu rõ các quan hệ này chúng ta cũng không thể không đề cập đến vai trò của Hồ Chí Minh (HCM), người đã chấp nhận không điều kiện khung khổ của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản để đem đến cho Đảng Cộng Sản Việt Nam quyền lực tuyệt đối hiện nay.
Trở thành một đảng cầm quyền từ năm 1945 cho đến nay, mặc dầu sau đó phải đánh lừa dư luận tuyên bố giải tán, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại chịu thêm ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cùng một lúc với ảnh hưởng của Phòng Thông Tin Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (tái sinh năm 1947 của Đệ Tam Quốc Tế và giải tán năm 1956). Các phân tích trong thời kỳ này về ảnh hưởng của cộng sản quốc tế đối với ĐCSVN, mà chính yếu là các quan hệ (quan hệ "lệ thuộc thân hữu" cũng như các quan hệ "tranh chấp thù nghịch tương tàn") giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc, sẽ được đề cập trong một dịp khác.
1. HCM, vai trò phức tạp của một viên chức của Đệ Tam Quốc Tế.
HCM là một nhân vật phức tạp hay, nói cho đúng hơn, là một kịch sĩ nhà nghề đại tài, nhiều thủ đoạn, tinh ranh và biết nhẫn nhục để chờ đợi thời cơ... Đó là một nhân vật, trong suốt quá trình hoạt động của mình, đã thay đổi lập trường một cách đơn giản, đã tinh vi đóng cùng một lúc những vai trò tương phản, đối nghịch lẫn nhau, tinh xảo cướp công lao và việc làm của người khác để tô điểm cá nhân mình... đã thay đổi lập trường chính trị từ thái cực này qua thái cực khác cho đến khi nắm được quyền lực... khiến cho ai cũng đặt ra những nghi vấn về thực chất của nhân vật này.
* Trong Đảng Cộng Sản Pháp, các đồng chí của HCM thường nói rằng đó là một nhân vật "kín đáo, dễ thương, nhút nhát...", thường hay "lẫn trốn, không tham gia trực tiếp vào các tranh luận đối chọi gay gắt" và... nhờ các đức tính này đã chinh phục được lòng tin cậy của các người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Pháp để dọn đường cho sự thăng quan tiến chức của mình sau này trong Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Trong tư cách là nhân viên của Đệ Tam Quốc Tế, người ta còn tìm thấy ở HCM những đức tính khác của một nhân vật "rất ít có khuynh hướng về lý thuyết", một nhân vật "thực tiển", trong mọi hoàn cảnh tìm cách "tự thích ứng với mọi chỉ thị từ Moscow hay chỉ sửa đổi hình thức bên ngoài các chỉ thị này cho hợp với sở thích của mình chứ không bao giờ dám đi vào các tranh luận trực diện gay gắt", tuân theo không điều kiện nguyên tắc "trung ương tập quyền trên bình diện cách mạng quốc tế vô sản".
* Trong suốt thời gian lâu dài của hai thập niên 1920 và 1930, chắc chắn HCM đã chứng kiến các cảnh thanh trừng và tàn sát liên tiếp trong hàng ngũ ĐTQT trên lãnh thổ Liên Xô nhưng cũng đã chấp nhận các tội ác của Staline để củng cố địa vị cá nhân đã đạt được của mình trong phong trào cộng sản quốc tế cũng như vị trí lãnh đạo tối cao của mình trong tổ chức cộng sản Việt Nam. Có lẽ nhờ vào thái độ "khôn ngoan" này mà HCM đã là một trong những nhà lãnh đạo hiếm có của các phong trào cách mạng vô sản ở các nước trong vùng Đông Nam Á đã tránh được các nanh vuốt của Staline và còn sống sót được cho đến sau thế chiến thứ II.
Vài sự kiện lịch sử.
* Được trình bày trong mọi tài liệu chính thức của Đảng như là một nhân vật "xuất chúng, có một nhãn quan vượt xa các kiến thức của những nhà ái quốc bình thường đương thời... xuất dương tìm đường cứu quốc...", ngày nay người ta đã chứng minh đó là một con người tầm thường, ngay từ những ngày đầu tiên đến hải cảng Marseille năm 1911, đã viết thư (ngày 15/9/1911, ký tên Nguyễn tất Thành) cho Tổng Thống và Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, cầu khẩn xin được vào học "Trường Thuộc Địa", bày tỏ "lòng ham muốn trở thành hữu ích đối với nước Pháp trong các quan hệ đối với người đồng hương của mình,..." để tìm kiếm cho mình một chức phận trong hệ thống thuộc địa Pháp.
Một năm sau đó, từ New York, ngày 15/12/1912, với tên mới là Paul Tất Thành và tự giới thiệu mình như là "...một người dân trọn đạo làm con (filial peuple), một kẻ tùy thuộc biết ơn...", HCM lại viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ: "...xin Ngài ban cho cha tôi một công việc, như là Thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo, Giáo thụ để cho Cha tôi sinh sống...".
* Không được thỏa mãn trong các dự định trên, người ta không tìm thấy một dấu vết nào về các hoạt động yêu nước của Nguyễn tất Thành trong các năm sau đó, cho đến sau thế chiến thứ I, lúc xuất hiện những bài báo dưới bút hiệu "Nguyễn Ái Quốc" (!), bút hiệu đấu tranh của "Nhóm những người ái quốc An Nam" (Pour le groupe des Patriotiques Annamites: Nguyễn Ái Quốc). Để lấp khoảng thời gian trống nói trên, dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, HCM đã tinh xảo tạo ra các bức thơ mà Nguyễn Tất Thành đã gởi từ Luân Đôn cho Phan Chu Trinh vào các năm 1913, 1914... chứng tỏ rằng mình đã có một quá trình hoạt động chung với các nhà cách mạng Việt Nam đương thời và cho rằng mình đã thông hiểu được cục diện thế giới hơn mọi người khác, và đã tiên đoán được tiến trình tất yếu của thế chiến thứ I.
* Tiếp đó là việc xuất hiện của một số bài báo tranh đấu chống chế độ thuộc địa và cũng nhờ đó mà dư luận mới thật sự nhận biết các hoạt động "yêu nước" của một tập thể chính trị,... trong đó có HCM. Sau này, khi đã thành công dành được chính quyền, HCM đã không ngần ngại chiếm đoạt bút hiệu chung "Nguyễn Ái Quốc" của cả tập thể đó... cho riêng cá nhân của mình, đồng thời phủ nhận và bôi bác công trình của những người khác mà ngày nay ai ai cũng đều biết đó là "Nhóm những người Ái Quốc An Nam", đã hoạt động ở Pháp, bao gồm các nhân vật như Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và... Nguyễn Tất Thành là người gia nhập sau cùng vào Nhóm. Trong các văn kiện quan trọng bị chiếm đoạt phải kể đến bản "Các yêu cầu của Dân An Nam" gởi đến Hội nghị Versailles (1918). Ngay cả các bài viết về "Bản án chế độ thực dân Pháp" xuất hiện trong khoảng thời gian 1921-1925, khi đã trở thành đảng viên của đảng cộng sản Pháp, HCM cũng không phải là tác giả duy nhất.
* Sự thành công của Cách mạng Vô sản Nga chắc chắn là một biến cố kinh hoàng làm thay đổi lịch sử nhân loại và có nhiều ý nghĩa. Quan trọng hơn cả là sự nẩy sinh ra một thế lực (hay một đế quốc) mới, có qui mô rộng lớn, hùng mạnh và đủ sức đối đầu với các đế quốc tư bản Tây phương đương thời.
Đối với các dân tộc nhược tiểu trong các thuộc địa... thế lực này rất có thể là một đồng minh cơ bản... để chống lại một kẻ thù chung là chế độ thực dân. Với chiêu bài giải phóng người lao động, bao gồm nguời vô sản và các dân tộc bị trị trong các thuộc địa, các khẩu hiệu (hịệu) của Cách mạng Vô sản, đang hăng say trong chiến thắng trên lãnh thổ rộng lớn của cựu Nga Hoàng,... chắc chắn cũng đã có một sức hấp dẫn kỳ diệu trong hàng ngũ những người yêu nước lưu vong và rất có thể đã đem lại cho họ một lý tưởng cao đẹp... Sau nữa, đối với những người đang chờ thời cơ để tiến thân và chưa tìm được một "vị trí yên ổn" cho cá nhân mình dưới chế độ thuộc địa, mặc dầu mọi nhịn nhục, đó cũng là một cơ hội hiếm có để tìm được một "điểm tựa" hữu hiệu, một "nơi trú ẩn" vững chắc... để thực hiện tham vọng cá nhân của mình, miễn là phải tìm cách chứng minh được sự trung thành tuyệt đối của mình phục vụ đế quốc mới này. Tất cả các giả thuyết này đều có thể đúng hay sai tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá nhân.
* Là thành viên Đảng Xã Hội Pháp và tham gia vào các tranh luận trong Đảng trên vấn đề gia nhập vào Đệ Nhị Quốc Tế hay vào ĐTQT, HCM theo ĐTQT, gia nhập vào Đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 và trở thành thành viên thường trực của Ủy ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa. Từ đó HCM trở thành, vĩnh viễn và vô điều kiện, một người cộng sản "trung thành" của ĐTQT. Rất có thể HCM đã trở thành một người yêu nước sau một thời gian ở ngoại quốc, khi được tiếp cận với môi trường hoạt động chính trị đương thời. Cũng rất có thể HCM đã theo tiếng nói của lương tâm mình, bừng tỉnh khi đọc được văn bản "Các phác họa đầu tiên trên các Luận đề về các Dân tộc và về Thuộc địa" của Lénine (1920) như đã được giải thích trong các tài liệu chính thức của Đảng, tin tưởng tìm thấy trong "vô địch" Quốc tế Cộng sản một chỗ dựa tưởng chừng "tuyệt đối" để đạt được sự lựa chọn chính trị chính đáng này của mình. Điều cốt yếu ở đây là tìm hiểu các hậu quả chính yếu của sự lựa chọn này trong quá trình tồn tại sau đó của ĐCSVN. Bình luận biến cố này, tài liệu chính thức của Đảng (1), trang 16-17, giải thích:
"Kết luận cuối cùng mà Nguyễn Ái Quốc đã rút ra từ các công cuộc tìm tòi của mình và các tranh luận nói trên là, muốn cứu nguy đất nước và giải phóng dân tộc thì không còn con đường nào khác hơn là con đường Cách mạng Vô sản. Chỉ có Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Vô sản mới có thể giải phóng các dân tộc bị trị và tầng lớp lao động trên thế giới... Giai đoạn này đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong cuộc đấu tranh cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, tiến hóa từ một nhà ái quốc đến một người cộng sản chân chính, khúc quanh theo đó Nguyễn Ái Quốc đã tự đặt mình hoàn toàn vào con đường của Cách mạng tháng 10/1917, của Chủ nghĩa Marx-Lénine và của Quốc tế Cộng sản".
2. Đê Tam Quốc Tế Cộng Sản và sự thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản là phong trào cách mạng khuynh hướng xã hội được thành lập ở Londres năm 1864 và giải tán năm 1876.
- Đệ Nhị Quốc Tế Cộng Sản - Vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Mác xít và khuynh hướng chủ nghĩa Vô chính phủ, vì thế nên là khuynh hướng cải cách xã hội - dân chủ, thành lập năm 1889 ở Paris, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.
- Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là khuynh hướng cách mạng vô sản, thành lập năm 1919 ở Moscow và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956. - Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản - Sau Đại Hội XX của Đảng Cộng Sản Liên Xô. Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản thành lập năm 1938, là khuynh hướng "cách mạng thường trực" mà Trotsky đưa ra từ sau khi Lénine qua đời (1924), để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Staline.
Vài sự kiện lịch sử.
* Sự thăng tiến của HCM trong ĐTQT rất là mau chóng. Khi các phong trào cách mạng ở Âu châu đang ở trong một thời kỳ thoái bộ, ĐTQT cảm thấy cần phải nới rộng các hoạt động vào các chân trời mới, qua các xứ thuộc địa, đang trên đà biến hóa mau chóng, nhất là ở Á châu. Năm 1923, HCM được Đảng Cộng sản Pháp chỉ định tham dự Đại hội Quốc tế Nông dân ở Moscou, sau đó được vào Ban chấp hành Trung ương Nông dân Quốc tế, đại diện các nước thuộc địa và nới rộng các hoạt động trong các quốc gia Đông Nam Á châu. Tham dự Đại hội V của Cộng sản Quốc tế ở Moscou vào tháng 5/1924, HCM đã hoàn toàn chấp nhận sự thắng lợi của lý thuyết của Staline về "Chủ nghĩa Xã hội trong một Quốc gia", chống lại lý thuyết "Cách mạng thường trực" của Trotski. Với đường lối của Staline, giai cấp vô sản ở các nước tư bản và các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế..., HCM được cử vào Ủy ban Tuyên truyền Cộng sản Quốc tế và Ủy ban Đông phương của Ban thường trực Cộng sản Quốc tế.
* Với tư cách mới trong ĐTQT năm 1925 HCM bí mật đến Quảng Đông thành lập "Thanh Niên Cách Mạng Hội Việt Nam" (TNCMHVN), trực thuộc ĐTQT ở miền Viễn Đông, với mục tiêu phối hợp các hoạt động chống thực dân, kết nạp các đồng chí trong số những người Việt Nam sinh sống ở Trung Quốc. Đó là tiền thân của ĐCSVN, trước khi đi đến thành lập các đảng cộng sản trong các dân tộc ở miền Đông Á. Các hoạt động này của HCM đã gặp được cơ hội thuận tiện vì được xuất hiện giữa thời kỳ phát triển cao độ của các khuynh hướng cách mạng quốc gia Duy Tân, Cải Cách ở Việt Nam cũng như phù hợp với thời kỳ hòa hoãn và hợp tác giữa ĐTQT (được quyết định trong Đại hội V, 1924) với các phong trào Cách mạng Dân tộc đương thời ở Trung Quốc và cho phép TNCMHVN tranh thủ rộng rãi các hoạt động trong nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội.
* Khi các tranh chấp giữa phong trào Cách mạng Dân tộc và phong trào Cộng sản bùng nổ năm 1927 ở Trung Quốc thì ĐTQT, qua Đại hội VI, tháng 12/1927, lại thay đổi đường lối đối với các khuynh hướng cách mạng Dân tộc, chống lại các phong trào Xã hội - Dân chủ và đề ra khẩu hiệu "Đấu tranh Giai cấp". Sự thay đổi đột ngột đường lối này của ĐTQT được các tổ chức cộng sản Việt Nam áp dụng tức khắc, đưa đấu tranh giai cấp lên hàng đầu trong các hoạt động, tự tôn mình lên vị trí lãnh đạo cách mạng, xem tất cả các khuynh hướng cách mạng dân tộc khác ở Việt Nam là kẻ thù ý thức hệ trước mắt của mình. Bàn về mục tiêu các hoạt động của TNCMHVN trong khoảng thời gian 1928-1929, tài liệu (1), trang 21 của ĐCSVN viết:
"Khía cạnh đặc biệt quan trọng nhất của phong trào cách mạng ở Đông Dương được thể hiện qua các phong trào đấu tranh quần chúng công nông dân, ngày càng trở nên rõ ràng là độc lập và không còn bị ảnh hưởng của các khuynh hướng quốc gia như trước... TNCMHVN đã được sinh trưởng lên đúng vào lúc các đấu tranh giữa hai khuynh hướng, khuynh hướng vô sản và khuynh hướng trưởng giả tư sản, đang lên cao tột độ ở Việt Nam... Nhiệm vụ cấp bách và tức thời lúc đó của TNCMHVN là phải chận đứng các phong trào Cải cách Tư sản và các phong trào cách mạng ngụy trang trưởng giả, soi sáng cho quần chúng thấy rõ đâu là cách mạng, đâu là cách mạng ngụy trang, đâu là cách mạng thật sự...".
* Từ lập trường trên, TNCMHVN chia thành hai phe chống đối nhau, một bên đòi hỏi thành lập một Đảng cách mạng vô sản thực sự theo chủ nghĩa Marx-Lénine, một bên muốn dùng chiến lược mềm dẻo cho rằng sự thành lập một ĐCSVN là một điều quá sớm. Đại hội toàn quốc TNCMHVN, họp ở Hương Cảng từ ngày 1/5/1929, bác bỏ đề nghị của Chi bộ Bắc Kỳ đòi giải tán TNCMHVN để thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nhưng, trở về địa phương, Chi bộ Bắc Kỳ công khai tuyên bố lập trường của mình và ngày 17/6/1929 tuyên bố thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Để tranh dành ảnh hưởng và tránh khỏi bị cô lập với Quốc tế Vô sản, các phần tử cộng sản quá khích khác của TNCMHVN liền vội vã thành lập các Đảng trong địa phương của mình. Tháng 10/1929, Chi bộ Nam Kỳ họp đại hội giải tán TNCMHVN và thành lập Đảng Cộng Sản An Nam. Tháng 1/1930, các phần tử trong Tân Việt Cách Mạng Đảng cũng tuyên bố thành lập Liên Minh Cộng Sản Đông Dương. Trong khoảng thời gian ngắn sáu tháng, khủng hoảng trong các tổ chức cộng sản Việt Nam đã đạt tới mức độ cao điểm, với sự khai sinh ở Việt Nam của ba tổ chức cộng sản, độc lập với nhau, cả ba đều đòi gia nhập vào Cộng sản Quốc tế.
Đứng trước viễn ảnh tranh chấp gay gắt giữa các khuynh hướng nói trên, HCM, tự nhận là Đại diện của ĐTQT, liền gởi một lệnh thơ cho ba tổ chức cộng sản Việt Nam phải thống nhất lại với nhau trong cùng một tổ chức duy nhất trực thuộc ĐTQT. Ngày 3/2/1930, với tư cách Đại diện ĐTQT, HCM vội vàng triệu tập và chủ tọa Hội Nghị Thống Nhất được tổ chức tại Hương Cảng, quyết định thành lập ĐCSVN và đặt Đảng dưới sự điều hành của ĐTQT, thay vì tùy thuộc vào Liên Đoàn Cộng Sản Nam Hải (Mặt trận thứ hai ở miền Viễn Đông được ĐTQT thành lập ở Singapour năm 1928, sau các thất bại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trước phong trào Cách mạng Dân tộc ở Trung Quốc) và đưa Đấu Tranh Giai Cấp lên vị trí hàng đầu. Đi xa hơn nữa, cho rằng các tình cảm dân tộc là trái với tinh thần quốc tế vô sản, tháng 10/1930, ĐCSVN đuợc đổi tên thành "Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD). Chương trình chính trị của Đảng nêu rõ, (1), trang 28-29:
"Cách mạng Đông Dương ra đời vào lúc Tư bản thế giới đang đi sâu vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lúc các đế quốc đang ráo riết chuẩn bị một cuộc chiến tranh thế giới mới để chia lại các thị trường cùng vào lúc các đấu tranh chống Đế quốc ở các nước tư bản và các xứ thuộc địa đang lên cao,... Cách mạng Đông Dương tự đặt mình trong khung khổ của Cách mạng thế giới... Các mâu thuẫn căn bản ở Đông Dương là các mâu thuẫn giữa tầng lớp các công nhân, nông dân và các người lao động chống lại các tầng lớp thực dân, phong kiến, địa chủ và tư sản... Từ đó Đề cương chính trị xác định Cách mạng Đông Dương là một Cách mạng dân chủ lãnh đạo bởi giai cấp vô sản, một Cách mạng điền địa để xóa bỏ các tàn dư phong kiến, chia lại ruộng đất cho nông dân, một Cách mạng chống thực dân để lật đổ chế độ thực dân Pháp dành độc lập trên toàn lãnh thổ Đông Dương,... tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn phát triển tư bản...".
Trong tài liệu HCM Toàn tập do Nhà Xuất bản Sự thật ấn hành, ta còn có thể đọc laị các chỉ thị sau đây mà HCM viết cho Đảng Cộng Sản Đông Dương:
"Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là một Đảng Cộng Sản thế giới. Các Đảng các nước như là các chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế thì các Đảng không được làm... Cách mệnh Việt Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới... Phải tin và đi theo chủ nghĩa cộng Sản lẫn chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, phải thực hành cho được chánh sách và nghị quyết của Đảng và Quốc Tế cộng sản".
Vài bình luận về sự ra đời của Cộng Sản Đông Dương.
Một sự kiện đáng được nêu rõ là, trước khi Cộng Sản Đông Dương được thành lập, mọi khuynh hướng đấu tranh đương thời ở Việt Nam đều chia sẻ cùng nhau một mục tiêu chính yếu chống lại kẻ thù chung của dân tộc là chế độ thuộc địa, xem đó là một "đồng thuận" của dân tộc, là điểm xuất phát chung của mọi phong trào yêu nước. Nếu chưa đạt được mục tiêu đưa dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa thì ít nhất ai ai cũng đều có thể nhận xét rằng chưa bao giờ có một sự chia rẽ hay một sự rạn nứt giữa các thành phần khác nhau trong dân tộc trong mục tiêu trên. Vấn đề chính yếu của các phong trào yêu nước đương thời là cùng nhau học hỏi những luồng tư tưởng mới trên thế giới, tìm kiếm các mô hình tổ chức cho xã hội tương lai, trao đổi cùng nhau các khám phá mới lạ tìm thấy ở thế giới bên ngoài, chia sẻ cùng nhau những giây phút thất bại chung... trong tinh thần đối thoại và hợp tác, trong một mục tiêu chung giải thoát dân tộc khỏi chế độ thuộc địa...
Một điểm thứ hai đáng được ghi nhận là, ngay trong tổ chức cộng sản TNCMHVN, sự ra đời của Cộng Sản Đông Dương chỉ là ý chí muốn ly khai của một "thiểu số cực đoan". Bàn về Đại Đội của TNCMHVN mà hậu quả là sự ra đời sau đó của Cộng Sản Đông Dương, tài liệu chính thức (1), trang 24-25, của Đảng cũng viết:
"Đại hội toàn quốc này được tổ chức ở Hương Cảng vào ngày 1/5/1929. Đoàn Đại biểu của Chi bộ Bắc kỳ, trong đó phải kể đến Ngô Gia Tự là người cương quyết và phi thường hơn cả, đưa ra đề nghị nhằm giải tán TNCMHVN và thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đề nghị này không được chấp nhận, Đoàn Đại biểu liền rời khỏi Đại hội và trở về nước. Ngày 1/6/1929 Chi bộ Bắc kỳ ra thông cáo giải thích thái độ của mình ở Đại hội và... ngày 17/6/1929, ĐCSĐD được thành lập...".
Một nghi vấn được đặt ra ở đây là lập truờng của HCM trong vấn đề này, HCM theo phe thiểu số hay đa số của Đại hội? và, nếu ở về phía đa số, thì phải giải thích thế nào lập trường của HCM khi ĐCSĐD được thành lập sau đó? Ta sẽ trở lai chi tiết này trong phần cuối của bài viết.
Qua các sự kiện trên đây, ngay từ đầu ta có thể ghi nhận rõ ba yếu tố căn bản chi phối quá trình các hoạt động sau này của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
* Trước tiên, nếu khởi đầu thế kỷ XX dư luận ở Việt Nam gần như đã đạt được một sự đồng thuận, đặt ưu tiên vào việc tìm kiếm các con đường đấu tranh chống lại kẻ thù chung là chế độ thuộc địa thì, với đấu tranh về ý thức hệ, sự ra đời của ĐCSĐD lại là khởi điểm của một của một cuộc nội chiến tương tàn trên đất nước và trong dân tộc Việt Nam, chỉ vì tham vọng của Đảng muốn độc quyền chiếm đoạt quyền lực. Sự lựa chọn một cách tuyệt đối ý thức hệ cộng sản, với "đấu tranh giai cấp", với "chuyên chính vô sản" và "độc quyền về chân lý", Đảng Cộng Sản Đông Dương đã tự đặt mình đối nghịch với mọi khuynh hướng đấu tranh khác ở Việt Nam, sẵn sàng chấp nhận hòa hoãn với ngoại bang, kể cả với chế độ thuộc địa,... để củng cố vị trí của mình nhưng lại xem mọi phong trào yêu nước khác là kẻ thù tiên quyết về ý thức hệ, cần phải tiêu diệt trước.
* Yếu tố căn bản thứ hai là sự chấp nhận không điều kiện lý thuyết về "Chủ nghĩa Xã Hội trong một quốc gia" của Staline, theo đó giai cấp vô sản ở các nước tư bản cũng như ở các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscow, bác bỏ lợi ích của các quốc gia và các dân tộc, đặt lợi ích của Đảng Cộng Sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế. Nói một cách khác, chưa thoát khỏi ách đô hộ của chế độ thuộc địa, ĐCSVN đã tự nguyện tin vào một lý thuyết vô tưởng, tự đặt mình như là một bộ phận của một thế lực quốc tế (mà thực tế chỉ là Đảng Cộng Sản Liên Xô), chấp nhận một cách tuyệt đối phục vụ lợi ích của thế lực này, đặt lợi ích của thế lực ngoại bang này trên cả lợi ích của cả dân tộc mình. Đối với mọi dân tộc, dầu ở một thời đại nào đi nữa, đó là một nghịch lý lố bịch, một hình thức ngụy biện, không thể chấp nhận được!!
Đi xa hơn nữa trong lý thuyết phụ thuộc vào Quốc tế Cộng sản và xem ĐTQT như là một hệ thống có đẳng cấp, sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập, HCM lại cho ghi trong Luận Cương chính trị của Đảng sự phụ thuộc của Đảng Cộng Sản Đông Dương vào các thế lực cộng sản đàn anh khác, ra đời trước Đảng Cộng Sản Đông Dương: "...Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với Vô sản thế giới,... Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ", xem đó là các điểm tựa quốc tế chắc chắn và môi trường hoạt động quan trọng để củng cố quá trình phát triển của Đảng.
* Yếu tố quan trọng thứ ba được thể hiện ngay từ ngày thành lập Đảng là việc HCM, với tư cách của Quốc Tế Vô sản, ra lệnh đổi tên của Đảng thành ĐCSĐD. Điều này có mục tiêu củng cố sự kiểm soát cuả ĐTQT trên Đảng, tách rời Đảng ra khỏi ảnh hưởng của khuynh hướng cách mạng dân tộc và đồng thời cũng thể hiện tham vọng của Đảng muốn nới rộng địa bàn hoạt động của mình lên toàn lãnh thổ Đông Dương. Sau này, khi hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc nắm được chính quyền, các tham vọng này đưa tới nhiều hậu quả trầm trọng vì đó chính là đầu mối của các tranh chấp ảnh hưởng của hai bên đối với các quốc gia khác trên bán đảo Đông Dương, nhất là từ khi ĐTQT được giải tán vào năm 1956.
3. Các thay đổi về đường lối của ĐCSĐD và của ĐTQT.
Cũng như TNCMHVN, đường lối của ĐCSĐD tiếp tục phản ảnh đường lối của Moscou cho đến khi ĐTQT giải tán vào năm 1943. Trong thời kỳ này, ĐTQT quan tâm đến hai vấn đề chủ yếu. Trong nội bộ đó là sự chống đối của Trotski đối với đường lối của Staline, trong khi đó ở ngoài Liên Xô là sự ra đời của Đức Quốc Xã, ngày càng đe dọa trực tiếp cho sự sống còn của Liên Xô. Cũng trong thời kỳ này, ta có thể phân biệt đường lối của Đảng Cộng Sản Đông Dương qua ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất kéo dài cho đến trước Đại hội VII của ĐTQT (1935) là thời kỳ ý thức hệ đấu tranh giai cấp, thời kỳ thứ hai tiếp tục từ đó cho đến năm 1939 khi thế chiến thứ hai bùng nổ là thời kỳ hòa hoãn đối với chế độ thuộc địa Pháp và hoạt động dưới chiêu bài của Mặt Trận Dân Chủ. Trong thời kỳ thứ ba, dưới chiêu bài của Mặt Trận Việt Minh và đứng về phe Đồng Minh trong chiến tranh thế giới, Đảng Cộng Sản Đông Dương lợi dụng cơ hội nắm được chính quyền ở Việt Nam vào năm 1945.
A.Thời kỳ thứ nhất: Cách mạng vô sản và đấu tranh giai cấp
* Các năm đầu của thập niên 1930 khởi đầu bằng hai biến cố quan trọng. Đó là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc Dân Đảng đề xướng vào tháng 2/1930 và cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh do ĐCSĐD cầm đầu (9/1930-4/1931), cả hai tượng trưng cho hai phong trào cách mạng tiêu biểu đương thời ở Việt Nam. Tuy có một quy mô rộng lớn hơn nhưng biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh lại không có một ảnh hưởng quần chúng bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Dư luận đương thời chưa sẵn sàng chấp nhận đấu tranh giai cấp và thờ ơ với quốc tế vô sản. Trong khi đó cuộc khởi nghĩa Yên Bái lại tác động trực tiếp vào khía cạnh tâm lý là tinh thần yêu nước chống lại chế độ thuộc địa, điều quan tâm hàng đầu của cả dân tộc Việt Nam.
Sau hai biến cố đó, chế độ thuộc địa tiến hành ở Việt Nam các cuộc đàn áp dã man để tiêu diệt các phong trào cách mạng, khuynh hướng dân tộc cũng như cộng sản. Các nhà lãnh đạo các phong trào cách mạng dân tộc bị truy nã đến tận biên giới Trung Quốc, không còn đủ lực lượng để có thể xuất đầu lộ diện trong lãnh vực sinh hoạt chính trị trong suốt thời gian dài của thập niên 1930. Trong khi đó Đảng Cộng Sản Đông Dương, với các tổ chức chặt chẽ, đã dần dần xây dựng lại cơ sở trong vòng bí mật kể từ năm 1932 và chính thức công khai lộ diện trong thời kỳ 1936-1938, khi Mặt Trận Bình Dân ở Pháp nắm được chính quyền, với sự tham gia của Đảng Cộng Sản Pháp.
* Tháng 3/1935 Đại hội I (toàn quốc) của ĐCSĐD được triệu tập ở Macao nhưng không có thay đổi về đường lối, xác định lại chiến lược cũ về đấu tranh giai cấp đề ra ở Đại hội VI (1927) của Đệ tam Quốc tế. Nhưng từ khi Hitler lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933 và trước sự đe dọa ngày càng nặng của Đức Quốc Xã trên Liên Xô, Staline lại thay đổi đường lối, tìm đồng minh với các nước Tây phương, ký kết với Anh và Pháp các hiệp ước an ninh. Tháng 7/1935, Đại hội VII của ĐTQT họp ở Moscou ra chỉ thị cho các đảng cộng sản ngoại quốc không được có các hành động làm trở ngại chiến lược này. Đoạn văn sau đây, trích dẫn từ (1), trang 49, nêu rõ:
"... Đại hội VII của Cộng sản Quốc tế (7/1935) ra lịnh cho giai cấp công nhân và tầng lớp lao động trên toàn thế giới phải đặt mục tiêu tức thời và trực tiếp không phải là lật đổ chế độ tư bản để xây dựng xã hội chủ nghĩa mà là đấu tranh chống lại độc tài phát xít và ý đồ xâm lược của phe phát xít, để xây dựng dân chủ và bảo vệ hòa bình. Các Đảng cộng sản của mọi nước phải thống nhất các lực lượng lao động và thành lập một Mặt trận rộng rãi bao gồm các đảng quốc gia, dân chủ và cấp tiến cũng như các tầng lớp bình dân để thống nhất hành động chống lại kẻ thù chính yếu tức thời là chế độ phát xít".
Hiển nhiên đường lối này trái ngược lại với đường lối của Đại hội VI (1927) mà ĐCSĐD vẫn tiếp tục khẳng định trong Đại hội I (3/1935) của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Vì vậy, liền sau Đại hội VII của ĐTQT, ĐCSĐD phải tức thời thay đổi đường lối để bám sát với đường lối mới của ĐTQT và làm tự kiểm thảo, (1), trang 45: "Cần nêu lên một khuyết điểm, Đại hội (I của Đảng Cộng Sản Đông Dương) đã không nhận thức rõ ràng được các hiểm họa phát xít trên thế giới cũng như không trù liệu trước các khả năng chiến tranh chống phát xít,...".
B. Thời kỳ thứ hai và chiêu bài Mặt Trận Dân Chủ
* Đường lối mới của ĐTQT được chính thức đem ra thực hành sau Hội nghị Ban chấp hành trung ương ĐCSĐD ở Thượng Hải (7/1936) với sự thành lập "Mặt Trận Dân Chủ Thống Nhất Đông Dương", gọi tắt là Mặt Trận Dân Chủ, dùng các hình thức đấu tranh cho Dân chủ để che đậy thực chất của mình. Đảng Cộng Sản Đông Dương thường gọi giai đoạn này là giai đoạn Cách mạng Dân chủ nhưng đây chỉ là một hình thức đánh lừa dư luận bên ngoài và là một chiến lược nhằm thỏa mãn nhu cầu giai đoạn của Staline. Về thực chất, Đảng Cộng Sản Đông Dương vẫn luôn luôn không lùi bước trên mục tiêu ý thức hệ. Hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng họp ở Thượng Hải năm 1936 giải thích, (1), trang 48:
"... Nếu các nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến của Đảng nêu ra từ ngày thành lập vẫn luôn luôn còn hiệu lực thì mục tiêu tức thời và trực tiếp của giai đoạn này không phải là để lật đổ chính quyền của Đế quốc Pháp và làm cách mạng cải cách điền địa, mà lại là đấu tranh chống lại phản động thực dân, tay sai của phát xít... Đây chỉ là một vấn đề chiến lược, tạm đình hoãn trong một giai đoạn các mục tiêu của cách mạng nhưng cũng là một vấn đề tối cần để áp dụng chiến lược toàn cầu để bảo vệ thành trì cách mạng thế giới. Không có thành trì này thì cách mạng ở Đông Dương cũng không thể tồn tại được...".
Hiển nhiên, khi xác định "mục tiêu tức thời và trực tiếp của giai đoạn này không phải là để lật đổ chính quyền của Đế quốc Pháp", ĐCSĐD đã thể hiện một nghịch lý căn bản vì quan tâm hàng đầu của Dân tộc Việt Nam luôn luôn vẫn là tìm mọi cách để dứt bỏ chế độ thuộc địa Pháp. Trên thực tế điều này có thể được giải thích dễ dàng vì lý do kỷ luật của ĐTQT, "giai cấp vô sản ở các nước tư bản và các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế" và nước Pháp đang được xem như là một đồng minh của Moscou và đối nghịch với Đức quốc xã. Ngoài ra, lại còn phải xét đến "lợi ích" của Đảng Cộng sản đàn anh Pháp, đang tham gia vào chính quyền đương thời ở Pháp. ĐCSĐD đã chỉ thi hành đúng chỉ thị của ĐTQT: "mục tiêu tức thời và trực tiếp không phải là lật đổ chế độ tư bản để xây dựng xã hội chủ nghĩa", bắt buộc hòa hoãn với chế độ thuộc địa.
Cùng một lúc, HCM cũng từ Trung Quốc ra chỉ thị cho ĐCSĐD, (1), trang 50:
"Nhiệm vụ chính yếu của thời gian hiện tại là tranh đấu để đòi hỏi các quyền dân chủ, tự do. Tổ chức của Mặt Trận phải thật là hết sức rộng rãi, bao gồm tất cả mọi tầng lớp nhân dân, ngay cả các thành phần trưởng giả quốc gia và cấp tiến ở Đông Dương nhưng không thể hòa hoãn được với thành phần theo Trotski. Phải thẳng tay trừng phạt với các thành phần ly khai, phải giữ chặt các liên hệ mật thiết với Đảng Cộng Sản Pháp và Măt Trận Bình Dân Pháp".
* Nếu Đảng Cộng Sản Đông Dương phải tạm thời trì hoãn đường lối Cách mạng Vô sản để thi hành chỉ thị mới của ĐTQT thì ngược lại chiến lược này đã có một tầm quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của Đảng, mang lại cho Đảng những thành công sau này trong ý đồ chiếm giữ độc quyền ở Việt Nam. Lợi dụng cùng lúc Đảng Cộng sản Pháp tham gia vào chính quyền ở Pháp, Đảng Cộng Sản Đông Dương lại tái xuất hiện khắp nơi trên các đô thị lớn dưới chiêu bài của Mặt Trận Dân chủ, dấu kín bản chất ý thức hệ của mình, thay thế các nhãn hiệu "cộng sản" đã dùng trước đây bằng nhãn hiệu "dân chủ". Trong lúc các phong trào cách mạng quốc gia vẫn còn hoạt động trong vòng bí mật thì ĐCSĐD lại lợi dụng một cách khôn ngoan và thiết thực mọi khả năng hoạt động, vừa bí mật và chính thức hay bán chính thức để tổ chức và động viên quần chúng, tham gia trên bình diện toàn quốc vào mọi lãnh vực, từ đấu tranh công đoàn cho đến tham dự vào các bầu cử địa phương, từ các sinh hoạt văn hóa, tôn giáo,... cho đến nghệ thuật, thể thao,... Quan trọng hơn cả, ĐCSĐD tìm mọi cách thâm nhập vào nội bộ của các phong trào yêu nước, gây chia rẽ và phá hoại các phong trào này để đưa mình lên vị trí độc tôn lãnh đạo cách mạng ở Đông Dương. Đoạn văn sau đây nêu rõ thêm các hoạt động trên đây của Đảng, (1), trang 50:
"Một bộ phận cán bộ của Đảng và của Mặt Trận được phân công thâm nhập vào các hội đồng, các phong trào cải cách, duy tân và phản động để tố cáo các tội ác của đế quốc và tay sai, vạch mặt giới lãnh đạo các phong trào phản động, chinh phục quần chúng về phía mình... Về hướng tổ chức quần chúng, phải tìm mọi cách để đạt được số đông. Nhưng đối với tổ chức Đảng thì phải giữ vững chất lượng, phải thẳng tay trừng trị những phần tử theo Trotski, những phần tử khiêu khích, phản Đảng,... ".
C. Thời kỳ thứ ba và chiêu bài Mặt Trận Việt Minh
* Đầu năm 1938, chính quyền ở Pháp lại thay đổi và rơi về phía hữu, ĐCSĐD cũng kịp thời rút vào vòng hoạt động bí mật và tập trung các hoạt động ở thôn quê. Tiếp theo đó là thời kỳ Thế chiến thứ hai. Năm 1940, nước Pháp chấp nhận sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã, thỏa hiệp với Nhật Bản để cùng chiếm đóng Đông Dương và từ đó được ĐCSĐD gắn liền với khối phát xít. Đường lối chống phát xít bây giờ bao gồm cả chế độ thuộc địa của Pháp (cũng như của Nhật sau này) ở Đông Dương. Từ thời điểm này, trên bán đảo Đông Dương không còn sự hiện diện nào của các Đế quốc Tư bản đồng minh với Moscou. ĐCSĐD xem nước Pháp cùng với Đức, Ý và Nhật là phe "Phát xít", đồng hóa với "Đế quốc", đồng thời đồng hóa đường lối "chống Phát xít" của mình trước đây với đường lối "chống Đế quốc" mà vẫn không đi ngược lại với các chỉ thị của ĐTQT. Không như giai đoạn trước đây, nếu ĐCSĐD không nêu rõ mục tiêu chống đế quốc và chế độ thuộc địa Pháp, thì đường lối mới của Đảng Cộng Sản Đông Dương có phần nào thay đổi vì nêu rõ mục tiêu chống đế quốc Pháp. Thật sự, vẫn luôn luôn dấu kín bản chất của mình, đây là giai đoạn mà ĐCSĐD tìm cách củng cố vị trí để đưa mình lên địa vị độc tôn lãnh đạo cách mạng. Tháng 11/1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm vạch đường lối (1), trang 57:
"Giải phóng đất nước là nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng Đông Dương. Cách mạng chống đế quốc và cách mạng cải cách điền địa là hai trục chính của cách mạng dân chủ. Không hoàn thành được nhiệm vụ thứ hai là thất bại trong nhiệm vụ thứ nhất và ngược lại. Nguyên tắc căn bản này không thể thay đổi được nhưng phải được áp dụng một cách khôn khéo để có thể thực hiện nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng là lật đổ chủ nghĩa đế quốc. Dựa trên định hướng chiến lược mới này, Ban chấp hành trung ương Đảng ra lịnh tạm thời đình hoãn cách mạng cải cách điền địa,... Để tập trung tất cả lực lượng vào công việc lật đổ chính quyền của đế quốc và tay sai. Dự định thành lập Mặt trận Thống nhất Toàn quốc chống Đế quốc ở Đông Dương. Các lực lượng chính của Mặt trận này là thợ thuyền và nông dân. Phải liên minh hay vô hiệu hóa giới tư sản, các địa chủ cở trung bình và cở nhỏ, đặt dưới sự lãnh đạo của giới vô sản...".
Tháng 11/1940, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh) nhấn mạnh:
"Hai tai họa đang đe dọa lên các dân tộc Đông Dương: Bán đảo Đông Dương chịu sự chiếm đóng của hai đế quốc phát xít Nhật và Pháp, hai kẻ thù hiện tại chính yếu của ta. Vì vậy nhiệm vụ tức thời của Đảng là lãnh đạo các dân tộc ở Đông Dương để sửa soạn cuộc khởi nghĩa vũ trang để lật đổ phát xít Nhật-Pháp và nắm chính quyền...".
Hiện diện ở Trung Quốc từ cuối năm 1939 và ở Việt Nam vào đầu năm 1941, tháng 5/1941, HCM vẫn với tư cách Đại diện của ĐTQT triệu tập Hội nghị Trung ương ĐCSĐD ở Pac Bó (Cao Bằng) để cụ thể hóa đường lối hoạt động của Đảng cho thời gian sắp tới, xác định thực hiện công cuộc giải phóng Đông Dương trên bình diện của mỗi quốc gia bằng cách thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, hoạt động theo kiểu mẫu của Mặt Trận Dân chủ, dưới hình thức của các hội "Cứu quốc" thay cho khẩu hiệu "Dân chủ" đã dùng trước đây. Đồng thời với Mặt Trận Việt Minh, ĐCSĐD cũng thành lập các tổ chức bù nhìn tương tự ở các nước khác ở Đông Dương: Ai Lao Độc Lập Đồng Minh và Cao Miên Độc Lập Đồng Minh, để đi đến thành lập Mặt Trận Thống Nhất Đông Dương.
Khôn ngoan hơn ai hết, tạm thời đình hoãn mục tiêu cách mạng vô sản, HCM biết lợi dụng chiêu bài "Độc lập dân tộc", "Giải phóng đất nước",... làm bình phong khuấy động dư luận, biết rằng đó là động lực tâm lý duy nhất quan tâm của mọi người Việt Nam. Một khi nắm được ưu thế trong chính quyền sẽ đương nhiên xây dựng Xã hội Chủ nghĩa bằng bạo lực chuyên chính vô sản...
ĐTQT tuyên bố giải tán năm 1943. Sau ba năm (1942-1944) ở Trung Quốc, đó cũng là thời gian cuối cùng mà HCM hoạt động với tư cách là nhân viên của ĐTQT, tháng 10/1944 HCM trở về Việt Nam, dựa trên uy tín quá khứ quốc tế của mình để củng cố địa vị của mình như là người lãnh đạo tối cao và trực tiếp của ĐCSVN, không còn nhân danh ĐTQT đưa mệnh lệnh từ ngoài vào như trước.
Cơ may cho ĐCSĐD, và đó cũng là một tai họa cho cả các dân tộc ở Đông Dương, nhờ vào vị trí của ĐTQT trong chiến tranh thế giới, ĐCSĐD trở thành phong trào có tổ chức chặt chẽ duy nhất ở Đông Dương đứng về phe Đồng Minh và đã lợi dụng được cơ hội này nắm được chính quyền ở Việt Nam vào năm 1945.
4. Bàn lại vai trò của HCM.
Trên đây là một vài nét giải thích đường lối chính thức các hoạt động của ĐCSĐD kể từ khi ĐTQT được thành lập từ năm 1919 cho đến khi tổ chức này giải tán (lần thứ nhất) vào năm 1943. Có một điều căn bản đáng được ghi nhận ngay từ đầu là ĐCSVN chỉ là một sản phẩm của ĐTQT, được thành lập theo lịnh và tổ chức theo đúng một khuôn mẫu định sẵn từ ĐTQT đưa xuống. Trong suốt quá trình hoạt động của mình, ĐCSĐD đã tự thỏa mãn như là "một bộ phận" và chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của thế lực quốc tế này.
Điều thứ hai đáng được ghi nhận là vai trò và vị trí của HCM trong các quan hệ giữa ĐTQT và ĐCSĐD. Trên vấn đề này, ta có thể khẳng định rằng HCM không phải là người lãnh đạo tối cao của ĐCSĐD vì khi tự nguyện đụợc đứng vào hàng ngũ của ĐTQT thì ĐCSĐD đã chấp nhận "chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế...". Như vậy, người lãnh đạo tuyệt đối ĐCSĐD là Đảng Cộng sản Liên Xô mà cụ thể là Staline. Ngay cả trong các tài liệu chính thức của Đảng, HCM đã chỉ được trình bày như là một "cấp trung gian" để chuyển đạt các mệnh lệnh và chỉ thị của ĐTQT xuống Đảng. HCM cũng không phải là người Việt Nam duy nhất chịu mệnh lệnh trực tiếp của ĐTQT!
Trên thực tế, ngay cả HCM, trong những lúc liên hệ với ĐCSĐD cho đến năm 1943, cũng vẫn luôn luôn tự xem mình như là "Người Đại diện Quốc tế Cộng sản", một nhân vật không trực tiếp "nằm trong Đảng" nhưng lại "đứng trên Đảng" để "ban hành đường lối hoạt động cho Đảng". Nói một cách khác, HCM chỉ là một người "làm công", một "nhân viên" hay một "viên chức" (agent) của ĐTQT, có nhiệm vụ phải kiểm soát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của ĐCSĐD trước ĐTQT!. Chỉ bắt đầu từ khi ĐTQT tuyên bố giải tán vào năm 1943 thì chức vụ "Đại diện Quốc tế Cộng sản" không còn chính đáng nữa thì HCM mới trở về Việt Nam, dựa trên uy tín quốc tế cũ của mình và dành được vị trí lãnh đạo chính thức trong ĐCSĐD. Trong mọi trường hợp, các tư cách "Đại diện Quốc tế Cộng sản" của HCM cũng chỉ là những công việc tạm thời, chỉ được ĐTQT giao phó cho từng giai đoạn nhất định, không liên tục. Ngay cả trong ĐCSĐD cũng có rất nhiều người nghi ngờ tính cách "Đai diện" này của HCM, vì chỉ có như vậy HCM mới có thể đứng trên đầu trên cổ mọi người trong Đảng để sai khiến họ. Về các điểm này, trong hồi ký của Hoàng Tùng (5), nguyên Bí thư Trung ương Đảng và nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ta có thể đọc:
"Năm 1931-32, ở Hương Cảng, Bác không có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng Bác vẫn làm. Bác gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị giao việc, vì thời gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ một hộp thư. Đường giao thông giữa ta với Pháp bị vỡ do một anh thủy thủ Pháp bị bắt khai ra... Việc Bác được tha là nhờ luật sư Loseby... Việc Bác bị bắt rồi được tha, Liên Xô không hiểu, họ nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại sao lãnh tụ cộng sản mà được đế quốc tha yên ổn, cho nên trong vòng bốn năm họ không giao việc gì. Bác là nhân viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ, nhưng Người rất chán.
Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (1935), Bác không có cuơng vị gì cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó bầu Bác là Ủy viên dự khuyết và còn ghi rõ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác không có tên trong Đoàn đại biẻu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong. Sau khi xin việc mãi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị hạ vì những chuyện lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosoka Sando cũng bị làm rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả...".
Có một điều mà gần như dư luận, ở trong cũng như ở ngoài Đảng, ở trong cũng như ở ngoài nước, ai ai cũng đều công nhận là HCM một viên chức phục vụ một cách đắc lực, đã áp dụng đúng đường lối của ĐTQT trong từng chi tiết một vào trường hợp của ĐCSĐD, mặc dầu trong nhiều trường hợp đường lối này có phần trái ngược với quan niệm của cá nhân mình... Về chiến lược hành động, ai ai cũng đều rõ ý đồ quen thuộc của HCM là đánh lừa dư luận bằng cách lợi dụng tối đa nhiệt tình yêu nước của mọi thành phần trong dân tộc, tạo ra những tổ chức quần chúng bù nhìn, tạm thời dấu kín các mục tiêu cách mạng vô sản của Đảng, đi đến một hình thức cộng tác bên ngoài với mọi phong trào yêu nước nhưng thực chất là thâm nhập vào nội bộ vừa lợi dụng, vừa lũng đoạn các tổ chức đối lập với Đảng. Với phương pháp hành động này, HCM chắc chắn là đã ở về phía đa số trong Đại hội năm 1929 của TNCMHVN ở Hương Cảng, muốn tạm thời đình hoãn việc thành lập ĐCSĐD. Nhưng phương pháp này của HCM đã không được giới lãnh đạo ĐTQT thấu hiểu mà còn bị xem là một khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, cải lương và hữu khuynh... Các đoạn văn sau đây trích từ hồi ký của Hoàng Tùng (5) cho phép soi sáng một phần nào các nghi vấn nêu ra trên đây về đường lối hoạt động, về vị trí của HCM đối với Đảng Cộng sản Pháp cũng như đối với ĐTQT, trong khoảng thời gian từ Đại hội VI (1927) của ĐTQT cho đến lúc ĐCSĐD được thành lập năm 1930. Bàn về "nỗi đau thứ hai", trong số "10 nỗi đau lớn" của HCM, Hoàng Tùng viết:
"Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách phòng Đông Nam Á của Quốc Tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liện Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về...
Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng dồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác cho rằng lúc đầu hãy tập hợp thanh niên và giương cao ngọn cờ yêu nước đã. Có tổ chức Đảng cộng sản chỉ là tổ chức bí mật chứ chưa đưa Đảng cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ nói đánh Tây cho quần chúng dễ hiểu.
Theo tôi tại sao lại lập Đảng cộng sản? Chuyện này có lẽ bắt nguồn từ Đảng cộng sản Pháp. Đảng cộng sản Pháp sợ liên lụy không giám bênh vực phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa nữa... Đảng cộng sản Pháp cho rằng Bác không lập ra Đảng cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng cộng sản Pháp khá nhiều trên báo chí và ở Đại hội quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Đảng Cộng sản Pháp cử ba người trong phái đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1927), trong đó có Nguyễn Văn Tạo (Năm 1923, Nguyễn Văn Tạo là học sinh bãi khóa ở Sài Gòn được sang Pháp học, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm việc ở Ban thuộc địa). Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc kỳ Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương cộng sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
Việc đó chính là phê phán Nguyễn Ái Quốc hay gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc đã rồi, vì ba tổ chức tìm cách chống đối nhau, gây chia rẽ. Sau Lê Văn Lương nói với tôi là khi Bác về, Trịnh Đình Cửu có hỏi Bác giấy ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế Cộng sản cử về, Bác trả lời: Đồng chí tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong nguời giấy ủy nhiện của Quốc tế Cộng sản, thì liệu tôi có về được đến đây không?...".
Hiển nhiên, trong các điều kiện kể trên, khi cả bốn phía (HCM và ba Đảng cộng sản ở Đông Dương) đều tỏ ý muốn phục vụ ĐTQT, thì phải chấp nhận sự kiện đã rồi và thống nhất các tổ chức. Đó là con đường sửa sai hợp lý nhất cho HCM. Điều còn lại là phải tiếp tục chứng tỏ sự trung thành tuyệt đối của mình đối với ĐTQT để tránh các biện pháp kỷ luật, khỏi bị thanh trừng như thường đã xẩy ra ở Liên Xô trong các thập niên 1920 và 1930...
Tôn Thất Long
(2006)
Tài liệu tham khảo:
1. 50 ans d'activités du Parti communiste du Vietnam. Edition en langues étrangères, Hanoi, 1980.
2. Pierre-Richard Feray: Le Viet-Nam, Collection Que sais-je?, Presse universitaire de France, 1984.
3. Nguyễn Thế Anh: L'itinéraire politique de Hồ Chí Minh, Đường Mới, Paris, 1990.
4. Tôn Thất Long: Le PCV, Congrès et évolution, Đường Mới, Paris, 1992.
5. Hoàng Tùng (Hồi kí): Hồ Chí Minh, Trung Quốc và Liên Xô.
www.geocities.ws/xoathantuong
http://www.geocities.ws/xoathantuong/ttl_d3qthcm.htm
Hiệu kỳ Trăng Câu Đệ Tứ Đảng.
Trăng Câu Đệ Tứ Đảng (tiếng Pháp: La Partie Trotskyste du Vietnam, PTV) là tên gọi một phong trào cộng sản theo đường lối Trotskyist (khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky thành lập, để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin). Lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ Việt Nam là Tạ Thu Thâu. Trong lịch sử của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, Việt Nam thuộc số ít các nước là nơi mà chủ nghĩa Trotsky tạo được phong trào lớn mạnh. Các lãnh đạo và hầu hết thành viên của chủ nghĩa Trotsky tại Việt Nam đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam tiêu diệt từ tháng 10 năm 1945.[1][2]
Mục lục
1 Lịch sử
1.1 Thành lập
1.2 Hoạt động 1.3 Bị tiêu diệt
2 Chú thích
3 Tham khảo
Lịch sử
Thành lập
Năm 1929, Tạ Thu Thâu tham gia khuynh hướng chính trị Trotskyist tại Pháp. Năm 1930, Tạ Thu Thâu và các đồng chí bị trục xuất về nước vì tham gia vào cuộc biểu tình trước điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp) để phản đối thực dân Pháp xử tử các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng tham gia khởi nghĩa Yên Bái. Báo Phụ nữ tân văn 3 Tháng Bảy 1930 có bình luận sự kiện này: "Ngày 22 Mai, hồi ba giờ chiều, độ một trăm người thanh niên Annam biểu tình ở trước điện Elyése, lúc ấy chính là lúc quan Giám quấc đương nghị sự về cái án xử tử 39 nhà cách mạng Bắc kỳ...Truyền đơn của hai đảng cộng sản Annam; một là đảng Trotsky, là đảng cực tã; hai là đảng sô viết, đều là tỏ cái tình hình Đông dương...Mấy tháng nay các đảng viên cộng sản Annam thường có truyền đơn nói về việc Đông Dương; nhóm nhiều cuộc biểu tình để phản kháng các án xử tử đã nói trên; và sau hết có tổ chức ra một cái Ủy hội phấn đấu. Ủy hội trước ngày biểu tình ở điện Elysée có mời đảng viên của phái Trotsky. Phái nầy có đến, và có hứa sẻ hiệp nhau lại đi phát biểu. Annam về đảng Trotsky vận động hăng hái lắm. Bọn nầy học thức rộng, am hiểu tiếng Pháp và tiếng Nam, rất sành về việc tổ chức. Thế lực của họ khá lớn, cho nên hai tờ báo cộng sản cực tả ở đây là báo Vérité và Lutte des classes, dễ cho họ có một địa vị lớn trong sự ngôn luận. Mấy hôm nay, hai tờ báo ấy đăng nhiều bài của mấy đảng viên Annam, nói về tình hình Đông Dương, kết luận rằng cuộc cách mạng bên ấy thiếu một bộ ý tưởng (système idéologique). Trước ngày biểu tình, họ có dán quảng cáo, dán rồi là thấy bị lột mất, và người đi dán bị dẫn về bót giam vài giờ. Họ cũng có phát truyền đơn để gọi lao động thế giới. Và lại có một tờ tuyên ngôn đối với Chính phủ, và đối với bần dân thế giới, khi phát giấy cũng có xảy ra vài việc như là việc đánh nhau với một người ở hiệu cơm Pékin, rất kịch liệt. Ngoài hai đảng, còn có Đông Dương học sanh tổng hội rất là hoạt động. Hội viên vài trăm người, chắc không phải đều là cộng sản hết: có người về đảng quấc dân; có người khuynh hướng về xã hội; song bao nhiêu truyền đơn đã phát ra mấy tháng nay đều có một cái đặc sắc là khuynh hướng về bần dân."[3]
Năm 1931, Tạ Thu Thâu thành lập nhóm Trotskyist tại miền Nam, ảnh hưởng của nhóm Trotskyist nhanh chóng lan rộng. Các nhóm Trotskyist có Tả đối lập, Tả cách mạng Tháng Mười, Đông Dương cộng sản, chống lại đường lối Quốc tế Đệ Tam. Cũng trong năm này phái Stalinist (Đệ Tam) của Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai bắt tay với nhóm Trotskyist lấy tờ La Lutte (Tranh đấu) làm cơ quan đấu tranh (với tòa soạn đặt ở đường Lý tự Trọng hiện nay). Trong thời kỳ hợp tác từ năm 1934-1937 nhóm La Lutte tham gia ứng cử vào Hội đồng Thành phố và Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Cả Đệ Tam và Đệ Tứ đều có người đắc cử (Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch). Trước cuộc bầu cử Hội đồng thành phố tháng 4 và 5 năm 1933, Nguyễn An Ninh tập hợp Nguyễn Văn Tạo (cộng sản Stalinist), Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương (cộng sản đối lập Trotskyist), Trần Văn Thạch và Lê Văn Thử (cảm tình Trotskyist), Trịnh Hưng Ngẫu (một người vô chính phủ) lập "Sổ lao động" và ra tờ La Lutte[4]
Hoạt động Năm 1932, ba nhóm hợp nhất trong tổ chức Tạ Thu Thâu, nhưng đến năm 1933 tách thành nhóm Tranh đấu và nhóm Tháng Mười. Nhóm Tranh đấu hợp tác với Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Hà Nội, một nhóm gọi là nhóm "Tháng Mười" (phân biệt với nhóm Tranh đấu), còn gọi là Liên đoàn Cộng sản quốc tế hay Nhóm Leninist Bolșevic do Hồ Hữu Tường lãnh đạo, có các cơ sở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, ra báo Tháng Mười, từ 1931 đến 1936.
Năm 1937, Stalin tuyên bố phải loại trừ những phần tử Trotskyist. Năm 1938, những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (Đệ Tam) rút khỏi nhóm La Lutte. Những người Cộng sản Đệ Tứ tiếp tục xuất bản tờ La Lutte và thêm mục tiếng Việt. Sau khi việc hợp tác giữa Đệ Tứ và Đệ Tam sụp đổ hai bên công kích lẫn nhau. Đệ Tứ chỉ trích những quan điểm của Đệ Tam như: "thực hiện chủ nghĩa xã hội trong một nước", "chế độ độc đảng", " chính sách manh động trong cuộc nổi dậy Xô viết Nghệ Tĩnh", "sùng bái Stalin". Đệ Tam nói rằng Trotskyist không còn là một khuynh hướng chính trị mà trở thành "một đàn chó săn cho phát xít Nhật và phát xít quốc tế". Tháng 8 năm 1938, trên tờ Tin tức của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (dập khuôn theo Mặt trận bình dân bên Pháp, Mặt trận gồm ba đảng SFIO -Xã hội Quốc tế Lao động; Đảng Tin tức (cộng sản, Đệ Tam Quốc tế); và đảng Ngày nay (cấp tiến xã hội)) kêu gọi:"củng cố hành động chiến đấu để đánh đổ quân phát sít và tay sai của nó là quân tờ rốt kít phá hoại" và báo trào phúng Vịt đực bình luận "Mặt trận dân chủ chống Mặt trận cối xay" vì họ thời điểm đó không tìm thấy kẻ thù.
Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Tạ Thu Thâu thảo một bản kiến nghị đại khái định gửi cho Mặt trận bình dân một bức tối hậu thư hạn "trong vòng ba tháng" phải ban hành cho dân chúng Đông Dương những quyền tự do dân chủ, bằng không. La Lutte sẽ kêu gọi quần chúng công kích tới cùng. Còn nhóm Đệ Tam thì cho: Mặt trận bình dân Pháp vừa mới thắng lợi trong vụ tuyển cử và do đó mới có chính phủ của một vài đảng trong mặt trận ấy lên cầm quyền nội các. Còn bộ máy cai trị nhà nước vẫn nắm trong tay giai cấp tư bản và thế lực phản động vẫn còn rất mạnh. Vậy các chính phủ Blum cũng như Sôtăng không thế nhồi lại một cục với Mặt trận bình dân được. Và dầu có một Chính phủ Mặt trận bình dân thành lập đúng theo hình ảnh của Mặt trận bình dân như những điều kiện đã định trong nghị quyết Quốc tế Cộng sản đi nữa, thì chính phủ ấy cũng chưa phải là chính phủ vô sản chuyên chính hay là chính phủ công nông chuyên chính, mà nó chỉ là một chính phủ chống phát xít, chống chiến tranh ủng hộ tự do hòa bình, đòi cải thiện sinh hoạt cho dân chúng[5], và cho nhóm Đệ Tứ là "phá hoại", và tẩy chay.
Báo trào phúng Vịt đực, có nhắc một chi tiết "ông Tiến, Tiếp, Diên (Khuất Duy Tiến, Nguyễn Đình Tiếp, Võ Đức Diên, ba đại diện Mặt trận Dân chủ của phái đệ Tam Cộng sản, xã hội cấp tiến, xã hội) đã trúng cử nghị viên thương mại rồi, anh em công nông công kiêng ba ông này đi chơi tễu ở các phố, đến vườn hoa Cửa Nam (Hà Nội) gặp "tên" tơ -rốt - kít Huỳnh Văn Phương thì anh chị em đều xông cả lại chất vấn và xỉ vả", cho nhóm đệ Tứ "rủ những "người" trước kia vào phe quốc gia xã hội hay bảo hoàng". Báo Vịt đực dẫn lại Nhật báo, cơ quan Ốtkít ở Nam Kỳ có đưa tin về cuộc biểu tình ở Hà Nội: "phái Talin làm cuộc biểu tình ở Hà Nội. Ngay lúc ấy phái Ốtkít bèn kéo nhau làm cuộc biểu tình chống lại. Trong cuộc sung đột ấy có 49 người bị bắt, trong số này có 9 đảng viên Ốtkít. Sau khi bị bắt về bóp tất cả đều được thả ra". Vào thời điểm đó tranh cử ở Bắc Kỳ, một bên là nhóm cộng sản đệ Tam quốc tế, nhóm xã hội (đảng viên Đảng Xã hội Pháp ở Đông Dương), nhóm xã hội cấp tiến của tư sản, tiểu tư sản (đứng về bình dân, về sau nhiều người là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng) chọi bên bảo hoàng ("quốc gia") của giới phong kiến, ngoài ra là nhóm quốc xã, Trốtxkít. Ở Nam Kỳ nhóm đệ Tam và đệ Tứ một thời liên kết chọi nhóm lập hiến của tư sản, về sau nhóm đệ Tam lại liên kết với nhóm lập hiến chọi nhóm đệ Tứ.
Những lãnh đạo Đệ Tam cũng cho những người Trotskyist đã chỉ điểm cho Pháp bắt người của họ. Nguyễn Văn Tạo tách ra lập tổ chức riêng năm 1939, sau khi Đệ Tứ giành được thắng lợi trong bầu cử ở Nam Kỳ, còn Đệ Tam thì không. Nhóm Đệ Tứ giành được 3 ghế trong cuộc bầu cử ngày 30 tháng 4, và ngày 18 tháng 5 đã gửi thư cho Trotsky, thông báo chiến thắng lớn trước liên minh tất cả các nhóm tư sản và Stalinist (Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Sau bầu cử, Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng cộng sản đã phê phán Nguyễn Văn Tạo liên kết với Đảng Lập hiến, vì thế thất bại.
Tờ Ngày nay, ông Trần Văn Lai tường thuật cuộc bầu cử: "Từ ngày có nghị viên quản hạt đến nay, chưa bao giờ có bóng một người của giai cấp cần lao ra tranh cử. Cái nghị viện tối cáo ấy dành riêng cho bọn nhà giàu và nhất là cho bọn người trong đảng lập hiến, một chánh đảng có thế lực nhất ở Nam kỳ và bây giờ đã tới ngày đổ nát...Quần chúng bị đảng Lập hiến phỉnh lừa mấy lần đã chán nản... nhờ thế mà Thâu Thạch Tạo, Mai được đưa vào Hội đồng thành phố. Nhóm Tranh đấu rồi cũng chia rẽ làm hai: thêm nhóm Dân chúng. Lúc bấy giờ bọn Chiểu, Lam, Khá, Thuận,.v.v...nghĩa là bọn đại biểu nhà giàu ở viện quản hạt cùng hợp tác với nhóm Tranh đấu. Nhưng chưa thành thì bọn ấy thình lình rút tên ra để cho hai nhóm cực tả là Dân chúng và Tranh đấu bị nhốt khám. Thế là từ đó, nhóm Tranh đấu (Đệ Tứ quốc tế) nghịch hẳn với nhóm Dân chúng (Đệ Tam quốc tế). Thấy rõ các chiến sĩ hai nhóm cực tả ấy đã từng hy sinh vào tù ra khám, nên dân chúng Nam kỳ hiện nay hết sức tín nhiệm, nhất là nhóm Dân chúng của phái Đệ Tam được dân cầy lục tỉnh hoan nghênh, vì nhóm ấy có phái người đi cổ động. Còn thanh niên trí thức ở Nam kỳ, nhất là Saigon, Chợ lớn, Gia định thì chỉ tín nhiệm nhóm Đệ Tứ thôi... Đáng chú ý nhất là các nhà ứng cử ở quận nhì. Trong số ấy có tất cả 11 nhà ứng cử ra tranh... găng nhau hơn hết là hai sổ trạng sư Vương Quang Nhường và Nguyễn Đăng Liêng cực hữu, và sổ Tranh đấu Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm cực tả...Nhà nước lại làm khó dễ cho sổ cực tả...Hai ông (Thạch, Thâu) cùng các tổ chức thợ thuyền khác đánh điện tín ra ông toàn quyền ở Hà Nội và qua ông Tổng trưởng Bộ thuộc địa phản đối sự vô lý... Cuộc tuyển cử kỳ nhất, cử tri không đi bầu đến hơn phân nửa...cho nên mặc dầu kỳ nhì ông Ng.phan long (mà từ lâu người ta hết tín nhiệm) ra tranh và đồng thời nhóm Dân chúng cũng đưa Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo,...cốt để chia bớt số thăm của sổ Tranh đấu, đặng cho sổ Vương Quang Nhường nghĩa là cho bọn của các nhà tư bản sai ra đắc cử. Nhưng...cử tri ở quận nhì đều bỏ cho sổ Tranh đấu hết...Bầu cho sổ Tranh đấu, cử tri quận nhì chỉ cốt muốn đưa vào nghị viện những người cách mệnh...,muốn đuổi ra ngoài những ông nghị câm mà ông thống đốc Pagès đã bảo..."các ông chỉ thay mặt cho bọn nhà giàu thôi"...,muốn cho cái chính sách cai trị hẹp hòi ở đây mở rộng thêm,...dân xứ này đặng sung sướng...và thực lòng hợp tác với chính phủ, để bảo vệ đất nước. Thế thôi, chứ người cử tri không hề nghĩ đến và phân biệt chủ nghĩa Cộng sản đệ Tứ quốc tế hay Đệ Tam quốc tế gì cả[6].
Năm 1939 hai nhóm Tranh đấu và Tháng Mười hợp nhất danh nghĩa trong Đảng Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1939, tờ La Lutte bị cấm hoạt động. Tạ Thu Thâu bị xử năm năm tù, muời năm quản thúc. Tháng 10 năm 1940, Tạ Thu Thâu bị đày ra Côn Đảo cùng với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường…
Năm 1944, sau khi được trả tự do những người Cộng sản Đệ Tứ tiếp tục hoạt động. Một hội nghị tổ chức Tháng Tám năm 1944, và Tranh đấu và Liên đoàn cộng sản quốc tế (ICL) tái tổ chức tại miền Bắc bỏ qua bất đồng (nhiều đảng viên ICL đồng ý hợp nhất với Đảng cộng sản Đông Dương), thành lập Trăng câu đệ Tứ đảng. Tại miền Bắc, năm 1941, Lương Đức Thiệp lập Nhóm Hàn Thuyên năm 1941, và 1945 lập Đảng Xã hội Thợ thuyền Việt Bắc, ra tờ Chiến đấu[7].
Tháng Tám 1945 nhóm Tranh đấu ủng hộ Mặt trận Quốc gia Thống nhất (một liên minh nhiều tổ chức thân Nhật, nhưng có ý giành độc lập khi Nhật đầu hàng Đồng minh, sau sáp nhập Việt Minh). Trong khi ICL chủ trương theo Việt Minh, (như Trương Tửu, Lê Văn Siêu...). Dẫu sao các nhóm đệ Tứ không thu hút nhiều người ủng hộ (trừ một thời gian ở Sài Gòn -Chợ Lớn), chỉ là các nhóm nhỏ, và sau Cách mạng một số tham gia các cấp chính quyền liên hiệp ở vài địa phương một thời gian ngắn...
Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist (nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế) là kẻ thù của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng cộng sản Đông Dương muốn thực hiện giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước.[2]
Bị tiêu diệt
Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu "Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong ủy ban Hành chánh Nam bộ". Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.[2]
Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp.[2] Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có hệ thống khoảng 20 lãnh đạo phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một lãnh đạo có uy tín của phe Trotskyist. Những nhân vật chính yếu của Cộng sản Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch bị Việt Minh giết. Hoạt động của Cộng sản Đệ Tứ tại Việt Nam xem như chấm dứt năm 1946. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia khác ở Đồng bằng sông Cửu Long.[2]
Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp.[8]
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_T%E1%BB%A9_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
=======================================
Hồ Hữu Tường, Người Chết U Uẩn
Đỗ Thái Nhiên
Thời gian chẳng bao giờ chờ đợi bất kỳ người nào, thời gian chỉ biết miệt mài vun vút lao tới; Thế nên, một trong những tình cảm căn bản của con người là lòng nuối tiếc thời gian đã qua đi. Lòng nuối tiếc này khi gặp các điểm mốc của thời gian đã biến thành nỗi xao xuyến, bồi hồi. Thực vậy, trong không khí giao tiếp giữa đêm đen của năm cũ và sáng hồng của năm mới, có lẽ không ai trong chúng ta không bùi ngùi nghĩ đến quá khứ và không băn khoăn nhìn về tương lai. Bằng tất cả bùi ngùi và băn khoăn vừa kể, bài viết này đã chọn cái chết của Hồ Hữu Tường như một mảng quá khứ và chọn những toan tính của đảng Cộng Sản Việt Nam chung quanh cái chết này như những tia sáng chiếu rọi vào thực chất điều được gọi là "đổi mới" của Cộng Sản Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Lúc bấy giờ là mùa thu năm 1978, tôi được di chuyển từ phòng biệt giam qua phòng giam tập thể thuộc trại giam số 4 Phan Đăng Lưu Trại giam này, công an Cộng sản dành riêng để giam tù chính trị trong thời kỳ thẩm vấn. Tù chính trị đối với Cộng sản bao gồm:
- Những người có tư tưởng chống cộng trước hoặc sau năm 1975,
- Những người trước kia đã làm công tác an ninh tình báo dưới các chế độ của VNCH, và
- Những người tham dự vào các tổ chức chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975.
Khoảng 4 giờ chiều ngày hôm ấy, sau nhiều tháng nằm xà lim, tôi bước vào phòng giam tập thể bằng cảm giác ấm áp của một người được trở về với xã hội loài người, dầu là xã hội tù. Tôi lại càng cảm thấy ấm áp hơn khi chợt nhận ra cùng phòng với tôi có Hồ Hữu Tường. Do cách biệt về tuổi tác và khác biệt về nghề nghiệp, tôi không có dịp quen biết với Hồ Hữu Tường trước khi vào tù. Tuy nhiên, nhà Hồ Hữu Tường và nhà tôi ở cùng xóm. Vì vậy hình ảnh của Hồ Hữu Tường lập tức gợi cho tôi nhớ khu xóm cũ cùng với những bà con láng giềng của tôi. Gợi nhớ này chính là nguồn gốc của cảm giác ấm áp. Có lẽ Hồ Hữu Tường cũng nhận ra tôi là hàng xóm láng giềng ngày trước nên ngay phút đầu gặp tôi, Hồ Hữu Tường vừa giữ thế kẻ cả, vừa tỏ ra thân mến. Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm trước cung cách kẻ cả của Hồ Hữu Tường. Ngược lại, kiến thức của Hồ Hữu Tường cộng với tuổi đời 70 của ông ta lúc bấy giờ, cộng với "chất Việt Nam" mà Hồ Hữu Tường đã thể hiện trong mỗi suy tư và hành động đã dễ dàng chinh phục tôi đến độ tôi không còn nhận biết Hồ Hữu Tường đã trở thành người "bạn tù" khả kính và thân thiết của tôi tự lúc nào. Tôi gọi Hồ Hữu Tường là bạn bởi vì có lần, sau một lúc hàn huyên, Hồ Hữu Tường đã nói với tôi:
"Tao cho phép mày xem tao như bạn, tình bạn giữa tao và mày là tình bạn vong niên, tình bạn không phân biệt tuổi tác: tuổi tao gấp đôi tuổi mày". Vả lại, không riêng gì đối với cá nhân tôi, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng giữ được mối liên hệ vui vẻ đối với mọi người. Đặc biệt đối với những người tù trẻ tuổi, mỗi tối sau giờ cơm, Hồ Hữu Tường thường giúp họ giải khuây bằng cách kể cho họ nghe chuyện cổ tích, chuyện Tàu, chuyện ma Bình Thuận. Liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và những người tù trẻ này thân mật và vui vẻ đến độ: Có một hôm, cả phòng tù đang nghỉ trưa, một anh tù người Việt gốc Hoa nằm ở đầu phòng bỗng ngồi nhỏm dậy nói lớn tiếng cho Hồ Hữu Tường nằm ở cuối phòng có thể nghe được:
-- Bác Tường ơi! Thời Tây, thời Ngô Đình Diệm và cả thời này nữa, thời nào Bác cũng ở tù Bác có hiểu tại sao Bác cứ ở tù hoài hoài vậy không?
Hồ Hữu Tường nhìn Lý Hùng (tên chú tù trẻ) vừa cười vừa hỏi dò chừng:
-- Mày trả lời giùm tao đi, tại sao?
Lý Hùng nhanh nhẩu trả lời:
-- Dễ quá mà! Tên Bác là "Hữu Tường" nên Bác phải "hưởng tù" dài dài thôi!
Câu nói của Lý Hùng làm cả phòng cười rộ lên. Riêng Hồ Hữu Tường không cười, mắt nhìn xa xăm trông thật buồn, ông ta nói nhỏ giọng:
-- Có thể thằng này nói đúng!
Sau một vài tiểu tiết để bạn đọc thấy rõ hơn hình ảnh của Hồ Hữu Tường trong tù, đến đây bài viết xin quay trở về câu chuyện chính: Cộng Sản vốn xem Duy Vật biện chứng như chiếc đũa vạn năng. Vận dụng chiếc đũa vạn năng này vào khung cảnh nhà tù, Cộng sản chỉ cho tù ăn vừa đủ để không bị chết vì đói. Do đó bất kỳ người nào bước vào nhà tù Cộng sản đều thấy về mặt bao tử, tù được phân làm hai loại:
- Tù được thăm nuôi là loại tù đã chấm dứt giai đoạn thẩm vấn, có thân nhân và được công an cho phép gia đình tiếp tế lương thực hàng tháng
- Tù không được thăm nuôi là loại tù chưa kết thúc thủ tục thẩm vấn. Thủ tục này có thể kéo dài từ ba tháng đến ba năm hay hơn thế nữa. Có nhiều trường hợp một người tù đang được thăm nuôi lại có lệnh cấm thăm nuôi. Điều này có nghĩa là đương sự đã vi phạm kỷ luật nhà tù, hoặc đã bị nghi ngờ khai sai sự thật trong giai đoạn thẩm vấn.
Thông thường nếu không là bạn thân, tù nhân thường ăn cơm chung nhóm với nhau theo sự phân biệt có hay không có thăm nuôi. Tù không được thăm nuôi phải ăn cơm một mình, hoặc chỉ ăn cơm chung với những người cùng không được thăm nuôi. Mặt khác tù không thăm nuôi phải không hề nói hoặc làm bất kỳ điều gì nhằm xin hưởng lương thực của người khác. Đó là "luật tự trọng" trong những phòng giam tập thể. Vào lúc chuyển từ xà lim qua nhà giam tập thể, tôi là tù không được thăm nuôi. Vừa muốn giữ lòng tự trọng, vừa muốn làm cho những lần ăn cơm gạo mốc với nước muối bớt phần cô quạnh, tôi tìm cách làm quen và ăn cơm chung với hai người thuộc loại "con bà phước" (không được thăm nuôi): một người tên Phạm Văn Luyện, người kia tên Phạm Anh Phong là một cựu binh nhì nhảy dù, can tội rải truyền đơn chống cộng, tuổi dưới 25, điệu bộ ngổ ngáo. Tôi tiến đến chiếu nằm của Phong, ngồi xuống, nheo mắt nhìn Phong cười, vào đề rất tự nhiên:
-- Ê bồ! Tôi vừa mới ở xà lim qua, đang rất mệt mỏi, bồ cho tôi được ăn cơm chung với bồ được không?
Phong đưa hai tay nắm lấy vai tôi, nghiêng đầu, nhìn thẳng vào mặt tôi cười thành tiếng:
-- Ông thầy này ngộ ghê! Thầy ăn cơm chung với tôi hay ăn một mình thì thầy và tôi đều ăn cơm với nước muối, cần gì phải xin phép! Mà này, tôi đang ăn chung với một thằng Việt cộng, thầy có chịu ăn chung với nó không?
-- Thằng Việt cộng đó tên gì? Phạm tội gì? Nó đã ở tù bao lâu rồi?
Phong trả lời thật rõ ràng:
-- Tên anh ta là Phạm Văn Luyện, phạm tội tổ chức đưa người vượt biên để kiếm tiền Luyện mới vào phòng này khoảng hai tuần, anh ta tự nhận là cán bộ tình báo của Hà Nội, kể chuyện tình báo rất hấp dẫn, tôi khoái nghe chuyện nên tôi ăn cơm chung với anh.
Từ đó Luyện, Phong và tôi ăn cơm chung.
Luyện khoảng 42 tuổi, người ốm, dong dỏng cao, da đen sạm, tóc quăn. Nghe Luyện nói chuyện, từ giọng nói đến cách dùng chữ, người ta nhận ra ngay là Luyện đã hấp thụ trọn vẹn chế độ giáo dục của Cộng sản Miền Bắc. Phòng giam của tôi gồm toàn những người chống cộng gay gắt, thế nhưng tôi không hề nhận ra bất kỳ người nào có vẻ có ác cảm với Luyện. Phải chăng vì Luyện có dáng dấp phong trần, có lối nói dễ hiểu, có nhiều chuyện hấp dẫn?
Phải chăng vì Luyện không giống những tên Việt cộng mà người ta thường gặp: Luyện không hề có vẻ thủ thế mỗi khi nói chuyện với người khác, nhất là nói về những nhân vật cao cấp của Cộng sản Hà Nội? Phải chăng vì Luyện không bao giờ có ý dòm ngó, không làm điềm chỉ viên, và nhất là vì Luyện không bao giờ bỏ qua cơ hội có thể giúp đỡ người khác, dĩ nhiên toàn là những người chống cộng? Thiện cảm mà phòng tù của tôi dành cho Luyện có nguyên nhân là tổng số của những cái "phải chăng" kể trên.
Đối diện và cách nhà giam của tôi khoảng ba thước là một dãy xà lịm. Mọi liên lạc (nói chuyện hoặc tiếp tế thức ăn) giữa xà lim và nhà giam tập thể đều bị nghiêm nhặt cấm chỉ. Người tù nào vi phạm luật cấm này sẽ bị lính canh hoặc còng tay vào song cửa của phòng giam (trong trường hợp này, người tù đương sự bị buộc phải đứng chứ không thể ngồi, kể cả giờ ngủ ban đêm), hoặc bị đánh đòn ngay trước cửa phòng giam. Chiều hôm ấy, khoảng 6 giờ, thủ tục điểm danh đã xong và cơm chiều đã qua, đang khi mọi người chuyện trò to nhỏ với nhau, Luyện lén ném vào cửa gió (bằng hai bàn tay) của xà lim đối diện một ít thuốc lá và diêm quẹt. Ngay lúc đó, Luyện bị lính canh bắt gặp quả tang. Tên lính canh quát tháo ầm ĩ:
-- Mày mới ném thuốc lá vào xà lim, tao bắt gặp, tao sẽ cho mày chết! Mày tên gì?
Luyện bình thản trả lời:
-- Tôi tên là Phạm Văn Luyện.
Người lính canh chạy lên phòng giám thị một lúc rồi quay trở lại. Tôi không thấy người lính canh cầm theo chìa khóa hay còng tay. Nét mặt của người lính canh cũng không còn hung hăng như cách đó vài phút. Anh ta gọi Luyện đến gần cửa song sắt, nói giọng ôn tồn:
-- Đây là lần thứ nhất anh vi phạm kỷ luật, vì vậy phòng quản giáo tha cho anh. Nếu tái phạm anh sẽ bị nghiêm trị.
Nói xong, người lính canh bỏ đị. Cả phòng nhìn Luyện kinh ngạc. Theo tập quán trong tù: mỗi lần phạm kỷ luật (nhất là liên lạc với tù bị giam trong xà lim) là mỗi lần bị phạt, công an không cần biết lần đầu hay lần cuối.
Trước đó nhiều ngày, Luyện thường nói cho Phong biết trước ngày giờ mà Luyện sẽ được công an gọi đi thẩm vấn. Sự thể này là điều rất khác lạ, bởi vì, công an Cộng sản không bao giờ báo cho tù nhân biết trước ngày giờ của các cuộc thẩm vấn.
Bài viết ghi lại hai chi tiết nhỏ kể trên với chủ ý ghi nhận Luyện như một "người tù đặc biệt". "Người tù đặc biệt" này nói chuyện dễ dàng với tất cả các bạn tù, nhưng nhất thiết không nhờ vả bạn tù nào, đặc biệt là về mặt lương thực. Điều đáng chú ý là Luyện giao thiệp với mọi người trong phòng giam, ngoại trừ Hồ Hữu Tường.
Mãi sau hai tháng có mặt bên cạnh Hồ Hữu Tường, một tối cơm nước xong, lần đầu tiên tôi thấy Luyện bước đến chiếu nằm của Hồ Hữu Tường. Hai người to nhỏ với nhau khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Ngồi ở một góc phòng, quan sát đôi mắt, hoặc chú ý, hoặc trầm tư của Hồ Hữu Tường, tôi biết Hồ Hữu Tường rất quan tâm đến những điều Luyện nói. Câu chuyện giữa hai người chỉ chấm dứt sau tiếng kẻng báo ngủ của trại tù. Câu chuyện giữa Phạm Văn Luyện và Hồ Hữu Tường có lẽ đã làm cho vị học giả này suy nghĩ lung lắm. Thế nên sáng hôm sau, Hồ Hữu Tường nói chuyện với tôi ngay:
-- Mày có biết tối qua thằng Luyện nói chuyện gì với tao không?
-- Chuyện gì vậy Bác? Tôi làm sao đoán được!
-- Câu chuyện ngộ lắm! Thằng Luyện cho tao biết nó là tù giả. Hồ sơ phạm tội tổ chức vượt biên của nó chỉ là hồ sơ giả. Nó bảo nó là người của Lê Đức Thọ. Nó được gài vào nằm chung phòng giam với tao trong hai tháng qua chỉ để quan sát xem “Bác Tường ngày nay có còn là Bác Tường của các năm 1945 nữa hay không?” Ngay các lời nói đầu của nó, tao đã cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Do đó, thay vì đi thẳng vào câu chuyện do Luyện mở đề, tao đã lái câu chuyện đi hướng khác để thăm dò về cá nhân nó. Nó bảo với tao: "Đầu thập niên 1960, Võ Nguyên Giáp hợp tác với Ung Văn Khiêm âm mưu lật đổ Hồ Chí Minh, công việc bại lộ, Võ Nguyên Giáp bị thất sủng. Buồn vì "tình đời đen bạc", hằng ngày Võ Nguyên Giáp đi học nhạc cổ điển Tây Phương "để giải sầu". Thằng Luyện lúc bấy giờ được tình báo Hà Nội bố trí làm người hầu cận cho Giáp, nên hằng ngày phải ôm nhạc cụ đi theo Giáp. Nghe Luyện nói tới đây, tao làm bộ hỏi nó vài vấn đề căn bản về nhạc cổ điển Tây Phương. Những câu trả lời của thằng Luyện quả tình làm tao vô cùng kinh ngạc: nó thực sự có những hiểu biết căn bản về nhạc cổ điển. Sau câu chuyện nhạc cổ điển, thằng Luyện còn cho tao biết: do công vụ, nó đã rất nhiều lần đóng vai hầu cận Tôn Đức Thắng và Lê Du ẩn. Tao vội vồ lấy cơ hội này để hỏi dò Luyện vài câu về cá tính và về sức khỏe của Thắng và Duẫn. Lần thứ hai Luyện làm tao ngạc nhiên: Luyện nói về cá tính và bệnh tật riêng của hai người này đúng như tao đã biết. Thời Pháp, tao ở tù chung nhiều năm với Lê Duẫn. Đối với Tôn Đức Thắng, gia đình vợ tao rất thân thiết với gia đình vợ Thắng. Tối hôm qua, thằng Luyện nói chuyện với tao rất nhiều, nhưng nội dung chủ yếu là bấy nhiêu. Mày có ý kiến gì không?
Tôi nhìn thẳng vào mắt của Hồ Hữu Tường, đôi mắt còn giữ nguyên vẻ mệt mỏi của một đêm thao thức. Tôi trả lời Hồ Hữu Tường, giọng cố làm ra vui vẻ để khỏa lấp những ưu tư trên trán của Hồ Hữu Tường:
-- Câu chuyện có vẻ ly kỳ và hấp dẫn, phải không Bác? Tôi tin là Bác đã ghi nhận những điểm cần ghi nhận. Tuy nhiên xin nói thêm các chú ý của tôi về Luyện.
Thứ nhất: Luyện liên lạc với xà lim nhưng không bị phạt.
Thứ hai: Luyện biết trước ngày giờ công an thẩm vấn nó.
Thứ ba: Luyện sống trong tù rất bình thản, không giống bất kỳ tên Việt cộng tham ô nào.
Thứ tư: trắc nghiệm bất ngờ của Bác đối với Luyện về nhạc cổ điển Tây Phương, về Duẩn và về Thắng.
Thứ năm: những lúc nói chuyện với tôi, Luyện thường nhắc tới các sinh viên Sài Gòn theo cộng sản thời Mậu Thân: Nguyễn Hữu Thái, Trần Triệu Luật, Huỳnh Tấn Mẫm, Đỗ Hữu Cảnh, Trịnh Đình Ban v. v... Luyện cho rằng những người này hoặc làm việc trung thành với Mỹ, hoặc đi hàng hai. Luyện nói chính xác về tính tình của mỗi người trong nhóm sinh viên vừa kể.
Tôi bảo là "chính xác" bởi lẽ tôi cũng đã hiểu biết rành rẽ về nhóm sinh viên này vào thời kỳ tôi sinh hoạt với Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn từ 1963 đến 1970. Điều đáng chú ý là Luyện đã được đào tạo tại Miền Bắc, nhưng lại có tin tức chi tiết về sinh viên Sài Gòn trước năm 1975. Dĩ nhiên Phạm Văn Luyện sẽ còn tìm tới nói chuyện với Bác nhiều lần nữa, và câu chuyện sẽ phải có kết luận. Tôi nói với Bác các chú ý của tôi về Luyện để đề nghị Bác không nên xem Luyện như một thằng tù bất bình thường, bịa chuyện ra để giải trí.
Hồ Hữu Tường vỗ vai tôi, trở về với điệu bộ xuề xòa của các bậc lão niên Miền Nam:
-- Mày nói tao đồng ý. Tao phải thận trọng trong giao dịch với thằng Luyện Giao Dịch này sẽ rất phức tạp. Nếu quả thật Luyện là người của Lê Đức Thọ, thì Thọ muốn gì?
Ba ngày liên tiếp sau đó, mỗi ngày từ 6 giờ chiều (sau giờ cơm) đến 9 giờ tối, Luyện đều tìm đến nói chuyện với Hồ Hữu Tường. Câu chuyện được trần thuật tổng hợp như sau:
Tôi hỏi Hồ Hữu Tường:
-- Bác nghĩ gì về chương trình này?
Hồ Hữu Tường vừa nhâm nhi miếng gừng tươi trong miệng, vừa trả lời tôi:
-- Ngày nay, sau 52 năm lăn lộn trên chính trường, Cộng Sản đối với tao chỉ là sự ngu dốt cộng với tính xảo trá bất tận. Lịch sử phát triển của đảng CSVN chính là lịch sử của những cuộc "thay đào đổi kép" nhưng không đổi tuồng. Thay đổi đào kép chỉ nhằm mục đích dối gạt dư luận, là tuồng đã đội Chính Phủ Liên Hiệp do thằng Luyện trình bày là thí dụ điển hình của kỹ thuật dối gạt theo kiểu "tuồng cũ, đào kép mới". Tuồng cũ là tuồng chuyên chính vô sản. Vở tuồng này ngay từ đầu đã đi ngược lòng dân, đã xa rời thực tại. Tao không chấp nhận tuồng cũ thì làm sao tao có thể chấp nhận đóng vai đào kép mới?
Hồ Hữu Tường nói tới đây, tôi nóng nảy đặt câu hỏi:
-- Như vậy Bác đã dứt khoát từ chối mọi đề nghị của thằng Luyện chưa?
-- Chưa, tao bảo với nó: "Hãy để tao suy nghĩ vài ngày".
Vài ngày sau đó, liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và Luyện vẫn bình thường, vẫn Bác Bác Cháu Cháu. Thế rồi một buổi sáng đầu tuần, nhân viên công an thuộc Sở Công an Thành phố gọi Hồ Hữu Tường lên phòng thẩm vấn. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, Hồ Hữu Tường trở lại phòng giạm. Chờ cho nhân viên giám thị kh óa cửa phòng và đi khuất mắt, Hồ Hữu Tường tiến đến cạnh tôi, nói vừa đủ cho tôi nghe:
-- Sáng nay thằng công an chấp pháp yêu cầu tao trả lời bằng viết mười câu hỏi ghi sẵn của Sở Công An Thành Phố về hồ sơ cá nhân của tao. Trước khi trả lời mười câu hỏi vừa kể, tao yêu cầu thằng chấp pháp cho tao được nói chuyện riêng của tao. Nó đồng ý. Tao liền kể cho thằng công an này nghe toàn bộ chi tiết câu chuyện giữa thằng Luyện và tao. Tao càng nói, nét mặt của thằng công an chấp pháp càng lộ vẻ kinh ngạc và bối rối. Nói xong, tao hỏi nó nên đối xử như thế nào đối với thằng Luyện. Nó chỉ hỏi tao thêm một số chi tiết về Luyện và tuyệt nhiên không đưa ra bất kỳ đề nghị nào. Sau đó tên công an thẩm vấn bảo tao trả lại nó giấy bút và mười câu hỏi. Nó không còn quan tâm đến mười câu hỏi nữa. Nó ra về.
Quả thực câu chuyện vừa kể đã làm tôi bàng hoàng. Tôi nói cho Hồ Hữu Tường nghe về những lo lắng của tôi:
-- Thằng Luyện đã rất nhiều lần dặn Bác tuyệt đối giữ kín những gì nó nói với bác, nếu bất kỳ tên công an cộng sản nào, không thuộc nhóm Lê Đức Thọ, biết được công tác của Luyện thì tức thời nhóm Thọ sẽ một mặt phủ nhận Luyện, lúc đó Luyện từ tù giả thành tù thật, mặt khác thủ tiêu Hồ Hữu Tường để trả đũa và để nhận chìm câu chuyện. Sáng nay, Bác phản ứng như vậy nhằm mục đích gì?
Hồ Hữu Tường thản nhiên trả lời:
-- Dĩ nhiên là tao nhằm mục đích phá vỡ kế hoạch của Lê Đức Thọ, nếu quả thật thằng Luyện là ng ười của Thọ Phe Thọ trách cứ tao ư? Tao sẽ trả lời rằng, tao là tù, tao phải tôn trọng nội qui phòng tù. Im lặng về vụ Luyện tức là tao vi phạm kỷ luật trại giam. Lê Đức Thọ có tin tao thực tâm tôn trọng kỷ luật hay không, tao chẳng cần biết. Còn tánh mạng của tao ư? Bọn Hà Nội chắc hẳn không ưa gì tao, nhưng đối với chúng nó thì tao là "con gà đẻ trứng vàng". Bộ óc của tao sản sinh ra trứng vàng. Hà Nội đang vô cùng bối rối trước hiện tình quốc nội và quốc tế, ngày nào đó Hà Nội sẽ cần đến ý kiến của tao, giết con gà, Hà Nội sẽ mất trứng vàng, tao chưa thể chết đâu, mày đừng lo!
-- Tại sao bác lại tin rằng Hà Nội xem ý kiến của bác là ý kiến vàng?
-- Câu hỏi của mày phải được trả lời rất dài dòng. Tao chỉ nói với mày một cách khái quát rằng: Hiện nay Hà Nội xem tao là một trong vài người hữu hiệu nhất trong vai trò làm gạch nối giữa đám Hà Nội ngu dốt và Thế Giới Tự Do. Tao còn nhớ, những ngày còn ở tù chung với Lê Duẩn thời Pháp thuộc, có lần tao đã nói với Lê Duẩn rằng: "Trên địa bàn sinh hoạt chính trị của thế giới, anh đừng bao giờ quên rằng mình là người da vàng, và cũng đừng bao giờ quên rằng người da trắng lúc nào cũng canh cánh bên lòng mối ưu tư mà họ gọi là "họa da vàng". Á Châu ổn định là một trong các yếu tố trội yếu của thế giới ổn định. Á Châu chỉ ổn định chừng nào Á Châu có được thế chân vạc tạo bởi ba khối: Khối Trung Hoa, Khối Ấn Độ và Khối Đông Nam Á. Tôi tin là một lúc nào đó, bằng cách nào đó, Trung Hoa chỉ còn là Hoa Bắc Cộng với Hoa Trung Hoa Nam sẽ kết hợp với các nước Đông Nam Á tạo thành Liên Bang Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Hoa (hiểu theo nghĩa Hoa Bắc + Hoa Trung), Liên Bang Đông Nam Á và Ấn Độ, mỗi khối sẽ có dân số trung bình khoảng 500 triệu, thế chân vạc sẽ ổn cố về kinh tế cũng như về chính trị, quân sự". Lê Duẩn rất chú ý tới ý kiến vừa kể. Hẳn nhiên Lê Duẩn sẽ tìm cách khai thác ý kiến này theo tính toán của người Cộng sản. Phần tao, tao vẫn đi con đường trung lập chế. Nghệ thuật và kỹ thuật cao cấp của chính trị chính là khả năng biến ý đồ của địch thành kế hoạch của ta.
Trong tình huống căng thẳng ngoại giao giữa Hoa và Việt như hiện nay, chắc hẳn Lê Duẩn sẽ phải suy nghĩ nhiều hơn về Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nam. Cuối con đường suy nghĩ này, Lê Duẩn sẽ gặp tao.
-- Tôi đồng ý với Bác là có thể Lê Duẩn rất quan tâm đến thế chân vạc của Á Châu. Tuy nhiên như Bác đã biết, đảng CSVN hiện nay rất phân hóa Lê Duẩn cũng chỉ là một phe bên cạnh nhiều phe khác. Thế nên khi phá vỡ tính chất bí mật của kế hoạch khai sanh ra chính phủ Liên Hiệp, bác có thể gặp một trong hai trường hợp kể sau:
a/ Phe Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu Bác để bít đầu mối, và để trả đũa Bác đã làm vỡ kế hoạch của họ.
b/ Phe chống Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu Bác để phá Lê Đức Thọ. Bác nghĩ như thế nào về sự lo ngại của tôi?
Hồ Hữu Tường im lặng một lúc rồi chậm rãi trả lời:
-- Ý kiến của mày không phải không có căn cứ. Tuy nhiên, ở vào hoàn cảnh của tao, tao không còn cách chọn lựa nào khác hơn là phá vỡ kế hoạch của Thọ, phá vỡ âm mưu "tuồng cũ, đào kép mới".
Nói chuyện với tôi xong, Hồ Hữu Tường trở về chiếu nằm của ông ta. Tôi thấy Hồ Hữu Tường và Phạm Văn Luyện nhỏ to với nhau trong chốc lát. Luyện vốn là người rất thâm trầm, khó mà nhìn thấy cảm nghĩ của Luyện xuất hiện trên nét mặt. Thế nhưng hôm ấy, lần đầu tiên tôi thấy Luyện biến sắc mặt.
Những ngày sau đó, Luyện không còn nói chuyện với Hồ Hữu Tường nữa. Luyện mất hẳn vẻ hoạt bát thường lệ. Luyện chỉ nói cho Phong (anh binh nhì nhảy dù) biết là bảy ngày sau anh ta sẽ rời phòng.
Cuối cùng Luyện từ giã chúng tôi đúng như lời anh ta đã báo trước. Lúc bấy giờ là trung tuần tháng 12 năm 1978. Cuối tháng 6 năm 1979, công an ra lệnh cho Hồ Hữu Tường ôm vật dụng cá nhân rời khỏi trại Phan Đăng Lưu.
Tháng 8 năm 1979, tại khám Chí Hòa, tôi nghe tù nhân bàn tán với nhau về chuyến xe chở Hồ Hữu Tường từ khám Chí Hòa đi trại lao động đã bị phục kích, một số tù chết, số khác bị thuơng Hồ Hữu Tường bị thương và được mang trở lại bệnh xá của khám Chí Hòa. Những tháng đầu tiên tại khám Chí Hòa, tôi ở cùng phòng với Cao Dao Nguyễn Trần Huyên, người tự nhận là một trong các sáng lập viên của báo Nhân Dân Hà Nội.
Vào dịp Giáng Sinh năm 1979, ông Cao Dao đã được phép gặp Ủy Ban Ân Xá Quốc Tế cùng với người con trai của ông ta có mặt trong Ủy Ban này. Nhân lần gặp gỡ này, ông Cao Dao có nói lại với bạn tù cùng phòng rằng: Ủy Ban Ân Xá Quốc Tế đã nhiều lần yêu cầu được gặp Hồ Hữu Tường nhưng công an cứ từ chối, viện cớ Hồ Hữu Tường đang bị bệnh. Đó là tin tức cuối cùng tại khám Chí Hòa về Hồ Hữu Tường.
Đầu năm 1981, vài ng ười tù trong khám Chí Hòa nhận được tin từ những người đi thăm nuôi: Hồ Hữu Tường hấp hối tại trại tù Hàm Tân, được công an cho phép mang về nhà và từ trần tại tư gia.
Tin Hồ Hữu Tường qua đời làm cho tôi vô cùng thắc mắc. Nếu cần chọn một ông già thất tuần kh ỏe mạnh nhất, tôi không ngần ngại chọn Hồ Hữu Tường. Hồ Hữu Tường là người có thừa hiểu biết và kinh nghiệm về các phương cách giúp cho người tù bảo vệ sức kh ỏe trong điều kiện của lao tù. Vì vậy hơn một năm ở chung phòng với Hồ Hữu Tường, tôi không hề một lần thấy Hồ Hữu Tường bị bệnh, dầu chỉ là hắt hơi hay sổ mũi. Gần như trọn ngày, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng ở trần, cũng ngậm gừng tươi trong miệng Trong khoảng từ 1 đến 4 giờ sáng, nếu người nào thức giấc nửa đêm đều thấy Hồ Hữu Tường đầu đội mũ ni che tai, mình mặc bà ba nâu, ngồi đánh cờ tướng một mình: tay phải đánh với tay trái, đêm nào cũng như đêm nào. Mặc dầu ngủ ít theo tuổi già, ban ngày kể cả giờ ngủ trưa rất ít khi người ta thấy Hồ Hữu Tường nằm nghĩ. Người đàn ông có sức kh ỏe bền bĩ đó chỉ hai năm sau đã phải từ trần vì lý do "suy nhược toàn diện". Hẳn nhiên, chẳng còn cái chết nào đáng hoài nghi hơn.
Do lòng tôn kính khả năng suy luận của bạn đọc, thay vì đưa ra một kết luận dứt khoát về trường hợp từ trần của Hồ Hữu Tường, bài viết chỉ xin trân trọng trình với bạn đọc một số ghi chú cần thiết như sau:
- Ghi chú một: mọi quan điểm kinh tế, chính trị được bài viết ghi lại đều là quan điểm do Hồ Hữu Tường phát biểu trong bối cảnh quốc nội và quốc tế năm 1978, trước khi xảy ra chiến tranh giữa Hoa Cộng và Việt Cộng.
- Ghi chú hai: vào lúc câu chuyện Phạm Văn Luyện xảy ra, bên cạnh Hồ Hữu Tường còn có ông Trương Đình Chư, nguyên chỉ huy trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Đà Nẵng, hiện có mặt tại Orange County, California, Hoa Kỳ. Vị sĩ quan này đã trực tiếp thấy và nghe tất cả dữ kiện bên trong và chung quanh hoạt động của Phạm Văn Luyện. Đề cập đến nhân chứng sĩ quan cảnh sát như vừa kể, bài viết có hàm ý biểu lộ thái độ triệt để nghiêm túc và tôn kính đối với bạn đọc trong mục tiêu trình bày sự thật
- Ghi chú ba: bình luận để lượng giá toàn bộ cuộc đời hoạt động chính trị của Hồ Hữu Tường không là chủ đích của bài viết này. Bài viết chỉ nhằm diễn tả thật rõ và thật trung thực thái độ phản kháng của Hồ Hữu Tường đối với thủ đoạn "tuồng cũ, đào kép mới" của Cộng sản Việt Nam. Thái độ phản kháng này ngày nay đã trở thành một loại chúc ngôn có tác dụng lưu ý hậu thế. Lưu ý rằng: Mặc dầu Hoa Cộng và Việt Cộng chẳng thể nào trở lại thời kỳ nồng ấm của hình ảnh "núi liền núi, sông liền sông môi hở răng lạnh" nữa. Thế nhưng trước thảm cảnh tan vỡ của Cộng sản Thế Giới, hai đảng Cộng sản Á Châu này buộc lòng phải liên kết với nhau để tồn tại. Không còn nghi ngờ gì nữa: chủ nghĩa Marx ngày càng để lộ tính thô thiển và bất lực, thay vì theo chân các nước cộng sản Đông Âu, CSVN lại biến hình thành một loại băng đảng hình sự: Họ không ngần ngại đặt lợi lộc của băng đảng lên trên quyền lợi của dân tộc. Để thực hiện âm mưu vừa kể, một mặt CSVN tiếp tục đưa đẩy "tuồng cũ, đào kép mới" để mê hoặc những người nhẹ dạ. Mặt khác CSVN sẵn sàng áp dụng biện pháp Thiên An Môn trong trường hợp quyền thống trị bị lâm nguy. Rất có thể chính CSVN sẽ xử dụng những tay chân của họ trong việc tạo ra "trường hợp quyền thống trị bị lâm nguy" để có cơ hội biểu dương một Thiên An Môn Việt Nam nhằm khủng bố nhân dân trước khi ng ười dân có điều kiện nổi dậy.
- Chính phủ liên hiệp là gì?
- Hòa hợp hòa giải là gì?
- Dân chủ hóa là gì?
- Cởi trói văn nghệ là gì?
- Kinh tế thị trường tự do là gì?
Nếu người chết có thể nói, Hồ Hữu Tường sẽ không ngần ngại trả lời: Tất cả chỉ là "tuồng cũ, đào kép mới".
Đỗ Thái Nhiên
https://hung-viet.org/a1767/ho-huu-tuong-nguoi-chet-u-uan
Đệ Tam Quốc Tế cộng Sản, còn gọi là Quốc Tế Cộng Sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, https://en.wikipedia.org/wiki/Trotskyism_in_Vietnam
- Đặt mọi ưu tiên vào sự tìm kiếm một "điểm tựa", một "sự lệ thuộc" vào các thế lực bên ngoài để xây dựng một guồng máy hữu hiệu trong một mục tiêu củng cố địa vị của một tập đoàn,
- Áp đặt độc quyền thống trị tuyệt đối của tập đoàn này lên trên mọi thành phần khác trong dân tộc Việt Nam,
- Đặt tham vọng của "tập đoàn" và của "điểm tựa" của mình lên trên lợi ích của dân tộc.
Để đạt được mục tiêu này, ĐCSVN đã nhiều lần bắt buộc phải thay đổi "đường lối" của mình cho phù hợp với các đòi hỏi của các điểm tựa bên ngoài.
Qua một vài trích dẫn từ tài liệu chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam (1) và một vài sự kiện lịch sử mà ngày nay hầu như các cơ quan chính thức của Đảng cũng không còn có thể phủ nhận, bài viết này muốn nêu rõ các khía cạnh khác nhau của vấn đề này, phân tích quan hệ giữa ĐCSVN và Đệ Tam Quốc Tế (ĐTQT), thành lập năm 1919 ở Moscow và giải tán năm 1943, trước khi ĐCSVN trở thành một Đảng cầm quyền ở Việt Nam vào năm 1945. Muốn nêu rõ các quan hệ này chúng ta cũng không thể không đề cập đến vai trò của Hồ Chí Minh (HCM), người đã chấp nhận không điều kiện khung khổ của Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản để đem đến cho Đảng Cộng Sản Việt Nam quyền lực tuyệt đối hiện nay.
Trở thành một đảng cầm quyền từ năm 1945 cho đến nay, mặc dầu sau đó phải đánh lừa dư luận tuyên bố giải tán, Đảng Cộng Sản Việt Nam lại chịu thêm ảnh hưởng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cùng một lúc với ảnh hưởng của Phòng Thông Tin Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (tái sinh năm 1947 của Đệ Tam Quốc Tế và giải tán năm 1956). Các phân tích trong thời kỳ này về ảnh hưởng của cộng sản quốc tế đối với ĐCSVN, mà chính yếu là các quan hệ (quan hệ "lệ thuộc thân hữu" cũng như các quan hệ "tranh chấp thù nghịch tương tàn") giữa hai Đảng Cộng Sản Việt Nam và Trung Quốc, sẽ được đề cập trong một dịp khác.
1. HCM, vai trò phức tạp của một viên chức của Đệ Tam Quốc Tế.
HCM là một nhân vật phức tạp hay, nói cho đúng hơn, là một kịch sĩ nhà nghề đại tài, nhiều thủ đoạn, tinh ranh và biết nhẫn nhục để chờ đợi thời cơ... Đó là một nhân vật, trong suốt quá trình hoạt động của mình, đã thay đổi lập trường một cách đơn giản, đã tinh vi đóng cùng một lúc những vai trò tương phản, đối nghịch lẫn nhau, tinh xảo cướp công lao và việc làm của người khác để tô điểm cá nhân mình... đã thay đổi lập trường chính trị từ thái cực này qua thái cực khác cho đến khi nắm được quyền lực... khiến cho ai cũng đặt ra những nghi vấn về thực chất của nhân vật này.
* Trong Đảng Cộng Sản Pháp, các đồng chí của HCM thường nói rằng đó là một nhân vật "kín đáo, dễ thương, nhút nhát...", thường hay "lẫn trốn, không tham gia trực tiếp vào các tranh luận đối chọi gay gắt" và... nhờ các đức tính này đã chinh phục được lòng tin cậy của các người lãnh đạo Đảng Cộng Sản Pháp để dọn đường cho sự thăng quan tiến chức của mình sau này trong Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản. Trong tư cách là nhân viên của Đệ Tam Quốc Tế, người ta còn tìm thấy ở HCM những đức tính khác của một nhân vật "rất ít có khuynh hướng về lý thuyết", một nhân vật "thực tiển", trong mọi hoàn cảnh tìm cách "tự thích ứng với mọi chỉ thị từ Moscow hay chỉ sửa đổi hình thức bên ngoài các chỉ thị này cho hợp với sở thích của mình chứ không bao giờ dám đi vào các tranh luận trực diện gay gắt", tuân theo không điều kiện nguyên tắc "trung ương tập quyền trên bình diện cách mạng quốc tế vô sản".
* Trong suốt thời gian lâu dài của hai thập niên 1920 và 1930, chắc chắn HCM đã chứng kiến các cảnh thanh trừng và tàn sát liên tiếp trong hàng ngũ ĐTQT trên lãnh thổ Liên Xô nhưng cũng đã chấp nhận các tội ác của Staline để củng cố địa vị cá nhân đã đạt được của mình trong phong trào cộng sản quốc tế cũng như vị trí lãnh đạo tối cao của mình trong tổ chức cộng sản Việt Nam. Có lẽ nhờ vào thái độ "khôn ngoan" này mà HCM đã là một trong những nhà lãnh đạo hiếm có của các phong trào cách mạng vô sản ở các nước trong vùng Đông Nam Á đã tránh được các nanh vuốt của Staline và còn sống sót được cho đến sau thế chiến thứ II.
Vài sự kiện lịch sử.
* Được trình bày trong mọi tài liệu chính thức của Đảng như là một nhân vật "xuất chúng, có một nhãn quan vượt xa các kiến thức của những nhà ái quốc bình thường đương thời... xuất dương tìm đường cứu quốc...", ngày nay người ta đã chứng minh đó là một con người tầm thường, ngay từ những ngày đầu tiên đến hải cảng Marseille năm 1911, đã viết thư (ngày 15/9/1911, ký tên Nguyễn tất Thành) cho Tổng Thống và Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, cầu khẩn xin được vào học "Trường Thuộc Địa", bày tỏ "lòng ham muốn trở thành hữu ích đối với nước Pháp trong các quan hệ đối với người đồng hương của mình,..." để tìm kiếm cho mình một chức phận trong hệ thống thuộc địa Pháp.
Một năm sau đó, từ New York, ngày 15/12/1912, với tên mới là Paul Tất Thành và tự giới thiệu mình như là "...một người dân trọn đạo làm con (filial peuple), một kẻ tùy thuộc biết ơn...", HCM lại viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ: "...xin Ngài ban cho cha tôi một công việc, như là Thừa biện ở các Bộ hay Huấn đạo, Giáo thụ để cho Cha tôi sinh sống...".
* Không được thỏa mãn trong các dự định trên, người ta không tìm thấy một dấu vết nào về các hoạt động yêu nước của Nguyễn tất Thành trong các năm sau đó, cho đến sau thế chiến thứ I, lúc xuất hiện những bài báo dưới bút hiệu "Nguyễn Ái Quốc" (!), bút hiệu đấu tranh của "Nhóm những người ái quốc An Nam" (Pour le groupe des Patriotiques Annamites: Nguyễn Ái Quốc). Để lấp khoảng thời gian trống nói trên, dưới bút hiệu Trần Dân Tiên, HCM đã tinh xảo tạo ra các bức thơ mà Nguyễn Tất Thành đã gởi từ Luân Đôn cho Phan Chu Trinh vào các năm 1913, 1914... chứng tỏ rằng mình đã có một quá trình hoạt động chung với các nhà cách mạng Việt Nam đương thời và cho rằng mình đã thông hiểu được cục diện thế giới hơn mọi người khác, và đã tiên đoán được tiến trình tất yếu của thế chiến thứ I.
* Tiếp đó là việc xuất hiện của một số bài báo tranh đấu chống chế độ thuộc địa và cũng nhờ đó mà dư luận mới thật sự nhận biết các hoạt động "yêu nước" của một tập thể chính trị,... trong đó có HCM. Sau này, khi đã thành công dành được chính quyền, HCM đã không ngần ngại chiếm đoạt bút hiệu chung "Nguyễn Ái Quốc" của cả tập thể đó... cho riêng cá nhân của mình, đồng thời phủ nhận và bôi bác công trình của những người khác mà ngày nay ai ai cũng đều biết đó là "Nhóm những người Ái Quốc An Nam", đã hoạt động ở Pháp, bao gồm các nhân vật như Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh và... Nguyễn Tất Thành là người gia nhập sau cùng vào Nhóm. Trong các văn kiện quan trọng bị chiếm đoạt phải kể đến bản "Các yêu cầu của Dân An Nam" gởi đến Hội nghị Versailles (1918). Ngay cả các bài viết về "Bản án chế độ thực dân Pháp" xuất hiện trong khoảng thời gian 1921-1925, khi đã trở thành đảng viên của đảng cộng sản Pháp, HCM cũng không phải là tác giả duy nhất.
* Sự thành công của Cách mạng Vô sản Nga chắc chắn là một biến cố kinh hoàng làm thay đổi lịch sử nhân loại và có nhiều ý nghĩa. Quan trọng hơn cả là sự nẩy sinh ra một thế lực (hay một đế quốc) mới, có qui mô rộng lớn, hùng mạnh và đủ sức đối đầu với các đế quốc tư bản Tây phương đương thời.
Đối với các dân tộc nhược tiểu trong các thuộc địa... thế lực này rất có thể là một đồng minh cơ bản... để chống lại một kẻ thù chung là chế độ thực dân. Với chiêu bài giải phóng người lao động, bao gồm nguời vô sản và các dân tộc bị trị trong các thuộc địa, các khẩu hiệu (hịệu) của Cách mạng Vô sản, đang hăng say trong chiến thắng trên lãnh thổ rộng lớn của cựu Nga Hoàng,... chắc chắn cũng đã có một sức hấp dẫn kỳ diệu trong hàng ngũ những người yêu nước lưu vong và rất có thể đã đem lại cho họ một lý tưởng cao đẹp... Sau nữa, đối với những người đang chờ thời cơ để tiến thân và chưa tìm được một "vị trí yên ổn" cho cá nhân mình dưới chế độ thuộc địa, mặc dầu mọi nhịn nhục, đó cũng là một cơ hội hiếm có để tìm được một "điểm tựa" hữu hiệu, một "nơi trú ẩn" vững chắc... để thực hiện tham vọng cá nhân của mình, miễn là phải tìm cách chứng minh được sự trung thành tuyệt đối của mình phục vụ đế quốc mới này. Tất cả các giả thuyết này đều có thể đúng hay sai tùy theo hoàn cảnh của mỗi cá nhân.
* Là thành viên Đảng Xã Hội Pháp và tham gia vào các tranh luận trong Đảng trên vấn đề gia nhập vào Đệ Nhị Quốc Tế hay vào ĐTQT, HCM theo ĐTQT, gia nhập vào Đảng Cộng Sản Pháp năm 1920 và trở thành thành viên thường trực của Ủy ban nghiên cứu các vấn đề thuộc địa. Từ đó HCM trở thành, vĩnh viễn và vô điều kiện, một người cộng sản "trung thành" của ĐTQT. Rất có thể HCM đã trở thành một người yêu nước sau một thời gian ở ngoại quốc, khi được tiếp cận với môi trường hoạt động chính trị đương thời. Cũng rất có thể HCM đã theo tiếng nói của lương tâm mình, bừng tỉnh khi đọc được văn bản "Các phác họa đầu tiên trên các Luận đề về các Dân tộc và về Thuộc địa" của Lénine (1920) như đã được giải thích trong các tài liệu chính thức của Đảng, tin tưởng tìm thấy trong "vô địch" Quốc tế Cộng sản một chỗ dựa tưởng chừng "tuyệt đối" để đạt được sự lựa chọn chính trị chính đáng này của mình. Điều cốt yếu ở đây là tìm hiểu các hậu quả chính yếu của sự lựa chọn này trong quá trình tồn tại sau đó của ĐCSVN. Bình luận biến cố này, tài liệu chính thức của Đảng (1), trang 16-17, giải thích:
"Kết luận cuối cùng mà Nguyễn Ái Quốc đã rút ra từ các công cuộc tìm tòi của mình và các tranh luận nói trên là, muốn cứu nguy đất nước và giải phóng dân tộc thì không còn con đường nào khác hơn là con đường Cách mạng Vô sản. Chỉ có Chủ nghĩa Xã hội và Chủ nghĩa Vô sản mới có thể giải phóng các dân tộc bị trị và tầng lớp lao động trên thế giới... Giai đoạn này đánh dấu một khúc quanh lịch sử trong cuộc đấu tranh cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, tiến hóa từ một nhà ái quốc đến một người cộng sản chân chính, khúc quanh theo đó Nguyễn Ái Quốc đã tự đặt mình hoàn toàn vào con đường của Cách mạng tháng 10/1917, của Chủ nghĩa Marx-Lénine và của Quốc tế Cộng sản".
2. Đê Tam Quốc Tế Cộng Sản và sự thành lập của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
- Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản là phong trào cách mạng khuynh hướng xã hội được thành lập ở Londres năm 1864 và giải tán năm 1876.
- Đệ Nhị Quốc Tế Cộng Sản - Vì sự đối nghịch giữa khuynh hướng Mác xít và khuynh hướng chủ nghĩa Vô chính phủ, vì thế nên là khuynh hướng cải cách xã hội - dân chủ, thành lập năm 1889 ở Paris, được phục hưng lại vào các năm 1923 và 1951.
- Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là khuynh hướng cách mạng vô sản, thành lập năm 1919 ở Moscow và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956. - Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản - Sau Đại Hội XX của Đảng Cộng Sản Liên Xô. Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản thành lập năm 1938, là khuynh hướng "cách mạng thường trực" mà Trotsky đưa ra từ sau khi Lénine qua đời (1924), để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Staline.
Vài sự kiện lịch sử.
* Sự thăng tiến của HCM trong ĐTQT rất là mau chóng. Khi các phong trào cách mạng ở Âu châu đang ở trong một thời kỳ thoái bộ, ĐTQT cảm thấy cần phải nới rộng các hoạt động vào các chân trời mới, qua các xứ thuộc địa, đang trên đà biến hóa mau chóng, nhất là ở Á châu. Năm 1923, HCM được Đảng Cộng sản Pháp chỉ định tham dự Đại hội Quốc tế Nông dân ở Moscou, sau đó được vào Ban chấp hành Trung ương Nông dân Quốc tế, đại diện các nước thuộc địa và nới rộng các hoạt động trong các quốc gia Đông Nam Á châu. Tham dự Đại hội V của Cộng sản Quốc tế ở Moscou vào tháng 5/1924, HCM đã hoàn toàn chấp nhận sự thắng lợi của lý thuyết của Staline về "Chủ nghĩa Xã hội trong một Quốc gia", chống lại lý thuyết "Cách mạng thường trực" của Trotski. Với đường lối của Staline, giai cấp vô sản ở các nước tư bản và các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế..., HCM được cử vào Ủy ban Tuyên truyền Cộng sản Quốc tế và Ủy ban Đông phương của Ban thường trực Cộng sản Quốc tế.
* Với tư cách mới trong ĐTQT năm 1925 HCM bí mật đến Quảng Đông thành lập "Thanh Niên Cách Mạng Hội Việt Nam" (TNCMHVN), trực thuộc ĐTQT ở miền Viễn Đông, với mục tiêu phối hợp các hoạt động chống thực dân, kết nạp các đồng chí trong số những người Việt Nam sinh sống ở Trung Quốc. Đó là tiền thân của ĐCSVN, trước khi đi đến thành lập các đảng cộng sản trong các dân tộc ở miền Đông Á. Các hoạt động này của HCM đã gặp được cơ hội thuận tiện vì được xuất hiện giữa thời kỳ phát triển cao độ của các khuynh hướng cách mạng quốc gia Duy Tân, Cải Cách ở Việt Nam cũng như phù hợp với thời kỳ hòa hoãn và hợp tác giữa ĐTQT (được quyết định trong Đại hội V, 1924) với các phong trào Cách mạng Dân tộc đương thời ở Trung Quốc và cho phép TNCMHVN tranh thủ rộng rãi các hoạt động trong nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội.
* Khi các tranh chấp giữa phong trào Cách mạng Dân tộc và phong trào Cộng sản bùng nổ năm 1927 ở Trung Quốc thì ĐTQT, qua Đại hội VI, tháng 12/1927, lại thay đổi đường lối đối với các khuynh hướng cách mạng Dân tộc, chống lại các phong trào Xã hội - Dân chủ và đề ra khẩu hiệu "Đấu tranh Giai cấp". Sự thay đổi đột ngột đường lối này của ĐTQT được các tổ chức cộng sản Việt Nam áp dụng tức khắc, đưa đấu tranh giai cấp lên hàng đầu trong các hoạt động, tự tôn mình lên vị trí lãnh đạo cách mạng, xem tất cả các khuynh hướng cách mạng dân tộc khác ở Việt Nam là kẻ thù ý thức hệ trước mắt của mình. Bàn về mục tiêu các hoạt động của TNCMHVN trong khoảng thời gian 1928-1929, tài liệu (1), trang 21 của ĐCSVN viết:
"Khía cạnh đặc biệt quan trọng nhất của phong trào cách mạng ở Đông Dương được thể hiện qua các phong trào đấu tranh quần chúng công nông dân, ngày càng trở nên rõ ràng là độc lập và không còn bị ảnh hưởng của các khuynh hướng quốc gia như trước... TNCMHVN đã được sinh trưởng lên đúng vào lúc các đấu tranh giữa hai khuynh hướng, khuynh hướng vô sản và khuynh hướng trưởng giả tư sản, đang lên cao tột độ ở Việt Nam... Nhiệm vụ cấp bách và tức thời lúc đó của TNCMHVN là phải chận đứng các phong trào Cải cách Tư sản và các phong trào cách mạng ngụy trang trưởng giả, soi sáng cho quần chúng thấy rõ đâu là cách mạng, đâu là cách mạng ngụy trang, đâu là cách mạng thật sự...".
* Từ lập trường trên, TNCMHVN chia thành hai phe chống đối nhau, một bên đòi hỏi thành lập một Đảng cách mạng vô sản thực sự theo chủ nghĩa Marx-Lénine, một bên muốn dùng chiến lược mềm dẻo cho rằng sự thành lập một ĐCSVN là một điều quá sớm. Đại hội toàn quốc TNCMHVN, họp ở Hương Cảng từ ngày 1/5/1929, bác bỏ đề nghị của Chi bộ Bắc Kỳ đòi giải tán TNCMHVN để thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nhưng, trở về địa phương, Chi bộ Bắc Kỳ công khai tuyên bố lập trường của mình và ngày 17/6/1929 tuyên bố thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Để tranh dành ảnh hưởng và tránh khỏi bị cô lập với Quốc tế Vô sản, các phần tử cộng sản quá khích khác của TNCMHVN liền vội vã thành lập các Đảng trong địa phương của mình. Tháng 10/1929, Chi bộ Nam Kỳ họp đại hội giải tán TNCMHVN và thành lập Đảng Cộng Sản An Nam. Tháng 1/1930, các phần tử trong Tân Việt Cách Mạng Đảng cũng tuyên bố thành lập Liên Minh Cộng Sản Đông Dương. Trong khoảng thời gian ngắn sáu tháng, khủng hoảng trong các tổ chức cộng sản Việt Nam đã đạt tới mức độ cao điểm, với sự khai sinh ở Việt Nam của ba tổ chức cộng sản, độc lập với nhau, cả ba đều đòi gia nhập vào Cộng sản Quốc tế.
Đứng trước viễn ảnh tranh chấp gay gắt giữa các khuynh hướng nói trên, HCM, tự nhận là Đại diện của ĐTQT, liền gởi một lệnh thơ cho ba tổ chức cộng sản Việt Nam phải thống nhất lại với nhau trong cùng một tổ chức duy nhất trực thuộc ĐTQT. Ngày 3/2/1930, với tư cách Đại diện ĐTQT, HCM vội vàng triệu tập và chủ tọa Hội Nghị Thống Nhất được tổ chức tại Hương Cảng, quyết định thành lập ĐCSVN và đặt Đảng dưới sự điều hành của ĐTQT, thay vì tùy thuộc vào Liên Đoàn Cộng Sản Nam Hải (Mặt trận thứ hai ở miền Viễn Đông được ĐTQT thành lập ở Singapour năm 1928, sau các thất bại của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trước phong trào Cách mạng Dân tộc ở Trung Quốc) và đưa Đấu Tranh Giai Cấp lên vị trí hàng đầu. Đi xa hơn nữa, cho rằng các tình cảm dân tộc là trái với tinh thần quốc tế vô sản, tháng 10/1930, ĐCSVN đuợc đổi tên thành "Đảng Cộng Sản Đông Dương (ĐCSĐD). Chương trình chính trị của Đảng nêu rõ, (1), trang 28-29:
"Cách mạng Đông Dương ra đời vào lúc Tư bản thế giới đang đi sâu vào khủng hoảng kinh tế trầm trọng, lúc các đế quốc đang ráo riết chuẩn bị một cuộc chiến tranh thế giới mới để chia lại các thị trường cùng vào lúc các đấu tranh chống Đế quốc ở các nước tư bản và các xứ thuộc địa đang lên cao,... Cách mạng Đông Dương tự đặt mình trong khung khổ của Cách mạng thế giới... Các mâu thuẫn căn bản ở Đông Dương là các mâu thuẫn giữa tầng lớp các công nhân, nông dân và các người lao động chống lại các tầng lớp thực dân, phong kiến, địa chủ và tư sản... Từ đó Đề cương chính trị xác định Cách mạng Đông Dương là một Cách mạng dân chủ lãnh đạo bởi giai cấp vô sản, một Cách mạng điền địa để xóa bỏ các tàn dư phong kiến, chia lại ruộng đất cho nông dân, một Cách mạng chống thực dân để lật đổ chế độ thực dân Pháp dành độc lập trên toàn lãnh thổ Đông Dương,... tiến thẳng lên xã hội chủ nghĩa mà không qua giai đoạn phát triển tư bản...".
Trong tài liệu HCM Toàn tập do Nhà Xuất bản Sự thật ấn hành, ta còn có thể đọc laị các chỉ thị sau đây mà HCM viết cho Đảng Cộng Sản Đông Dương:
"Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản là một Đảng Cộng Sản thế giới. Các Đảng các nước như là các chi bộ, đều phải nghe theo kế hoạch và quy tắc chung. Việc gì chưa có mệnh lệnh và kế hoạch của Đệ Tam Quốc Tế thì các Đảng không được làm... Cách mệnh Việt Nam cũng là một bộ phận trong cách mệnh thế giới... Phải tin và đi theo chủ nghĩa cộng Sản lẫn chương trình Đảng và Quốc tế cộng sản, phải thực hành cho được chánh sách và nghị quyết của Đảng và Quốc Tế cộng sản".
Vài bình luận về sự ra đời của Cộng Sản Đông Dương.
Một sự kiện đáng được nêu rõ là, trước khi Cộng Sản Đông Dương được thành lập, mọi khuynh hướng đấu tranh đương thời ở Việt Nam đều chia sẻ cùng nhau một mục tiêu chính yếu chống lại kẻ thù chung của dân tộc là chế độ thuộc địa, xem đó là một "đồng thuận" của dân tộc, là điểm xuất phát chung của mọi phong trào yêu nước. Nếu chưa đạt được mục tiêu đưa dân tộc thoát khỏi chế độ thuộc địa thì ít nhất ai ai cũng đều có thể nhận xét rằng chưa bao giờ có một sự chia rẽ hay một sự rạn nứt giữa các thành phần khác nhau trong dân tộc trong mục tiêu trên. Vấn đề chính yếu của các phong trào yêu nước đương thời là cùng nhau học hỏi những luồng tư tưởng mới trên thế giới, tìm kiếm các mô hình tổ chức cho xã hội tương lai, trao đổi cùng nhau các khám phá mới lạ tìm thấy ở thế giới bên ngoài, chia sẻ cùng nhau những giây phút thất bại chung... trong tinh thần đối thoại và hợp tác, trong một mục tiêu chung giải thoát dân tộc khỏi chế độ thuộc địa...
Một điểm thứ hai đáng được ghi nhận là, ngay trong tổ chức cộng sản TNCMHVN, sự ra đời của Cộng Sản Đông Dương chỉ là ý chí muốn ly khai của một "thiểu số cực đoan". Bàn về Đại Đội của TNCMHVN mà hậu quả là sự ra đời sau đó của Cộng Sản Đông Dương, tài liệu chính thức (1), trang 24-25, của Đảng cũng viết:
"Đại hội toàn quốc này được tổ chức ở Hương Cảng vào ngày 1/5/1929. Đoàn Đại biểu của Chi bộ Bắc kỳ, trong đó phải kể đến Ngô Gia Tự là người cương quyết và phi thường hơn cả, đưa ra đề nghị nhằm giải tán TNCMHVN và thành lập Đảng Cộng Sản Đông Dương. Đề nghị này không được chấp nhận, Đoàn Đại biểu liền rời khỏi Đại hội và trở về nước. Ngày 1/6/1929 Chi bộ Bắc kỳ ra thông cáo giải thích thái độ của mình ở Đại hội và... ngày 17/6/1929, ĐCSĐD được thành lập...".
Một nghi vấn được đặt ra ở đây là lập truờng của HCM trong vấn đề này, HCM theo phe thiểu số hay đa số của Đại hội? và, nếu ở về phía đa số, thì phải giải thích thế nào lập trường của HCM khi ĐCSĐD được thành lập sau đó? Ta sẽ trở lai chi tiết này trong phần cuối của bài viết.
Qua các sự kiện trên đây, ngay từ đầu ta có thể ghi nhận rõ ba yếu tố căn bản chi phối quá trình các hoạt động sau này của Đảng Cộng Sản Đông Dương.
* Trước tiên, nếu khởi đầu thế kỷ XX dư luận ở Việt Nam gần như đã đạt được một sự đồng thuận, đặt ưu tiên vào việc tìm kiếm các con đường đấu tranh chống lại kẻ thù chung là chế độ thuộc địa thì, với đấu tranh về ý thức hệ, sự ra đời của ĐCSĐD lại là khởi điểm của một của một cuộc nội chiến tương tàn trên đất nước và trong dân tộc Việt Nam, chỉ vì tham vọng của Đảng muốn độc quyền chiếm đoạt quyền lực. Sự lựa chọn một cách tuyệt đối ý thức hệ cộng sản, với "đấu tranh giai cấp", với "chuyên chính vô sản" và "độc quyền về chân lý", Đảng Cộng Sản Đông Dương đã tự đặt mình đối nghịch với mọi khuynh hướng đấu tranh khác ở Việt Nam, sẵn sàng chấp nhận hòa hoãn với ngoại bang, kể cả với chế độ thuộc địa,... để củng cố vị trí của mình nhưng lại xem mọi phong trào yêu nước khác là kẻ thù tiên quyết về ý thức hệ, cần phải tiêu diệt trước.
* Yếu tố căn bản thứ hai là sự chấp nhận không điều kiện lý thuyết về "Chủ nghĩa Xã Hội trong một quốc gia" của Staline, theo đó giai cấp vô sản ở các nước tư bản cũng như ở các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscow, bác bỏ lợi ích của các quốc gia và các dân tộc, đặt lợi ích của Đảng Cộng Sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế. Nói một cách khác, chưa thoát khỏi ách đô hộ của chế độ thuộc địa, ĐCSVN đã tự nguyện tin vào một lý thuyết vô tưởng, tự đặt mình như là một bộ phận của một thế lực quốc tế (mà thực tế chỉ là Đảng Cộng Sản Liên Xô), chấp nhận một cách tuyệt đối phục vụ lợi ích của thế lực này, đặt lợi ích của thế lực ngoại bang này trên cả lợi ích của cả dân tộc mình. Đối với mọi dân tộc, dầu ở một thời đại nào đi nữa, đó là một nghịch lý lố bịch, một hình thức ngụy biện, không thể chấp nhận được!!
Đi xa hơn nữa trong lý thuyết phụ thuộc vào Quốc tế Cộng sản và xem ĐTQT như là một hệ thống có đẳng cấp, sau khi Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập, HCM lại cho ghi trong Luận Cương chính trị của Đảng sự phụ thuộc của Đảng Cộng Sản Đông Dương vào các thế lực cộng sản đàn anh khác, ra đời trước Đảng Cộng Sản Đông Dương: "...Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với Vô sản thế giới,... Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng cộng sản Pháp, Trung Quốc và Ấn Độ", xem đó là các điểm tựa quốc tế chắc chắn và môi trường hoạt động quan trọng để củng cố quá trình phát triển của Đảng.
* Yếu tố quan trọng thứ ba được thể hiện ngay từ ngày thành lập Đảng là việc HCM, với tư cách của Quốc Tế Vô sản, ra lệnh đổi tên của Đảng thành ĐCSĐD. Điều này có mục tiêu củng cố sự kiểm soát cuả ĐTQT trên Đảng, tách rời Đảng ra khỏi ảnh hưởng của khuynh hướng cách mạng dân tộc và đồng thời cũng thể hiện tham vọng của Đảng muốn nới rộng địa bàn hoạt động của mình lên toàn lãnh thổ Đông Dương. Sau này, khi hai Đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc nắm được chính quyền, các tham vọng này đưa tới nhiều hậu quả trầm trọng vì đó chính là đầu mối của các tranh chấp ảnh hưởng của hai bên đối với các quốc gia khác trên bán đảo Đông Dương, nhất là từ khi ĐTQT được giải tán vào năm 1956.
3. Các thay đổi về đường lối của ĐCSĐD và của ĐTQT.
Cũng như TNCMHVN, đường lối của ĐCSĐD tiếp tục phản ảnh đường lối của Moscou cho đến khi ĐTQT giải tán vào năm 1943. Trong thời kỳ này, ĐTQT quan tâm đến hai vấn đề chủ yếu. Trong nội bộ đó là sự chống đối của Trotski đối với đường lối của Staline, trong khi đó ở ngoài Liên Xô là sự ra đời của Đức Quốc Xã, ngày càng đe dọa trực tiếp cho sự sống còn của Liên Xô. Cũng trong thời kỳ này, ta có thể phân biệt đường lối của Đảng Cộng Sản Đông Dương qua ba thời kỳ. Thời kỳ thứ nhất kéo dài cho đến trước Đại hội VII của ĐTQT (1935) là thời kỳ ý thức hệ đấu tranh giai cấp, thời kỳ thứ hai tiếp tục từ đó cho đến năm 1939 khi thế chiến thứ hai bùng nổ là thời kỳ hòa hoãn đối với chế độ thuộc địa Pháp và hoạt động dưới chiêu bài của Mặt Trận Dân Chủ. Trong thời kỳ thứ ba, dưới chiêu bài của Mặt Trận Việt Minh và đứng về phe Đồng Minh trong chiến tranh thế giới, Đảng Cộng Sản Đông Dương lợi dụng cơ hội nắm được chính quyền ở Việt Nam vào năm 1945.
A.Thời kỳ thứ nhất: Cách mạng vô sản và đấu tranh giai cấp
* Các năm đầu của thập niên 1930 khởi đầu bằng hai biến cố quan trọng. Đó là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Việt Nam Quốc Dân Đảng đề xướng vào tháng 2/1930 và cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh do ĐCSĐD cầm đầu (9/1930-4/1931), cả hai tượng trưng cho hai phong trào cách mạng tiêu biểu đương thời ở Việt Nam. Tuy có một quy mô rộng lớn hơn nhưng biến cố Xô Viết Nghệ Tĩnh lại không có một ảnh hưởng quần chúng bằng cuộc khởi nghĩa Yên Bái. Dư luận đương thời chưa sẵn sàng chấp nhận đấu tranh giai cấp và thờ ơ với quốc tế vô sản. Trong khi đó cuộc khởi nghĩa Yên Bái lại tác động trực tiếp vào khía cạnh tâm lý là tinh thần yêu nước chống lại chế độ thuộc địa, điều quan tâm hàng đầu của cả dân tộc Việt Nam.
Sau hai biến cố đó, chế độ thuộc địa tiến hành ở Việt Nam các cuộc đàn áp dã man để tiêu diệt các phong trào cách mạng, khuynh hướng dân tộc cũng như cộng sản. Các nhà lãnh đạo các phong trào cách mạng dân tộc bị truy nã đến tận biên giới Trung Quốc, không còn đủ lực lượng để có thể xuất đầu lộ diện trong lãnh vực sinh hoạt chính trị trong suốt thời gian dài của thập niên 1930. Trong khi đó Đảng Cộng Sản Đông Dương, với các tổ chức chặt chẽ, đã dần dần xây dựng lại cơ sở trong vòng bí mật kể từ năm 1932 và chính thức công khai lộ diện trong thời kỳ 1936-1938, khi Mặt Trận Bình Dân ở Pháp nắm được chính quyền, với sự tham gia của Đảng Cộng Sản Pháp.
* Tháng 3/1935 Đại hội I (toàn quốc) của ĐCSĐD được triệu tập ở Macao nhưng không có thay đổi về đường lối, xác định lại chiến lược cũ về đấu tranh giai cấp đề ra ở Đại hội VI (1927) của Đệ tam Quốc tế. Nhưng từ khi Hitler lên cầm quyền ở Đức vào năm 1933 và trước sự đe dọa ngày càng nặng của Đức Quốc Xã trên Liên Xô, Staline lại thay đổi đường lối, tìm đồng minh với các nước Tây phương, ký kết với Anh và Pháp các hiệp ước an ninh. Tháng 7/1935, Đại hội VII của ĐTQT họp ở Moscou ra chỉ thị cho các đảng cộng sản ngoại quốc không được có các hành động làm trở ngại chiến lược này. Đoạn văn sau đây, trích dẫn từ (1), trang 49, nêu rõ:
"... Đại hội VII của Cộng sản Quốc tế (7/1935) ra lịnh cho giai cấp công nhân và tầng lớp lao động trên toàn thế giới phải đặt mục tiêu tức thời và trực tiếp không phải là lật đổ chế độ tư bản để xây dựng xã hội chủ nghĩa mà là đấu tranh chống lại độc tài phát xít và ý đồ xâm lược của phe phát xít, để xây dựng dân chủ và bảo vệ hòa bình. Các Đảng cộng sản của mọi nước phải thống nhất các lực lượng lao động và thành lập một Mặt trận rộng rãi bao gồm các đảng quốc gia, dân chủ và cấp tiến cũng như các tầng lớp bình dân để thống nhất hành động chống lại kẻ thù chính yếu tức thời là chế độ phát xít".
Hiển nhiên đường lối này trái ngược lại với đường lối của Đại hội VI (1927) mà ĐCSĐD vẫn tiếp tục khẳng định trong Đại hội I (3/1935) của Đảng Cộng Sản Đông Dương. Vì vậy, liền sau Đại hội VII của ĐTQT, ĐCSĐD phải tức thời thay đổi đường lối để bám sát với đường lối mới của ĐTQT và làm tự kiểm thảo, (1), trang 45: "Cần nêu lên một khuyết điểm, Đại hội (I của Đảng Cộng Sản Đông Dương) đã không nhận thức rõ ràng được các hiểm họa phát xít trên thế giới cũng như không trù liệu trước các khả năng chiến tranh chống phát xít,...".
B. Thời kỳ thứ hai và chiêu bài Mặt Trận Dân Chủ
* Đường lối mới của ĐTQT được chính thức đem ra thực hành sau Hội nghị Ban chấp hành trung ương ĐCSĐD ở Thượng Hải (7/1936) với sự thành lập "Mặt Trận Dân Chủ Thống Nhất Đông Dương", gọi tắt là Mặt Trận Dân Chủ, dùng các hình thức đấu tranh cho Dân chủ để che đậy thực chất của mình. Đảng Cộng Sản Đông Dương thường gọi giai đoạn này là giai đoạn Cách mạng Dân chủ nhưng đây chỉ là một hình thức đánh lừa dư luận bên ngoài và là một chiến lược nhằm thỏa mãn nhu cầu giai đoạn của Staline. Về thực chất, Đảng Cộng Sản Đông Dương vẫn luôn luôn không lùi bước trên mục tiêu ý thức hệ. Hội nghị Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng họp ở Thượng Hải năm 1936 giải thích, (1), trang 48:
"... Nếu các nhiệm vụ chống đế quốc, chống phong kiến của Đảng nêu ra từ ngày thành lập vẫn luôn luôn còn hiệu lực thì mục tiêu tức thời và trực tiếp của giai đoạn này không phải là để lật đổ chính quyền của Đế quốc Pháp và làm cách mạng cải cách điền địa, mà lại là đấu tranh chống lại phản động thực dân, tay sai của phát xít... Đây chỉ là một vấn đề chiến lược, tạm đình hoãn trong một giai đoạn các mục tiêu của cách mạng nhưng cũng là một vấn đề tối cần để áp dụng chiến lược toàn cầu để bảo vệ thành trì cách mạng thế giới. Không có thành trì này thì cách mạng ở Đông Dương cũng không thể tồn tại được...".
Hiển nhiên, khi xác định "mục tiêu tức thời và trực tiếp của giai đoạn này không phải là để lật đổ chính quyền của Đế quốc Pháp", ĐCSĐD đã thể hiện một nghịch lý căn bản vì quan tâm hàng đầu của Dân tộc Việt Nam luôn luôn vẫn là tìm mọi cách để dứt bỏ chế độ thuộc địa Pháp. Trên thực tế điều này có thể được giải thích dễ dàng vì lý do kỷ luật của ĐTQT, "giai cấp vô sản ở các nước tư bản và các nước thuộc địa phải tuân theo chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế" và nước Pháp đang được xem như là một đồng minh của Moscou và đối nghịch với Đức quốc xã. Ngoài ra, lại còn phải xét đến "lợi ích" của Đảng Cộng sản đàn anh Pháp, đang tham gia vào chính quyền đương thời ở Pháp. ĐCSĐD đã chỉ thi hành đúng chỉ thị của ĐTQT: "mục tiêu tức thời và trực tiếp không phải là lật đổ chế độ tư bản để xây dựng xã hội chủ nghĩa", bắt buộc hòa hoãn với chế độ thuộc địa.
Cùng một lúc, HCM cũng từ Trung Quốc ra chỉ thị cho ĐCSĐD, (1), trang 50:
"Nhiệm vụ chính yếu của thời gian hiện tại là tranh đấu để đòi hỏi các quyền dân chủ, tự do. Tổ chức của Mặt Trận phải thật là hết sức rộng rãi, bao gồm tất cả mọi tầng lớp nhân dân, ngay cả các thành phần trưởng giả quốc gia và cấp tiến ở Đông Dương nhưng không thể hòa hoãn được với thành phần theo Trotski. Phải thẳng tay trừng phạt với các thành phần ly khai, phải giữ chặt các liên hệ mật thiết với Đảng Cộng Sản Pháp và Măt Trận Bình Dân Pháp".
* Nếu Đảng Cộng Sản Đông Dương phải tạm thời trì hoãn đường lối Cách mạng Vô sản để thi hành chỉ thị mới của ĐTQT thì ngược lại chiến lược này đã có một tầm quan trọng hàng đầu cho sự phát triển của Đảng, mang lại cho Đảng những thành công sau này trong ý đồ chiếm giữ độc quyền ở Việt Nam. Lợi dụng cùng lúc Đảng Cộng sản Pháp tham gia vào chính quyền ở Pháp, Đảng Cộng Sản Đông Dương lại tái xuất hiện khắp nơi trên các đô thị lớn dưới chiêu bài của Mặt Trận Dân chủ, dấu kín bản chất ý thức hệ của mình, thay thế các nhãn hiệu "cộng sản" đã dùng trước đây bằng nhãn hiệu "dân chủ". Trong lúc các phong trào cách mạng quốc gia vẫn còn hoạt động trong vòng bí mật thì ĐCSĐD lại lợi dụng một cách khôn ngoan và thiết thực mọi khả năng hoạt động, vừa bí mật và chính thức hay bán chính thức để tổ chức và động viên quần chúng, tham gia trên bình diện toàn quốc vào mọi lãnh vực, từ đấu tranh công đoàn cho đến tham dự vào các bầu cử địa phương, từ các sinh hoạt văn hóa, tôn giáo,... cho đến nghệ thuật, thể thao,... Quan trọng hơn cả, ĐCSĐD tìm mọi cách thâm nhập vào nội bộ của các phong trào yêu nước, gây chia rẽ và phá hoại các phong trào này để đưa mình lên vị trí độc tôn lãnh đạo cách mạng ở Đông Dương. Đoạn văn sau đây nêu rõ thêm các hoạt động trên đây của Đảng, (1), trang 50:
"Một bộ phận cán bộ của Đảng và của Mặt Trận được phân công thâm nhập vào các hội đồng, các phong trào cải cách, duy tân và phản động để tố cáo các tội ác của đế quốc và tay sai, vạch mặt giới lãnh đạo các phong trào phản động, chinh phục quần chúng về phía mình... Về hướng tổ chức quần chúng, phải tìm mọi cách để đạt được số đông. Nhưng đối với tổ chức Đảng thì phải giữ vững chất lượng, phải thẳng tay trừng trị những phần tử theo Trotski, những phần tử khiêu khích, phản Đảng,... ".
C. Thời kỳ thứ ba và chiêu bài Mặt Trận Việt Minh
* Đầu năm 1938, chính quyền ở Pháp lại thay đổi và rơi về phía hữu, ĐCSĐD cũng kịp thời rút vào vòng hoạt động bí mật và tập trung các hoạt động ở thôn quê. Tiếp theo đó là thời kỳ Thế chiến thứ hai. Năm 1940, nước Pháp chấp nhận sự chiếm đóng của Đức Quốc Xã, thỏa hiệp với Nhật Bản để cùng chiếm đóng Đông Dương và từ đó được ĐCSĐD gắn liền với khối phát xít. Đường lối chống phát xít bây giờ bao gồm cả chế độ thuộc địa của Pháp (cũng như của Nhật sau này) ở Đông Dương. Từ thời điểm này, trên bán đảo Đông Dương không còn sự hiện diện nào của các Đế quốc Tư bản đồng minh với Moscou. ĐCSĐD xem nước Pháp cùng với Đức, Ý và Nhật là phe "Phát xít", đồng hóa với "Đế quốc", đồng thời đồng hóa đường lối "chống Phát xít" của mình trước đây với đường lối "chống Đế quốc" mà vẫn không đi ngược lại với các chỉ thị của ĐTQT. Không như giai đoạn trước đây, nếu ĐCSĐD không nêu rõ mục tiêu chống đế quốc và chế độ thuộc địa Pháp, thì đường lối mới của Đảng Cộng Sản Đông Dương có phần nào thay đổi vì nêu rõ mục tiêu chống đế quốc Pháp. Thật sự, vẫn luôn luôn dấu kín bản chất của mình, đây là giai đoạn mà ĐCSĐD tìm cách củng cố vị trí để đưa mình lên địa vị độc tôn lãnh đạo cách mạng. Tháng 11/1939, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm vạch đường lối (1), trang 57:
"Giải phóng đất nước là nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng Đông Dương. Cách mạng chống đế quốc và cách mạng cải cách điền địa là hai trục chính của cách mạng dân chủ. Không hoàn thành được nhiệm vụ thứ hai là thất bại trong nhiệm vụ thứ nhất và ngược lại. Nguyên tắc căn bản này không thể thay đổi được nhưng phải được áp dụng một cách khôn khéo để có thể thực hiện nhiệm vụ đầu tiên của cách mạng là lật đổ chủ nghĩa đế quốc. Dựa trên định hướng chiến lược mới này, Ban chấp hành trung ương Đảng ra lịnh tạm thời đình hoãn cách mạng cải cách điền địa,... Để tập trung tất cả lực lượng vào công việc lật đổ chính quyền của đế quốc và tay sai. Dự định thành lập Mặt trận Thống nhất Toàn quốc chống Đế quốc ở Đông Dương. Các lực lượng chính của Mặt trận này là thợ thuyền và nông dân. Phải liên minh hay vô hiệu hóa giới tư sản, các địa chủ cở trung bình và cở nhỏ, đặt dưới sự lãnh đạo của giới vô sản...".
Tháng 11/1940, Ban chấp hành Trung ương Đảng họp ở Đình Bảng (Bắc Ninh) nhấn mạnh:
"Hai tai họa đang đe dọa lên các dân tộc Đông Dương: Bán đảo Đông Dương chịu sự chiếm đóng của hai đế quốc phát xít Nhật và Pháp, hai kẻ thù hiện tại chính yếu của ta. Vì vậy nhiệm vụ tức thời của Đảng là lãnh đạo các dân tộc ở Đông Dương để sửa soạn cuộc khởi nghĩa vũ trang để lật đổ phát xít Nhật-Pháp và nắm chính quyền...".
Hiện diện ở Trung Quốc từ cuối năm 1939 và ở Việt Nam vào đầu năm 1941, tháng 5/1941, HCM vẫn với tư cách Đại diện của ĐTQT triệu tập Hội nghị Trung ương ĐCSĐD ở Pac Bó (Cao Bằng) để cụ thể hóa đường lối hoạt động của Đảng cho thời gian sắp tới, xác định thực hiện công cuộc giải phóng Đông Dương trên bình diện của mỗi quốc gia bằng cách thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, hoạt động theo kiểu mẫu của Mặt Trận Dân chủ, dưới hình thức của các hội "Cứu quốc" thay cho khẩu hiệu "Dân chủ" đã dùng trước đây. Đồng thời với Mặt Trận Việt Minh, ĐCSĐD cũng thành lập các tổ chức bù nhìn tương tự ở các nước khác ở Đông Dương: Ai Lao Độc Lập Đồng Minh và Cao Miên Độc Lập Đồng Minh, để đi đến thành lập Mặt Trận Thống Nhất Đông Dương.
Khôn ngoan hơn ai hết, tạm thời đình hoãn mục tiêu cách mạng vô sản, HCM biết lợi dụng chiêu bài "Độc lập dân tộc", "Giải phóng đất nước",... làm bình phong khuấy động dư luận, biết rằng đó là động lực tâm lý duy nhất quan tâm của mọi người Việt Nam. Một khi nắm được ưu thế trong chính quyền sẽ đương nhiên xây dựng Xã hội Chủ nghĩa bằng bạo lực chuyên chính vô sản...
ĐTQT tuyên bố giải tán năm 1943. Sau ba năm (1942-1944) ở Trung Quốc, đó cũng là thời gian cuối cùng mà HCM hoạt động với tư cách là nhân viên của ĐTQT, tháng 10/1944 HCM trở về Việt Nam, dựa trên uy tín quá khứ quốc tế của mình để củng cố địa vị của mình như là người lãnh đạo tối cao và trực tiếp của ĐCSVN, không còn nhân danh ĐTQT đưa mệnh lệnh từ ngoài vào như trước.
Cơ may cho ĐCSĐD, và đó cũng là một tai họa cho cả các dân tộc ở Đông Dương, nhờ vào vị trí của ĐTQT trong chiến tranh thế giới, ĐCSĐD trở thành phong trào có tổ chức chặt chẽ duy nhất ở Đông Dương đứng về phe Đồng Minh và đã lợi dụng được cơ hội này nắm được chính quyền ở Việt Nam vào năm 1945.
4. Bàn lại vai trò của HCM.
Trên đây là một vài nét giải thích đường lối chính thức các hoạt động của ĐCSĐD kể từ khi ĐTQT được thành lập từ năm 1919 cho đến khi tổ chức này giải tán (lần thứ nhất) vào năm 1943. Có một điều căn bản đáng được ghi nhận ngay từ đầu là ĐCSVN chỉ là một sản phẩm của ĐTQT, được thành lập theo lịnh và tổ chức theo đúng một khuôn mẫu định sẵn từ ĐTQT đưa xuống. Trong suốt quá trình hoạt động của mình, ĐCSĐD đã tự thỏa mãn như là "một bộ phận" và chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của thế lực quốc tế này.
Điều thứ hai đáng được ghi nhận là vai trò và vị trí của HCM trong các quan hệ giữa ĐTQT và ĐCSĐD. Trên vấn đề này, ta có thể khẳng định rằng HCM không phải là người lãnh đạo tối cao của ĐCSĐD vì khi tự nguyện đụợc đứng vào hàng ngũ của ĐTQT thì ĐCSĐD đã chấp nhận "chiến lược toàn cầu chung, theo đúng đường lối của Moscou, đặt lợi ích của Đảng Cộng sản Liên Xô lên trên mọi vấn đề và đặt Liên Xô vào vai trò lãnh đạo cách mạng quốc tế...". Như vậy, người lãnh đạo tuyệt đối ĐCSĐD là Đảng Cộng sản Liên Xô mà cụ thể là Staline. Ngay cả trong các tài liệu chính thức của Đảng, HCM đã chỉ được trình bày như là một "cấp trung gian" để chuyển đạt các mệnh lệnh và chỉ thị của ĐTQT xuống Đảng. HCM cũng không phải là người Việt Nam duy nhất chịu mệnh lệnh trực tiếp của ĐTQT!
Trên thực tế, ngay cả HCM, trong những lúc liên hệ với ĐCSĐD cho đến năm 1943, cũng vẫn luôn luôn tự xem mình như là "Người Đại diện Quốc tế Cộng sản", một nhân vật không trực tiếp "nằm trong Đảng" nhưng lại "đứng trên Đảng" để "ban hành đường lối hoạt động cho Đảng". Nói một cách khác, HCM chỉ là một người "làm công", một "nhân viên" hay một "viên chức" (agent) của ĐTQT, có nhiệm vụ phải kiểm soát và chịu trách nhiệm về các hoạt động của ĐCSĐD trước ĐTQT!. Chỉ bắt đầu từ khi ĐTQT tuyên bố giải tán vào năm 1943 thì chức vụ "Đại diện Quốc tế Cộng sản" không còn chính đáng nữa thì HCM mới trở về Việt Nam, dựa trên uy tín quốc tế cũ của mình và dành được vị trí lãnh đạo chính thức trong ĐCSĐD. Trong mọi trường hợp, các tư cách "Đại diện Quốc tế Cộng sản" của HCM cũng chỉ là những công việc tạm thời, chỉ được ĐTQT giao phó cho từng giai đoạn nhất định, không liên tục. Ngay cả trong ĐCSĐD cũng có rất nhiều người nghi ngờ tính cách "Đai diện" này của HCM, vì chỉ có như vậy HCM mới có thể đứng trên đầu trên cổ mọi người trong Đảng để sai khiến họ. Về các điểm này, trong hồi ký của Hoàng Tùng (5), nguyên Bí thư Trung ương Đảng và nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân, ta có thể đọc:
"Năm 1931-32, ở Hương Cảng, Bác không có chức vụ gì, nhưng vì sự nghiệp cách mạng Bác vẫn làm. Bác gửi thư cho Quốc tế Cộng sản đề nghị giao việc, vì thời gian đó Bác chỉ làm nhiệm vụ một hộp thư. Đường giao thông giữa ta với Pháp bị vỡ do một anh thủy thủ Pháp bị bắt khai ra... Việc Bác được tha là nhờ luật sư Loseby... Việc Bác bị bắt rồi được tha, Liên Xô không hiểu, họ nghi ngờ có điều gì phức tạp trong vụ án. Tại sao lãnh tụ cộng sản mà được đế quốc tha yên ổn, cho nên trong vòng bốn năm họ không giao việc gì. Bác là nhân viên thường ở Ban thuộc địa. Sau đó Bác nhận làm nghiên cứu sinh phó tiến sĩ, nhưng Người rất chán.
Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản (1935), Bác không có cuơng vị gì cả. Đại hội lần thứ nhất của Đảng ta họp trước đó bầu Bác là Ủy viên dự khuyết và còn ghi rõ là chỉ công tác ở nước ngoài. Chính vì thế nên Bác không có tên trong Đoàn đại biẻu của Đảng ta sang dự Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản. Đoàn đại biểu của Đảng cộng sản Việt Nam chỉ có Nguyễn Thị Minh Khai và Lê Hồng Phong. Sau khi xin việc mãi không được, Bác xin về nước. Gần đây tôi có gặp một nhà trí thức Việt Nam, người này có gặp một nhà trí thức Pháp, họ nói Bác suýt bị hạ vì những chuyện lôi thôi này. Ông lãnh tụ Nhật Bản Nosoka Sando cũng bị làm rầy rà. Những chuyện này Bác biết cả...".
Có một điều mà gần như dư luận, ở trong cũng như ở ngoài Đảng, ở trong cũng như ở ngoài nước, ai ai cũng đều công nhận là HCM một viên chức phục vụ một cách đắc lực, đã áp dụng đúng đường lối của ĐTQT trong từng chi tiết một vào trường hợp của ĐCSĐD, mặc dầu trong nhiều trường hợp đường lối này có phần trái ngược với quan niệm của cá nhân mình... Về chiến lược hành động, ai ai cũng đều rõ ý đồ quen thuộc của HCM là đánh lừa dư luận bằng cách lợi dụng tối đa nhiệt tình yêu nước của mọi thành phần trong dân tộc, tạo ra những tổ chức quần chúng bù nhìn, tạm thời dấu kín các mục tiêu cách mạng vô sản của Đảng, đi đến một hình thức cộng tác bên ngoài với mọi phong trào yêu nước nhưng thực chất là thâm nhập vào nội bộ vừa lợi dụng, vừa lũng đoạn các tổ chức đối lập với Đảng. Với phương pháp hành động này, HCM chắc chắn là đã ở về phía đa số trong Đại hội năm 1929 của TNCMHVN ở Hương Cảng, muốn tạm thời đình hoãn việc thành lập ĐCSĐD. Nhưng phương pháp này của HCM đã không được giới lãnh đạo ĐTQT thấu hiểu mà còn bị xem là một khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa, cải lương và hữu khuynh... Các đoạn văn sau đây trích từ hồi ký của Hoàng Tùng (5) cho phép soi sáng một phần nào các nghi vấn nêu ra trên đây về đường lối hoạt động, về vị trí của HCM đối với Đảng Cộng sản Pháp cũng như đối với ĐTQT, trong khoảng thời gian từ Đại hội VI (1927) của ĐTQT cho đến lúc ĐCSĐD được thành lập năm 1930. Bàn về "nỗi đau thứ hai", trong số "10 nỗi đau lớn" của HCM, Hoàng Tùng viết:
"Nỗi đau thứ hai là, sau vụ chính biến Tưởng Giới Thạch, Bác đi Liên Xô. Trước đó Bác phụ trách phòng Đông Nam Á của Quốc Tế Cộng sản. Bác có đi dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản (1924) nhưng không được bầu vào Ban chấp hành. Lần này sang, do cách hoạt động của mình, Bác bị Liện Xô nghi ngờ là chưa đủ tiêu chuẩn cộng sản. Sang Liên Xô Bác không được giao việc gì cả, không có chức vụ chính thức trong tổ chức quốc tế. Bác xin về, họ không cho tiền. Sau Bác phải xin tiền bạn bè để về...
Nghe tin ở nước nhà giải tán Thanh niên cách mạng dồng chí hội để lập Đảng cộng sản, Bác cho rằng chưa phải lúc. Bác cho rằng lúc đầu hãy tập hợp thanh niên và giương cao ngọn cờ yêu nước đã. Có tổ chức Đảng cộng sản chỉ là tổ chức bí mật chứ chưa đưa Đảng cộng sản ra và nói đấu tranh giai cấp vội, cứ nói đánh Tây cho quần chúng dễ hiểu.
Theo tôi tại sao lại lập Đảng cộng sản? Chuyện này có lẽ bắt nguồn từ Đảng cộng sản Pháp. Đảng cộng sản Pháp sợ liên lụy không giám bênh vực phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa nữa... Đảng cộng sản Pháp cho rằng Bác không lập ra Đảng cộng sản mà chỉ tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, lại phê phán Đảng cộng sản Pháp khá nhiều trên báo chí và ở Đại hội quốc tế Cộng sản. Đảng Cộng sản Pháp có ý không tán thành Bác. Đảng Cộng sản Pháp cử ba người trong phái đoàn Pháp sang Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1927), trong đó có Nguyễn Văn Tạo (Năm 1923, Nguyễn Văn Tạo là học sinh bãi khóa ở Sài Gòn được sang Pháp học, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp, rồi vào Trung ương ngay. Nguyễn Ái Quốc không được bầu vào Trung ương, Bác làm việc ở Ban thuộc địa). Nguyễn Văn Tạo đề nghị là ở Đông Dương điều kiện đã chín muồi, đề nghị cho thành lập Đảng Cộng sản. Sau đó mới tác động đến nhóm Bắc kỳ Ngô Gia Tự, Nguyễn Phong Sắc, Nguyễn Đức Cảnh, ba người hăng hái nhất lập ra Đông Dương cộng sản đảng, đề nghị giải tán Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội.
Việc đó chính là phê phán Nguyễn Ái Quốc hay gọi là sự sửa sai đối với Nguyễn Ái Quốc. Nhưng Bác vẫn im lặng tìm cách sửa sai việc đã rồi, vì ba tổ chức tìm cách chống đối nhau, gây chia rẽ. Sau Lê Văn Lương nói với tôi là khi Bác về, Trịnh Đình Cửu có hỏi Bác giấy ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, vì Bác nói là Quốc tế Cộng sản cử về, Bác trả lời: Đồng chí tưởng tượng xem, nếu tôi mang trong nguời giấy ủy nhiện của Quốc tế Cộng sản, thì liệu tôi có về được đến đây không?...".
Hiển nhiên, trong các điều kiện kể trên, khi cả bốn phía (HCM và ba Đảng cộng sản ở Đông Dương) đều tỏ ý muốn phục vụ ĐTQT, thì phải chấp nhận sự kiện đã rồi và thống nhất các tổ chức. Đó là con đường sửa sai hợp lý nhất cho HCM. Điều còn lại là phải tiếp tục chứng tỏ sự trung thành tuyệt đối của mình đối với ĐTQT để tránh các biện pháp kỷ luật, khỏi bị thanh trừng như thường đã xẩy ra ở Liên Xô trong các thập niên 1920 và 1930...
Tôn Thất Long
(2006)
Tài liệu tham khảo:
1. 50 ans d'activités du Parti communiste du Vietnam. Edition en langues étrangères, Hanoi, 1980.
2. Pierre-Richard Feray: Le Viet-Nam, Collection Que sais-je?, Presse universitaire de France, 1984.
3. Nguyễn Thế Anh: L'itinéraire politique de Hồ Chí Minh, Đường Mới, Paris, 1990.
4. Tôn Thất Long: Le PCV, Congrès et évolution, Đường Mới, Paris, 1992.
5. Hoàng Tùng (Hồi kí): Hồ Chí Minh, Trung Quốc và Liên Xô.
www.geocities.ws/xoathantuong
http://www.geocities.ws/xoathantuong/ttl_d3qthcm.htm
Hiệu kỳ Trăng Câu Đệ Tứ Đảng.
Trăng Câu Đệ Tứ Đảng (tiếng Pháp: La Partie Trotskyste du Vietnam, PTV) là tên gọi một phong trào cộng sản theo đường lối Trotskyist (khuynh hướng "cách mạng thường trực" do Trotsky thành lập, để chống lại đường lối "cách mạng vô sản trong một quốc gia" của Stalin). Lãnh tụ Cộng sản Đệ Tứ Việt Nam là Tạ Thu Thâu. Trong lịch sử của chủ nghĩa cộng sản thế kỷ XX, Việt Nam thuộc số ít các nước là nơi mà chủ nghĩa Trotsky tạo được phong trào lớn mạnh. Các lãnh đạo và hầu hết thành viên của chủ nghĩa Trotsky tại Việt Nam đã bị Đảng Cộng sản Việt Nam tiêu diệt từ tháng 10 năm 1945.[1][2]
Mục lục
1 Lịch sử
1.1 Thành lập
1.2 Hoạt động 1.3 Bị tiêu diệt
2 Chú thích
3 Tham khảo
Lịch sử
Thành lập
Năm 1929, Tạ Thu Thâu tham gia khuynh hướng chính trị Trotskyist tại Pháp. Năm 1930, Tạ Thu Thâu và các đồng chí bị trục xuất về nước vì tham gia vào cuộc biểu tình trước điện Elysée (dinh Tổng thống Pháp) để phản đối thực dân Pháp xử tử các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng tham gia khởi nghĩa Yên Bái. Báo Phụ nữ tân văn 3 Tháng Bảy 1930 có bình luận sự kiện này: "Ngày 22 Mai, hồi ba giờ chiều, độ một trăm người thanh niên Annam biểu tình ở trước điện Elyése, lúc ấy chính là lúc quan Giám quấc đương nghị sự về cái án xử tử 39 nhà cách mạng Bắc kỳ...Truyền đơn của hai đảng cộng sản Annam; một là đảng Trotsky, là đảng cực tã; hai là đảng sô viết, đều là tỏ cái tình hình Đông dương...Mấy tháng nay các đảng viên cộng sản Annam thường có truyền đơn nói về việc Đông Dương; nhóm nhiều cuộc biểu tình để phản kháng các án xử tử đã nói trên; và sau hết có tổ chức ra một cái Ủy hội phấn đấu. Ủy hội trước ngày biểu tình ở điện Elysée có mời đảng viên của phái Trotsky. Phái nầy có đến, và có hứa sẻ hiệp nhau lại đi phát biểu. Annam về đảng Trotsky vận động hăng hái lắm. Bọn nầy học thức rộng, am hiểu tiếng Pháp và tiếng Nam, rất sành về việc tổ chức. Thế lực của họ khá lớn, cho nên hai tờ báo cộng sản cực tả ở đây là báo Vérité và Lutte des classes, dễ cho họ có một địa vị lớn trong sự ngôn luận. Mấy hôm nay, hai tờ báo ấy đăng nhiều bài của mấy đảng viên Annam, nói về tình hình Đông Dương, kết luận rằng cuộc cách mạng bên ấy thiếu một bộ ý tưởng (système idéologique). Trước ngày biểu tình, họ có dán quảng cáo, dán rồi là thấy bị lột mất, và người đi dán bị dẫn về bót giam vài giờ. Họ cũng có phát truyền đơn để gọi lao động thế giới. Và lại có một tờ tuyên ngôn đối với Chính phủ, và đối với bần dân thế giới, khi phát giấy cũng có xảy ra vài việc như là việc đánh nhau với một người ở hiệu cơm Pékin, rất kịch liệt. Ngoài hai đảng, còn có Đông Dương học sanh tổng hội rất là hoạt động. Hội viên vài trăm người, chắc không phải đều là cộng sản hết: có người về đảng quấc dân; có người khuynh hướng về xã hội; song bao nhiêu truyền đơn đã phát ra mấy tháng nay đều có một cái đặc sắc là khuynh hướng về bần dân."[3]
Năm 1931, Tạ Thu Thâu thành lập nhóm Trotskyist tại miền Nam, ảnh hưởng của nhóm Trotskyist nhanh chóng lan rộng. Các nhóm Trotskyist có Tả đối lập, Tả cách mạng Tháng Mười, Đông Dương cộng sản, chống lại đường lối Quốc tế Đệ Tam. Cũng trong năm này phái Stalinist (Đệ Tam) của Nguyễn Văn Tạo và Dương Bạch Mai bắt tay với nhóm Trotskyist lấy tờ La Lutte (Tranh đấu) làm cơ quan đấu tranh (với tòa soạn đặt ở đường Lý tự Trọng hiện nay). Trong thời kỳ hợp tác từ năm 1934-1937 nhóm La Lutte tham gia ứng cử vào Hội đồng Thành phố và Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Cả Đệ Tam và Đệ Tứ đều có người đắc cử (Nguyễn Văn Tạo, Trần Văn Thạch). Trước cuộc bầu cử Hội đồng thành phố tháng 4 và 5 năm 1933, Nguyễn An Ninh tập hợp Nguyễn Văn Tạo (cộng sản Stalinist), Tạ Thu Thâu, Phan Văn Chánh, Huỳnh Văn Phương (cộng sản đối lập Trotskyist), Trần Văn Thạch và Lê Văn Thử (cảm tình Trotskyist), Trịnh Hưng Ngẫu (một người vô chính phủ) lập "Sổ lao động" và ra tờ La Lutte[4]
Hoạt động Năm 1932, ba nhóm hợp nhất trong tổ chức Tạ Thu Thâu, nhưng đến năm 1933 tách thành nhóm Tranh đấu và nhóm Tháng Mười. Nhóm Tranh đấu hợp tác với Đảng Cộng sản Đông Dương. Ở Hà Nội, một nhóm gọi là nhóm "Tháng Mười" (phân biệt với nhóm Tranh đấu), còn gọi là Liên đoàn Cộng sản quốc tế hay Nhóm Leninist Bolșevic do Hồ Hữu Tường lãnh đạo, có các cơ sở Hà Nội, Hải Phòng, Vinh, ra báo Tháng Mười, từ 1931 đến 1936.
Năm 1937, Stalin tuyên bố phải loại trừ những phần tử Trotskyist. Năm 1938, những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (Đệ Tam) rút khỏi nhóm La Lutte. Những người Cộng sản Đệ Tứ tiếp tục xuất bản tờ La Lutte và thêm mục tiếng Việt. Sau khi việc hợp tác giữa Đệ Tứ và Đệ Tam sụp đổ hai bên công kích lẫn nhau. Đệ Tứ chỉ trích những quan điểm của Đệ Tam như: "thực hiện chủ nghĩa xã hội trong một nước", "chế độ độc đảng", " chính sách manh động trong cuộc nổi dậy Xô viết Nghệ Tĩnh", "sùng bái Stalin". Đệ Tam nói rằng Trotskyist không còn là một khuynh hướng chính trị mà trở thành "một đàn chó săn cho phát xít Nhật và phát xít quốc tế". Tháng 8 năm 1938, trên tờ Tin tức của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (dập khuôn theo Mặt trận bình dân bên Pháp, Mặt trận gồm ba đảng SFIO -Xã hội Quốc tế Lao động; Đảng Tin tức (cộng sản, Đệ Tam Quốc tế); và đảng Ngày nay (cấp tiến xã hội)) kêu gọi:"củng cố hành động chiến đấu để đánh đổ quân phát sít và tay sai của nó là quân tờ rốt kít phá hoại" và báo trào phúng Vịt đực bình luận "Mặt trận dân chủ chống Mặt trận cối xay" vì họ thời điểm đó không tìm thấy kẻ thù.
Theo ông Nguyễn Văn Trấn, Tạ Thu Thâu thảo một bản kiến nghị đại khái định gửi cho Mặt trận bình dân một bức tối hậu thư hạn "trong vòng ba tháng" phải ban hành cho dân chúng Đông Dương những quyền tự do dân chủ, bằng không. La Lutte sẽ kêu gọi quần chúng công kích tới cùng. Còn nhóm Đệ Tam thì cho: Mặt trận bình dân Pháp vừa mới thắng lợi trong vụ tuyển cử và do đó mới có chính phủ của một vài đảng trong mặt trận ấy lên cầm quyền nội các. Còn bộ máy cai trị nhà nước vẫn nắm trong tay giai cấp tư bản và thế lực phản động vẫn còn rất mạnh. Vậy các chính phủ Blum cũng như Sôtăng không thế nhồi lại một cục với Mặt trận bình dân được. Và dầu có một Chính phủ Mặt trận bình dân thành lập đúng theo hình ảnh của Mặt trận bình dân như những điều kiện đã định trong nghị quyết Quốc tế Cộng sản đi nữa, thì chính phủ ấy cũng chưa phải là chính phủ vô sản chuyên chính hay là chính phủ công nông chuyên chính, mà nó chỉ là một chính phủ chống phát xít, chống chiến tranh ủng hộ tự do hòa bình, đòi cải thiện sinh hoạt cho dân chúng[5], và cho nhóm Đệ Tứ là "phá hoại", và tẩy chay.
Báo trào phúng Vịt đực, có nhắc một chi tiết "ông Tiến, Tiếp, Diên (Khuất Duy Tiến, Nguyễn Đình Tiếp, Võ Đức Diên, ba đại diện Mặt trận Dân chủ của phái đệ Tam Cộng sản, xã hội cấp tiến, xã hội) đã trúng cử nghị viên thương mại rồi, anh em công nông công kiêng ba ông này đi chơi tễu ở các phố, đến vườn hoa Cửa Nam (Hà Nội) gặp "tên" tơ -rốt - kít Huỳnh Văn Phương thì anh chị em đều xông cả lại chất vấn và xỉ vả", cho nhóm đệ Tứ "rủ những "người" trước kia vào phe quốc gia xã hội hay bảo hoàng". Báo Vịt đực dẫn lại Nhật báo, cơ quan Ốtkít ở Nam Kỳ có đưa tin về cuộc biểu tình ở Hà Nội: "phái Talin làm cuộc biểu tình ở Hà Nội. Ngay lúc ấy phái Ốtkít bèn kéo nhau làm cuộc biểu tình chống lại. Trong cuộc sung đột ấy có 49 người bị bắt, trong số này có 9 đảng viên Ốtkít. Sau khi bị bắt về bóp tất cả đều được thả ra". Vào thời điểm đó tranh cử ở Bắc Kỳ, một bên là nhóm cộng sản đệ Tam quốc tế, nhóm xã hội (đảng viên Đảng Xã hội Pháp ở Đông Dương), nhóm xã hội cấp tiến của tư sản, tiểu tư sản (đứng về bình dân, về sau nhiều người là thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng) chọi bên bảo hoàng ("quốc gia") của giới phong kiến, ngoài ra là nhóm quốc xã, Trốtxkít. Ở Nam Kỳ nhóm đệ Tam và đệ Tứ một thời liên kết chọi nhóm lập hiến của tư sản, về sau nhóm đệ Tam lại liên kết với nhóm lập hiến chọi nhóm đệ Tứ.
Những lãnh đạo Đệ Tam cũng cho những người Trotskyist đã chỉ điểm cho Pháp bắt người của họ. Nguyễn Văn Tạo tách ra lập tổ chức riêng năm 1939, sau khi Đệ Tứ giành được thắng lợi trong bầu cử ở Nam Kỳ, còn Đệ Tam thì không. Nhóm Đệ Tứ giành được 3 ghế trong cuộc bầu cử ngày 30 tháng 4, và ngày 18 tháng 5 đã gửi thư cho Trotsky, thông báo chiến thắng lớn trước liên minh tất cả các nhóm tư sản và Stalinist (Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Sau bầu cử, Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng cộng sản đã phê phán Nguyễn Văn Tạo liên kết với Đảng Lập hiến, vì thế thất bại.
Tờ Ngày nay, ông Trần Văn Lai tường thuật cuộc bầu cử: "Từ ngày có nghị viên quản hạt đến nay, chưa bao giờ có bóng một người của giai cấp cần lao ra tranh cử. Cái nghị viện tối cáo ấy dành riêng cho bọn nhà giàu và nhất là cho bọn người trong đảng lập hiến, một chánh đảng có thế lực nhất ở Nam kỳ và bây giờ đã tới ngày đổ nát...Quần chúng bị đảng Lập hiến phỉnh lừa mấy lần đã chán nản... nhờ thế mà Thâu Thạch Tạo, Mai được đưa vào Hội đồng thành phố. Nhóm Tranh đấu rồi cũng chia rẽ làm hai: thêm nhóm Dân chúng. Lúc bấy giờ bọn Chiểu, Lam, Khá, Thuận,.v.v...nghĩa là bọn đại biểu nhà giàu ở viện quản hạt cùng hợp tác với nhóm Tranh đấu. Nhưng chưa thành thì bọn ấy thình lình rút tên ra để cho hai nhóm cực tả là Dân chúng và Tranh đấu bị nhốt khám. Thế là từ đó, nhóm Tranh đấu (Đệ Tứ quốc tế) nghịch hẳn với nhóm Dân chúng (Đệ Tam quốc tế). Thấy rõ các chiến sĩ hai nhóm cực tả ấy đã từng hy sinh vào tù ra khám, nên dân chúng Nam kỳ hiện nay hết sức tín nhiệm, nhất là nhóm Dân chúng của phái Đệ Tam được dân cầy lục tỉnh hoan nghênh, vì nhóm ấy có phái người đi cổ động. Còn thanh niên trí thức ở Nam kỳ, nhất là Saigon, Chợ lớn, Gia định thì chỉ tín nhiệm nhóm Đệ Tứ thôi... Đáng chú ý nhất là các nhà ứng cử ở quận nhì. Trong số ấy có tất cả 11 nhà ứng cử ra tranh... găng nhau hơn hết là hai sổ trạng sư Vương Quang Nhường và Nguyễn Đăng Liêng cực hữu, và sổ Tranh đấu Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm cực tả...Nhà nước lại làm khó dễ cho sổ cực tả...Hai ông (Thạch, Thâu) cùng các tổ chức thợ thuyền khác đánh điện tín ra ông toàn quyền ở Hà Nội và qua ông Tổng trưởng Bộ thuộc địa phản đối sự vô lý... Cuộc tuyển cử kỳ nhất, cử tri không đi bầu đến hơn phân nửa...cho nên mặc dầu kỳ nhì ông Ng.phan long (mà từ lâu người ta hết tín nhiệm) ra tranh và đồng thời nhóm Dân chúng cũng đưa Dương Bạch Mai và Nguyễn Văn Tạo,...cốt để chia bớt số thăm của sổ Tranh đấu, đặng cho sổ Vương Quang Nhường nghĩa là cho bọn của các nhà tư bản sai ra đắc cử. Nhưng...cử tri ở quận nhì đều bỏ cho sổ Tranh đấu hết...Bầu cho sổ Tranh đấu, cử tri quận nhì chỉ cốt muốn đưa vào nghị viện những người cách mệnh...,muốn đuổi ra ngoài những ông nghị câm mà ông thống đốc Pagès đã bảo..."các ông chỉ thay mặt cho bọn nhà giàu thôi"...,muốn cho cái chính sách cai trị hẹp hòi ở đây mở rộng thêm,...dân xứ này đặng sung sướng...và thực lòng hợp tác với chính phủ, để bảo vệ đất nước. Thế thôi, chứ người cử tri không hề nghĩ đến và phân biệt chủ nghĩa Cộng sản đệ Tứ quốc tế hay Đệ Tam quốc tế gì cả[6].
Năm 1939 hai nhóm Tranh đấu và Tháng Mười hợp nhất danh nghĩa trong Đảng Đệ Tứ Quốc Tế Cộng Sản. Năm 1939, tờ La Lutte bị cấm hoạt động. Tạ Thu Thâu bị xử năm năm tù, muời năm quản thúc. Tháng 10 năm 1940, Tạ Thu Thâu bị đày ra Côn Đảo cùng với Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch, Hồ Hữu Tường…
Năm 1944, sau khi được trả tự do những người Cộng sản Đệ Tứ tiếp tục hoạt động. Một hội nghị tổ chức Tháng Tám năm 1944, và Tranh đấu và Liên đoàn cộng sản quốc tế (ICL) tái tổ chức tại miền Bắc bỏ qua bất đồng (nhiều đảng viên ICL đồng ý hợp nhất với Đảng cộng sản Đông Dương), thành lập Trăng câu đệ Tứ đảng. Tại miền Bắc, năm 1941, Lương Đức Thiệp lập Nhóm Hàn Thuyên năm 1941, và 1945 lập Đảng Xã hội Thợ thuyền Việt Bắc, ra tờ Chiến đấu[7].
Tháng Tám 1945 nhóm Tranh đấu ủng hộ Mặt trận Quốc gia Thống nhất (một liên minh nhiều tổ chức thân Nhật, nhưng có ý giành độc lập khi Nhật đầu hàng Đồng minh, sau sáp nhập Việt Minh). Trong khi ICL chủ trương theo Việt Minh, (như Trương Tửu, Lê Văn Siêu...). Dẫu sao các nhóm đệ Tứ không thu hút nhiều người ủng hộ (trừ một thời gian ở Sài Gòn -Chợ Lớn), chỉ là các nhóm nhỏ, và sau Cách mạng một số tham gia các cấp chính quyền liên hiệp ở vài địa phương một thời gian ngắn...
Ngay sau khi cấm Đại Việt Quốc dân Đảng hoạt động, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tố cáo những người Trotskyist (nhóm La Lutte và nhóm Liên minh Cộng sản Quốc tế) là kẻ thù của mình. Đảng cộng sản Đông Dương và những người Trotskyist từ lâu đã chỉ trích nhau là tay sai đế quốc. Tuy nhiên xung đột của hai nhóm này trước năm 1945 chỉ thể hiện bằng báo chí, diễn thuyết, truyền đơn. Sau năm 1945, hai nhóm bất đồng quan điểm về việc thực hiện cách mạng xã hội và cách đối phó với việc Đồng Minh đổ bộ vào Nam Kỳ. Những người Trotskyist muốn thực hiện ngay lập tức một cuộc cách mạng xã hội và vũ trang quần chúng chống lại lực lượng Đồng Minh còn Đảng cộng sản Đông Dương muốn thực hiện giải phóng dân tộc trước rồi làm cách mạng xã hội đồng thời thỏa hiệp với Đồng Minh để giành độc lập từng bước.[2]
Bị tiêu diệt
Ngày 7 và 8 tháng 9 năm 1945, một số thành viên Trotskyist cùng tín đồ Phật giáo Hòa Hảo tham gia một cuộc tấn công đẫm máu nhưng bất thành nhằm vào các thành viên Việt Minh ở Cần Thơ. Họ tổ chức một cuộc biểu tình của khoảng 20.000 tín đồ Phật giáo Hòa Hảo với các khẩu hiệu "Võ trang quần chúng chống thực dân Pháp. Tẩy uế các phần tử thúi nát trong ủy ban Hành chánh Nam bộ". Việt Minh huy động Thanh niên Tiền phong bắn vào đoàn biểu tình khiến nhiều người chết và bị thương.[2]
Ngay sau đó, Dương Bạch Mai tống giam những người Trotskyist tại Sài Gòn. Binh lính Anh tìm thấy họ đêm 22/9/1945 và giao nộp cho người Pháp.[2] Sau khi được thả, những người Trotskyist tổ chức tấn công quân Anh, Pháp theo lời kêu gọi Nam Bộ kháng chiến của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ do Trần Văn Giàu đứng đầu. Trong một đợt tổng rút quân của lực lượng kháng chiến Nam Bộ giữa tháng 10/1945, Đảng cộng sản Đông Dương đã truy lùng, bắt giữ và hành quyết một cách có hệ thống khoảng 20 lãnh đạo phe Trotskyist trong đó có Phan Văn Hùm, một lãnh đạo có uy tín của phe Trotskyist. Những nhân vật chính yếu của Cộng sản Đệ Tứ như Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Phan Văn Chánh, Trần Văn Thạch bị Việt Minh giết. Hoạt động của Cộng sản Đệ Tứ tại Việt Nam xem như chấm dứt năm 1946. Những thành viên Trotskyist khác phải nương tựa Hòa Hảo và các đảng phái quốc gia khác ở Đồng bằng sông Cửu Long.[2]
Tại miền Bắc, các chính quyền địa phương được lệnh phát hiện, bắt giữ và tống giam những người Trotskyist tuy Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không ra văn bản nào cấm lực lượng này hoạt động. Đến năm 1946, những người Trotskyist tại miền Bắc không còn là mối lo ngại đối với chính quyền hoặc không còn người Trotskyist nào bị phát hiện. Trên báo chí, từ Trotskyist vẫn tiếp tục xuất hiện là để cảnh cáo những nhân viên nhà nước công khai phàn nàn đồng lương không đủ sống hay những người dám đấu tranh để người lao động kiểm soát nhà máy, xí nghiệp.[8]
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%87_T%E1%BB%A9_Qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_t%E1%BA%A1i_Vi%E1%BB%87t_Nam
=======================================
Hồ Hữu Tường, Người Chết U Uẩn
Đỗ Thái Nhiên
Thời gian chẳng bao giờ chờ đợi bất kỳ người nào, thời gian chỉ biết miệt mài vun vút lao tới; Thế nên, một trong những tình cảm căn bản của con người là lòng nuối tiếc thời gian đã qua đi. Lòng nuối tiếc này khi gặp các điểm mốc của thời gian đã biến thành nỗi xao xuyến, bồi hồi. Thực vậy, trong không khí giao tiếp giữa đêm đen của năm cũ và sáng hồng của năm mới, có lẽ không ai trong chúng ta không bùi ngùi nghĩ đến quá khứ và không băn khoăn nhìn về tương lai. Bằng tất cả bùi ngùi và băn khoăn vừa kể, bài viết này đã chọn cái chết của Hồ Hữu Tường như một mảng quá khứ và chọn những toan tính của đảng Cộng Sản Việt Nam chung quanh cái chết này như những tia sáng chiếu rọi vào thực chất điều được gọi là "đổi mới" của Cộng Sản Việt Nam trong hiện tại và tương lai.
Lúc bấy giờ là mùa thu năm 1978, tôi được di chuyển từ phòng biệt giam qua phòng giam tập thể thuộc trại giam số 4 Phan Đăng Lưu Trại giam này, công an Cộng sản dành riêng để giam tù chính trị trong thời kỳ thẩm vấn. Tù chính trị đối với Cộng sản bao gồm:
- Những người có tư tưởng chống cộng trước hoặc sau năm 1975,
- Những người trước kia đã làm công tác an ninh tình báo dưới các chế độ của VNCH, và
- Những người tham dự vào các tổ chức chống cộng tại Việt Nam sau năm 1975.
Khoảng 4 giờ chiều ngày hôm ấy, sau nhiều tháng nằm xà lim, tôi bước vào phòng giam tập thể bằng cảm giác ấm áp của một người được trở về với xã hội loài người, dầu là xã hội tù. Tôi lại càng cảm thấy ấm áp hơn khi chợt nhận ra cùng phòng với tôi có Hồ Hữu Tường. Do cách biệt về tuổi tác và khác biệt về nghề nghiệp, tôi không có dịp quen biết với Hồ Hữu Tường trước khi vào tù. Tuy nhiên, nhà Hồ Hữu Tường và nhà tôi ở cùng xóm. Vì vậy hình ảnh của Hồ Hữu Tường lập tức gợi cho tôi nhớ khu xóm cũ cùng với những bà con láng giềng của tôi. Gợi nhớ này chính là nguồn gốc của cảm giác ấm áp. Có lẽ Hồ Hữu Tường cũng nhận ra tôi là hàng xóm láng giềng ngày trước nên ngay phút đầu gặp tôi, Hồ Hữu Tường vừa giữ thế kẻ cả, vừa tỏ ra thân mến. Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm trước cung cách kẻ cả của Hồ Hữu Tường. Ngược lại, kiến thức của Hồ Hữu Tường cộng với tuổi đời 70 của ông ta lúc bấy giờ, cộng với "chất Việt Nam" mà Hồ Hữu Tường đã thể hiện trong mỗi suy tư và hành động đã dễ dàng chinh phục tôi đến độ tôi không còn nhận biết Hồ Hữu Tường đã trở thành người "bạn tù" khả kính và thân thiết của tôi tự lúc nào. Tôi gọi Hồ Hữu Tường là bạn bởi vì có lần, sau một lúc hàn huyên, Hồ Hữu Tường đã nói với tôi:
"Tao cho phép mày xem tao như bạn, tình bạn giữa tao và mày là tình bạn vong niên, tình bạn không phân biệt tuổi tác: tuổi tao gấp đôi tuổi mày". Vả lại, không riêng gì đối với cá nhân tôi, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng giữ được mối liên hệ vui vẻ đối với mọi người. Đặc biệt đối với những người tù trẻ tuổi, mỗi tối sau giờ cơm, Hồ Hữu Tường thường giúp họ giải khuây bằng cách kể cho họ nghe chuyện cổ tích, chuyện Tàu, chuyện ma Bình Thuận. Liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và những người tù trẻ này thân mật và vui vẻ đến độ: Có một hôm, cả phòng tù đang nghỉ trưa, một anh tù người Việt gốc Hoa nằm ở đầu phòng bỗng ngồi nhỏm dậy nói lớn tiếng cho Hồ Hữu Tường nằm ở cuối phòng có thể nghe được:
-- Bác Tường ơi! Thời Tây, thời Ngô Đình Diệm và cả thời này nữa, thời nào Bác cũng ở tù Bác có hiểu tại sao Bác cứ ở tù hoài hoài vậy không?
Hồ Hữu Tường nhìn Lý Hùng (tên chú tù trẻ) vừa cười vừa hỏi dò chừng:
-- Mày trả lời giùm tao đi, tại sao?
Lý Hùng nhanh nhẩu trả lời:
-- Dễ quá mà! Tên Bác là "Hữu Tường" nên Bác phải "hưởng tù" dài dài thôi!
Câu nói của Lý Hùng làm cả phòng cười rộ lên. Riêng Hồ Hữu Tường không cười, mắt nhìn xa xăm trông thật buồn, ông ta nói nhỏ giọng:
-- Có thể thằng này nói đúng!
Sau một vài tiểu tiết để bạn đọc thấy rõ hơn hình ảnh của Hồ Hữu Tường trong tù, đến đây bài viết xin quay trở về câu chuyện chính: Cộng Sản vốn xem Duy Vật biện chứng như chiếc đũa vạn năng. Vận dụng chiếc đũa vạn năng này vào khung cảnh nhà tù, Cộng sản chỉ cho tù ăn vừa đủ để không bị chết vì đói. Do đó bất kỳ người nào bước vào nhà tù Cộng sản đều thấy về mặt bao tử, tù được phân làm hai loại:
- Tù được thăm nuôi là loại tù đã chấm dứt giai đoạn thẩm vấn, có thân nhân và được công an cho phép gia đình tiếp tế lương thực hàng tháng
- Tù không được thăm nuôi là loại tù chưa kết thúc thủ tục thẩm vấn. Thủ tục này có thể kéo dài từ ba tháng đến ba năm hay hơn thế nữa. Có nhiều trường hợp một người tù đang được thăm nuôi lại có lệnh cấm thăm nuôi. Điều này có nghĩa là đương sự đã vi phạm kỷ luật nhà tù, hoặc đã bị nghi ngờ khai sai sự thật trong giai đoạn thẩm vấn.
Thông thường nếu không là bạn thân, tù nhân thường ăn cơm chung nhóm với nhau theo sự phân biệt có hay không có thăm nuôi. Tù không được thăm nuôi phải ăn cơm một mình, hoặc chỉ ăn cơm chung với những người cùng không được thăm nuôi. Mặt khác tù không thăm nuôi phải không hề nói hoặc làm bất kỳ điều gì nhằm xin hưởng lương thực của người khác. Đó là "luật tự trọng" trong những phòng giam tập thể. Vào lúc chuyển từ xà lim qua nhà giam tập thể, tôi là tù không được thăm nuôi. Vừa muốn giữ lòng tự trọng, vừa muốn làm cho những lần ăn cơm gạo mốc với nước muối bớt phần cô quạnh, tôi tìm cách làm quen và ăn cơm chung với hai người thuộc loại "con bà phước" (không được thăm nuôi): một người tên Phạm Văn Luyện, người kia tên Phạm Anh Phong là một cựu binh nhì nhảy dù, can tội rải truyền đơn chống cộng, tuổi dưới 25, điệu bộ ngổ ngáo. Tôi tiến đến chiếu nằm của Phong, ngồi xuống, nheo mắt nhìn Phong cười, vào đề rất tự nhiên:
-- Ê bồ! Tôi vừa mới ở xà lim qua, đang rất mệt mỏi, bồ cho tôi được ăn cơm chung với bồ được không?
Phong đưa hai tay nắm lấy vai tôi, nghiêng đầu, nhìn thẳng vào mặt tôi cười thành tiếng:
-- Ông thầy này ngộ ghê! Thầy ăn cơm chung với tôi hay ăn một mình thì thầy và tôi đều ăn cơm với nước muối, cần gì phải xin phép! Mà này, tôi đang ăn chung với một thằng Việt cộng, thầy có chịu ăn chung với nó không?
-- Thằng Việt cộng đó tên gì? Phạm tội gì? Nó đã ở tù bao lâu rồi?
Phong trả lời thật rõ ràng:
-- Tên anh ta là Phạm Văn Luyện, phạm tội tổ chức đưa người vượt biên để kiếm tiền Luyện mới vào phòng này khoảng hai tuần, anh ta tự nhận là cán bộ tình báo của Hà Nội, kể chuyện tình báo rất hấp dẫn, tôi khoái nghe chuyện nên tôi ăn cơm chung với anh.
Từ đó Luyện, Phong và tôi ăn cơm chung.
Luyện khoảng 42 tuổi, người ốm, dong dỏng cao, da đen sạm, tóc quăn. Nghe Luyện nói chuyện, từ giọng nói đến cách dùng chữ, người ta nhận ra ngay là Luyện đã hấp thụ trọn vẹn chế độ giáo dục của Cộng sản Miền Bắc. Phòng giam của tôi gồm toàn những người chống cộng gay gắt, thế nhưng tôi không hề nhận ra bất kỳ người nào có vẻ có ác cảm với Luyện. Phải chăng vì Luyện có dáng dấp phong trần, có lối nói dễ hiểu, có nhiều chuyện hấp dẫn?
Phải chăng vì Luyện không giống những tên Việt cộng mà người ta thường gặp: Luyện không hề có vẻ thủ thế mỗi khi nói chuyện với người khác, nhất là nói về những nhân vật cao cấp của Cộng sản Hà Nội? Phải chăng vì Luyện không bao giờ có ý dòm ngó, không làm điềm chỉ viên, và nhất là vì Luyện không bao giờ bỏ qua cơ hội có thể giúp đỡ người khác, dĩ nhiên toàn là những người chống cộng? Thiện cảm mà phòng tù của tôi dành cho Luyện có nguyên nhân là tổng số của những cái "phải chăng" kể trên.
Đối diện và cách nhà giam của tôi khoảng ba thước là một dãy xà lịm. Mọi liên lạc (nói chuyện hoặc tiếp tế thức ăn) giữa xà lim và nhà giam tập thể đều bị nghiêm nhặt cấm chỉ. Người tù nào vi phạm luật cấm này sẽ bị lính canh hoặc còng tay vào song cửa của phòng giam (trong trường hợp này, người tù đương sự bị buộc phải đứng chứ không thể ngồi, kể cả giờ ngủ ban đêm), hoặc bị đánh đòn ngay trước cửa phòng giam. Chiều hôm ấy, khoảng 6 giờ, thủ tục điểm danh đã xong và cơm chiều đã qua, đang khi mọi người chuyện trò to nhỏ với nhau, Luyện lén ném vào cửa gió (bằng hai bàn tay) của xà lim đối diện một ít thuốc lá và diêm quẹt. Ngay lúc đó, Luyện bị lính canh bắt gặp quả tang. Tên lính canh quát tháo ầm ĩ:
-- Mày mới ném thuốc lá vào xà lim, tao bắt gặp, tao sẽ cho mày chết! Mày tên gì?
Luyện bình thản trả lời:
-- Tôi tên là Phạm Văn Luyện.
Người lính canh chạy lên phòng giám thị một lúc rồi quay trở lại. Tôi không thấy người lính canh cầm theo chìa khóa hay còng tay. Nét mặt của người lính canh cũng không còn hung hăng như cách đó vài phút. Anh ta gọi Luyện đến gần cửa song sắt, nói giọng ôn tồn:
-- Đây là lần thứ nhất anh vi phạm kỷ luật, vì vậy phòng quản giáo tha cho anh. Nếu tái phạm anh sẽ bị nghiêm trị.
Nói xong, người lính canh bỏ đị. Cả phòng nhìn Luyện kinh ngạc. Theo tập quán trong tù: mỗi lần phạm kỷ luật (nhất là liên lạc với tù bị giam trong xà lim) là mỗi lần bị phạt, công an không cần biết lần đầu hay lần cuối.
Trước đó nhiều ngày, Luyện thường nói cho Phong biết trước ngày giờ mà Luyện sẽ được công an gọi đi thẩm vấn. Sự thể này là điều rất khác lạ, bởi vì, công an Cộng sản không bao giờ báo cho tù nhân biết trước ngày giờ của các cuộc thẩm vấn.
Bài viết ghi lại hai chi tiết nhỏ kể trên với chủ ý ghi nhận Luyện như một "người tù đặc biệt". "Người tù đặc biệt" này nói chuyện dễ dàng với tất cả các bạn tù, nhưng nhất thiết không nhờ vả bạn tù nào, đặc biệt là về mặt lương thực. Điều đáng chú ý là Luyện giao thiệp với mọi người trong phòng giam, ngoại trừ Hồ Hữu Tường.
Mãi sau hai tháng có mặt bên cạnh Hồ Hữu Tường, một tối cơm nước xong, lần đầu tiên tôi thấy Luyện bước đến chiếu nằm của Hồ Hữu Tường. Hai người to nhỏ với nhau khoảng hơn một tiếng đồng hồ. Ngồi ở một góc phòng, quan sát đôi mắt, hoặc chú ý, hoặc trầm tư của Hồ Hữu Tường, tôi biết Hồ Hữu Tường rất quan tâm đến những điều Luyện nói. Câu chuyện giữa hai người chỉ chấm dứt sau tiếng kẻng báo ngủ của trại tù. Câu chuyện giữa Phạm Văn Luyện và Hồ Hữu Tường có lẽ đã làm cho vị học giả này suy nghĩ lung lắm. Thế nên sáng hôm sau, Hồ Hữu Tường nói chuyện với tôi ngay:
-- Mày có biết tối qua thằng Luyện nói chuyện gì với tao không?
-- Chuyện gì vậy Bác? Tôi làm sao đoán được!
-- Câu chuyện ngộ lắm! Thằng Luyện cho tao biết nó là tù giả. Hồ sơ phạm tội tổ chức vượt biên của nó chỉ là hồ sơ giả. Nó bảo nó là người của Lê Đức Thọ. Nó được gài vào nằm chung phòng giam với tao trong hai tháng qua chỉ để quan sát xem “Bác Tường ngày nay có còn là Bác Tường của các năm 1945 nữa hay không?” Ngay các lời nói đầu của nó, tao đã cảm thấy sự việc sẽ không đơn giản. Do đó, thay vì đi thẳng vào câu chuyện do Luyện mở đề, tao đã lái câu chuyện đi hướng khác để thăm dò về cá nhân nó. Nó bảo với tao: "Đầu thập niên 1960, Võ Nguyên Giáp hợp tác với Ung Văn Khiêm âm mưu lật đổ Hồ Chí Minh, công việc bại lộ, Võ Nguyên Giáp bị thất sủng. Buồn vì "tình đời đen bạc", hằng ngày Võ Nguyên Giáp đi học nhạc cổ điển Tây Phương "để giải sầu". Thằng Luyện lúc bấy giờ được tình báo Hà Nội bố trí làm người hầu cận cho Giáp, nên hằng ngày phải ôm nhạc cụ đi theo Giáp. Nghe Luyện nói tới đây, tao làm bộ hỏi nó vài vấn đề căn bản về nhạc cổ điển Tây Phương. Những câu trả lời của thằng Luyện quả tình làm tao vô cùng kinh ngạc: nó thực sự có những hiểu biết căn bản về nhạc cổ điển. Sau câu chuyện nhạc cổ điển, thằng Luyện còn cho tao biết: do công vụ, nó đã rất nhiều lần đóng vai hầu cận Tôn Đức Thắng và Lê Du ẩn. Tao vội vồ lấy cơ hội này để hỏi dò Luyện vài câu về cá tính và về sức khỏe của Thắng và Duẫn. Lần thứ hai Luyện làm tao ngạc nhiên: Luyện nói về cá tính và bệnh tật riêng của hai người này đúng như tao đã biết. Thời Pháp, tao ở tù chung nhiều năm với Lê Duẫn. Đối với Tôn Đức Thắng, gia đình vợ tao rất thân thiết với gia đình vợ Thắng. Tối hôm qua, thằng Luyện nói chuyện với tao rất nhiều, nhưng nội dung chủ yếu là bấy nhiêu. Mày có ý kiến gì không?
Tôi nhìn thẳng vào mắt của Hồ Hữu Tường, đôi mắt còn giữ nguyên vẻ mệt mỏi của một đêm thao thức. Tôi trả lời Hồ Hữu Tường, giọng cố làm ra vui vẻ để khỏa lấp những ưu tư trên trán của Hồ Hữu Tường:
-- Câu chuyện có vẻ ly kỳ và hấp dẫn, phải không Bác? Tôi tin là Bác đã ghi nhận những điểm cần ghi nhận. Tuy nhiên xin nói thêm các chú ý của tôi về Luyện.
Thứ nhất: Luyện liên lạc với xà lim nhưng không bị phạt.
Thứ hai: Luyện biết trước ngày giờ công an thẩm vấn nó.
Thứ ba: Luyện sống trong tù rất bình thản, không giống bất kỳ tên Việt cộng tham ô nào.
Thứ tư: trắc nghiệm bất ngờ của Bác đối với Luyện về nhạc cổ điển Tây Phương, về Duẩn và về Thắng.
Thứ năm: những lúc nói chuyện với tôi, Luyện thường nhắc tới các sinh viên Sài Gòn theo cộng sản thời Mậu Thân: Nguyễn Hữu Thái, Trần Triệu Luật, Huỳnh Tấn Mẫm, Đỗ Hữu Cảnh, Trịnh Đình Ban v. v... Luyện cho rằng những người này hoặc làm việc trung thành với Mỹ, hoặc đi hàng hai. Luyện nói chính xác về tính tình của mỗi người trong nhóm sinh viên vừa kể.
Tôi bảo là "chính xác" bởi lẽ tôi cũng đã hiểu biết rành rẽ về nhóm sinh viên này vào thời kỳ tôi sinh hoạt với Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn từ 1963 đến 1970. Điều đáng chú ý là Luyện đã được đào tạo tại Miền Bắc, nhưng lại có tin tức chi tiết về sinh viên Sài Gòn trước năm 1975. Dĩ nhiên Phạm Văn Luyện sẽ còn tìm tới nói chuyện với Bác nhiều lần nữa, và câu chuyện sẽ phải có kết luận. Tôi nói với Bác các chú ý của tôi về Luyện để đề nghị Bác không nên xem Luyện như một thằng tù bất bình thường, bịa chuyện ra để giải trí.
Hồ Hữu Tường vỗ vai tôi, trở về với điệu bộ xuề xòa của các bậc lão niên Miền Nam:
-- Mày nói tao đồng ý. Tao phải thận trọng trong giao dịch với thằng Luyện Giao Dịch này sẽ rất phức tạp. Nếu quả thật Luyện là người của Lê Đức Thọ, thì Thọ muốn gì?
Ba ngày liên tiếp sau đó, mỗi ngày từ 6 giờ chiều (sau giờ cơm) đến 9 giờ tối, Luyện đều tìm đến nói chuyện với Hồ Hữu Tường. Câu chuyện được trần thuật tổng hợp như sau:
Tôi hỏi Hồ Hữu Tường:
-- Bác nghĩ gì về chương trình này?
Hồ Hữu Tường vừa nhâm nhi miếng gừng tươi trong miệng, vừa trả lời tôi:
-- Ngày nay, sau 52 năm lăn lộn trên chính trường, Cộng Sản đối với tao chỉ là sự ngu dốt cộng với tính xảo trá bất tận. Lịch sử phát triển của đảng CSVN chính là lịch sử của những cuộc "thay đào đổi kép" nhưng không đổi tuồng. Thay đổi đào kép chỉ nhằm mục đích dối gạt dư luận, là tuồng đã đội Chính Phủ Liên Hiệp do thằng Luyện trình bày là thí dụ điển hình của kỹ thuật dối gạt theo kiểu "tuồng cũ, đào kép mới". Tuồng cũ là tuồng chuyên chính vô sản. Vở tuồng này ngay từ đầu đã đi ngược lòng dân, đã xa rời thực tại. Tao không chấp nhận tuồng cũ thì làm sao tao có thể chấp nhận đóng vai đào kép mới?
Hồ Hữu Tường nói tới đây, tôi nóng nảy đặt câu hỏi:
-- Như vậy Bác đã dứt khoát từ chối mọi đề nghị của thằng Luyện chưa?
-- Chưa, tao bảo với nó: "Hãy để tao suy nghĩ vài ngày".
Vài ngày sau đó, liên hệ giữa Hồ Hữu Tường và Luyện vẫn bình thường, vẫn Bác Bác Cháu Cháu. Thế rồi một buổi sáng đầu tuần, nhân viên công an thuộc Sở Công an Thành phố gọi Hồ Hữu Tường lên phòng thẩm vấn. Khoảng hai tiếng đồng hồ sau, Hồ Hữu Tường trở lại phòng giạm. Chờ cho nhân viên giám thị kh óa cửa phòng và đi khuất mắt, Hồ Hữu Tường tiến đến cạnh tôi, nói vừa đủ cho tôi nghe:
-- Sáng nay thằng công an chấp pháp yêu cầu tao trả lời bằng viết mười câu hỏi ghi sẵn của Sở Công An Thành Phố về hồ sơ cá nhân của tao. Trước khi trả lời mười câu hỏi vừa kể, tao yêu cầu thằng chấp pháp cho tao được nói chuyện riêng của tao. Nó đồng ý. Tao liền kể cho thằng công an này nghe toàn bộ chi tiết câu chuyện giữa thằng Luyện và tao. Tao càng nói, nét mặt của thằng công an chấp pháp càng lộ vẻ kinh ngạc và bối rối. Nói xong, tao hỏi nó nên đối xử như thế nào đối với thằng Luyện. Nó chỉ hỏi tao thêm một số chi tiết về Luyện và tuyệt nhiên không đưa ra bất kỳ đề nghị nào. Sau đó tên công an thẩm vấn bảo tao trả lại nó giấy bút và mười câu hỏi. Nó không còn quan tâm đến mười câu hỏi nữa. Nó ra về.
Quả thực câu chuyện vừa kể đã làm tôi bàng hoàng. Tôi nói cho Hồ Hữu Tường nghe về những lo lắng của tôi:
-- Thằng Luyện đã rất nhiều lần dặn Bác tuyệt đối giữ kín những gì nó nói với bác, nếu bất kỳ tên công an cộng sản nào, không thuộc nhóm Lê Đức Thọ, biết được công tác của Luyện thì tức thời nhóm Thọ sẽ một mặt phủ nhận Luyện, lúc đó Luyện từ tù giả thành tù thật, mặt khác thủ tiêu Hồ Hữu Tường để trả đũa và để nhận chìm câu chuyện. Sáng nay, Bác phản ứng như vậy nhằm mục đích gì?
Hồ Hữu Tường thản nhiên trả lời:
-- Dĩ nhiên là tao nhằm mục đích phá vỡ kế hoạch của Lê Đức Thọ, nếu quả thật thằng Luyện là ng ười của Thọ Phe Thọ trách cứ tao ư? Tao sẽ trả lời rằng, tao là tù, tao phải tôn trọng nội qui phòng tù. Im lặng về vụ Luyện tức là tao vi phạm kỷ luật trại giam. Lê Đức Thọ có tin tao thực tâm tôn trọng kỷ luật hay không, tao chẳng cần biết. Còn tánh mạng của tao ư? Bọn Hà Nội chắc hẳn không ưa gì tao, nhưng đối với chúng nó thì tao là "con gà đẻ trứng vàng". Bộ óc của tao sản sinh ra trứng vàng. Hà Nội đang vô cùng bối rối trước hiện tình quốc nội và quốc tế, ngày nào đó Hà Nội sẽ cần đến ý kiến của tao, giết con gà, Hà Nội sẽ mất trứng vàng, tao chưa thể chết đâu, mày đừng lo!
-- Tại sao bác lại tin rằng Hà Nội xem ý kiến của bác là ý kiến vàng?
-- Câu hỏi của mày phải được trả lời rất dài dòng. Tao chỉ nói với mày một cách khái quát rằng: Hiện nay Hà Nội xem tao là một trong vài người hữu hiệu nhất trong vai trò làm gạch nối giữa đám Hà Nội ngu dốt và Thế Giới Tự Do. Tao còn nhớ, những ngày còn ở tù chung với Lê Duẩn thời Pháp thuộc, có lần tao đã nói với Lê Duẩn rằng: "Trên địa bàn sinh hoạt chính trị của thế giới, anh đừng bao giờ quên rằng mình là người da vàng, và cũng đừng bao giờ quên rằng người da trắng lúc nào cũng canh cánh bên lòng mối ưu tư mà họ gọi là "họa da vàng". Á Châu ổn định là một trong các yếu tố trội yếu của thế giới ổn định. Á Châu chỉ ổn định chừng nào Á Châu có được thế chân vạc tạo bởi ba khối: Khối Trung Hoa, Khối Ấn Độ và Khối Đông Nam Á. Tôi tin là một lúc nào đó, bằng cách nào đó, Trung Hoa chỉ còn là Hoa Bắc Cộng với Hoa Trung Hoa Nam sẽ kết hợp với các nước Đông Nam Á tạo thành Liên Bang Đông Nam Á. Trong trường hợp này, Trung Hoa (hiểu theo nghĩa Hoa Bắc + Hoa Trung), Liên Bang Đông Nam Á và Ấn Độ, mỗi khối sẽ có dân số trung bình khoảng 500 triệu, thế chân vạc sẽ ổn cố về kinh tế cũng như về chính trị, quân sự". Lê Duẩn rất chú ý tới ý kiến vừa kể. Hẳn nhiên Lê Duẩn sẽ tìm cách khai thác ý kiến này theo tính toán của người Cộng sản. Phần tao, tao vẫn đi con đường trung lập chế. Nghệ thuật và kỹ thuật cao cấp của chính trị chính là khả năng biến ý đồ của địch thành kế hoạch của ta.
Trong tình huống căng thẳng ngoại giao giữa Hoa và Việt như hiện nay, chắc hẳn Lê Duẩn sẽ phải suy nghĩ nhiều hơn về Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nam. Cuối con đường suy nghĩ này, Lê Duẩn sẽ gặp tao.
-- Tôi đồng ý với Bác là có thể Lê Duẩn rất quan tâm đến thế chân vạc của Á Châu. Tuy nhiên như Bác đã biết, đảng CSVN hiện nay rất phân hóa Lê Duẩn cũng chỉ là một phe bên cạnh nhiều phe khác. Thế nên khi phá vỡ tính chất bí mật của kế hoạch khai sanh ra chính phủ Liên Hiệp, bác có thể gặp một trong hai trường hợp kể sau:
a/ Phe Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu Bác để bít đầu mối, và để trả đũa Bác đã làm vỡ kế hoạch của họ.
b/ Phe chống Lê Đức Thọ sẽ thủ tiêu Bác để phá Lê Đức Thọ. Bác nghĩ như thế nào về sự lo ngại của tôi?
Hồ Hữu Tường im lặng một lúc rồi chậm rãi trả lời:
-- Ý kiến của mày không phải không có căn cứ. Tuy nhiên, ở vào hoàn cảnh của tao, tao không còn cách chọn lựa nào khác hơn là phá vỡ kế hoạch của Thọ, phá vỡ âm mưu "tuồng cũ, đào kép mới".
Nói chuyện với tôi xong, Hồ Hữu Tường trở về chiếu nằm của ông ta. Tôi thấy Hồ Hữu Tường và Phạm Văn Luyện nhỏ to với nhau trong chốc lát. Luyện vốn là người rất thâm trầm, khó mà nhìn thấy cảm nghĩ của Luyện xuất hiện trên nét mặt. Thế nhưng hôm ấy, lần đầu tiên tôi thấy Luyện biến sắc mặt.
Những ngày sau đó, Luyện không còn nói chuyện với Hồ Hữu Tường nữa. Luyện mất hẳn vẻ hoạt bát thường lệ. Luyện chỉ nói cho Phong (anh binh nhì nhảy dù) biết là bảy ngày sau anh ta sẽ rời phòng.
Cuối cùng Luyện từ giã chúng tôi đúng như lời anh ta đã báo trước. Lúc bấy giờ là trung tuần tháng 12 năm 1978. Cuối tháng 6 năm 1979, công an ra lệnh cho Hồ Hữu Tường ôm vật dụng cá nhân rời khỏi trại Phan Đăng Lưu.
Tháng 8 năm 1979, tại khám Chí Hòa, tôi nghe tù nhân bàn tán với nhau về chuyến xe chở Hồ Hữu Tường từ khám Chí Hòa đi trại lao động đã bị phục kích, một số tù chết, số khác bị thuơng Hồ Hữu Tường bị thương và được mang trở lại bệnh xá của khám Chí Hòa. Những tháng đầu tiên tại khám Chí Hòa, tôi ở cùng phòng với Cao Dao Nguyễn Trần Huyên, người tự nhận là một trong các sáng lập viên của báo Nhân Dân Hà Nội.
Vào dịp Giáng Sinh năm 1979, ông Cao Dao đã được phép gặp Ủy Ban Ân Xá Quốc Tế cùng với người con trai của ông ta có mặt trong Ủy Ban này. Nhân lần gặp gỡ này, ông Cao Dao có nói lại với bạn tù cùng phòng rằng: Ủy Ban Ân Xá Quốc Tế đã nhiều lần yêu cầu được gặp Hồ Hữu Tường nhưng công an cứ từ chối, viện cớ Hồ Hữu Tường đang bị bệnh. Đó là tin tức cuối cùng tại khám Chí Hòa về Hồ Hữu Tường.
Đầu năm 1981, vài ng ười tù trong khám Chí Hòa nhận được tin từ những người đi thăm nuôi: Hồ Hữu Tường hấp hối tại trại tù Hàm Tân, được công an cho phép mang về nhà và từ trần tại tư gia.
Tin Hồ Hữu Tường qua đời làm cho tôi vô cùng thắc mắc. Nếu cần chọn một ông già thất tuần kh ỏe mạnh nhất, tôi không ngần ngại chọn Hồ Hữu Tường. Hồ Hữu Tường là người có thừa hiểu biết và kinh nghiệm về các phương cách giúp cho người tù bảo vệ sức kh ỏe trong điều kiện của lao tù. Vì vậy hơn một năm ở chung phòng với Hồ Hữu Tường, tôi không hề một lần thấy Hồ Hữu Tường bị bệnh, dầu chỉ là hắt hơi hay sổ mũi. Gần như trọn ngày, Hồ Hữu Tường bao giờ cũng ở trần, cũng ngậm gừng tươi trong miệng Trong khoảng từ 1 đến 4 giờ sáng, nếu người nào thức giấc nửa đêm đều thấy Hồ Hữu Tường đầu đội mũ ni che tai, mình mặc bà ba nâu, ngồi đánh cờ tướng một mình: tay phải đánh với tay trái, đêm nào cũng như đêm nào. Mặc dầu ngủ ít theo tuổi già, ban ngày kể cả giờ ngủ trưa rất ít khi người ta thấy Hồ Hữu Tường nằm nghĩ. Người đàn ông có sức kh ỏe bền bĩ đó chỉ hai năm sau đã phải từ trần vì lý do "suy nhược toàn diện". Hẳn nhiên, chẳng còn cái chết nào đáng hoài nghi hơn.
Do lòng tôn kính khả năng suy luận của bạn đọc, thay vì đưa ra một kết luận dứt khoát về trường hợp từ trần của Hồ Hữu Tường, bài viết chỉ xin trân trọng trình với bạn đọc một số ghi chú cần thiết như sau:
- Ghi chú một: mọi quan điểm kinh tế, chính trị được bài viết ghi lại đều là quan điểm do Hồ Hữu Tường phát biểu trong bối cảnh quốc nội và quốc tế năm 1978, trước khi xảy ra chiến tranh giữa Hoa Cộng và Việt Cộng.
- Ghi chú hai: vào lúc câu chuyện Phạm Văn Luyện xảy ra, bên cạnh Hồ Hữu Tường còn có ông Trương Đình Chư, nguyên chỉ huy trưởng Cảnh Sát Đặc Biệt Đà Nẵng, hiện có mặt tại Orange County, California, Hoa Kỳ. Vị sĩ quan này đã trực tiếp thấy và nghe tất cả dữ kiện bên trong và chung quanh hoạt động của Phạm Văn Luyện. Đề cập đến nhân chứng sĩ quan cảnh sát như vừa kể, bài viết có hàm ý biểu lộ thái độ triệt để nghiêm túc và tôn kính đối với bạn đọc trong mục tiêu trình bày sự thật
- Ghi chú ba: bình luận để lượng giá toàn bộ cuộc đời hoạt động chính trị của Hồ Hữu Tường không là chủ đích của bài viết này. Bài viết chỉ nhằm diễn tả thật rõ và thật trung thực thái độ phản kháng của Hồ Hữu Tường đối với thủ đoạn "tuồng cũ, đào kép mới" của Cộng sản Việt Nam. Thái độ phản kháng này ngày nay đã trở thành một loại chúc ngôn có tác dụng lưu ý hậu thế. Lưu ý rằng: Mặc dầu Hoa Cộng và Việt Cộng chẳng thể nào trở lại thời kỳ nồng ấm của hình ảnh "núi liền núi, sông liền sông môi hở răng lạnh" nữa. Thế nhưng trước thảm cảnh tan vỡ của Cộng sản Thế Giới, hai đảng Cộng sản Á Châu này buộc lòng phải liên kết với nhau để tồn tại. Không còn nghi ngờ gì nữa: chủ nghĩa Marx ngày càng để lộ tính thô thiển và bất lực, thay vì theo chân các nước cộng sản Đông Âu, CSVN lại biến hình thành một loại băng đảng hình sự: Họ không ngần ngại đặt lợi lộc của băng đảng lên trên quyền lợi của dân tộc. Để thực hiện âm mưu vừa kể, một mặt CSVN tiếp tục đưa đẩy "tuồng cũ, đào kép mới" để mê hoặc những người nhẹ dạ. Mặt khác CSVN sẵn sàng áp dụng biện pháp Thiên An Môn trong trường hợp quyền thống trị bị lâm nguy. Rất có thể chính CSVN sẽ xử dụng những tay chân của họ trong việc tạo ra "trường hợp quyền thống trị bị lâm nguy" để có cơ hội biểu dương một Thiên An Môn Việt Nam nhằm khủng bố nhân dân trước khi ng ười dân có điều kiện nổi dậy.
- Chính phủ liên hiệp là gì?
- Hòa hợp hòa giải là gì?
- Dân chủ hóa là gì?
- Cởi trói văn nghệ là gì?
- Kinh tế thị trường tự do là gì?
Nếu người chết có thể nói, Hồ Hữu Tường sẽ không ngần ngại trả lời: Tất cả chỉ là "tuồng cũ, đào kép mới".
Đỗ Thái Nhiên
https://hung-viet.org/a1767/ho-huu-tuong-nguoi-chet-u-uan
Đệ Tam Quốc Tế cộng Sản, còn gọi là Quốc Tế Cộng Sản hay Comintern, là tổ chức của những người cộng sản, được thành lập vào tháng 3 năm 1919 ở Moskva và giải tán năm 1943, được tái sinh lại năm 1947 và giải tán năm 1956, https://en.wikipedia.org/wiki/Trotskyism_in_Vietnam
55
No comments:
Post a Comment