Friday, November 7, 2025


Tứ Quốc Đồng Văn Thời Quân Chủ:

Trung Quốc, 中国 zhōngguó
Hàn Quốc, 韩国 hánguó
Nhật Bản, 日本 rìběn
Việt Nam, 越南 yuènán

Có những điểm gì giống và có những điểm gì khác? Đề tài rất thú vị, nhưng ít ai quan sát cho đúng, phán đoán không thiên vị, không bài bác.

Rút ra từ bài học của lịch sử để tiến hóa, để cải thiện cho hay hơn, tốt hơn, đẹp hơn, đó là cái cao quý của loài người.

Đây là chủ đề rộng lớn, chỉ đưa ra rồi lại cho... ngâm rượu, lâu lâu lấy ra xem lại.

Quốc kỳ


Trang phục cổ truyền, quốc phục


Kiến Trúc cung điện

Osaka


Tử Cấm Thành


Cảnh Phước Cung


Kinh Thành Huế


Quốc lễ, năm mới

Mừng Tết âm lịch - Luna New Year (春節, 설날, Tết, 正月)

Trung Quốc, 中国 zhōngguó, 春節
Hàn Quốc, 韩国 hánguó, 설날
Nhật Bản, 日本 rìběn, 正月
Việt Nam, 越南 yuènán Tết


Âm nhạc, nhạc khí
Trung Quốc, 中国 zhōngguó, 春節, Guzheng
Hàn Quốc, 韩国 hánguó, 설날, gayageum
Nhật Bản, 日本 rìběn, 正月, Koto
Việt Nam, 越南 yuènán, Đàn Tranh/Zither

Dùng đủa, chopsticks

Việt Nam - dùng đủa tre

Đại Hàn - dùng đủa sắt

Trung quốc - dùng đủa ngà

Nhật Bản - dùng đủa gỗ mun, gỗ quý

a Vietnamese


b Korean


c Japanese


d Chinese







=============================

Cờ Long Tĩnh Kỳ - Triều Nguyễn


Trang phục cổ truyền


Cùng mừng ngày tết âm lịch
WHAT'S DIFFERENT? Chinese, Korean, Vietnamese, Japanese New Year Compared (春節, 설날, Tết, 正月)
https://youtu.be/UT6z66cIQ5E


Zither -- Đàn Tranh Vietnamese (Zither), Guzheng (Chinese), Koto (Japanese) and gayageum (Korea)

Ancient Melody · Dream of Flowing Silks
https://www.youtube.com/embed/jvbgLDbMQXs?si=SxRv1OAueIXX336I


Sakura) 25絃箏 (25 strings koto)


가야금독주 《초소의 봄》
https://youtu.be/fJk4T5_osKU?si=mvki4IW-6TqpfF1T



Vietnamese Dan Tranh (Zither)


Đủa / chopsticks /




Lịch Sử Về Đủa

Mặc dù hầu hết mọi người đều tin rằng đũa được phát minh ở Trung Quốc, nhưng theo nhiều tài liệu cổ, trước khi nó phổ biến ở các nước phía Bắc cũng như dọc theo lưu vực sông Hoàng Hà, đũa đã được người dân của nền văn minh lúa nước ở miền nam Trung Quốc và Bắc Đông Nam Á sử dụng.

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu phương Tây, các nhà sử học phương Tây nói rằng đũa là một loại văn minh Trung Quốc, nền văn minh 'des baguettes'.
Đôi đũa được phát hiện sớm nhất là một cặp kim loại trong thời nhà Thương (khoảng 1600-1046 trước Công nguyên) được khai quật tại địa điểm khảo cổ Yinchu. Được phát minh cách đây khoảng 3000-5000 năm, đũa đã trở thành nền văn minh, bộ mặt của một nền văn hóa rộng lớn bao gồm nhiều quốc gia châu Á. Tuy nhiên, đây không phải là đôi đũa đầu tiên của nhân loại, nó là đôi đũa lâu đời nhất được tìm thấy chỉ vì nó là kim loại (đũa tre tất nhiên hầu như không để được lâu như vậy). Cho thấy thời Nhà Thương có sắt (kim loại) trong khi thời Đế Minh, Đế Nghi là thời đồ đá, chưa có luyện sắt).

Một minh chứng nữa cho thấy đũa xuất hiện từ rất sớm trong văn hóa Việt Nam là một chi tiết trong truyện cổ tích Trầu Cau. Khi cô gái mời đãi bữa cơm cho anh em Tân và Lãng hai anh em sinh đôi giống nhau như đúc, cô cố tình chỉ dọn lên một đôi đũa để cố gắng xem ai sẽ cho người kia ăn trước. (Trên kính, dưới nhường - anh nhường cho em) Theo bối cảnh lịch sử của Trầu Cau, câu chuyện ra đời dưới thời vua Hùng Vương, tức là trước thời nhà Tần và trước 1000 năm bắc phương thống trị Bách Việt, đũa đã tồn tại trong văn hóa Việt Nam.

Gần đây, khác với các nghiên cứu về lịch sử phương Tây, nhiều nghiên cứu của Trung Quốc và Việt Nam đã chỉ ra rằng -- người dân của nền văn minh lúa nước là những người đã phát minh ra đũa. Nhiều nhà sử học và học giả Trung Quốc như Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Quách Mạt Nhược đã thừa nhận rằng: Tổ tiên của người Hán cổ đại đến từ phía tây lưu vực sông Hoàng Hà với một nền văn minh nông nghiệp khô cằn (trồng kê, lúa mạch, lúa mì), tức là nền văn minh đã ăn họ bằng tay mà không cần dùng đũa.

Theo cuốn sách Lịch sử văn hóa Trung Quốc do Đàm Gia Kiện biên soạn, người tiền Tần (pre Qin) không biết dùng đũa, họ dùng tay nhặt lên theo phong tục của nền văn minh nông nghiệp khô cằn trồng kê, đậu, v. v... Họ chỉ bắt đầu dùng đũa kể từ khi kéo quân thôn tính nam (Đông Nam Á) là vùng đất có nền văn minh lúa nước, điển hình là dân cư Bách Việt (người Baiyue).
Ghi nhớ rằng, trồng kê, lúa Mạch, lúa Mì dễ trồng hơn và trồng lúa. trồng kê, Mạch, lúa mì nơi có khí hậu khô cũng được, các loại ngũ cốc này không cần nhiều nước như trồng lúa. Trồng lúa thì phải theo khí hậu vùng gió mùa, và mùa vụ.


History of chopsticks

Although most people believe that chopsticks were invented in China, according to many ancient documents, before it was popular in the Northern countries as well as along the Yellow River basin, chopsticks were used by the people of the wet rice civilization in southern China and Northern Southeast Asia.<<== This is the area of the ancient Vietnamese.

According to many Western research documents, Western historians say that chopsticks are a type of Chinese civilization, the civilization des baguettes. The earliest discovered chopsticks were a metal pair during the Shang Dynasty (circa 1600-1046 BC) excavated at the Yinchu archaeological site. Invented around 3000-5000 years ago, chopsticks have become civilization, the face of a vast culture including many Asian countries. However, this is not the first chopsticks of mankind, it is the oldest chopsticks found just because it is metal (bamboo chopsticks of course hardly last that long).

Recently, unlike the studies of Western history, many Chinese and Vietnamese studies have shown that the people of the wet rice civilization are the ones who invented chopsticks. Many Chinese historians and scholars such as Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Quách Mạt Nhược have acknowledged that -- the ancestors of the ancient Han Chinese came from the west of the Yellow River basin with a dry agricultural civilization (growing millet, barley), i.e. the civilization that ate it by hand without using chopsticks.

According to the book Chinese Cultural History compiled by Đàm Gia Kiện, pre-Qin Chinese people did not know how to use chopsticks, they used their hands to pick them up in accordance with the custom of the dry agricultural civilization growing millet, pulses, wheat, etc. They only started using chopsticks since pulling troops to annex the South (Southeast Asia) which is the land with wet rice civilization, typically the population of Bach Viet (Baiyue people).

One more proof that chopsticks appeared very early in Vietnamese culture is a detail in the fairy tale 'Trau Cau'. When the girl served rice for twin brothers Tan and Lang, she purposely served only a pair of chopsticks to try to see who would let the other eat first. According to the historical context of Trau Cau, the story was born during the reign of King Hung Vuong, that is, before the Qin Dynasty and before the 1000 years of Northern domination, chopsticks existed in Vietnamese culture.

Conclusion:

Still lacking of evidence to prove the ancient Vietnamese invents chopsticks 🥢 by themselves but it showed that Han Chinese didn’t invent chopsticks and the Vietnamese knew how to use chopsticks while the Chinese used hands for eating.

Wedding Dresses - Vietnam
https://youtu.be/y-njdJ0BZjk?si=tRXYSXbkCQQBWiFS


1


4


6


14


> 7


8


9



/10


b



Chú ý: Áo cưới cổ truyền Viêt Nam, đi kèm với vàng vòng ngày cưới, khác với áo hoàng hậu, áo nữ hoàng, áo công chúa của triều đình và khác với áo truyền thống mặc ngày lễ lớn hay tết.
Wedding traditional dress is not national dress tradition dress, or Royal traditional dress

Áo Nhật Bình cung đình Việt Nam

Áo Nhật Bình cung đình Việt Nam hay ngày cưới của công nương

Áo Nhật Bình cung đình


Nam Phương Hoàng hậu mặc áo Nhật bình cung đình cùng khăn xếp


Ngày tết các em nhỏ mặc áo truyền thống đến mừng tuổi ông bà


=============================
Wedding Dresses - Trung Quốc, 中国 zhōngguó

Traditionally wedding 中国 zhōngguó


b


c


It is very hard to deterr Zhongguó because so many cutures, so many countries, so I pick up Manchurian, no one know what Han cultures look like.
Văn hóa Trung quốc thời quân chủ thì Mãn Châu đã có mặt 300 (ba trăm năm) trước đó là nhà Nguyên, nhà Tống bị ngoại lai cai trị nên văn hóa Tần - Hán bị đứt khoảng nhiều và quá lâu.

Wedding Dresses - Hàn Quốc, 韩国 hánguó

1


2


3


4


5


6


0
1




8


*****

Wedding Dresses - Nhật Bản, 日本 rìběn

1




2
>










======================

Tư tưởng và lý tưởng (triết lý)
- Viet Nam: Tính lưỡng nguyên và hệ thống Hùng Vương
Con Rồng Cháu Tiên
Confucianism: adapted some only

- Trung Quốc, 中国 zhōngguó: Confucianism is mainstream

- Hàn Quốc, 韩国 hánguó: Confucianism is mainstream

- Nhật Bản, 日本 rìběn: Shinto
Confucianism: adapted some only



.........................................

Bách Gia Chư Tử

Bách Gia Chư Tử (諸子百家; zhū zǐ bǎi jiā) là những triết lý và tư tưởng ở Trung Nguyên cổ đại nở rộ vào giai đoạn từ thế kỷ thứ 6 đến năm 221 TCN trong thời kỳ Xuân Thu và Chiến Quốc.

Đây là thời kỳ hoàng kim của triết học Trung Quốc vì rất nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng được phát triển và bàn luận một cách tự do. Hiện tượng này được gọi là trăm nhà tranh tiếng (百家爭鳴/百家争鸣 "bách gia tranh minh" bǎijiā zhēngmíng. Nhiều hệ thống triết lý và tư tưởng Trung Quốc ở thời kỳ này đã có ảnh hưởng sâu rộng tới cách sống và ý thức xã hội của người dân các nước Đông Á cho đến tận ngày nay.

Xã hội trí thức thời kỳ này có đặc thù ở sự lưu động của những người trí thức, họ thường được nhiều nhà cai trị ở nhiều tiểu quốc mời làm cố vấn về các vấn đề của chính phủ, chiến tranh, và ngoại giao.

Thời kỳ này kết thúc bởi sự nổi lên của nhà Tần và sự đàn áp các tư tưởng khác biệt sau đó.

I. Tổng quát

Vào những năm cuối thời nhà Chu, từ cuối thời Xuân Thu tới khi Trung Nguyên bị nhà Tần thâu tóm, trong lúc hệ thống tư tưởng ở Trung Nguyên bước vào giai đoạn nở rộ nhất. Gương mặt quan trọng nhất trong thời kỳ này chính là Khổng Tử, người sáng lập Nho giáo. Ông đã lập ra một triết lý đạo đức chặt chẽ, không sa đà vào những suy luận siêu hình. Mục đích của ông là cải tổ triều đình, nhờ thế có thể chăm sóc dân chúng tốt hơn.

Một nhà triết học khác là Lão Tử, cũng tìm cách cải cách chính quyền, nhưng triết học của ông ít có tính thực dụng. Lão Tử được cho là người sáng lập Đạo giáo, với giáo lý căn bản là tuân theo Đạo.

Trong khi Khổng giáo chủ trương tuân theo đạo trời bằng cách phải sống tích cực nhưng có đức.

Đạo giáo khuyên không nên can thiệp và tranh chấp.

Người thứ hai góp phần phát triển Đạo giáo chính là Trang Tử. Ông cũng dạy một triết lý gần tương tự. Tuy nhiên, cả hai không tin rằng Đạo có thể giải thích được bằng lời, vì vậy sách của họ mâu thuẫn và thường rất khó hiểu.

Trường phái lớn thứ ba là Mặc Tử, người cũng tìm cách cải cách triều đình để bảo đảm đời sống cho người dân. Tuy nhiên, Mặc Tử tin rằng -- nguyên nhân căn bản của mọi tai họa và khốn cùng của con người là do yêu người này mà ghét người kia, và vì vậy ông giảng giải thuyết kiêm ái: Thông thường, người ta với những người có quan hệ gần gũi ta đối xử với họ khác hơn so với một người hoàn toàn xa lạ. Mặc Tử tin rằng chúng ta phải đối xử với tất cả mọi người như đối với người thân nhất của chúng ta vậy. Nếu tất cả chúng ta đều làm như thế, những thứ như chiến tranh và đói nghèo sẽ biến mất.

Một trường phái lớn khác là Pháp gia. Xuất phát từ một nhánh của Khổng giáo.

Pháp gia tin rằng con người vốn bản tính ác và chỉ vị kỷ. Kiểu triều đình tốt nhất và đóng góp nhiều nhất cho phúc lợi người dân sẽ là một triều đình kiểm soát chặt chẽ các bản năng của con người. Triều đình này sẽ cai trị bằng những pháp luật cứng rắn và chặt chẽ; sự trừng phạt sẽ nghiêm khắc và nhanh chóng.
Sự tin ở việc cai trị bằng pháp luật là lý do tại sao họ được gọi là Pháp gia.

II. Các trường phái tư tưởng

Nho gia

Bài chi tiết: Nho giáo

Khổng Tử, người sáng lập Khổng giáo, có ảnh hưởng rất lớn tới hệ tư tưởng của Trung Quốc và Đông Á.

Nho gia, Nho giáo (hay còn gọi là Khổng giáo) là hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng lớn nhất tới đời sống Trung Quốc. Nó cũng được coi là một Trường phái của các học giả, những bản ghi chép kế thừa của nó nằm trong những cuốn sách kinh điển Khổng giáo, sau này nó trở thành nền tảng của xã hội truyền thống.

Khổng Tử (551–479 TCN), coi giai đoạn đầu của nhà Chu là một trật tự chính trị - xã hội lý tưởng. Ông tin rằng -- hệ thống chính phủ muốn có hiệu quả thì "Vua phải ra vua và tôi phải ra tôi". Hơn nữa, ông cho rằng một vị vua phải có đạo đức để có thể cai trị một cách đúng đắn. Đối với Khổng Tử, các chức năng của chính phủ và tầng lớp xã hội là những sự thực của cuộc sống cần phải được duy trì bởi những giá trị đạo đức; vì thế con người lý tưởng của ông là quân tử (hay con của vị vua cai trị), nó thường được dịch thành "người quý phái" trong tiếng Anh.

Mạnh Tử (371–289 TCN), là người kế thừa tư tưởng của Khổng Tử, có những đóng góp quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa nhân đạo trong trường phái Nho gia. Ông tin rằng, theo lẽ tự nhiên, bản tính con người là thiện. Ông cho rằng một vị vua không thể cai trị nếu không có sự đồng ý của người dân, và rằng sự trừng phạt dành cho sự cai trị không được lòng dân và bạo ngược chính là để mất "thiên mệnh".

Tác động của những tư tưởng của Khổng Tử, luật lệ và giải thích một hệ thống các mối quan hệ dựa trên thói quen đạo đức, cùng với Mạnh Tử, sự tổng hợp và sự phát triển tư tưởng ứng dụng của Khổng Tử, đã mang lại cho xã hội Trung Quốc truyền thống một khung sườn toàn diện từ đó xếp đặt hầu như tất cả các mặt của cuộc sống.

Đã có những phát triển thêm vào tư tưởng Khổng giáo, ở ngay thời điểm đó và trong quá trình hàng nghìn năm sau cả của những người bên trong và bên ngoài Khổng giáo. Những sự giải thích được sửa đổi để thích ứng với xã hội cho phép một số sự mềm dẻo bên trong Khổng giáo, trong khi hệ thống ứng xử khuôn phép nền tảng của nó từ những thời xa xưa vẫn là phần chính trị căn bản của Khổng giáo.
Ví dụ, hoàn toàn đối lập với Mạnh Tử là sự giải thích của Tuân Tử (kh. 300–237 TCN), một học giả Khổng giáo khác về sau này. Tuân Tử chủ trương rằng con người bẩm sinh là ích kỷ và xấu xa (tính ác); ông cho rằng tính thiện chỉ có được thông qua giáo dục và hành động phù hợp với hoàn cảnh của mỗi người. Ông cũng cho rằng hình thức chính phủ tuyệt vời nhất là dựa trên sự kiểm soát độc đoán, và rằng đạo đức là không liên quan tới việc cai trị một cách hiệu quả.

Pháp gia

Bài chi tiết: Pháp gia

Những chủ trương cai trị không dựa trên tình cảm và theo cách độc đoán của Tuân Tử. Ông đã được phát triển thành một học thuyết là hiện thân của trường phái pháp luật Pháp gia.

Học thuyết này được Thương Ưởng (ch. 338 TCN), Hàn Phi Tử (ch. 233 TCN) và Lý Tư (ch. 208 TCN) thành lập, họ cho rằng bản tính con người là ích kỷ và không thể sửa đổi được; vì thế, cách duy nhất để giữ trật tự xã hội là áp đặt kỷ luật từ bên trên, và tăng cường pháp luật một cách chặt chẽ.

Phái pháp gia đề cao nhà nước trên mọi thứ khác, coi sự thịnh vượng và quyền lực quân sự của nhà nước quan trọng hơn hạnh phúc của người dân.

Pháp gia đã có ảnh hưởng lớn tới những căn bản triết học cho các hình thức chính phủ đế quốc. Trong thời nhà Hán, những yếu tố thiết thực nhất của Khổng giáo và Pháp gia đã được dùng để tạo nên một hình thái tổng hợp, mang tới sự sáng tạo, một hình thái mới của chính phủ tồn tại mãi tới cuối thế kỷ 19.

Đạo gia

Bài chi tiết: Đạo giáo

Lão Tử.

Thời nhà Chu là một giai đoạn chứng kiến sự phát triển của Đạo giáo, luồng tư tưởng có ảnh hưởng lớn thứ hai ở Trung Quốc. Những hệ thống của nó thường được cho là của Lão Tử, người được cho là ra đời trước Khổng Tử, và Trang Tử (369–286 TCN).

Mục đích của Đạo giáo là cá nhân bên trong tự nhiên chứ không phải là cá nhân ở trong xã hội; theo Đạo giáo, mục đích cuộc sống đối với mỗi người là tìm cách điều chỉnh mình và hòa nhập với nhịp điệu của tự nhiên (và thế giới siêu nhiên), để theo đúng (Đạo) của vũ trụ, để sống hài hòa. Nó đối lập về nhiều mặt với chủ nghĩa đạo đức cứng ngắc của Khổng giáo.

Đạo giáo đối với nhiều tín đồ là một cách bổ sung vào cuộc sống hàng ngày. Một học giả khi là một vị quan phải theo những lời răn dạy của Khổng giáo, nhưng những lúc thư nhàn hay khi đã về hưu thì có thể tìm kiếm sự hòa hợp với thiên nhiên như một người Đạo giáo ẩn dật.

Âm Dương gia

Bài chi tiết: Âm Dương Gia

Một khuynh hướng tư tưởng khác thời Chiến Quốc là trường phái Âm - Dương và Ngũ Hành. Là một nhánh được tách ra từ Đạo gia (khoảng 500 năm sau khi Đạo gia hình thành). Những học thuyết đó cố gắng giải thích vũ trụ theo những thuật ngữ của những lực lượng căn bản trong tự nhiên: những tác nhân của âm (tối, lạnh, phụ nữ, phủ định) và dương (ánh sáng, nóng, đàn ông, khẳng định) và Ngũ hành (nước, lửa, gỗ, kim loại, và đất).
Khi mới xuất hiện, các học thuyết này được phát triển ở nước Yên và Tề. Về sau, những học thuyết nhận thức luận này chiếm một phần đáng kể trong cả triết học và đức tin của dân chúng.

Mặc gia

Bài chi tiết: Mặc gia

Mặc gia được thành lập theo học thuyết của Mặc Tử (470 – kh.391 TCN). Mặc dù trường phái này chỉ tồn tại trước thời nhà Tần, Mặc học vẫn được coi là một phe đối lập chính với Khổng giáo trong giai đoạn Bách gia chư tử.

Triết học của nó dựa trên ý tưởng kiêm ái: Mặc Tử tin rằng "tất cả mọi người đều bình đẳng trước thượng đế", và rằng con người phải học theo trời bằng cách thực hiện thuyết kiêm ái (yêu quý mọi người như nhau). Nhận thức luận của ông có thể được coi là những căn bản đầu tiên của chủ nghĩa kinh nghiệm; ông tin rằng nhận thức của chúng ta phải dựa trên năng lực tri giác – những kinh nghiệm giác quan của chúng ta, như nhìn và nghe – chứ không phải tưởng tượng và lý tính nội tại, là những yếu tố tạo nên khả năng trừu tượng của chúng ta.

Mặc Tử biện hộ cho tính thanh đạm, lên án sự nhấn mạnh của Khổng giáo đối với đạo đức và nhạc, mà ông coi là phung phí. Ông coi chiến tranh là vô ích và ủng hộ hòa bình. Việc hoàn thành các mục tiêu xã hội, theo Mặc tử, là cần phải thống nhất tư tưởng và hành động.

Triết lý chính trị của ông ủng hộ một chính thể quân chủ giống với sự cai trị của thần thánh: dân chúng phải luôn luôn vâng lời những người lãnh đạo, và những người lãnh đạo phải luôn theo ý nguyện của trời.

Mặc học có thể có những yếu tố của chế độ nhân tài: Mặc Tử cho rằng những nhà cai trị phải chỉ định ra những quan chức theo phẩm hạnh và khả năng chứ không phải vì những mối quan hệ gia đình của họ. Mặc dù lòng tin của dân chúng vào Mặc gia đã giảm sút từ cuối thời Tần, những quan điểm của nó vẫn còn để lại dấu ấn sâu đậm trong tư tưởng Pháp gia.

Danh gia

Bài chi tiết: Danh gia

Danh gia là một trường phái phát sinh từ Mặc Gia, với một triết lý được cho rằng tương tự với triết lý của người Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng hay ngụy biện. Nổi tiếng nhất trong giới Danh Gia là Công Tôn Long.

Binh gia

Binh gia là trường phái của các nhà quân sự: Tướng lĩnh và nhà chiến thuật cùng chiến lược quân sự. Binh gia có các đại diện: Tôn Vũ, người nước Ngô (còn gọi là Tôn Tử) với tác phẩm "Tôn Tử Binh Pháp";

Điền Nhương Thư, người nước Tề (còn gọi là Tư Mã Điền Nhương Thư), với tác phẩm: "Tư Mã pháp";

Ngô Khởi, người nước Lỗ, với cuốn "Ngô Tử Binh Pháp", người đời sau so sánh ông với Tôn Tử, trở thành đại diện cho Binh gia cho nên có câu "Binh Pháp Tôn Ngô"...

Những tác phẩm của họ đã gây ảnh hưởng lớn tới các Binh Gia đời sau như:

Tôn Tẫn (nước Tề),
Bàng Quyên (nước Ngụy),
Úy Liêu (nước Tần)...

Trong thời loạn lạc

— Pháp gia và Tung Hoành gia có giá trị thực dụng.
— Nho gia nói "nhân nghĩa",
— Mặc gia bảo "kiêm ái"...
thì chưa được công nhận rộng rãi.

— Còn Đạo gia nói "vô vi" rất cao siêu. Thường là một cảnh giới rất cao dùng để tu luyện giống như Phật giáo.

Đạo gia chỉ là hai môn phái Phật Đạo khác nhau mà thôi.

§ Nho gia lấy nhân nghĩa làm gốc giúp con người hướng thiện,
§ Pháp gia dùng hình phạt để răn đe làm người ta sợ hãi mà không dám làm loạn.

III. Kết luận

Như vậy, các tư tưởng trên nói chung đều có mục đích khiến xã tắc yên ổn, thiên hạ thái bình để quốc gia phát triển, xã hội phồn vinh. Nhưng cách thức thì khác nhau.

Nguồn: http://chinhnghia.com/DatNuocViet_co_trongvung_DongA_ed-2017.pdf


Đổng Trọng Thư Hà Bắc 河北, tư tưởng gia, tinh thông học thuyết Nho gia đề xướng chính sách ĐỘC TÔN NHO THUẬT

HÁN VŨ ĐẾ “BÃI TRUẤT BÁCH GIA, ĐỘC TÔN NHO THUẬT”

Từ khi Hán Cao Tổ Lưu Bang 刘邦 diệt Hạng Vũ 项羽 kiến lập nên triều Hán, đến khi Lưu Bang băng hà, Hán triều truyền được mấy đời, đến năm 140 trước công nguyên, hoàng thái tử Lưu Triệt 刘彻 lên ngôi. Lưu Triệt chính là Hán Vũ Đế, triều Hán lúc bấy giờ là phồn vinh và hưng thịnh nhất.

Vũ Đế lên ngôi lúc 16 tuổi, ông đã sớm lập chí tạo dựng sự nghiệp lâu dài. Vũ Đế hạ chiếu xuống các quận huyện, áp dụng những biện pháp, những người trực ngôn dâng lời can gián, trong số đó nổi tiếng nhất chính là Đổng Trọng Thư 董仲舒.

Đổng Trọng Thư người Quảng Xuyên 广川 (nay thuộc địa phận huyện Tảo Trang 枣庄 tỉnh Hà Bắc 河北), ông là tư tưởng gia, chính luận gia thời Tây Hán, và cũng là người tinh thông học thuyết Nho gia, từng giữ chức Bác sĩ thời Cảnh Đế.

Đổng Trọng Thư nhìn thấy từ khi kiến lập đến nay triều Hán mấy lần phát sinh sự kiện vương quốc mưu phản, Trọng Thư cho rằng cần phải được củng cố địa vị trung ương tập quyền của hoàng đế. Ông căn cứ vào kiến giải của mình và nhu cầu về chính trị, cải tạo học thuyết Nho gia do Khổng Tử sáng lập kinh qua Mạnh Tử phát triển, bằng cách đem học thuyết và tư tưởng mê tín 'âm dương ngũ hành' dung hợp lại, khiến học thuyết Nho gia biến thành một loại lý luận mang màu sắc mê tín nhằm củng cố quyền hành cho chế độ một cách mê tín như một tôn giáo.

Khi Hán Vũ Đế hạ chiếu tiến cử kẻ sĩ hiền lương, Đổng Trọng Thư đã đề xướng kiến nghị “thiên nhân tam sách” 天人三策 với Hán Vũ Đế. Ý nghĩa là:

- Hoàng đế là đại biểu của trời, quyền lực của hoàng đế do trời trao cho, con người phục tùng hoàng đế chính là phục tùng 'thiên đạo'.

- Trời có ý chí (?), sự vật trên thế gian tồn tại và biến hóa theo ý trời quyết định.

Đổng Trọng Thư đặc biệt đề xướng “tam cương ngũ thường” 三纲五常 để duy trì trật tự, như một tôn ti trật tự trong chính sách quan quyền.

Dưới thiên đạo, giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em cần phải tuân thủ nghiêm nhặt lễ tiết thượng hạ tôn ti, tuyệt đối không được vi phạm lễ tiết này.

Về sau, “tam cương ngũ thường” trở thành quan niệm luân lý đạo đức quan lại và trở thành công cụ đắc lực củng cố sự thống trị chế độ quân chủ. Đối với tư tưởng của con người, quan niệm luân lý đạo đức “tam cương ngũ thường” làm tôn ti trật tự là một chính sách sản sinh tiêu cực, trói buộc tư tưởng con người quá khắc khe. Trọng Thư còn nói rằng:

“Học thuyết của bách gia chư tử là tư tưởng làm trở ngại quyền hành của hoàng đế, chỉ có học thuyết Nho học độc tôn mới có thể củng cố ưu thế về quyền lực .”

Năm Kiến Nguyên 建元 thứ 6 (năm 135 trước công nguyên), Hán Vũ Đế 21 tuổi chính thức bắt đầu độc quyền chỉnh sửa chính sự: ông ra sức chỉnh đốn triều cương, bổ nhiệm Điền Phần 田蚡 làm Thừa tướng. Ông còn ra lệnh thiết lập:

“Ngũ kinh bác sĩ” 五经博士, chuyên truyền thụ học thuyết Nho gia, dưới ngũ kinh bác sĩ có 50 đệ tử, những đệ tử này dưới sự chỉ đạo của ngũ kinh bác sĩ chuyên học kinh sách Nho gia, đồng thời quy định hàng năm tiến hành khảo thí họ một lần, trong ngũ kinh chỉ cần học thông một kinh là có thể làm quan, người đạt thành tích ưu tú có thể làm quan lớn.

Về sau, nhân số của bác sĩ đệ tử dần tăng lên đến 3,000 người. Học tập kinh sách Nho gia, đạt được thành tích ưu tú trở thành con đường thi cử tiến quan duy nhất của đám học sĩ.

Người dựa vào học thuyết Nho gia để làm quan đương nhiên sẽ theo lý luận của Đổng Trọng Thư, giúp Hán Vũ Đế củng cố quyền hành trị lý thiên hạ và phụ tá triều chính vững chắc và dùng học thuyết Nho gia để giáo dục đời sau.

Từ đó trở đi, tư tưởng trung ương tập quyền gây nên sự độc đoán, chuyên quyền bắt đầu chính thức trở thành tư tưởng chính thống trong xã hội nước Tàu, học thuyết Nho gia được Đổng Trọng Thư hoàn toàn thống trị cả lĩnh vực văn hóa, tư tưởng độc quyền trong mọi ngỏ nghách trong xã hội thời quân chủ nước Tàu.

Thế là học thuyết của "bách gia chư tử" khác dần bị bài xích, bài bác, bỏ rơi.
Đây chính là điều mà trong lịch sử gọi là “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” 罢黜百家, 独尊儒术.

****************************

Nước Tàu từ thời Hán Vũ Đế là đã đi vào thoái trào, sau bị đào thải. Sau này dân Tàu trở thành thiểu số trong khi bị các thế lực ngoại bang thống trị.

Đời Tống thì Hán tộc bị nhục nhã thảm hại trước Liêu, Hạ, Kim. Triều Hán vừa mất danh, vừa phải cống nạp.


Triều Hán
Dưới kiến nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã thực hành phương châm “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”. Đối với chính trị phong kiến là tăng cường trung ương tập quyền, là có tác dụng tích cực quyền hành hơn cho giới thống trị hơn cho thành phần xả hội nhân bản, phúc lợi cho dân chúng. Với giai cấp thống trị phong kiến là có lợi, nhưng điều này nó đã thần hóa quân quyền, vì nó tước đoạt quyền tư tưởng học thuật.

“bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật” điều này đã gây ra tác dụng xấu vì nó giam cầm đầu óc con người, khiến nó càng tăng lên sự ủng hộ cho việc thống trị chế độ phong kiến, nó là tiền đề cho về sau, những kẻ thống trị của các vương triều đã không ngừng bổ sung và tăng thêm độc tôn học thuyết Nho gia. Đây là hậu quả xấu của xã hội Trung Quốc, làm đình trệ, thoái trào, hủ lậu và không tiến lên trong một thời gian dài hơn hai ngàn năm, khiến bao triều đại không loại bỏ hoặc tách ra chính sách “độc tôn Nho thuật” mà Hán Vũ Đế đề xướng.


Huỳnh Chương Hưng

Quy Nhơn 05/4/2015

Nguyên tác Trung văn

HÁN VŨ ĐẾ “BÃI TRUẤT BÁCH GIA, ĐỘC TÔN NHO THUẬT”

汉武帝 “罢黜百家, 独尊儒术” Trong quyển

TRUNG QUỐC THƯỢNG HẠ NGŨ THIÊN NIÊN

中华上下五千年

Chủ biên: Lý Tinh 李晶

Nam Kinh đại học xuất bản xã, 2007



Hundred Schools of Thought

Hundred Schools of Thought / Bách Gia Chư Tử


Birthplaces of notable Chinese philosophers from Hundred Schools of Thought in the Zhou dynasty.

The Hundred Schools of Thought (Chinese: 諸子百家; pinyin: zhūzǐ bǎijiā) were philosophies and schools that flourished from the 6th century BC to 221 BC during the Spring and Autumn period and the Warring States period of ancient China.[1]

An era of substantial discrimination in China,[2] it was fraught with chaos and bloody battles, but it was also known as the Golden Age of Chinese philosophy because a broad range of thoughts and ideas were developed and discussed freely. This phenomenon has been called the Contention of a Hundred Schools of Thought (百家爭鳴/百家争鸣; bǎijiā zhēngmíng; pai-chia cheng-ming; "hundred schools contend"). The thoughts and ideas discussed and refined during this period have profoundly influenced lifestyles and social consciousness up to the present day in East Asian countries and the East Asian diaspora around the world. The intellectual society of this era was characterized by itinerant scholars, who were often employed by various state rulers as advisers on the methods of government, war, and diplomacy.

This period ended with the rise of the imperial Qin dynasty and the subsequent purge of dissent.


Schools listed in the Shiji

A traditional source for this period is the Shiji, or Records of the Grand Historian by Sima Qian. The autobiographical section of the Shiji, the "Taishigong Zixu" (太史公自序), refers to the schools of thought described below.

Confucianism

Confucianism (儒家; Rújiā; Ju-chia; "School of scholars") is the body of thought that arguably had the most enduring effects on Chinese life. Its written legacy lies in the Confucian Classics, which later became the foundation of traditional society. Confucius (551–479 BC), or Kongzi ("Master Kong"), looked back to the early days of the Zhou dynasty for an ideal socio-political order. He believed that the only effective system of government necessitated prescribed relationships for each individual: "Let the ruler be a ruler and the subject a subject". Furthermore, he contended that a king must be virtuous in order to rule the state properly. To Confucius, the functions of government and social stratification were facts of life to be sustained by ethical values; thus his ideal human was the junzi, which is translated as "gentleman" or "superior person".

Mencius (371–289 BC), or Mengzi, formulated his teachings directly in response to Confucius.

The effect of the combined work of Confucius, the codifier and interpreter of a system of relationships based on ethical behavior, and Mencius, the synthesizer and developer of applied Confucianist thought, was to provide traditional Chinese society with a comprehensive framework by which to order virtually every aspect of life.

There were many accretions to the body of Confucian thought, both immediately and over the millennia, from within and without the Confucian school. Interpretations adapted to contemporary society allowed for flexibility within Confucianism, while the fundamental system of modeled behavior from ancient texts formed its philosophical core.

Diametrically opposed to Mencius, in regards to human nature (性), was the interpretation of Xunzi (c. 300–237 BC), another Confucian follower. Xunzi preached that man is not innately good; he asserted that goodness is attainable only through training one's desires and conduct.


Legalism

The School of Law or Legalism (法家; Fǎjiā; Fa-chia; "School of law") doctrine was formulated by Li Kui, Shang Yang (d. 338 BC), Han Fei (d. 233 BC), and Li Si (d. 208 BC), who maintained that human nature was incorrigibly selfish; accordingly, the only way to preserve the social order was to impose discipline from above, and to see to a strict enforcement of laws. The Legalists exalted the state above all, seeking its prosperity and martial prowess over the welfare of the common people.

Legalism greatly influenced the philosophical basis for the imperial form of government. During the Han dynasty, the most practical elements of Confucianism and Legalism were taken to form a sort of synthesis, marking the creation of a new form of government that would remain largely intact until the late 19th century, with continuing influence into the present.

Taoism

Philosophical Taoism or Daoism (道家; Dàojiā; Tao-chia; "School of the Way") developed into the second most significant stream of Chinese thought. Its formulation is often attributed to the legendary sage Laozi ("Old Master"), who is said to predate Confucius, and Zhuangzi (369–286 BC). The focus of Taoism is on the individual within the natural realm rather than the individual within society; accordingly, the goal of life for each individual is seeking to adjust oneself and adapting to the rhythm of nature (and the Fundamental) world, to follow the Way (tao) of the universe, and to live in harmony. In many ways the opposite of rigid Confucian morality, Taoism was for many of its adherents a complement to their ordered daily lives. A scholar serving as an official would usually follow Confucian teachings, but at leisure or in retirement might seek harmony with nature as a Taoist recluse. Politically, Taoism advocates for rule through inaction, and avoiding excessive interference.

Mohism

Mohism or Moism (墨家; Mòjiā; Mo-chia; "School of Mo") was developed by followers of Mozi (also referred to as Mo Di; 470–c.391 BC). Though the school did not survive through the Qin dynasty, Mohism was seen as a major rival of Confucianism in the period of the Hundred Schools of Thought. Its philosophy rested on the idea of impartial care (Chinese: 兼愛; pinyin: Jian Ai; lit. 'inclusive love/care'): Mozi believed that "everyone is equal before heaven", and that people should seek to imitate heaven by engaging in the practice of collective love. This is often translated and popularized as "universal love", which is misleading as Mozi believed that the essential problem of human ethics was an excess of partiality in compassion, not a deficit in compassion as such. His aim was to re-evaluate behavior, not emotions or attitudes.[3] His epistemology can be regarded as primitive materialist empiricism; he believed that human cognition ought to be based on one's perceptions – one's sensory experiences, such as sight and hearing – instead of imagination or internal logic, elements founded on the human capacity for abstraction.

Mozi advocated frugality, condemning the Confucian emphasis on ritual and music, which he denounced as extravagant. He regarded offensive warfare as wasteful and advocated pacifism or at the most, defensive fortification. The achievement of social goals, according to Mozi, necessitated the unity of thought and action. His political philosophy bears a resemblance to divine-rule monarchy: the population ought always to obey its leaders, as its leaders ought always to follow the will of heaven. Mohism might be argued to have elements of meritocracy: Mozi contended that rulers should appoint officials by virtue of their ability instead of their family connections. Although popular faith in Mohism had declined by the end of the Qin Dynasty, its views are said to be strongly echoed in Legalist thought.

School of Yin-yang

The School of Naturalists or Yin-yang (陰陽家/阴阳家; Yīnyángjiā; Yin-yang-chia; "School of Yin-Yang") was a philosophy that synthesized the concepts of yin-yang and the Five Elements; Zou Yan is considered the founder of this school.[4] His theory attempted to explain the universe in terms of basic forces in nature: the complementary agents of yin (dark, cold, female, negative) and yang (light, hot, male, positive) and the Five Elements or Five Phases (water, fire, wood, metal, and earth). In its early days, this theory was most strongly associated with the states of Yan and Qi. In later periods, these epistemological theories came to hold significance in both philosophy and popular belief. This school was absorbed into Taoism's alchemic and magical dimensions as well as into the Chinese medical framework. The earliest surviving recordings of this are in the Ma Wang Dui texts and Huangdi Neijing.

School of Names

The School of Names or Logicians (名家; Míngjiā; Ming-chia; "School of names") grew out of Mohism, with a philosophy that focused on definition and logic. It is said to have parallels with that of the Ancient Greek sophists or dialecticians. The most notable Logician was Gongsun Longzi.

Schools listed in the Hanshu

In addition to the above six major philosophical schools within the Hundred Schools of Thought, the "Yiwenzhi" of the Book of Han adds four more into the Ten Schools (十家; Shijia).

School of Diplomacy

The School of Diplomacy or School of Vertical and Horizontal [Alliances] (纵横家; 縱橫家; Zonghengjia) specialized in diplomatic politics; Zhang Yi and Su Qin were representative thinkers. This school focused on practical matters instead of any moral principle, so it stressed political and diplomatic tactics, and debate and lobbying skill. Scholars from this school were good orators, debaters and tacticians.

Agriculturalism

Agriculturalism (农家; 農家; Nongjia) was an early agrarian social and political philosophy that advocated peasant utopian communalism and egalitarianism.[5] The philosophy is founded on the notion that human society originates with the development of agriculture, and societies are based upon "people's natural propensity to farm."[6]

The Agriculturalists believed that the ideal government, modeled after the semi-mythical governance of Shennong, is led by a benevolent king, one who works alongside the people in tilling the fields. The Agriculturalist king is not paid by the government through its treasuries; his livelihood is derived from the profits he earns working in the fields, not his leadership.[7]

Unlike the Confucians, the Agriculturalists did not believe in the division of labour, arguing instead that the economic policies of a country need to be based upon an egalitarian self sufficiency. The Agriculturalists supported the fixing of prices, in which all similar goods, regardless of differences in quality and demand, are set at exactly the same, unchanging price.[7]

For example, Mencius once criticized its chief proponent Xu Xing for advocating that rulers should work in the fields with their subjects. One of Xu's students is quoted as having criticized the duke of Teng in a conversation with Mencius by saying:

"A worthy ruler feeds himself by ploughing side by side with the people, and rules while cooking his own meals. Now Teng on the contrary possesses granaries and treasuries, so the ruler is supporting himself by oppressing the people."

Syncretism

Syncretism, or the School of Miscellany (杂家; 雜家; Zajia) integrated teachings from different schools; for instance, Lü Buwei found scholars from different schools to write a book called Lüshi Chunqiu cooperatively. This school tried to integrate the merits of various schools and avoid their perceived flaws. The (c. 330 BC) Shizi is the earliest textual example of the Syncretic School.

School of "Minor-talks"

The School of "Minor-talks" (小说家; 小說家; Xiaoshuojia) was not a unique school of thought. Indeed, all the thoughts which were discussed by and originated from non-famous people on the street were included in this school. At that time, there were some government officials responsible for collecting ideas from non-famous people on the street and report to their seniors. Such thoughts formed the origin of this school.

Unlisted schools[edit]

These schools were not listed in the Hanshu but did have substantial influence.

School of the Military

Another group is the School of the Military (兵家; Bingjia) that often studied and discussed about what westerners called the philosophy of war. Some of them studied warfare and strategy, others focused on kinds and skills of weapons. Sun Tzu and Sun Bin were influential leaders. Some of their famous works are Sun Tzu's The Art of War and Sun Bin's Art of War. Their theories influenced later China and even East Asia more broadly. These classical texts have received great interest among contemporary interpreters, some of whom have applied it to military strategy, the martial arts, and even modern business.

Yangism[edit]

Yangism was a form of ethical egoism founded by Yang Zhu. It was once widespread but fell to obscurity before the Han dynasty. Due to its stress on individualism, it influenced later generations of Taoists.

School of the Medical Skills[]

School of the Medical Skills (方技家; Fangjijia) is a school which studied medicine and health. Bian Que and Qibo were well-known scholars. Two of the earliest and existing Chinese medical works are Huangdi Neijing and Shanghan Lun.

History and origins[]

The "Yiwenzhi" of the Hanshu claims that the officials working for the government during the early Zhou Dynasty lost their position when the authority of the Zhou rulers began to break down in the Eastern Zhou period. In this way, the officials spread all over the country and started to teach their own field of knowledge as private teachers. In this way the schools of philosophy were born. In particular, the School of Scholars (i.e. the Confucian School) was born from the officials of the Ministry of Education; the Taoists from the historians; the Yin-yang School from the astronomers; the Legalist School from the Ministry of Justice; the School of Names from the Ministry of Rituals; the Mohist School from the Guardians of the Temple; the School of Diplomacy from the Ministry of Embassies; the School of Miscellany from the government counselors; the School of Agriculture from the Ministry of the Soil and Wheat; the School of Minor Talks from the minor officials. Although the details are unclear, the burning of books and burying of scholars during the Qin was the end of the period of open discussion.

It should be stressed that only the Ru, or Confucians and the Mohists were actual organized schools of teachers and disciples during this period. All the other schools were invented later to describe groups of texts that expressed similar ideas. There was never an organized group of people describing themselves as "Legalists," for example, and the term "Daoist" was only coined in the Eastern Han after having succeeded the Western Han's Huang-Lao movement.

https://en.wikipedia.org/wiki/Hundred_Schools_of_Thought


Độc đảng, độc tôn
Trung Ương Tập Quyền

Khảo sát lịch sử, chúng ta thấy trình độ quan liêu hóa ở phương Bắc nhiều hơn ở phương Nam, tác dụng của hệ thống 'đế quốc' ở nước Tàu, đối với họ là nặng hơn phương Nam. Trong lịch sử nhân loại, cách điều hành có hai cực đoan:

- Một bên là tự trị,
- Một bên khác là quan trị.

Tự trị nghĩa là mình tự điều hành lấy trong cách của mình. Tổ chức mà có trình độ tự trị cao nhất là bộ lạc, hay là công xã nguyên thủy, tức là lãnh thổ nho nhỏ mỗi người tự quản trị mình, nguyên tắc của nó là -- để người bản xứ tự quản trị bản xứ.

Quan trị nghĩa là để quan liêu quản chế mình. Tổ chức mà có trình độ quan trị cao nhất là 'đế quốc', có lãnh thổ lớn. Hoàng đế bổ nhiệm quan lại của triều đình đi cai quản địa phương, nguyên tắc của nó là -- để người ngoại lai cai trị bản xứ.

Những quốc gia thuận lợi hiện đại hóa đều có lịch sử quân chủ rất lâu dài. Nguyên tắc quân chủ phân quyền chính là nhà vua để người bản xứ tự điều hành bản xứ.
Nếu xem xét lịch sử, ta có thể thấy ra là những quốc gia thuận lợi hiện đại hóa đều có lịch sử quân chủ rất lâu dài. Khi nói đến chế độ quân chủ là nói về một chế độ cụ thể nói riêng, không phải chỉ thời đại truyền thống nói chung, sự kiện đó ở Trung quốc chỉ có tồn tại trong nhà Chu.

Còn ở phương Tây, là tồn tại từ thế kỷ thứ V (thư năm) đến thế kỷ thứ XV (thứ mười lăm), sau đó chúng qua hết 300 - 400 năm nữa mới phát triển ra quốc gia hiện đại. Ở Nhật Bản, trước khi thế kỷ thứ 19, họ đã thuộc chế độ quân chủ từ thế kỷ thứ 8 (thứ VIII) rồi.


Những quốc gia khó hiện đại hóa, không thể phát triển ra một nhóm người tinh hoa ở cơ sở địa phương vì họ luôn luôn bị tiêu diệt bởi chính phủ tập quyền trung ương độc quyền, vì sống dựa dẫm nên họ có ước mơ làm đế quốc và tư tưởng đế quốc.
Nguyên tắc quân chủ chính là để người bản xứ tự điều hành bản xứ. Còn những quốc gia rất khó hiện đại hóa, ví dụ nước Nga và Trung quốc, đều có một lịch sử đế quốc lâu dài, là tại vì họ dựa vào quan lại cai quản bản xứ, họ không thể phát triển ra một nhóm người tinh hoa ở cơ sở địa phương, họ luôn luôn phải dựa vào chính phủ trung ương điều khiển, cho nên họ luôn luôn hy vọng có một hoàng đế xuất hiện mới cảm thấy an toàn và cảm thấy quốc gia đã mạnh mẽ rồi. Họ vẫn không thể loại bỏ được ước mơ đế quốc, tư tưởng đế quốc.

Chúng ta hãy tìm hiểu rõ hơn về chế độ quân chủ, lấy phương Tây làm ví dụ.

Văn Minh Hy Lạp
Khi bắt đầu, người dân Châu Âu phần đông là sinh sống ở khu vực gần Địa Trung Hải, ở đây có phát triển nhiều thành bang Hy Lạp và sau đó có đế quốc La Mã.

Đế Quốc La Mã
Ở phương bắc của đế quốc La Mã, người dân ở đó vẫn chưa phát triển lắm, chỉ có nhiều bộ lạc thôi, họ được gọi là bộ lạc German. Nhưng đến thế kỷ thứ III (thứ ba), những bộ lạc German bắt đầu di chuyển đến khu vực Tây Âu bây giờ. Khi họ di chuyển, tất nhiên sẽ có xung đột với đế quốc La-Mã và người bản xứ vốn có ở bên đó. Sự di chuyển của họ, không có một chính phủ trung ương chỉ huy, rất rời rạc; dù sao, đến thế kỷ thứ chín (IX) ở khu vực Tây Âu có xây dựng nhiều chính quyền, thế lực của đế quốc La Mã không còn ở khu vực này nữa, và những chính quyền rời rạc đó có mối quan hệ quân chủ.

Mối quan hệ quân chủ là, thì dụ: Có một chính quyền, người lãnh đạo của chính quyền đó được coi là một chư hầu, chư hầu đó có thể sắc phong cho mấy người làm hiệp sĩ của mình, và mình sẽ trở thành lãnh chủ của mấy hiệp sĩ đó. Khi sắc phong phải ký khế ước, lãnh chủ đáp ứng sắc phong một đất đai cho hiệp sĩ làm phong địa, hiệp sĩ đáp ứng sẽ trung thành với lãnh chủ, phục vụ cho lãnh chủ, và hiệp sĩ đó cũng có thể phân chia đất đai của mình và sắc phong cho người khác để tạo nên nhóm hiệp sĩ của mình, và chính mình cũng có thể trở thành lãnh chủ của người khác.

Cho nên, trong hệ thống quân chủ thời trước, quan hệ của các chư hầu là chỉ cần trung thành với người mà có ký khế ước với mình, tức là có sắc phong đất đai cho mình đối với những nhà vua hay hoàng đế, vì nếu không có ký khế ước với họ, thì mình sẽ không cần phục vụ cho họ.

Nếu lãnh chủ/lãnh chúa mà mình có ký khế ước với họ, họ yêu cầu mình phục vụ, mình mới phục vụ.
Đối với mỗi chư hầu, nguồn tiền lương của họ chính là lấy từ nguồn lương của phong địa, lãnh chủ sẽ không trả lương cho họ, cũng không cung cấp chi phí cho họ, họ phải tự cai quản phong địa của mình, cho nên mỗi chư hầu đều phải cố gắng hết sức tìm giải pháp để phát triển các sản xuất trong phong địa mình.

Ngày xưa Châu Âu có nhiều phát minh, ví dụ như: cối xay gió, ngựa kéo cầy, đều là vì mỗi chư hầu đều có giới thiệu vào phong địa mình, cho nên mới được phồ biến hóa, mụch đích chân chính không phải là vì cải thiện cuộc sống của người dân, mà là gia tăng sản xuất của người dân, cho nên mình mới lấy thuế nhiều.


Có lẽ sẽ có người nói rằng -- thế chế độ kiểu vậy chắc chắn không thể chiếm được lãnh thổ rộng lớn, cũng rất có thể có nhiều chiến tranh xảy ra, vì mỗi nơi một chư hầu, không có hoàng đế thống nhất thống trị.

Thực sự là một điểm yếu, nhưng chính vì mỗi chư hầu coi phong địa mình là một tư sản, cho nên họ có động lực kinh doanh địa phương mà trong đó, chắc chắn sẽ dựa vào người bản xứ để hỗ trợ, để người bản xứ có cơ hội điều hành địa phương của mình sống, tức là để họ tự trị. Trong cách này, đó chính là tiền thân của hội nghị chính trị. Cuối cùng dần dần tạo nên một tầng lớp tinh hoa ở cơ sở địa phương.

Đánh tham nhũng là loại trừ người tinh hoa ở địa phương.
Những người tinh hoa địa phương chính là phôi thai của những người khai triển hiện đại hóa, có thể coi là giai cấp tư sản, người trí thức, người trung lưu, nhân viên nhà nước, v. v... Kết quả là sau khi trải qua mấy trăm năm lịch sử quân chủ, những quốc gia quân chủ này như phuơng Tây và Nhật Bản, ở bên ngoài, tuy không có lãnh thổ lớn, không có hoàng đế vĩ đại, nhưng trong nội bộ, mỗi địa phương dều phát triển rất hoàn thiện, mỗi địa phương đều có nhân tài bản xứ. Khi họ ngưng không đánh nhau nữa, quyết định đoàn kết với nhau, họ đã tạo nên một quốc gia rất mạnh mẽ.

Tự trị có thể huấn luyện người ta trờ thành người tinh hoa. Còn quan trị thì sẽ tạo cách sống bị dựa dẫm, tựa vào, vì quan lại là lấn át người bản xứ, không cho họ có cơ hội tạo nên tầng lớp tinh hoa, đó chính là vấn đề theo chính sách "đế quốc", điển hình là nước Tàu bây giờ.

Xây dựng đảng là xây dựng sự kiểm soát của chính phủ trung ương.
Đế quốc thì luôn muốn duy trì quyền hành, họ sợ nếu các địa phương có tầng lớp tinh hoa của họ rồi, thì sẽ phản bội đế quốc, thậm chí có nội loạn, cho nên đế quốc có xu hướng không để người bản xứ tự trị, mà chỉ để hoàng đế bổ nhiệm quan lại cai trị địa phương. Nhưng đối với quan lại, thông thường là sẽ không có động cơ phát triển địa phương, tại vì hoàng đế có trả lương cho quan lại, quan lại luôn luôn muốn thăng chức đến chỗ khác làm quan lớn hơn, vì vậy, địa phương có phát triển tốt hay không, đều không liên quan đến lợi ích của quan lại, mà quan lại thì cũng có động cơ lấn át sự phát triển nhân tài của địa phương, tại vì nếu địa phương có nhân tài của mình rồi thì quan lại sẽ khó cai quản địa phương đó, vì người bản xứ đều có ý muốn nghe theo nhân tài bản xứ, chứ không muốn nghe theo quan lại nữa.

Quan liêu hóa nghĩa là gì?
Quan liêu hóa nghĩa là mức độ kiểm soát của quan lại. Quan liêu hóa càng cao thì nghĩa là quan lại càng dễ thống trị, tại vì người bản xứ đều nghe theo quan lại vì vậy, quan liêu hóa cũng bằng với mức độ còi cọc của sự phát triển nhân tài ở địa phương, tại vì chính là vì địa phương không có nhân tài, không có người tinh hoa, phải dựa vào quan lại thống trị.

Hãy xem xét lịch sử Trung quốc, có thể thấy được nó có xu hướng là càng ngày càng trung ương hóa, nghĩa là sự kiểm soát của quan lại ở địa phương càng ngày càng nặng, đồng thời, sự phát triển nhân tài ơ địa phương càng ngày càng còi cọc. Trước nhà Tống, người bản xứ có thể làm quan ở bản xứ, ờ địa phương có nhiều gia tộc lớn và có lịch sử lâu dài. Sau nhà Tống, người bản xứ không thể làm quan ở bản xứ, những gia tộc lớn đều dần dần biến mất rồi. Mức độ quan liêu hóa ở phương Bắc Trung quốc là nặng hơn phương Nam vì phương bắc tiếp cận với kinh thành, tức là tiếp cận với chính phủ trung ương, cho nên triều dình dễ kiểm soát qua địa phương quan lại. Kết quả là ở phương bắc trên cơ sở địa phương không có nhiều người tinh hoa, cái gì đều cũng dựa vào sự cai quản của quan lại.

Nhìn vào Trung quốc bây giờ, ta có thể xác định họ có xu hướng là quan liêu hóa địa phương. Tại sao thế?
Tại vì sự ra mắt của Tập Cận Bình. Người Trung quốc ủng hộ Tập Cận Bình làm tân hoàng đế, chính là vì sự phát triển nhân tài trên cơ sở địa phương Trung quốc rất tệ, còi cọc, họ không có khả năng quản trị lấy mình cho nên mới hy vọng có một chính phủ trung ương mạnh mẽ. Bây giờ cái mà Tập Cận Bình đang làm chính là thỏa mãn ý tưởng như vậy.

Lấy chiến tranh để cướp của các nước yếu, Trung quốc có tạo ra kinh tế thịnh vượng, kinh tế thịnh vượng có tạo nên số người tinh hoa ở địa phương rồi, ví dụ là tại vùng Quảng Đông và Chiết Giang. Rồi họ lại diệt nhân tài, người tài phú của địa phương để trung ương được độc quyền. Đây là cái vòng lẩn thẩn của nước Tàu.

Đánh tham nhũng là loại trừ người tinh hoa ở địa phương, xây dựng đảng là xây dựng sự kiểm soát của chính quyền/chính phủ/trung ương. Khi xã hội mới sản xuất một nhóm người tinh hoa, thì những người tinh hoa chắc chắn sẽ có đấu tranh với nhau, và khiến một số sự rối loạn xảy ra, chính phủ loại trừ những người tinh hoa ở địa phương rồi, hoàn toàn kiểm soát địa phương. Đó là chính sách "Trung Ương Tập Quyền" hay "Độc Tài Toàn Trị" hoặc "Chuyên chế dộc quyền", khi tài năng và nhân tài bị tiêu diệt dần dần để củng cố quyền hành, rồi thì họ lại tạo chiến tranh để cướp bóc, rồi lại diệt hết nhân tài rồi bị nghèo rồi lại tạo một cuộc cướp bóc (sao chép sáng tạo của người khác như khoa học, kỹ thật, quân sự mới)... Và họ lập đi lập mãi.


     
Tóm tắc từ thời Xuân Thu, Chiến quốc, Hán sở tranh hùng đến thời vua chúa của tam quốc

From the Spring and Autumn Warring States, to the Chu-Han War and the Three Kingdoms



Xuân Thu Chiến Quốc: Hai đường lối.

Tề Hoàn Công là bá chủ đầu tiên trong Xuân Thu Chiến Quốc. Tể tướng của nước Tề - Quản Trọng là người đầu tiên khai triển cuộc cải cách Pháp Gia. Đó là tập quyền hóa và giảm bớt thế lực quý tộc để xây dựng một bộ máy nhà nước mạnh mẽ đê huy động được toàn xã hội đi phát động chiến tranh. Pháp gia là một loại hình thức chủ nghĩa quân quốc (quân phiệt), lấy năng lực toàn dân huy động cho một chiến tranh làm nền tảng để phát triển xã hội và kinh tế.

Những cuộc phát động chiến tranh này vì mục đích cho đất nước phát triên kinh tế, không phải là vì phúc lợi của người dân, mà là cho tư nhân, cho nhóm người cai trị để có nhiều tài nguyên hơn, bằng cách dùng chiến tranh hay gầy chiến làm phương tiện cho tài nguyên.

Để làm được điều đó, pháp gia có mục đích tập trung tay tất cả quyền lực vào nhà vua, việc này cũng tạo nên một rủi ro lớn, miễn là có thể kiểm soát nhà vua hay là nắm bắt được quyền hiệu lệnh của cung đình chỉ có thể tận dụng bộ máy nhà nước để mưu lợi ích tư nhân, và thanh trừng thế lực của người khác. Đó là vì sao cuối cùng khi Tề Hoàn Công bệnh nặng, thân tín của ông ấy là Dịch Nha và Thu Điệu, hai người này vốn chỉ là đầy tớ trong cung đình mà không phải là quý tộc nh ưng hai người này đưa Hoàn Công vào giam trong lãnh cung sau đó họ điều khiền cung đình bằng danh nghĩa của Hoàn Công và lập công tử Vô Khuy làm vua vì vậy thái tử Chiêu chạy trốn đến nước Tống nhờ Tống Thương Công đưa quân giúp đỡ về nước tiêu diệt thế lực của Dịch Nha và Thu Điệu. Cuối cùng lên ngôi trở thành Tề Hiếu Công.

Có thể nói rằng, nếu Quản Trọng không khai triển cuộc cải cách Pháp Gia trong khi bắt đầu, thì sự việc ở trên sẽ không có thể xảy ra tại vì trước khi đó các công việc nhà nước phải dựa trên sự công nhận của các quý tộc.

Sau cuộc cải cách Pháp Gia, nhà vua có thể xây dựng một nhà máy nhà nước mạnh mẽ bỏ qua ý kiến của các quý tộc, đó mới làm Dịch Nha và Thu Điệu có thể nhận cơ lập nhà vua mà mình chọn thông qua việc kiểm soát cung đinh.

Vào thời gian này, vùng đất Đông phương xuất hiện hai đường lối khác biệt:
❖ - Một là đường lối quân chủ tập quyền, hay quân quốc - tập quyền vào nhà vua xây dựng bộ máy mạnh mẽ.

❖ - Hai là đường lối quân chủ phân quyền - duy trì thể chế đẳng cấp các quý tộc không tập quyền vào nhà vua.

Lúc đó nước Sở bắt đầu bành trướng tới Trung Nguyên.


Nước Sở - Nhà nước lưỡng nguyên

Nhà Chu và nhà Thương đều là thế lực từ Trung Á đi tới đông Á, sau đó nhà Chu sắc phong các chư hầu quốc và khai thác khu vực trung nguyên.

Nước Sở cũng là thế lực bắt nguồn từ nội Á/Trung Á, thế nhưng trong quá trình chinh phục Đông Á, nước Sở không tham dự chính chế quân chủ của Trung Nguyên, đó là vì sao có một vị vua nước Sở từng có nói rằng:

- “Tao là man di, không tiếp nhận tước hiệu của Trung Nguyên”.

vì vậy nhà vua nước Sở tự xưng mình là “Vương” chứ không phải là “Công” của hệ thống trong chính thể Trung Nguyên, chỉ có thiên tử nhà Chu mới có thể xưng vương. Tất nhiên. Nhưng sau nhiều năm nhà Chu trở nên suy yếu, không còn ai tôn trọng Chu Thiên Tử nữa, không còn là "trung hoa" nữa, và mỗi nhà vua trong nước chư hầu đều tự xưng “vương”, xưng "hoa" -- "Ta là Hoa" chứ không phải nước "Hạ" của chư hầu nữa.

Khi nước Sở bành trướng đến Trung Nguyên, Tống Thương Công liên hợp các chư hầu quốc chống cự với nước Sở nhưng Tống Thương Công bị nước Sở đánh bại. Tuy nước Sở có làm gián đoạn đường lối quân chủ của Tống Thương Công, nhưng bản thân nước Sở cũng theo đường lối quân chủ phân quyền, nhưng không phải là từ quân chủ kiểu Trung Nguyên.

Nước Sở là một nhà nước điều hành theo đường lối chính sách lưỡng nguyên/hai nguyên, những quý tộc lớn là gia tộc từ Nội Á/Trung Á di cư đến Đông Á, nhưng cùng song hành cùng nhiều quý tộc nhỏ, hấp thu văn hóa và đời sống của các thủ lĩnh bộ lạc vùng phương nam đông Á. Đó là một kết hợp của người chinh phục Trung Á và bộ lạc và bộ tộc Bách Việt bản xứ.

Hình thức này giống như nước Anh trong thời Đại Quân Chủ. Quý tộc lớn là những người chinh phục Norman, quý tộc nhỏ là người German và người Celtic ở bạn địa, bản xứ. Nước Sở không khai triển cuộc cải cách quân quốc/quân phiệt vì họ có hấp thu nhiều thê lực quý tộc ở bản địa và khai thác nhiều thổ địa dọc sông Trường Giang, cho nên tuy nước Sở có đi theo đường lối quân chủ nhưng vẫn nổi lên llón mạnh được.

Ngoài nước Sở ra, nước Tấn cũng là một nhà nước lưỡng nguyên/hai nguyên. Mẹ của Tấn Văn Công có tên là Hồ Quý Cơ xuất thân từ Tây DungTầy Nhung đó là một thế lực du mục ở Trung Á. Có nhiều quý tộc nước Tấn có thông lệ thông hôn với người Tây Dung, tuy nưuớc Tấn là hậu duệ của nhà Chu nhưng sau khi được sắc phong ở Tây Bắc họ cũng có kết nạp nhiều thủ lĩnh bộ lạc của Tây Dung, vì vậy nước Tấn hình thành hai phe, phe thân Trung Nguyên và phe thân Tây Dung (Trung Á), chính vì vậy nước Tấn phân liệt thành ba nước trong đời sau (Hàn, Ngụy, Triệu) trong đó nước Hàn và Ngụy gần nơi với Trung Nguyên, còn nư ớc Triệu là gần gũi với Tây Dung/Tây Nhung vì vậy mà khi Triệu Vũ Linh Vương làm toàn quốc mặc quần áo người Hồ để tiện cưỡi ngựa, có lẽ lúc đó nhiều quý tộc họ Triệu là xuất thân từ người Hồ rồi, và Triệu Vũ Linh Vương chính thức chấp nhận văn hóa người Hồ trong nước thôi.

Giống như nước Sở, nước Triệu cũng là đi theo đường lối quân chủ Trung Nguyên, nếu họ không đi theo cũng không thể hấp thu những thủ lĩnh bộ lạc du mục. Còn nước Hàn và nước Ngụy thì chuyển sang đi theo đường lối quân quốc/quân phiệt. Có nhiều nhà tư tưởng pháp gia đều là xuất thân từ nước Hàn và nước Ngụy này, vì lãnh thổ bị hạn chế ở Trung Nguyên, cho nên lượng huy động người đân của xã hội của họ có hạn.

Duy chỉ có nước Tần đi theo đường lối quân quốc (quân chủ tập quyền), vì nước Tần vốn là một quốc gia lạc hậu, cho nên thế lực của quý tộc ở địa phương của nước này là rất nhỏ, ít nhất, có thể có khả năng cải cách triệt để nhất; có thể khai thác nhiều lãnh thổ mới ở phương Tây, và số lượng huy động trong xã hội cho guồng máy chiến tranh thâu chiếm tài nguyên các nước khác là cao nhất.

Nước Tần có mấy lần bị nước Triệu và nước Sở đánh bại nhưng cuối cùng nước Tần cũng sẽ thâu tóm được các nước lân bang được.

“Sở tuy chỉ còn ba (3) Hồ, nhưng diệt Tần phải là Sở”.

Câu nói này ngụ ý là hai nước Sở & Tần này, đại diện cho hai đường lối khác biệt, đó là đường lối "quân quốc - quân chủ tập quyền", và đường lối "quân chủ phân quyền", trong tương lai hai đường lối này sẽ lại cạnh tranh nhau.

4. Chiến tranh Hán Sở / Hán Sở tranh hùng









Hệ Thống Hùng Vương và tính Lưỡng Nguyên
https://www.youtube.com/embed/IAodqFBblho?si=RnoSvwyoS4Ul27Yb

Hệ thống Hùng Vương có tính cách quân chủ phân quyền,












--------------



Tính lưỡng nguyên của Việt Nam

https://youtu.be/aCkloe4RsfE?si=qkvVqNoezPYGTR-u


0:53 Chủ đề hôm nay là tôi muốn đưa ra quan điểm của tôi về tính lưỡng nguyên của Việt Nam.

1- Tính lưỡng nguyên Việt Nam

Ở đây tôi muốn đưa ra tính Đông Á và tính Đông Nam Á của Việt Nam. Tại sao Việt Nam có tính này?

Việt Nam là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á có mùa đông, tức là tại vì ở miền bắc có mùa đông.

Nếu Việt Nam không có miền Trung và miền Nam, chỉ có miền bắc, như vậy Việt Nam có được coi là một nước Đông Nam Á không?
- Không! Vì quốc gia Đông Nam Á có mùa Đông là một điều rất kỳ lạ.

Nếu 1000 (một nghìn) năm trước, triều đại nhà Lý không có nam tiến, mà là bắc tiến và thành công sáp nhập hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây của Trung quốc bây giờ thế bản đồ Việt Nam sẽ không có Đông Nam Á mà Việt Nam sẽ đơn thuần là quốc gia Đông Á. Hãy tự hỏi là -- Tại sao 100 năm trước, triều Lý chọn Nam Tiến thay vì Bắc Tiến?

Có thể bạn nghĩ rằng -- Tại vì nếu bắc tiến thì sẽ đối mặt với đế quốc Đại Tần, và đế quốc Đại Tần rất rộng lớn, đông người như vậy sẽ gặp nhiều khó khăn, trong khi Nam Tiến chỉ sẽ đối mặt với Champa, Champa là một đất nước nhỏ hơn, Nam Tiến thì dễ dàng hơn. Đồng ý!

Nhưng còn một lý do nữa, nó tiềm ẩn sâu xa, đó là tính lưỡng nguyên của Việt Nam đã tồn tại trước khi nam tiến rồi, tức là không phải vì có Nam Tiến cho nên mới tạo ra tính lưỡng nguyên của Việt Nam, mà là ngược lại; vì có tính lưỡng nguyên này, cho nên Việt Nam mới tạo nên Nam Tiến.

Hãy quay về thời đại Bắc Thuộc, để xem xét điều này.

Trước khi Việt Nam kết thúc thời đại Bắc Thuộc, Champa/Chiêm Thành là một quốc gia đã xuất hiện rồi, tên đầu tiên của Champa là Lâm Ấp, sử liệu Trung quốc có ghi chép sớm nhất về Lâm Ấp rồi, trong Tấn thư có ghi lại rằng:

“Quốc Lâm Ấp, vốn là huyện Tương Lâm khi thời Hán.”

Huyện Tương Lâm là ở đâu? Huyện Tương Lâm là ở tỉnh Quảng Nam của Việt Nam bây giờ, nhưng ngày xưa huyện Tương Lâm là thuộc về quận Nhật Nam khi thời Bắc Thuộc, biên giới phía bắc nhất của quận Nhật Nam là ở tỉnh Quảng Bình của Việt Nam bây giờ.

Thế tại sao quốc Lâm Ấp có xuất hiện?

Theo sử liệu Trung quốc, triều đại nhà Tùy, Tùy thư có ghi chép rằng:

“Tiền thân của Lâm Ấp là vì sự khởi nghĩa của hai bà Trưng thời Hán, người con thư ký của huyện trưởng giết huyện trưởng và tự xưng mình là vua”.

Hãy chú ý điều này – “Là vì sự khởi nghĩa của hai bà Trưng”.

Hai bà Trưng khởi nghĩa ở Hà Nội, thêm nữa, trong sử liệu của Trung quốc, hậu Hán thư có ghi chép:

“Năm 144, người dân quận Nhật Nam có liên kết với người dân quận Cửu Chân, cùng khởi nghĩa”.

Quận Cửu Chân là ở đâu?

Quận Cửu Chân bao gồm tỉnh: Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh bây giờ.

Khi Bắc Thuộc, người Việt khởi nghĩa, là từ tỉnh Quảng Nam, đến tỉnh Nghệ An, cũng có đến Hà Nội đều có người dân khởi nghĩa cùng nhau và liên kết với nhau. Nghĩa là sao?

Nghĩa là -- những người mà liên kết với nhau để khởi nghĩa cùng nhau, chắc chắn là vì họ thuộc về một tập đoàn một lợi ích giống nhau, họ rủ nhau khởi nghĩa và gia nhập.

Tiếp tục hỏi một câu hỏi -- Lợi ích giống nhau chỗ nào?

Nhìn vào bản đồ về khu vực, vậy khu vực nào ở Đông Nam Á có bị ảnh hưởng bởi văn hóa Ấn Độ hay không?

Ở Đông Nam Á lúc bấy giờ có ba khu vực bị ảnh hưởng mạnh nhất đó là:

* Pagan, Myanmar,

* Angkor là Campuchia,

* Shrivijaya là Nam Dương/Indonesia và

* Còn có một khu vực màu hồng này là Champa, tức là miền Trung Việt Nam, còn miền bắc thì không có bị ảnh hưởng.

Nghĩa là miền Trung Việt Nam có bị văn hóa Ấn Độ ảnh hưởng, nhưng bị ảnh hưởng nhỏ nhất.

Đặt giả định như vầy:

- Miền Trung Việt Nam là trạm cuối cùng của con đường thương mại từ Ấn Độ đến Đông Nam Á.

- Miền Bắc Việt Nam là trạm đầu tiên của con đường thương mại từ Đông Nam Á sang Đông Á.

Hay là có thể nói ngược lại là -- Miền Bắc Việt Nam là trạm cuối cùng của con đường thương mại từ Đông Á sang Đông Nam Á. Vì vậy cho nên tình hình ở miền Trung và miền Bắc Việt Nam có bị văn hóa Đông Á ảnh hưởng tức là nho giáo, nhưng mà là ảnh hưởng nhỏ nhất.

Trở lại, nhóm người ưu tú miền Trung và miền Bắc Việt Nam họ có lợi ích giống nhau điều gì?

Đó là nắm bắt thành phần (ở giữa) con đường thương mại từ Đông Á sang Ấn Độ hay từ Ấn Độ sang Đông Á.

Như thế ta có thể nói rằng – tính lưỡng nguyên của Việt Nam là đã tồn tại trước khi Nam tiến rồi.

2 - Tại sao Một ngàn (1000) năm trước, triều Lý của Việt Nam chọn Nam tiến?

Tại vì miền trung và miền bắc nguyên bản là tổng thể lợi ích. Tổng thể lợi ích bao gồm những gì?

Tổng thể lợi ích không phải là một tổng thể văn hóa, miền bắc là chịu ảnh hưởng trung quốc, miền trung là chịu ảnh hưởng Ấn Độ, gộp lại, họ vẫn là một tổng thể lợi ích rồi.

> NếuViệt Nam chỉ có miền bắc, thì sẽ có nguy hiểm nguy cơ bị loại trừ ra khỏi tài nguyên từ Ấn sang Đông Nam Á; hay nói chung là từ tây phương.

> Nếu Việt Nam chỉ có miền Trung, thì sẽ có nguy hiểm nguy cơ bị loại trừ ra khỏi thị trường Đông Á, nói chung là phương Đông.

Cho nên, khi triều Lý chọn Nam Tiến, thực ra là muốn gìn giữ tổng thể lợi ích này, tức là gìn giữ tính lợi ích của cả hai bên này.

3 - Kết luận:

Tính lưỡng nguyên của Việt Nam này là -- từ cổ xưa đã tồn tại rồi. Có thể nói là tính lưỡng nguyên này chính là bản chất của Việt Nam, cũng chính là lý do mà Việt Nam là một quốc gia tồn tại đến bây giờ.


-------------------------




Kinh Dịch, Lão, Khổng, Phật
- Việt Nam, Trung Quốc, Đại Hàn, Nhật Bản,
khác nhau như thế nào?




Osaka


Tử Cấm Thành


Cảnh Phước Cung


Kinh Thành Huế


===========================
Nho Giáo: Việt, Trung, Hàn, Nhật có gì Khác Biệt?
https://youtu.be/GxzOgcb-ExA?si=pb12iEMZseHPnOjn




==============================

Kinh Dịch là gì?
Is Book of Change a historical record?
https://youtu.be/l0gtUKicKEA?si=uB3BWQN9Ol41vOeD


Kinh dịch là một cuốn sách để bói toán, cũng còn là một cuốn sách triết học.

Kinh dịch nói về tư tưởng biến đổi của âm dương, ngũ hành, bát quái được sáng tạo từ thời Phục Hy, theo vũ trụ học của Đạo giáo . Kinh dịch sự di chuyển, biến đổi của khí (gió, lửa, nước, đất) ngoài ra nó còn là một cuốn sách về lịch sử. Cuốn sách “Tiễn Thương” tức là “tiêu diệt nhà Thương”, tác giả là Lý Thạc, theo Lý Thạc, tác giả cho là Kinh Dịch là môt cuốn sách ghi lại bí mật về sự việc “tại sao nhà Chu, từ một bộ lạc phục tùng nhà Thương, chuyển sang quyết định phản kháng nhà Thương.

L Nhà Thương thật ra xuất xứ từ một người dân du mục từ vùng thảo nguyên Á Âu, có mang lại các loại kỹ thuật tiến bộ như đồ đồng, chiến xa, chiến mã, sau đó chinh phục trung nguyên. Tác giả Lý Thạc cũng đồng ý rằng --- nhà Thương là dân tộc ngoại lai chứ không phải người Trung Nguyên, nhưng cuốn sách của Lý Thạc vì xuất bản ở Trung quốc nên ông ấy không dám nói ra sự thật, ông ấy chỉ nói là “nhà Thương chịu ảnh hưởng rất nhiều từ bên ngoài Trung nguyên".

Kinh dịch của Lão giáo được Chu Văn Vương đem ra để thí nghiệm và bổ túc tạo thêm đến 64 quẻ bát quái thay vì 8 quẻ, ghi lại những kết quả bói toán.

Nho Giáo Việt Nam Có Gì Đặc Biệt? https://youtu.be/3RQJry1kKqk?si=wKtpbq4KALZSDa8h


@ Tung Tùng Soong: Nhà Tần, Tần Thủy Hoàng tiêu diệt hết vua và các quý tộc của sáu nước chư hầu của nhà Chu, lấy đâu ra quý tộc để có giai cấp thống cho Lưu Bang nhà Hán? Lưu Bang là người Sở đành phải dùng hào kiệt như văn hóa người Sở là như nước Văn Lang, chứ đâu phải dùng giai cấp thống trị là từ hào kiệt Việt Nam (Văn Lang), chứ đâu phải Văn Lang/Việt Nam theo cách nhà Hán của Lưu Bang mới thành lập đâu?

Nho giáo người ta dùng để biện hộ chính quyền.
Thời Hán Vũ Đế nho giáo còn để biện hộ và củng cố ngôi vị.

Bản chất nho giáo là luân lý học.
Nho giáo là một loại luân lý học,
So sánh với các nho giáo ở Đông Á,
Giai cấp thống trị Việt Nam ngày xưa.

Gia cấp thống trị Việt Nam ngày xưa là kiến dựng theo phú hào.

Gia cấp thống trị là những người có nắm bắt quyền lực chính phủ (ruler class).
Trước khi được trở thành người th ống trị ruler class, quan lại hay phú hào thì họ có thể lực kinh tế lớn như phú gia, cường hào.

Nhìn chung, hầu hết tất cả nhà vua khai quốc trong lịch sử Việt Nam, trước khi họ trở thành nhà vua đều có bối cảnh làm thương mại. Lý Thái Tổ trưởng thành trong một ngôi chùa Phật, mà ngày xưa, chùa là trung tâm tài chính ở thành phố vì trước khi có ngân hàng, nếu muốn vay tiền hay dành tiền, người ta dễ tin vào nhân viên làm việc ở chùa, có thầy tu có uy tín và bảo đảm, cho nên rất có thể đằng sau Lý Thái Tổ là một tập đoàn tài chính khổng lồ. Triều nhà Trần, ông cha làm nghề đánh cá, nói như bây giờ là đại gia thủy sản.

Lê Thái Tổ, ông cha là phú ông, trong nhà đông đến hàng ngàn người, nhà Tây Sơn gia tộc là buôn trầu phát đạt. Trước khi sáng lập triều đại, gia tộc nhà vua đều có kinh doanh thương mại, Sau khi sáng lập triều đại, các tướng quân lớn và đại thần đều là xuất thân từ gia tộc công thần, tức là ông cha của họ có khởi nghĩa cùng với gia tộc nhà vua, có thể họ từng có kinh doanh thương mại có hợp tác với gia tộc nhà vua.

Tóm lại, giai cấp thống trị Việt Nam ngày xưa trên bề mặt họ là hoàng gia và các công thần hay có thể là một chính quyền liên hợp phú hào, đều có nuôi nhiều người hầu và quân đội tư nhân.

Trước nhà Hán là nhà Chu, giai cấp thống trị ở nhà Chu là quý tộc tức là các chư hầu quân chủ của chính sách phong kiến, điều này giống với giai cấp thống trị ở Nhật Bản, Samurai là võ sĩ đều là quý tộc, tước vị là đã được quyết định rồi.

Nhà Hán đều là xuất thân từ gia tộc công thần. Sau nhà Hán là nhà Tấn, gia cấp thống trị là môn phiệt/tài phiệt, môn phiệt không phải là chư hầu hay quý tộc, nhưng môn phiệt là gia đình lớn và lâu dài nên họ nắm bắt được đường lối tiến cử và làm quan. Nếu không phải xuất thân từ môn phiệt thì không có thể được người ta tiến cử làm quan, điều này giống với giai cấp thống trị ở Đại Hàn, họ có tên là “Yangban”, tức là “lưỡng ban”, họ không phải chư hầu vì sinh ra không có tước vị nhưng họ có thể tham gia khoa cử và làm quan.

Sau khi nhà Tấn, nói đúng hơn là nhà Tống giai cấp thống trị của nhà Tống là văn sĩ, tức là ai cũng có thể tham gia khoa cử miễn là giỏi và làm bài thi được thì có thể làm quan, điều này đặc biệt chỉ có ở chính quyền trung nguyên.

Đặc biệt ở Việt Nam, nếu lấy lịch sử của trung nguyên làm rập khuôn thì Việt Nam là không phải.

Nho giáo ở Nhật Bản là kiểu nhà Chu,

Đại Hàn là kiểu nhà Tấn.

Trung nguyên là kiểu nhà Tống.

Nho giáo nhà Hán là kiểu Việt Nam

Văn sĩ Trung Nguyên phải biết làm bài mới có thể làm quan, Lưỡng Ban Đại Hàn cũng vậy. Lưỡng Bang đều là xuất thân từ gia đình lâu dài cho nên có kiểu như quý tộc, còn văn sĩ trung nguyên thì có kiểu bình dân nhiều hơn, và cả hai đều rất coi trọng tài năng làm bài cho nên nho giáo hai bên trung nguyên và lưỡng ban đều có xu hướng cao siêu, vì không cao siêu thì không thể chứng minh mình có tài, họ thích nói về siêu hình học, bản thể học và họ lấy đề tài về sự khác biệt siêu hình học để công kích đối thủ chính trị mà ở Việt Nam và Nhật Bản đều không có vì có xu hướng cao siêu và coi trọng bài làm cho nên Trung quốc và Đại Hàn đều có kiểu thiên về giả tạo và thảo mai.

Đối với Nhật Bản vì người thống trị là quý tộc cho nên nho giáo phần chính là phục vụ cho biện hộ các phép tắc của chính quyền, giai cấp thống trị, cho nên họ bảo thủ, không thích thay đổi mang tính cách quá qui tắc, quá kỹ càng.

Còn Việt Nam thì --- vì người thống trị là phú hào, dựa trên thực lực kinh tế mới có quyền lực chính trị. Cho nên có tinh thần mạo hiểm, phải luôn luôn đi đầu và chịu rủi ro nên nho giáo Việt nam là phục vụ nhân sinh cho số phận và nhân quả. Nho sĩ ở Việt Nam nổi tiếng nhất là Chu Văn An và Nguyễn Bỉnh Khiêm; vì vậy, nho giáo Việt Nam có tính cách hoàn toàn thực tiễn, thực dụng, là hậu quả đạo đức. Phải xem xét sử học Việt Nam mới thấy được.

Kết luận: Ta có thể thấy Nho giáo Việt Nam có tính cách thực dụng.



Sự Khác Biệt Giữa Tính Đông Nam Á và Tính Đông Á
https://youtu.be/LUnYS-UjoSw?si=_Cmy8p06clAOJTzp


Tứ Quốc Đồng Văn Thời Quân Chủ:
Trung Quốc, 中国 zhōngguó
Hàn Quốc, 韩国 hánguó
Nhật Bản, 日本 rìběn
Việt Nam, 越南 yuènán

Còn giống nhau điểm gì? Khác điểm gì, thay đổi những gì?

Đại Hàn sáng tạo chữ viết riêng.
Việt Nam dùng chữ La tinh.
Nhật Bản và Trung quốc vẫn dùng theo cách viết chữ Hán, nhưng lối viết khác xưa, tượng thanh nhiều hơn tượng hình nói sao viết vậy, và âm thanh là Mãn Châu và bị Mãn hóa nhiều. Họ lấy quốc tịch là người Hán, họ nói họ là văn hóa Hán, rất phức tạp.

Comparing the Confucianisms of Vietnam, Japan, Korea, and China Nho giáo
https://youtu.be/uUEQxvjkHOY?si=1uBZlLmBRYjBb98H


What are the differences between the Confucianisms of Vietnam, Japan, Korea, and China? (teaser)
Tứ Quốc Đồng Văn Thời Quân Chủ chỉ còn là dĩ vãng, là đi vào lịch sử. Nó đã chết, chỉ còn là lưu niệm và luyến tiếc.


Thời vàng son của Đông Á, xã hôi phương Đông

Thời vàng son nhất vẫn là thời Xuân Thu. Văn hóa Trung Nguyên mà người ta còn ca ngợi, luyến tiếc đó là thời Xuân Thu nhà Chu của Bách Gia Chư Tử vì có những nhà tư tưởng, những triết gia, những bác học, những anh tài trổ hết cái đẹp, cái hay, cái ưu việt của họ, nhà nhà được lên tiếng, người người tranh luận, biện luận, chỉ trích, sáng tác, sáng tạo, nghệ thuật, khoa học, triết lý Đông phương, Đông ?Á và Đông Nam Á nữa của các nước chư hầu nhà Chu/Sở rồi. Đây là nước Sở và các nước chư hầu gọi chung là các nước phương đông, có văn hóa Á Đông, chứ không phải là nước Tàu - Chai Na độc tài chuyên chế do Đại Tần Thâu tóm và tạo để rồi triều Hán phỏng tay trên của Đại Tần giành chức thiên tử của nhà Chu... thâu tóm cướp đoạt đất đai, văn hóa, chữ viết cho riêng triều đình họ kiến lập rồi tự xưng là nước Hán, văn hóa Hán và bắt người dân bị trị phải gọi mình là người Hán, điển hình là dân Bách Việt thua trận.

Bao nhiêu năm kế thừa văn hóa của nhà chu và các nước lân bang của nhà Chu (Sở, Tề, Ngụy, Tấn, Triệu, Hàn); nước Tàu Chai Na chỉ là một gã khổng lồ ngu dốt tàn bạo thôi, với cái bệnh Đông Á bệnh phu đầy ảo tưởng, viễn vông, với loại văn hóa ký sinh, bám vào các văn hóa của nước man rợ . chẳng có sáng tạo cái gì hay ho cả, chỉ là tạo chiến tranh rồi đánh cướp, rồi tạo tranh chấp khác, rồi ăn cắp tư tưởng, sáng tạo của nước khác, và lại tạo ra tranh giành để rồi tiêu diệt.

Nước Tàu Chai Na trả giá cho cái chính trị 'trung ương tập quyền', quân quốc/quân phiệt, với tư tưởng thiên tử, con trời là cái rốn vũ trụ, là trung tâm Đại Hán đi cai trị thiên hạ thế giới. Tham lam, điên rồ, chỉ tạo ra chiến tranh, cướp bóc, tiêu diệt rồi đi trở lại cái vòng tròn cho đến khi tự diệt chính mình.

 

No comments:

Post a Comment