Chữ "Thiên Hạ" ngày xưa thời nhà Chu hay thời Xuân Thu của Con Trời [Thiên Tử], với chữ "Thiên Hạ" ngày này thời cộng sản Tàu/Cộng Sản của đám Bắc Kinh Tàu cộng bây giờ khác nghĩa như thế nào?
The Qin dynasty (/ˈtʃɪn/ CHIN;[3][4] Chinese: 秦朝), or Ch'in dynasty, was the first dynasty of Imperial China. Named for its heartland in Qin state, it arose as a fief of the Western Zhou and endured for over five centuries until 221 BC, when it evolved into an empire following its complete conquest of other rival states, which lasted only until 206 BC.
Triều đại Tần (/ˈtʃɪn/ CHIN;[3][4] Trung Quốc: 秦朝), hay triều đại Ch'in, là triều đại đầu tiên của Trung Quốc Hoàng gia. Được đặt tên theo trung tâm ở nước Tần, triều đại này xuất hiện như một châu phong của Tây Chu [ nghĩa là nhà tây Chu đã phong đất đai cho công thần của nhà Chu để thành một lãnh chúa mới vùng đó và phục vụ nhà tây Chu vì có công đánh nhà Thang/Thương cho Chu] và tồn tại hơn năm thế kỷ cho đến năm 221 TCN. Khi triều đại Tần/Ch'in, phát triển thành một đế chế sau khi chinh phục hoàn toàn các nước chư hầu của nhà Chu và cả nhà Chu là đối thủ khác, Tần quốc được kéo dài tới năm 206 TCN.
[5] It was established in 221 BC when Ying Zheng, who became the king of Qin state in 246 BC, declared himself the first emperor (Shi Huangdi).
Triều đại Tần (/ˈtʃɪn/ CHIN/Ch'in), tʃɪn/ CHIN là Tần hay Ch'in dynasty được thành lập vào năm 221 TCN khi Ying Zheng, người trở thành vua của nước Tần vào năm 246 TCN (trước công nguyên), tự xưng là hoàng đế đầu tiên (Thủy Hoàng).
Chữ "Trung Nguyên hay Trung Hoa" ngày xưa, với chữ "Trung Hoa" hay "Trung quốc" ngày này của dân Tàu khác nghĩa như thế nào?
Tần Thủy Hoàng 秦始皇 tên húy là Chính (政) nói nôm na là tên cúng cơm là Chính và lấy tên triều đại là Ch'in dynasty, tên họ là Doanh (嬴), là người nước Triệu (趙) hoặc nước Tần (秦), và là vị vua thứ 36 của nước Tần.
Sau ông khi tiêu diệt và thâu tóm (take over) sáu nước chư hầu [vassal], của nhà Chu/Zhou rulers, gồm: Tề (齊), Sở (楚), Yên (燕), Hàn (韓), Triệu (趙), Ngụy (魏). Chính Doanh 政 嬴 lên ngôi Tần vương năm 13 tuổi và trở thành Hoàng đế năm 38 tuổi, ông tự tạo ra một danh hiệu mới là "Hoàng đế" (皇帝) và tự gọi mình là Thủy Hoàng đế (始皇帝) hoàng đế đầu tiên, hoàng đế nguyên thủy.
Map showing the Qin's takeover of seven states of Zhou rulers' vassal) by Qin Shi Huang emperor.
Đại Tần thâu tóm sáu (6) nước chư hầu của nhà chu và chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc vào năm 221 TCN.[2]
Bản đồ Chai Na ngày nay
Hoàng đế Đại Tần
Sử của Tàu / Chai Na (phát âm theo tiếng Việt của chữ China âm của tây phương) luôn khuyếch đại (nói thêm nhiều, thêm hơn) sự thật và nói sai, nói lấp liếp che đậy sự thật. Vì vậy, ta hãy định nghĩa lại cho rõ vài điều để khỏi bị nhập nhằng giữa cái này cái nọ, giữa nhà Chu và chư hầu của nhà Chu chứ không phải chư hầu của Đại Tần. Nhà Tần đã tiêu diệt hết sáu nước chư hầu đó rồi, làm gì còn nước chư hầu nào nữa mà khoe mình có chư hầu mà là Trung Hoa! Chỉ là triều đình hoàng đế Đại Tần, an empire of great Ch'in mà thôi. Xin lưu ý: Chữ Tần tiếng Việt đọc trại ra là Tàu, nhưng người Tàu nghe không thích họ nói họ là người Trung (quốc). Sau này Tôn Trung Sơn sáng chế ra cái tên là "hoa" với mưu đồ gom tiền đóng góp cho công việc chính trị của ông từ nhiều người Tàu ở hải ngoại. Người Tàu, người Hán, hay người Trung, hoặc người Hoa là một nhưng chữ "Trung Hoa" lấy từ ý của các nước chư hầu Hoa - Hạ trong quá khứ của nhà Chu. Tôn Trung Sơn chơi chữ nhập nhằnn, vì thế, người Việt chúng ta vẫn gọi họ là người Tần, người Tàu cũng như thế giới vẫn gọi họ là Ch'in/Qin/China/Cina... chỉ có Việt cộng gọi họ là người Trung, người Hoa theo ý của Mao, vì Mao chê là lịch sử của người Việt nói xấu người Tàu quá, hãy viết lại lịch sử nói tốt về nước Tàu. Thôi thì thế giới gọi họ là China, ta cứ vẫn gọi họ là Chai Na vậy, vì lý do sâu xa, họ phần đông là người Bách Việt bị Hán hóa, Tàu Hóa hay Trung Hóa gọi gọ là người Tàu để nhắc cái gốc của họ thôi.
Bản đồ triều đại Đại Tần cơ cấu hành chánh quận huyện / Qin Dynasty and its administrative divisions
Map of Qin Dynasty and its administrative divisions
Tần Thủy Hoàng cũng thâu tóm chữ viết của các quốc gia chư hầu trước đây của nhà Chu/Sở, rồi ông cho đốt hết các sách của của các nước chư hầu và chôn nho sĩ. Về chữ Viết, Ông gọi kiểu chữ Trùng Điểu này là chữ đại triện và dùng cho triều đại Đại Tần mới lập nên của ông ta và đặt tên là chữ "Tiểu Triện. Sau này nhà Hán kế thừa chữ Tiểu Triện của ông ta và đổi là tên là "chữ Hán/Hắn Tự rồi đổi mới các nét thành chữ Lệ, chữ Khải…
4
The Qin dynasty (/ˈtʃɪn/ CHIN;[3][4] Chinese: 秦朝), or Ch'in dynasty, was the first dynasty of Imperial China. Named for its heartland in Qin state, it arose as a fief of the Western Zhou and endured for over five centuries until 221 BC, when it evolved into an empire following its complete conquest of other rival states, which lasted only until 206 BC.
Triều đại Tần (/ˈtʃɪn/ CHIN;[3][4] Trung Quốc: 秦朝), hay triều đại Ch'in, là triều đại đầu tiên của Trung Quốc Hoàng gia. Được đặt tên theo trung tâm ở nước Tần, triều đại này xuất hiện như một châu phong của Tây Chu [ nghĩa là nhà tây Chu đã phong đất đai cho công thần của nhà Chu để thành một lãnh chúa mới vùng đó và phục vụ nhà tây Chu vì có công đánh nhà Thang/Thương cho Chu] và tồn tại hơn năm thế kỷ cho đến năm 221 TCN. Khi triều đại Tần/Ch'in, phát triển thành một đế chế sau khi chinh phục hoàn toàn các nước chư hầu của nhà Chu và cả nhà Chu là đối thủ khác, Tần quốc được kéo dài tới năm 206 TCN.
[5] It was established in 221 BC when Ying Zheng, who became the king of Qin state in 246 BC, declared himself the first emperor (Shi Huangdi).
Triều đại Tần (/ˈtʃɪn/ CHIN/Ch'in), tʃɪn/ CHIN là Tần hay Ch'in dynasty được thành lập vào năm 221 TCN khi Ying Zheng, người trở thành vua của nước Tần vào năm 246 TCN (trước công nguyên), tự xưng là hoàng đế đầu tiên (Thủy Hoàng).
Chữ "Trung Nguyên hay Trung Hoa" ngày xưa, với chữ "Trung Hoa" hay "Trung quốc" ngày này của dân Tàu khác nghĩa như thế nào?
Tần Thủy Hoàng 秦始皇 tên húy là Chính (政) nói nôm na là tên cúng cơm là Chính và lấy tên triều đại là Ch'in dynasty, tên họ là Doanh (嬴), là người nước Triệu (趙) hoặc nước Tần (秦), và là vị vua thứ 36 của nước Tần.
Sau ông khi tiêu diệt và thâu tóm (take over) sáu nước chư hầu [vassal], của nhà Chu/Zhou rulers, gồm: Tề (齊), Sở (楚), Yên (燕), Hàn (韓), Triệu (趙), Ngụy (魏). Chính Doanh 政 嬴 lên ngôi Tần vương năm 13 tuổi và trở thành Hoàng đế năm 38 tuổi, ông tự tạo ra một danh hiệu mới là "Hoàng đế" (皇帝) và tự gọi mình là Thủy Hoàng đế (始皇帝) hoàng đế đầu tiên, hoàng đế nguyên thủy.
Map showing the Qin's takeover of seven states of Zhou rulers' vassal) by Qin Shi Huang emperor.
Đại Tần thâu tóm sáu (6) nước chư hầu của nhà chu và chấm dứt thời kỳ Chiến Quốc vào năm 221 TCN.[2]
Bản đồ Chai Na ngày nay
Hoàng đế Đại Tần
Sử của Tàu / Chai Na (phát âm theo tiếng Việt của chữ China âm của tây phương) luôn khuyếch đại (nói thêm nhiều, thêm hơn) sự thật và nói sai, nói lấp liếp che đậy sự thật. Vì vậy, ta hãy định nghĩa lại cho rõ vài điều để khỏi bị nhập nhằng giữa cái này cái nọ, giữa nhà Chu và chư hầu của nhà Chu chứ không phải chư hầu của Đại Tần. Nhà Tần đã tiêu diệt hết sáu nước chư hầu đó rồi, làm gì còn nước chư hầu nào nữa mà khoe mình có chư hầu mà là Trung Hoa! Chỉ là triều đình hoàng đế Đại Tần, an empire of great Ch'in mà thôi. Xin lưu ý: Chữ Tần tiếng Việt đọc trại ra là Tàu, nhưng người Tàu nghe không thích họ nói họ là người Trung (quốc). Sau này Tôn Trung Sơn sáng chế ra cái tên là "hoa" với mưu đồ gom tiền đóng góp cho công việc chính trị của ông từ nhiều người Tàu ở hải ngoại. Người Tàu, người Hán, hay người Trung, hoặc người Hoa là một nhưng chữ "Trung Hoa" lấy từ ý của các nước chư hầu Hoa - Hạ trong quá khứ của nhà Chu. Tôn Trung Sơn chơi chữ nhập nhằnn, vì thế, người Việt chúng ta vẫn gọi họ là người Tần, người Tàu cũng như thế giới vẫn gọi họ là Ch'in/Qin/China/Cina... chỉ có Việt cộng gọi họ là người Trung, người Hoa theo ý của Mao, vì Mao chê là lịch sử của người Việt nói xấu người Tàu quá, hãy viết lại lịch sử nói tốt về nước Tàu. Thôi thì thế giới gọi họ là China, ta cứ vẫn gọi họ là Chai Na vậy, vì lý do sâu xa, họ phần đông là người Bách Việt bị Hán hóa, Tàu Hóa hay Trung Hóa gọi gọ là người Tàu để nhắc cái gốc của họ thôi.
Bản đồ triều đại Đại Tần cơ cấu hành chánh quận huyện / Qin Dynasty and its administrative divisions
Map of Qin Dynasty and its administrative divisions
Tần Thủy Hoàng cũng thâu tóm chữ viết của các quốc gia chư hầu trước đây của nhà Chu/Sở, rồi ông cho đốt hết các sách của của các nước chư hầu và chôn nho sĩ. Về chữ Viết, Ông gọi kiểu chữ Trùng Điểu này là chữ đại triện và dùng cho triều đại Đại Tần mới lập nên của ông ta và đặt tên là chữ "Tiểu Triện. Sau này nhà Hán kế thừa chữ Tiểu Triện của ông ta và đổi là tên là "chữ Hán/Hắn Tự rồi đổi mới các nét thành chữ Lệ, chữ Khải…
4
|
Tẩu gồm bộ Thổ 土 là đất - soil, earth; items made of earth và bộ Chỉ 止 là ngừng - stop, halt, desist; detain. Việt 戉, cái búa rìu dài dùng cho chiến trận. |
|
Chữ Việt bộ tẩu 越 này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… Quảng Đông (Cantonese). Ai đến Quảng Châu đều thấy b ảng số xe hơi đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy. Vào đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Hán, bởi vì tộc người này sử dụng cái rìu (Việt) làm khí giới, vũ khí khi bắc tiến. Vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通 - Việt Việt Hỗ Thông), hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米 - lúa. Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này, Việt bộ mễ 米 - lúa, có thể từ sau đời Minh thì dùng có phân biệt rõ ràng. Nước Việt đã tồn tại từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện về Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là tân khách của Chu Thành Vương 周成王 (1132 – 1083 TCN) là Vu Việt 于越 và 于越 (Vu Việt) là tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. |
|
Thời Tam Đại quốc gia như ngày nay gọi là Thiên Hạ, Thiên Hạ được hiểu là gồm Trung quốc và chư hầu hay các hầu quốc. Trung quốc là nước hạt nhân của Thiên Hạ do vua và triều đình trung ương cai quản, vua là Thiên Tử nên -- triều đình trung ương được gọi là Thiên triều, chư hầu do giới quý tộc được thiên tử ban cấp tức phong tước kiến địa và do triều đình riêng cai quản, giới quý tộc là giới cầm quyền (ruling class), gọi là người Hoa, là người giàu có, quyền chức, cao quý, hãnh diện nói: "Ta là người Hoa, người văn minh, đẹp đẽ..." là giới đẳng cấp. Giới quý tộc hay người hoa) phần tử nước chư hầu phân làm năm hạng: - Công, - Hầu, - Bá, - Tử, - Nam... Tùy theo thứ tự mà lãnh thổ được cấp to hay nhỏ, vương của các nước chư hầu cũng được cha truyền con nối, cướp ngôi sẽ bị Thiên Tử xuất binh trừng phạt. Lãnh thổ của chư hầu to nhất cũng chỉ được phép ngang với 1/3 Trung quốc. Về dân thì Dân sống ở Trung quốc gọi là Hoa Hạ (người văn minh, đẹp đẽ của nước Hạ), còn sống ở xung quanh là nước hoa Hạ là các chư hầu, gọi là Di hạ. Đặc điểm nổi bật trong nền văn minh Thiên Hạ là quan niệm: toàn thể Thiên Hạ là đất của Thiên Tử, mọi người trong Thiên Hạ là Hoa hạ hay Di hạ đều là con dân của Thiên Tử (con trời). Theo lễ chế xưa hàng năm tùy theo mùa vua vi hành đến các nước chư hầu ở bốn phương để xem xét dân tình rồi tế lễ cáo với tổ tiên rồì thưởng người có công phạt kẻ có tội, như thế cả Thiên hạ vẫn là một khối đồng nhất, khác nhau chỉ ở sự phân cấp quản lý mà thôi. Trung Hoa hay Trung Hạ là chữ được rút gọn của 'Trung quốc và hoa hạ', "trung" để chỉ Trung quốc, còn "Hoa" chỉ dân sống ở Trung quốc, chữ thực tế Trung hoa là nơi vua ở và ban ra mệnh lệnh cho cả thiên hạ, là nơi hội tụ tài phú; người tài tụ ở đấy, những thành tựu khoa học kỹ thuật hàng đầu cũng ở đấy, cuộc sống phồn vinh bậc nhất cũng ở đấy, Trung Hoa là mẫu mực cho cả Thiên hạ noi theo… chính vì chữ thực tế này mà dần dần nảy sinh quan niệm sai lạc về đẳng cấp: Hoa hạ cao hơn Di hạ, và Hoa là quý, mà Di là tiện. Có những điều phải làm cho rõ: Xét như trên thì -- dù chỉ một Thiên Hạ nhưng không hề có một Trung Hoa xuyên suốt các triều đại, vì mỗi triều đại có một Trung Hoa khác: - Trung quốc Hoa hạ thời Châu/Chu không phải là Trung Hoa thời nhà Thương, - Người Hoa hạ thời nhà Hạ không phải là người Hoa hạ thời Thương hay Châu/Chu. Do một số người ngày nay còn cố bám víu vào khái niệm cũ để nhập nhằng, đánh lận, lừa bịp về lịch sử, chứ thực ra Trung Hoa và chư hầu, quý tộc hay ngời Hoa đã chết từ khi Tần Thủy Hoàng dẹp bỏ chế độ "Trung quốc – Chư Hầu, quý tộc", vì nhà Tần đã chia quốc gia thành quận, huyện, làm gì còn chư hầu, hay người Hoa hoặc Hoa Hạ? Bây giờ chỉ rặt là người Tàu và người Tàu hay nhà Tần, Tần quốc hay Đại Tần nhân dân hay gọi nôm na dễ hiểu là người Tầu. Trung Hoa xưa hoàn toàn không phải là Trung Hoa dân quốc hay Nhân Dân Trung Hoa của Trung quốc hiện nay do Tôn Trung Sơn sáng tạo ra. Nhà cầm quyền Trung quốc khi tuyên bố sự ra đời của nước ‘Trung Hoa Dân Quốc’ hay 'Nhân Dân Trung Hoa' đã vận dụng chữ nghĩa, tạo nhãn hiệu mới mang ý đồ kết thành Thiên Hạ của Trung quốc – chư Hầu xưa vào thời đại mới với nội ý hoàn toàn khác: Trung Hoa là cả Thiên Hạ chư hầu thời xưa (trừ Giao Chỉ) và Thiên Hạ thời ngày nay với ngụ ý "toàn thể thế giới". Xem ra thì sự bành trướng mớm ý cho dân Tàu của ông Tôn Dật Tiên/Tôn Trung Sơn nằm trong tâm thức người Tàu đã đạt đỉnh chót… đi xa đến cả Thế Giới này, đều bị người Tàu xem là Thiên Hạ của Trung quốc. Xưa, chữ "Thiên hạ" là đất nước của một giống một dòng, quốc gia ngoại chủng không được dự vào hàng chư hầu mà chỉ được coi là ‘thuộc quốc’, còn bí quá khi thuộc quốc ngoại chủng mạnh quá… sợ mất lòng thì vỗ về nhỏ nhẹ gọi là... nước anh em. Thời Tống, nước đàn anh mỗi năm phải ‘tặng’ cả đống vàng, bạc, châu báu, nhung gấm, lụa là... cho nước đàn Em để được yên thân. Thêm điểm nữa phải lưu ý về Trung hoa xưa và nay. Từ khi Mông cổ chiếm Thiên Hạ (trừ Đại Việt) thì Trung Hoa hiểu theo nghĩa nào cũng không còn nữa, tất cả là thuộc địa của Đại Hãn quốc với hai triều là Nguyên Mông cùng Mãn Thanh, và người của Thiên Hạ xưa còn sống sót chỉ là đám nô lệ vong quốc thất tộc không hơn không kém. Thời nhà Nguyễn, người Việt gọi họ là Thanh nhân hoàn toàn chính đáng! Trên đất ấy làm gì còn còn Trung với Hoa mà vỗ ngực xưng tên "Ta là người Hoa, gốc Hoa, Hoa tộc..." . Tôn Tung Sơn lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1911, trước nêu khẩu hiệu: Dánh đuổi giặc Thát. Phục hưng Trung Hoa… Nghĩa là -- về lý mà xét: 1 - Trước hết là phải quét sạch giặc Mãn Thanh khỏi bờ cõi. 2 - Rồi sau đó mới phục hưng Trung Hoa. Thế nhưng, sự thực thì năm 1911 có quét được ai đâu! Giặc Thát vẫn còn đó! Vậy mà đã có tên tên mới là Trung Hoa? Hoàng đế Mãn Thanh Phổ Nghi chỉ tự động thoái vị (và vẫn lãnh lương của cách mạng của Tôn, cách mạng cùng triều đình họp nhau bàn chuyện nhà… bếp) mà thay bằng đại Tổng Thống Mãn Thanh Viên Thế Khải… Đất nước có thay có đổi gì đâu, giặc Mãn còn đó và đang làm tổng thống của nước Trung quốc, với ngoài vài chữ nơi cửa miệng và tiếng quốc ngữ vẫn là tiếng ‘phổ thông’ mà toàn dân phải học, phải dùng vẫn là thứ ngôn ngữ của ‘Mãn đại nhân’. Chính danh mà nói, thời kỳ này không thể gọi là nước ‘Trung Hoa Dân Quốc’ mà phải gọi là ‘Cộng Hòa Đế Quốc Mãn Thanh’. Bởi vậy, thế giới vẫn gọi Trung quốc là China, người Việt vẫn gọi họ là Thanh Nhân, Đại Mãn. Phải nhờ đến Liên Xô thì ông Mao mới thoát Mãn và ăn theo Liên Xô với chủ thuyết cộng sản, và dựa vào vũ khí của Liên Xô ông Mao mới thâu tóm Đại Lục Đông Á mà ông ta gọi là Cộng Hòa Nhân Dân Đại Hán, thực chất là đó là nước Đại Lục Cộng Sản Đông Á Đại Hán, vì họ ghi danh là họ là dân tộc Hán. Ông Mao hất Nga ra khi tạm đủ mạnh khi đã kêu gọi Đài Loan và Hồng Kông bơm tài chánh, tiền bạc, đầu tư thành cộng. Nhưng nay đại lục cộng sản đông Á Hán Quốc mất tiền đầu tư của Tây phương từ đám đầu tư Hồng Kông và Đài Loan thì ông Tập lại dựa dẫm vào Nga để cùng nhau "bình Thiên Hạ" với Nga? Sang thời ông Mao Trạch Đông nắm quyền nếu muốn giữ ‘ước nguyện’ bình thiên hạ để làm trung tâm của Thiên Hạ, mang ý nghĩa là "toàn thế giới" thành Tàu và Tàu. |
No comments:
Post a Comment