Monday, May 19, 2025






VIỆT TỘC LÀ MỘT ĐẠI CHỦNG



Việt Tộc


Bách Việt

5


6


0


4








History of Viet and Baiyue

Xích Thần 3118 BC - 2879 BC
Xích Quỷ 2879 BC - 2524 BC
Văn Lang 2524 BC - 208 BC
Hạ 2070 BC - 1600 BC
Thương 1600 BC – 1046 BC
Chu Tây Chu
Đông Chu Xuân Thu
Chiến Quốc
History of China

Tần 221–207 BC
Hán Tây Hán
Đông Triều
Đông Hán
Tam Quốc Ngụy Thục Ngô
Tấn Tây Tấn
Đông Tấn Thập Lục Quốc
Nam Bắc Triều Tống Bắc Ngụy
Tề
Lương Đông Ngụy Tây Ngụy
Trần Bắc Tề Bắc Chu
Tùy Triều
Đường Triều Đường
Võ Chu
Đường
Ngũ Đại Thập Quốc Liêu
Tống Bắc Tống Tây Hạ
Nam Tống Kim
Nguyên
Minh
Thanh


..............................................................


HISTORY OF EAST ASIA
ANCIENT TIME OF EAST ASIA
Neolithic c. 8500 – c. 2070 BC
Xich Than c. 3118 – c. 2879 BC
Xich Quy c. 2879 - c. 2524 BC
Van Lang c. 2524 – c. 208 BC
Xia c. 2070 – c. 1600 BC
Shang c. 1600 – c. 1046 BC
Zhou c. 1046 – 256 BC
 Western Zhou
 Eastern Zhou
   Spring and Autumn
   Warring States
History of China
IMPERIAL
Qin 221–207 BC
Han 202 BC – 220 AD
  Western Han
  Xin
  Eastern Han
Three Kingdoms 220–280
  Wei, Shu and Wu
Jin 266–420
  Western Jin
  Eastern Jin Sixteen Kingdoms
Northern and Southern dynasties
420–589
Sui 581–618
Tang 618–907
Five Dynasties and
Ten Kingdoms

907–979
Liao 916–1125
Song 960–1279
  Northern Song W. Xia
  Southern Song Jin W. Liao
Yuan 1271–1368
Ming 1368–1644
Qing 1636–1912
MODERN
Republic of China on the mainland 1912–1949



-------------------



--------------------------



The list for each millennium, century and decade from 15,000 BC to AD 3000.

Millennia
15th millennium BC 15,000–14,001 BC
14th millennium BC 14,000–13,001 BC
13th millennium BC 13,000–12,001 BC
12th millennium BC 12,000–11,001 BC
11th millennium BC 11,000–10,001 BC
10th millennium BC 10,000–9001 BC
9th millennium BC 9000–8001 BC
8th millennium BC 8000–7001 BC
7th millennium BC 7000–6001 BC
6th millennium BC 6000–5001 BC
5th millennium BC 5000–4001 BC
4th millennium BC 4000–3001 BC
3rd millennium BC 3000–2001 BC
2nd millennium BC 2000–1001 BC
1st millennium BC 1000–1 BC
1st millennium AD 1–1000
2nd millennium AD 1001–2000
3rd millennium AD 2001–3000


Centuries and decades
Century Decades
4th millennium BC — 4000–3001 BC
40th century BC
39th century BC
38th century BC
37th century BC
36th century BC
35th century BC
34th century BC
33rd century BC
32nd century BC
31st century BC
3rd millennium BC — 3000–2001 BC
30th century BC
29th century BC
28th century BC
27th century BC
26th century BC
25th century BC
24th century BC
23rd century BC
22nd century BC
21st century BC
2nd millennium BC — 2000–1001 BC
20th century BC
19th century BC
18th century BC 1790s BC 1780s BC 1770s BC 1760s BC 1750s BC 1740s BC 1730s BC 1720s BC 1710s BC 1700s BC
17th century BC 1690s BC 1680s BC 1670s BC 1660s BC 1650s BC 1640s BC 1630s BC 1620s BC 1610s BC 1600s BC
16th century BC 1590s BC 1580s BC 1570s BC 1560s BC 1550s BC 1540s BC 1530s BC 1520s BC 1510s BC 1500s BC
15th century BC 1490s BC 1480s BC 1470s BC 1460s BC 1450s BC 1440s BC 1430s BC 1420s BC 1410s BC 1400s BC
14th century BC 1390s BC 1380s BC 1370s BC 1360s BC 1350s BC 1340s BC 1330s BC 1320s BC 1310s BC 1300s BC
13th century BC 1290s BC 1280s BC 1270s BC 1260s BC 1250s BC 1240s BC 1230s BC 1220s BC 1210s BC 1200s BC
12th century BC 1190s BC 1180s BC 1170s BC 1160s BC 1150s BC 1140s BC 1130s BC 1120s BC 1110s BC 1100s BC
11th century BC 1090s BC 1080s BC 1070s BC 1060s BC 1050s BC 1040s BC 1030s BC 1020s BC 1010s BC 1000s BC
1st millennium BC — 1000–1 BC
10th century BC 990s BC 980s BC 970s BC 960s BC 950s BC 940s BC 930s BC 920s BC 910s BC 900s BC
9th century BC 890s BC 880s BC 870s BC 860s BC 850s BC 840s BC 830s BC 820s BC 810s BC 800s BC
8th century BC 790s BC 780s BC 770s BC 760s BC 750s BC 740s BC 730s BC 720s BC 710s BC 700s BC
7th century BC 690s BC 680s BC 670s BC 660s BC 650s BC 640s BC 630s BC 620s BC 610s BC 600s BC
6th century BC 590s BC 580s BC 570s BC 560s BC 550s BC 540s BC 530s BC 520s BC 510s BC 500s BC
5th century BC 490s BC 480s BC 470s BC 460s BC 450s BC 440s BC 430s BC 420s BC 410s BC 400s BC
4th century BC 390s BC 380s BC 370s BC 360s BC 350s BC 340s BC 330s BC 320s BC 310s BC 300s BC
3rd century BC 290s BC 280s BC 270s BC 260s BC 250s BC 240s BC 230s BC 220s BC 210s BC 200s BC
2nd century BC 190s BC 180s BC 170s BC 160s BC 150s BC 140s BC 130s BC 120s BC 110s BC 100s BC
1st century BC 90s BC 80s BC 70s BC 60s BC 50s BC 40s BC 30s BC 20s BC 10s BC 0s BC[note 1]
1st millennium — AD 1–1000
1st century 0s[note 2] 10s 20s 30s 40s 50s 60s 70s 80s 90s
2nd century 100s 110s 120s 130s 140s 150s 160s 170s 180s 190s
3rd century 200s 210s 220s 230s 240s 250s 260s 270s 280s 290s
4th century 300s 310s 320s 330s 340s 350s 360s 370s 380s 390s
5th century 400s 410s 420s 430s 440s 450s 460s 470s 480s 490s
6th century 500s 510s 520s 530s 540s 550s 560s 570s 580s 590s
7th century 600s 610s 620s 630s 640s 650s 660s 670s 680s 690s
8th century 700s 710s 720s 730s 740s 750s 760s 770s 780s 790s
9th century 800s 810s 820s 830s 840s 850s 860s 870s 880s 890s
10th century 900s 910s 920s 930s 940s 950s 960s 970s 980s 990s
2nd millennium — AD 1001–2000
11th century 1000s 1010s 1020s 1030s 1040s 1050s 1060s 1070s 1080s 1090s
12th century 1100s 1110s 1120s 1130s 1140s 1150s 1160s 1170s 1180s 1190s
13th century 1200s 1210s 1220s 1230s 1240s 1250s 1260s 1270s 1280s 1290s
14th century 1300s 1310s 1320s 1330s 1340s 1350s 1360s 1370s 1380s 1390s
15th century 1400s 1410s 1420s 1430s 1440s 1450s 1460s 1470s 1480s 1490s
16th century 1500s 1510s 1520s 1530s 1540s 1550s 1560s 1570s 1580s 1590s
17th century 1600s 1610s 1620s 1630s 1640s 1650s 1660s 1670s 1680s 1690s
18th century 1700s 1710s 1720s 1730s 1740s 1750s 1760s 1770s 1780s 1790s
19th century 1800s 1810s 1820s 1830s 1840s 1850s 1860s 1870s 1880s 1890s
20th century 1900s 1910s 1920s 1930s 1940s 1950s 1960s 1970s 1980s 1990s
3rd millennium — AD 2001–3000
21st century 2000s 2010s 2020s 2030s 2040s 2050s 2060s 2070s 2080s 2090s
22nd century 2100s 2110s 2120s 2130s 2140s 2150s 2160s 2170s 2180s 2190s
23rd century 2200s 2210s 2220s 2230s 2240s 2250s 2260s 2270s 2280s 2290s
24th century 2300s 2310s 2320s 2330s 2340s 2350s 2360s 2370s 2380s 2390s
25th century 2400s 2410s 2420s 2430s 2440s 2450s 2460s 2470s 2480s 2490s
26th century 2500s 2510s 2520s 2530s 2540s 2550s 2560s 2570s 2580s 2590s
27th century 2600s 2610s 2620s 2630s 2640s 2650s 2660s 2670s 2680s 2690s
28th century 2700s 2710s 2720s 2730s 2740s 2750s 2760s 2770s 2780s 2790s
29th century 2800s 2810s 2820s 2830s 2840s 2850s 2860s 2870s 2880s 2890s
30th century 2900s 2910s 2920s 2930s 2940s 2950s 2960s 2970s 2980s 2990s

Notes

  1. ^ 0s BC is not a true decade, as it contains only nine years.
  2. ^ AD 0s is not a true decade, as it contains only nine years.
56 languages 20th century BC - Wikipedia


2879 BC Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương trị vì







Millennium Century
BC (BCE)
4th 40th 39th 38th 37th 36th 35th 34th 33rd 32nd 31st
3rd 30th 29th 28th 27th 26th 25th 24th 23rd 22nd 21st
2nd 20th 19th 18th 17th 16th 15th 14th 13th 12th 11th
1st 10th 9th 8th 7th 6th 5th 4th 3rd 2nd 1st
AD (CE)
1st 1st 2nd 3rd 4th 5th 6th 7th 8th 9th 10th
2nd 11th 12th 13th 14th 15th 16th 17th 18th 19th 20th
3rd 21st 22nd 23rd 24th 25th 26th 27th 28th 29th 30th




32nd century BC



3200s BC 3209 BC 3208 BC 3207 BC 3206 BC 3205 BC 3204 BC 3203 BC 3202 BC 3201 BC 3200 BC
3190s BC 3199 BC 3198 BC 3197 BC 3196 BC 3195 BC 3194 BC 3193 BC 3192 BC 3191 BC 3190 BC
3180s BC 3189 BC 3188 BC 3187 BC 3186 BC 3185 BC 3184 BC 3183 BC 3182 BC 3181 BC 3180 BC
3170s BC 3179 BC 3178 BC 3177 BC 3176 BC 3175 BC 3174 BC 3173 BC 3172 BC 3171 BC 3170 BC
3160s BC 3169 BC 3168 BC 3167 BC 3166 BC 3165 BC 3164 BC 3163 BC 3162 BC 3161 BC 3160 BC
3150s BC 3159 BC 3158 BC 3157 BC 3156 BC 3155 BC 3154 BC 3153 BC 3152 BC 3151 BC 3150 BC
3140s BC 3149 BC 3148 BC 3147 BC 3146 BC 3145 BC 3144 BC 3143 BC 3142 BC 3141 BC 3140 BC
3130s BC 3139 BC 3138 BC 3137 BC 3136 BC 3135 BC 3134 BC 3133 BC 3132 BC 3131 BC 3130 BC
3120s BC 3129 BC 3128 BC 3127 BC 3126 BC 3125 BC 3124 BC 3123 BC 3122 BC 3121 BC 3120 BC
3110s BC 3119 BC 3118 BC 3117 BC 3116 BC 3115 BC 3114 BC 3113 BC 3112 BC 3111 BC 3110 BC
3100s BC 3109 BC 3108 BC 3107 BC 3106 BC 3105 BC 3104 BC 3103 BC 3102 BC 3101 BC 3100 BC
3090s BC 3099 BC 3098 BC 3097 BC 3096 BC 3095 BC 3094 BC 3093 BC 3092 BC 3091 BC 3090 BC


Nước Xích Thần = Đế Nghi cai quản
Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương trị vì

- Đế Nghi Leader of Xích Thần (North, Mountain Thai)
- Kinh Dương Vương Leader of Xích Quỷ (South Linh Nam Range









A Đông Sơn axe
Dong Son drum from Sông Đà, Mường Lay, Vietnam. Dong Son II culture. Mid-1st millennium BC. Bronze.

The Dong Son culture or the Lạc Việt culture (named for modern village Đông Sơn, a village in Thanh Hóa, Vietnam) was a Bronze Age culture in ancient Vietnam centred at the Red River Valley of northern Vietnam from 1000 BC until the first century AD.[1]: 207  Vietnamese historians attribute the culture to the states of Văn Lang and Âu Lạc. It spreaded to other parts of Southeast Asia, including Maritime Southeast Asia, from about 1000 BC to 1 BC.[2][3][4]

The Dong Son people were skilled at cultivating rice, keeping water buffalos and pigs, fishing and sailing in long dugout canoes. They also were skilled bronze casters, which is evidenced by the Dong Son drum found widely throughout northern Vietnam and South China.[5]

To the south of the Dong Son culture was the Sa Huỳnh culture of the proto-Chams.


Trống Đông Sơn từ Sông Đà, Mường Lay, Việt Nam.

Văn hóa Đông Sơn II. Giữa thiên niên kỷ 1 trước Công nguyên.

Đồng.
Văn hóa Đông Sơn hay văn hóa Lạc Việt (được đặt tên theo làng Đông Sơn, một ngôi làng ở Thanh Hóa, Việt Nam) là một nền văn hóa thời đại đồ đồng ở Việt Nam cổ đại tập trung tại Thung lũng sông Hồng ở miền bắc Việt Nam từ năm 1000 trước Công nguyên cho đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.[1]: 207 Các nhà sử học Việt Nam gán văn hóa cho các bang Văn Lang và Âu Lạc. Văn hóa Trống đồng lan sang các khu vực khác của Đông Nam Á, bao gồm cả Đông Nam Á, từ khoảng năm 1000 trước Công nguyên đến năm 1 trước Công nguyên. [2] [3] [4]

Người Đông Sơn có kỹ năng trồng lúa, nuôi trâu lợn, đánh cá và chèo thuyền trên những chiếc xuồng đào dài. Họ cũng là những thợ đúc đồng lành nghề, bằng chứng là trống Đông Sơn được tìm thấy rộng rãi trên khắp miền Bắc Việt Nam và Nam Trung Quốc sông Trường Giang. [5]

Ở phía nam của văn hóa Đông Sơn là văn hóa Sa Huỳnh của người Chăm nguyên thủy.

The first king Hùng reigned over Văn Lang, the first Vietnamese kingdom.

The VAN LANG Kingdom (2879 BC – 258 BC, 2621 years)

P. HUARD1 & M. DURAND2

Once reaching Phong Châu, the fifty sons of Âu Cơ3 elected their elder brother king of the Hùng Dynasty.

That was the first king Hùng who reigned over Văn Lang, the first vietnamese kingdom. The Văn Lang, with its imprecise boundaries that extended from Vietnam to the Blue river4, is unknown to ancient Chinese geographies. Thereby, HENRI MASPERO5 has estimated that the Văn Lang of Vietnamese historians, is just the old kingdom of Ye-lang (Dạ Lang), situated in the South of Tong-T’ing lake which the name had been ill-read and wrongly recopied by Tang Chinese historians who had transmitted their, error to their vietnamese colleagues. In fact, the character Ye (Dạ) could have been wrongly recopied Wen (Văn) and that is the reason why there was a confusion between Ye-Lang and Wen-Lang. There existed, by way of compensation, a Văn Lang located further in the South, on the septentrional part of present-day Central Vietnam; would it be that Văn-Lang which the authors had confounded with the Ye-lang and thought that these two kingdoms arc a same one.

Văn Lang, the first Vietnamese kingdom, must have occupied a territory much more confined than that of the Xích Quỷ. The list of districts generally given by various histories and legends does not include any territory relating to Tong-T’ing lake6. The twelve districts do not go beyond Kouang-si and Kouang-tong in the North.

The Văn Lang had a quite long existence. Il had been transmitted between Hùng Kings from legendary time to 257 BC, date of its annexion by An Dương Vương7, a prince of Pa-Chou (Ba Thục).

The information we can gather on Văn Lang political organizations and social life are extracted from Chinese texts, not anterior to 4th century of our era, and from Vietnamese texts much more recent (14th century) but conveying very ancient facts and beliefs.

The inconvenience of drafting a tableau of this kingdom’s life resides in the difficulty to fix the epoch, or even the section of centuries through which it could be valid. The Hùng dynasty probably reigned during almost one thousand years, if we admit an average of fifty years for each reign; while the summary views on Văn Lang’s life are contained in a few scattered texts and a certain number of legends which a critical study has been commenced by HENRY MASPERO. On the 18 Hùng kings counted by tradition, we have very few onomastical and chronological precision.

Any general tableau will contain trails, attributable, for instance, to the year 1000 BC, or 300 BC. Besides, quite a great deal of those traits might belong to epochs posterior to Văn Lang kingdom and might have been transposed to it by vietnamese authors of the 14th and 15th centuries.

The Văn-Lang kingdom, if one believes in texts, was a feudal state, hierarchically organized but decentralized. It was placed under the aulorily of a Hùng (valorous) or (Lạc) king who originally had been elected for his courage and valour. That first Hùng king reigned at Phong Châu8, a place located in present-day Bạch Hạc. He was the eldest son of Lạc Long Quân, the ancestor of the Hundred Yue (Việt) i.e present-day Vietnamese, who was also genie protector of that first vietnamese dynasty. The first Hùng king divided the Văn Lang territory into districts confided to his brothers who were probably the Lạc Marquis (Lạc Hầu or civilian chiefs).

Those districts themselves were divided into circumscriptions entrusted to the king’s brothers or to persons in the royal family (Lạc Tướng Or military chiefs). Territories occupied by such Lords were called Lạc Điền.

Public functions such as king, marquis, generals (or chiefs) seem to have been hereditary. Male children of the king had the title of Quan-Lang and female ones were called Mệ Nàng or Mỵ Nương9. People have compared that political organization to the feudal system which still exists at the present lime in districts of middle and high regions of North Vietnam, particularly, with the Mường10 that still have a hierarchy of heredirary chiefs, united between themselves by bonds of vassality and sovereignty. The inhabitants of Văn Lang had reached a certain degree of civilization. Inheriting the techniques of their Xích Quỷ ancestors, they had improved them and even invented new ones. They were tillers who used fire to clear lands, and hoes to plough. They then came to practice cutting and burning turves; they sowed and reaped sticky and non-slicky rice (See the legend of Bánh Chưng). They, first cooked their rice in bamboo tubes, then came to use earthen and metallic pots. They knew about bronze. They were also fishermen and seamen. They talloed and painted on their bodies images of dragons (crocodiles or alligators), snakes and other aquatic beasts to assure themselves of a magic protection against those animals which they feared the attacks. With a same aim, they drew on their boats and vessels numerous heads and eyes of aquatic monsters. Their clothes originally were made with vegetal fibres. They also weaved mats. Their houses were built high on stills to avoid all possible attacks of wild beasts. They bore, according to certain Chinese texts, long hairs in chignon sustained by a turban. According to certain vietnamese legends they had, on the contrary, short hairs so as to “facilitate their marching in mountainous jungles“. They utilized areca-nuts and betel. The blackening of teeth is not explicitly indicated in the legend of the betel and areca-nul tree or legend of the Cao (Cau) family, but many vietnamese scholars pul it back to that primitive period. They must have been totem worshippers and practiced human sacrifices that lasted until the 10th century of our era, and such practices would have been suppressed by King Đinh Tiên Hoàng11. Marriages among them seemed to have been fairly free and were carried out in proprer seasons. Betel and areca-nuts played a great role in the betrothal. Marriage rituals comprised a sacrifice and a banquet before its consummation.

If one believes in vietnamese legends, during the reign of Hùng kings and probably towards the end of their dynasty, indirect relations were established with Occident or more simply with the South seas. The Legend of the Water Melon seems to testify the arrival in Vietnam of foreigners of a different race that would have imported the seeds, and this probably by sea (3rd century BC.?).

REFERENCES :
1: PIERRE HUARD (16 October 1901, Bosnia – 28 April 1983) was a French physician (surgeon and anatomist), historian of medicine and anthropologist, long in post in Indochina, dean of several faculties of medicine (Hanoï, Paris), rector of the Université Félix Houphouët-Boigny, a pioneer in the history of medicine. (See all details: P. HUARD)

2: MAURICE DURAND was a French-Vietnamese linguist born in Hanoi. (See all details: M. DURAND)

3: ÂU CƠ (嫗 姬) was, according to the creation myth of the Vietnamese people, an immortal mountain fairy who married Lạc Long Quân (“Dragon Lord of Lac“), and bore an egg sac that hatched a hundred children known collectively as Bách Việt, ancestors to the Vietnamese people. (See all details: ÂU CƠ)

4: Blue river: means Yangtze River, sometimes referred to as the Blue River in older English sources. The Yangtze or Yangzi (English: /ˈjæŋtsi/ or /ˈjɑːŋtsi/) is the longest river (6,300 km # 3,900 mi) in Asia, the third-longest in the world and the longest in the world to flow entirely within one country. It rises at Jari Hill in the Tanggula Mountains (Tibetan Plateau) and flows 6,300 km (3,900 mi) in a generally easterly direction to the East China Sea. It is the sixth-largest river by discharge volume in the world.

5: HENRI PAUL GASTON MASPERO (15/12/1883, Paris – 17/3/1945, Buchenwald concentration camp, Nazi Germany) was a French sinologist and professor who contributed to a variety of topics relating to East Asia. (See all details: HENRI PAUL GASTON MASPERO) (See all details: HENRI MASPERO)

6: Tong-T’ing lake or Dongting Lake (Chinese: 洞 庭 湖) is a large, shallow lake in northeastern Hunan Province, China.

7: AN DƯƠNG VƯƠNG was the king and the only ruler of the kingdom of Âu Lạc, a classical antiquity state centered in the Red River Delta. As the leader of the Âu Việt tribes, he defeated the last Hùng king of the state of Văn Lang and united its people – known as the Lạc Việt – with his people the Âu Việt. An Dương Vương fled and committed suicide after the war with Nanyue forces in 179 BCE. (See all details: AN DƯƠNG VƯƠNG)

8: Phong Châu (峯州, Bạch Hạc District, Việt Trì, Phú Thọ Province today) was the capital city of Văn Lang (now Viet Nam) for the most part of the Hồng Bàng period,1 from the Third Dynasty to the Eighteenth Dynasty of Hùng kings.

9: Mỵ Nương (chinese: 媚 娘 or 媚 嬝) is a title used during the Hong Bang period to refer to the daughter of the Hung kings. (See all details: MỴ NƯƠNG)

10: The Mường (Vietnamese: Người Mường) or the Mwai are an ethnic group native to northern Vietnam. The Muong is the country’s third largest of 53 minority groups, with an estimated population of 1.45 million (according to the 2019 census). The Muong people inhabit the mountainous region of northern Vietnam, concentrated in Hòa Bình Province and the mountainous districts of Thanh Hóa Province. They are most closely related to the ethnic Vietnamese (Kinh). (See all details: MƯỜNG)

11: ĐINH BỘ LĨNH (924–979) (r. 968–979), originally named Đinh Hoàn (丁 桓 1), was the first Vietnamese emperor following the liberation of the country from the rule of the Chinese Southern Han Dynasty, as well as the founder of the short-lived Đinh Dynasty and a significant figure in the establishment of Vietnamese independence and political unity in the 10th century. (See all details: ĐINH TIÊN HOÀNG)

NOTES:
◊ Sources: Connaissance du Vietnam – P. HUARD. Hanoi, 1954.
◊ Image: wikipedia.com.
Header title, citations, uppercase, bold, italic textes, featured sepia image has been set by Ban Tu Thưthanhdiavietnamhoc.com

BAN TU THƯ
6 /2021

Bronze Age





Word 2000 BC

Key
      hunter-gatherers
2
      nomadic pastoralists
3
      simple farming societies
4
      complex farming societies/chiefdoms
5
      state societies
6
 Unhabitated
7 __ areas of bronze working



Trận Phản Tuyền





Map of tribes and tribal unions in Ancient China, including tribes of Huang Di (Yellow Emperor), Yan Di (Flame Emperor) and Chiyou. The location of Battle of Zhuolu is also shown.
Trận Phản Tuyền
Thời gian ~2500 TCN
Địa điểm
Phản Tuyền, Trung Quốc (tranh cãi)
Kết quả
  • Chiến thắng của Hữu Hùng
  • Thâu tóm Hữu Hùng và Thần Nông thành bộ lạc Viêm Hoàng.
Tham chiến
Bộ lạc Thần Nông Bộ lạc Hữu Hùng
Chỉ huy
Viêm Đế Hoàng Đế

Trận Phản Tuyền (giản thể: 阪泉之战; phồn thể: 阪泉之戰; bính âm: Bǎn Quán Zhī Zhàn, Hán-Việt: Phản Tuyền chi chiến) là trận chiến đầu tiên được ghi nhận trong lịch sử Trung Quốc trong Sử ký của Tư Mã Thiên.[1] Đây là cuộc chiến tranh giữa hai bộ lạc (hay hai liên minh gồm nhiều bộ lạc của mỗi bên) do Hoàng ĐếĐế Viêm chỉ huy. "Trận Phản Tuyền" trên thực tế có thể chỉ là trận thứ ba trong số ba trận chiến giữa hai bộ lạc này.[1] Hoàng Đế sau đó còn chỉ huy trận chiến với bộ lạc Cửu Lê của Xi Vưu tại trận Trác Lộc.[1] Cả hai trận chiến này diễn ra không xa nhau về thời gian và trên các bình nguyên gần nhau, cả hai đều có sự tham gia của Hoàng Đế. Trận Phản Tuyền được coi là tạo ra sự hình thành bộ lạc Viêm Hoàng, tiền đề của văn minh Hoa Hạ.

Diễn biến lịch sử

Người ta không biết nhiều về trận chiến này, do nó cũng như các sự kiện khác diễn ra vào khoảng thời gian này bị che phủ trong mơ hồ, được thêu dệt bằng những câu chuyện mang tính thần thoại. Vì thế, độ chính xác lịch sử của các mô tả về trận chiến này luôn gây tranh cãi. Truyền thống lịch sử Trung Hoa đặt nó vào khoảng thế kỷ 26 TCN.

Bộ lạc Thần Nông nguyên là một nhánh dân cư làm nông nghiệp[2] vào cuối thời đại đồ đá mới, sinh sống trong bình nguyên Quan Lũng ở phía tây. Họ đã phát triển mở rộng vào cao nguyên Hoàng Thổ trước khi tiến về phía đông vượt qua Thái Hành Sơn.

Khi bộ lạc Hữu Hùng của Hoàng Đế bắt đầu nổi lên thì triều đại Viêm Đế của bộ lạc Thần Nông bắt đầu suy vong.[1] Các bộ lạc chư hầu đem quân đánh lẫn nhau để tranh giành lãnh thổ và cướp bóc dân chúng, trong đó bộ lạc Cửu Lê của Xi Vưu là hung bạo nhất, nhưng Viêm Đế không thể dẹp yên. Hoàng Đế nhân cơ hội đó đem quân đánh dẹp các bộ lạc chư hầu nhưng không chiếm giữ đất đai, vì thế các bộ lạc chư hầu này theo về với Hoàng Đế. Lòng tham muốn xâm lăng chư hầu của Viêm Đế càng đẩy các bộ lạc này nghiêng hẳn về phía Hoàng Đế. Trong khi đó Hoàng Đế xây dựng và thực hiện các chính sách thuận lòng người, như trấn an bốn phương, phủ dụ dân chúng nên càng được nhiều bộ lạc theo về. Ông tăng cường tích trữ lương thực, chấn chỉnh binh lực, làm thêm vũ khí và cuối cùng thì chiến tranh với Thần Nông thị của Viêm Đế đã xảy ra.[1]

Bộ lạc Hoàng Đế, hóa trang theo các vật tổ như hùng (熊, gấu đen), bi (羆, gấu nâu), tỳ hưu (貔貅, giống sư tử hoặc báo hoa mai), (貙, giống lửng chó) và hổ (虎),[1] đã giao chiến với quân đội của Viêm Đế tại Phản Tuyền trong trận đánh quy mô lớn đầu tiên trong lịch sử Hạ tộc Huân Viên Hoàng Đế. Sau ba trận chiến, Viêm Đế thất bại và quy phục Hoàng Đế.[1] Các bộ lạc Hữu Hùng và Thần Nông sau đó giao kết liên minh, tạo thành bộ lạc Viêm Hoàng, gom vào các bộ lạc nhỏ xung quanh họ.

Bộ lạc Viêm Hoàng ngày càng mở rộng nhanh chóng thu hút lòng tham của Xi Vưu, và ông này tiếp tục đưa quân xâm lăng lãnh thổ của bộ lạc Viêm Hoàng. Bộ lạc Viêm Hoàng phản ứng bằng việc đối mặt với đội quân của Xi Vưu tại trận Trác Lộc và họ đã giành chiến thắng.[ 1] Bộ lạc Viêm Hoàng sau đó có thể mở rộng về phía đông mà không gặp trở ngại nào và sớm hình thành nền văn minh Hoa Hạ, tiền thân của nền văn minh Hán Trung Hoa. Cho đến ngày nay, người Trung Quốc vẫn tự gọi mình là "Viêm Hoàng tử tôn".

Vị trí trận chiến

Vị trí thực sự của Phản Tuyền, nơi diễn ra trận chiến, vẫn đang tranh nghị. Có ba địa điểm được coi là có thể:

  1. Đông nam trấn Trác Lộc, huyện Trác Lộc, địa cấp thị Trương Gia Khẩu, tỉnh Hà Bắc.
  2. Các thôn Thượng Bản Tuyền (上板泉), Hạ Bản Tuyền (下板泉) ở trấn Trương Sơn Doanh (张山营), quận Diên Khánh, tây bắc Bắc Kinh. Khoảng 60 km về phía đông huyện Trác Lộc.
  3. Trấn Giới Châu (解州), quận Diêm Hồ, địa cấp thị Vận Thành, tỉnh Sơn Tây. Cách hai điểm trên khoảng 750–800 km về phía tây nam.

Trong số ba địa điểm này thì địa điểm thứ ba có lẽ là có khả năng nhất, vì:

  • Trấn Giới Châu thời Xuân Thu thuộc nước Tấn gọi là Giới Lương. Đến thời Hán là huyện Giới. Sách Giới huyện chí viết rằng Giới Lương thời cổ có giai đoạn gọi là Trác Lộc. Ngoài ra, khi xem xét bản đồ ngày nay thì kinh đô của Viêm Đế ở Bồ Phản (tọa độ 34°50′35″B 110°17′37″Đ  / 34,84306°B 110,29361°Đ / 34.84306; 110.29361), nay là trấn Bồ Châu, huyện cấp thị Vĩnh Tế, địa cấp thị Vận Thành, tỉnh Sơn Tây, cách Vận Thành khoảng 70 km về phía tây tây nam, trong khi đó Sử ký chép rằng "Hoàng Đế cư vu Hiên Viên chi khâu" (黃帝居軒轅之丘),[1] và ngày nay tại Trịnh Châu, Hà Nam có gò Hiên Viên. Trịnh Châu cách Vận Thành khoảng 250 km về phía đông đông nam và khoảng cách từ Trịnh Châu tới Bồ Châu khoảng 310 km. Như thế khoảng cách giữa các địa điểm Bồ Châu, Giới Châu, Trịnh Châu là phù hợp với khả năng chuyển quân cũng như tiếp vận vào thời gian đó.

Nếu kinh đô của Viêm Đế ở Bồ Châu còn Hoàng Đế ở khu vực Trịnh Châu thì hai địa điểm tại Trác Lộc và Thượng/Hạ Bản Tuyền ngụ ý rằng lực lượng của đôi bên phải di chuyển xa hơn nữa, khoảng 800 km về phía bắc đông bắc để giao tranh. Điều này dường như rất không thực tế, dù một loạt sách vở Trung Quốc cổ đại cho rằng chúng phù hợp. Cụ thể:

  • Hoàng Phủ Mật (215-282) viết trong Đế vương thế kỷ rằng Phản Tuyền ở quận Thượng Cốc.[3]
  • Sách Địa lý chí khoảng niên hiệu Thái Khang (280-289) thời Tấn viết rằng khoảng 1 dặm về phía đông thành Trác Lộc (nay ở tỉnh Hà Bắc) có suối Phản (Phản tuyền), phía trên có miếu thờ Hoàng Đế.
  • Quát địa lý (638-642) do Lý Thái biên soạn viết rằng: Suối Phản (Phản tuyền) nay là suối Hoàng Đế (Hoàng Đế tuyền), khoảng 56 dặm về phía đông huyện Hoài Nhung,[4] Quy Châu; chảy khoảng 5 dặm tới đông bắc Trác Lộc thì đổ vào sông Trác Thủy. Tại đây còn có thành cổ Trác Lộc, cách Quy Châu 50 dặm về phía đông nam, là kinh đô xưa của Hoàng Đế.

Một khả năng nữa là cả ba địa điểm trên đều đúng, như cả Khổng TửTư Mã Thiên dường như đã chấp thuận rằng những gì diễn ra là một chuỗi ba trận chiến giữa Hoàng Đế và Viêm Đế.

Tiếp theo là trận Trác Lộc giữa đội quân của Xi Vưu và liên minh giữa Hoàng Đế và một số bộ lạc chư hầu trên vùng bình nguyên cận kề.[5]

Ghi chú

i Tư Mã Thiên, Ngũ Đế bản kỷ - Hoàng Đế, Sử ký.
  • ^ Tư Mã Trinh, Hoàng bản kỷ - Thần Nông thị, bổ sung cho Sử ký.
  • ^ Khoảng khu vực nay là các huyện Hoài An, Hoài Lai, Trác Lộc, tỉnh Hà Bắc.
  • ^ Nay là huyện Trác Lộc, tỉnh Hà Bắc.
  • ^ Wu K. C., 1982. The Chinese Heritage. New York: Crown Publishers. ISBN 051754475X, ISBN 9780517544754. Tr. 57, dẫn chiếu Đại Đới Lễ ký (大戴禮記),..., quyển 11, thiên 75: Dụng binh; và Sử ký.



  • Các vị Hùng Vương nước Văn Lang

    King Given name Probable Reign, and line of descent
    Kinh Dương Vương (涇陽王) Lộc Tục (祿續) 2879 BC – 2794 BC, Càn line (支乾)
    Lạc Long Quân (貉龍君) Sùng Lãm (崇纜) 2793 BC – 2525 BC, Khảm line (支坎)
    Hùng Lân vương(雄麟王), Hùng King III Lân Lang 2524 – 2253 BC,Cấn line (支艮)
    Hùng Diệp Vương(雄曄王), Hùng King IV Bửu Lang 2252 – 1913 BC,Chấn line (支震)
    Hùng Hy Vương, Hùng King V Viên Lang 1912 – 1713 BC,Tốn line (支巽)
    Hùng Huy Vương(雄暉王), Hùng King VI Pháp Hải Lang 1712 – 1632 BC,Ly line (支離)
    Hùng Chiêu vương(雄昭王), Hùng King VII Lang Liêu 1631 – 1432 BC,Khôn line(支坤)
    Hùng Vĩ vương(雄暐王) Hùng King VIII Thừa Vân Lang 1431 – 1332 BC,Đoài line (支兌)
    Hùng Định vương(雄定王), Hùng King IX Quân Lang 1331 – 1252 BC,Giáp line (支甲)
    Hùng Hi vương(雄曦王), Hùng King X Hùng Hải Lang 1251 – 1162 BC,Ất line (支乙)
    Hùng Trinh Vương(雄楨王), Hùng King XI Hưng Đức Lang 1161 – 1055 BC,Bính line (支丙)
    Hùng Vũ Vương(雄武王), Hùng King XII Đức Hiền Lang 1054 – 969 BC, Đinh line (支丁)
    Hùng Việt Vương(雄越王), Hùng King XIII Tuấn Lang 968 – 854 BC,Mậu line (支戊)
    Hùng Anh Vương(雄英王), Hùng King XIV Chân Nhân Lang 853 – 755 BC, Kỷ line (支己)
    Hùng Triệu Vương(雄朝王), Hùng King XV Cảnh Chiêu Lang 754 – 661 BC,Canh line (支庚)
    Hùng Tạo Vương(雄造王), Hùng King XVI Đức Quân Lang 660 – 569 BC,Tân line (支辛)
    Hùng Nghị Vương(雄毅王), Hùng King XVII Bảo Quân Lang 568 – 409 BC,Nhâm line (支壬)
    Hùng Duệ Vương(雄睿王), Hùng King XVIII Lý Văn Lang or Mai An Tiêm 408 – 258 BC,Quý line (支癸)




    No comments:

    Post a Comment