Monday, March 10, 2025


Liên Hợp Quốc chất vấn Việt Nam về thương phế binh VNCH
https://youtu.be/VTjO4VD1ikw?si=Ib5mWasXDtokQARr



Khung Trời Quê Hương The land of freedom and the Huey Draw a UH-1 Huey Helicopter



 

 


Photobucket

 



The Shang army is fighting the Eastern barbarians (東夷) in the East! The war was not finished and the country was destroyed!

King Wu of Zhou / Chu Vũ Vương

Chu Vũ Vương (周武王, 1110 TCN - 1043 TCN, tên thật là Cơ Phát (姬發), nhật danh là Vũ Đế Nhật Đinh (珷帝日丁), là vị vua sáng lập triều đại nhà Chu trong lịch sử Đại Lục Đông Á.

Theo Hạ, Thương, Chu, đoạn đại công trình của các nhà sử học hiện đại o Đông Á , ông trị vì nước Chu (chư hầu của nhà Thương) trong 14 năm, sau đó lật đổ nhà Thương và làm vua nhà Chu cai trị toàn Châu Á từ năm 1046 TCN – 1043 TCN.

Chu Vũ vương nổi tiếng trong lịch sử vì đã lật đổ Trụ Vương của nhà Thương, và thành lập triều đại lâu nhất ở Đông Á . Chu Vũ vương cùng Chu Văn vương, Nghiêu, Thuấn, Đại Vũ và Thành Thang thường được Nho giáo học giả nhắc đến như là hình tượng những đại minh quân hiền minh trước thời kỳ Nhà Tần.

Thân thế Chu Vũ vương

Cơ Phát là con thứ hai của Tây bá hầu Cơ Xương, mẹ là Thái Tự. Người anh cả của Cơ Phát là Bá Ấp Khảo (zh) đã mất sớm, tính đến khi trưởng thành Cơ Phát có tám người em cùng mẹ là: Quản thúc Tiên, Chu công Đán, Sái thúc Độ, Tào thúc Chấn Đạc, Thành thúc Vũ, Hoắc Thúc Xử (zh), Khang thúc Phong, Đam thúc Tái. Trong 10 anh em thì Cơ Phát và Cơ Đán là hai người giỏi nhất, thường giúp Cơ Xương xử lý công việc.

Theo sách Lễ ký, Văn vương thế tử thì Cơ Phát chỉ kém cha 15 tuổi. Khi cha mất, ông đã 91 tuổi. Như vậy Cơ Phát sinh khoảng năm 1137 TCN. Nhưng theo các nhà sử học hiện đại, thì Cơ Phát sinh năm 1110 TCN, giả thuyết này lại có lý, vì các tướng quân cũng như quân vương thường sinh con khi đã ngoài 20 tuổi, việc Bá Ấp Khảo sinh ra khi Cơ Xương chỉ mới 13 tuổi cũng rất là vô lý.

Kế thừa cơ nghiệp

Khi Cơ Xương còn sống đã xúc tiến nhiều việc để đánh nhà Thương lúc đó do Trụ vương tàn bạo cai trị. Cơ Xương phong Khương Tử Nha làm quân sư, dẫn quân vượt Hoàng Hà về phía đông, diệt một số [chư hầu thân] với Trụ như Côn Ngô, Sùng, chiếm cứ phần lớn vùng phía nam sông Vị, hình thành cục diện "ba phần thiên hạ có hai phần". Nền cai trị của Chu ở lưu vực sông "Vị Thủy" được củng cố.

Năm 1135 TCN, Cơ Xương mất, Cơ Phát lên thay ngôi Tây Bá Hầu. Ông chú trọng củng cố nội chính, tiếp tục dùng Khương Tử Nha làm quân sư, cho các em là Cơ Đán làm Tể tướng, Thiệu công và Tất công làm cận thần phò trợ. Trong thiên Thái Bá sách Luận ngữ Khổng Tử nói "Đối với vua Vũ vương ta chẳng có điều gì phải nói nữa. Vua Vũ vương ăn uống rất đạm bạc còn tế lễ quỷ thần rất thịnh soạn. Bình thường mặc áo quần rất giản dị, sơ sài còn khi tế lễ ăn mặc rất đẹp, mũ miện đầy đủ. Cung thất ở rất chật hẹp mà đưa toàn tâm, toàn lực ra xây dựng thủy lợi đê điều. Đối với vua Vũ vương ta thật không còn lời nào chê trách được nữa![5]".

Ra quân diệt Trụ

Năm 1126 TCN, ông dời đô từ đất Phong về đất Cảo[6], biểu hiện ý chí tiến về đông. Ông làm lễ tế Tây bá Cơ Xương ở đất Tất, rồi mang theo bài vị thờ Cơ Xương đi theo, tập hợp chư hầu ở Mạnh Tân. Khi Cơ Phát đang tập hợp binh sĩ thì có hai người con vua nước Cô Trúc là Bá Di và Thúc Tề đến xin gặp mặt và can rằng:

Vua Trụ tuy là hôn quân bạo ngược nhưng vẫn là chúa của thiên hạ, nước Chu chẳng qua chỉ xếp hàng trong số các chư hầu.
Nay ngài khởi binh, chẳng khác nào thần tử lại đi hại quân vương, như vậy có gọi là nhân chăng?

Cơ Phát biết hai người vì trung thành với nhà Thương mà đến nên ông không nghe theo lời can của họ.
Sau khi điểm duyệt quân lính, Cơ Phát nhận thấy thời cơ chưa tốt nên tạm lui quân về.
Trong khi đó, Trụ vương ngày càng mất lòng người. Trụ tàn ác giết vương tử Tỷ Can vì can thẳng, giam cầm đại thần Cơ Tử.
Thiếu sư Cường thấy vậy liền chạy sang với Cơ Phát.

Năm 1124 TCN, Cơ Phát thấy thời cơ đã đến, bèn tuyên cáo với các nước chư hầu:

Vua Ân tội ác nghiêm trọng, không thể không mang quân đánh dẹp.
Rồi ông khởi binh gồm 300 cỗ xe, 45000 quân mặc giáp, 3000 dũng sĩ đi đánh Ân.

Tháng 12 âm lịch năm 1124 TCN, chư hầu đều đến hội ở Mạnh Tân. Cơ Phát viết thiên Thái thệ để hiểu dụ mọi người, nêu rõ tội ác của Trụ vương để có lý do khởi binh.

Ngày Giáp tý tháng 2 âm lịch năm 1123 TCN, Cơ Phát tiến đến Mục Dã, ngoại ô kinh đô Triều Ca. Đại quân làm lễ thề trên cánh đồng lớn cách kinh đô Triều Ca của nhà Ân 70 dặm[7]. Cơ Phát tay phải cầm búa lớn mày vàng, tay trái cầm cờ mao trắng đứng chỉ huy, cùng toàn quân tuyên thệ. Sau đó ông ra lệnh tấn công.

Trụ vương vội mang vài chục vạn quân ra nghênh địch. Quân Trụ tuy đông hơn nhưng binh sĩ chán ghét vua không muốn đánh, đặc biệt trong hàng ngũ quân Ân có nhiều nô lệ bất mãn vì bị ngược đãi nên đồng loạt bỏ gươm giáo mà chạy, mở đường cho quân của Tây bá Cơ Phát tiến vào.

Trụ vương thấy toàn quân tan rã, biết là đại cục đã hỏng, bèn chạy đến Lộc Đài, tự thiêu mà chết.

Các chư hầu và dân nhà Ân đồng loạt đến mừng Cơ Phát diệt được Trụ. Cơ Phát mang quân vào thành Triều Ca, đến chỗ Trụ tự vẫn, tự tay bắn 3 phát tên vào thây rồi dùng búa chặt đầu Trụ vương lẫn Đát Kỷ rồi đem thủ cấp treo ở cổng thành.Phí Trọng,Du Hồn và toàn bộ nịnh thần của Trụ vương đều bị chém đầu.

Dựng nhà Chu, phong chư hầu

Bài chi tiết: Chư hầu nhà Chu

Cơ Phát lên ngôi Thiên tử, lập ra nhà Chu. Ông truy tôn cha là Cơ Xương làm Văn vương, vì vậy đời sau gọi là Chu Văn vương (周文王). Ông làm lễ cáo tế trời đất, cho con của Trụ Vương là Vũ Canh tiếp tục cai trị đất Ân để giữ hương hoa cho nhà Ân. Các vùng xung quanh nhà Ân còn chưa ổn định, nên ông chia làm ba khu vực:

1- Phía bắc Triều Ca đến đất Bội[8] phong cho em trai là Hoắc Thúc;
2- Phía đông Triều Ca là đất Vệ[9] ông phong cho em là Quản Thúc,
3- Phía tây Triều Ca là đất Dung[10] ông phong cho người em khác là Sái Thúc.

Trên danh nghĩa, ba người em ông có trách nhiệm giúp đỡ Lộc Phủ nhưng trên thực tế là để giám sát, vì vậy sử gọi là Tam giám.

Chu Vũ vương tha cho Cơ Tử bị Trụ giam cầm ra khỏi tù.
sai Nam Cung Quát cứu trợ cho những người dân nghèo.
Sau đó ông sai Hoằng Yêu đắp mộ cho đại thần Tỷ Can nhà Ân bị Trụ giết.
Sai Sử Dật mang chín đỉnh của nhà Ân ra trưng bày. Trước khi trở về tây, ông sai Tôn Chúc tế hồn những binh sĩ tử trận.

Chu Vũ vương nhớ công lao các vua đời trước, ông phong cho con cháu họ làm chư hầu:

- Con cháu Thần Nông ở đất Tiêu.
- Con cháu Hoàng Đế ở đất Chúc.
- Con cháu vua Nghiêu ở đất Kế.
- Con cháu vua Thuấn ở đất Trần.
- Con cháu vua Vũ nhà Hạ ở đất Kỷ.
- Con cháu Ngô Thái Bá ở đất Ngô.
- Con cháu vua Thiếu Khang nhà Hạ ở đất Việt.

Để thưởng công cho các tướng sĩ có công phò trợ diệt Thương, ngoài ba người em trai đã phong làm Tam giám, ông phong chư hầu cho các công thần, trong đó các nước lớn là:

- Khương Tử Nha ở đất Doanh Khâu, gọi là nước Tề.
- Phong em trai là Cơ Đán ở Khúc Phụ, gọi là nước Lỗ.
- Phong cho em là Thiệu Công Thích ở nước Yên.

Dù đã diệt nhà Ân, Chu Vũ vương vẫn ngày đêm suy nghĩ về cách giữ gìn cơ nghiệp không chợp mắt. Khi bàn bạc với Chu Công Đán, ông nói:
- “Ta phải nhớ lấy bài học của các triều đại bị diệt vong, muốn an định thiên hạ, chú ý làm tốt việc dân. Xét từ hình thế địa lý, lưu vực sông Lạc, Y là trung tâm thiên hạ, nên dựng đô ở đó.”

Vì vậy ông quyết định xây dựng thêm Đông đô ở Lạc Ấp[11].

Tuy nhiên trong thời gian ở ngôi, Chu Vũ vương chưa kịp thực hiện ý định này.
Về sau em ông là Chu Công Đán làm phụ chính đã hoàn tất ý định của ông.

Nhà Chu truyền tới đời Chu Bình vương đã chính thức thiên đô về đây (Lạc Ấp).

00000000000000000

Đốt sách và chôn sống các học giả - Wikipedia 213–212 TCN cuộc thanh trừng triết học ở Trung Quốc cổ đại, Triều đại Tần, Đế quốc Tần vào năm 210 TCN, khu vực Tần, các khu vực xa xôi. Đốt sách và chôn sống các học giả (tiếng Trung: 焚書坑儒; pinyin: fénshū kēngrú), còn được gọi là đốt sách và xử án các học giả Nho giáo, đề cập đến việc được cho là đã đốt các văn bản vào năm 213 TCN và chôn sống 460 học giả Nho giáo vào năm 212 TCN bởi hoàng đế Trung Quốc Tần Thủy Hoàng của triều đại Tần. Điều này được cho là đã phá hủy các tác phẩm triết học của vung dong a Tram Hoa Đua Nở nhằm mục đích củng cố triết lý quản lý chính thức của Tần là Pháp gia. Các nhà sử học hiện đại nghi ngờ chi tiết của câu chuyện này, lần đầu xuất hiện hơn một thế kỷ sau đó trong tác phẩm Biểu ký Lịch sử Đại Tần của quan sử gia chính thức Tư Mã Thiên triều đại Hán. Là một học giả trong triều, Tư Mã Thiên có mọi lý do để hạ bệ hoàng đế thời trước để ca ngợi hoàng đế của mình, và các nhà Nho giáo sau này không đặt câu hỏi về câu chuyện này. Như một nhà sử học gần đây đã nhận xét: "Nếu bạn lấy đi cuộc sống của chúng tôi, Trời sẽ lấy đi cuộc sống của triều đại của bạn." Burning of books and burying of scholars - Wikipedia 213–212 BCE philosophical purge in ancient China Qin dynasty Qin Empire in 210 BCE Qin region Outlying regions The burning of books and burying of scholars (Chinese: 焚書坑儒; pinyin: fénshū kēngrú), also known as burning the books and executing the ru scholars, [1] refers to the purported burning of texts in 213 BCE and live burial of 460 Confucian scholars in 212 BCE by the Chinese emperor Qin Shi Huang of the Qin dynasty. This was alleged to have destroyed philosophical treatises of the Hundred Schools of Thought, with the goal of strengthening the official Qin governing philosophy of Legalism. Modern historians doubt the details of the story, which first appeared more than a century later in the Han Dynasty official Sima Qian 's Records of the Grand Historian. As a court scholar, Sima had every reason to denigrate the previous emperor to flatter his own, and later Confucians did not question the story. As one recent historian put it, their message was, "If you take our life, Heaven will take the life of your dynasty." [2]

No comments:

Post a Comment