Lễ Khánh thành ba bảng tên đường tiếng Việt tại Little Saigon
TD Media
https://www.youtube.com/embed/X3GsfzrlgG4?si=VIlBvNklpFE_GV8t
Little Saigon Có ba Đường Mới Mang Tên Việt Nam: Tự Do - Lê Lợi - Nguyễn Trãi. Trust Media Network
Nam Quan - Trust Media
https://www.youtube.com/live/vQpFBRbWxG0?si=eRDkEHEs4tHPQPkI
TÁN GẪU SÁNG THỨ BẢY 27/1/2024
https://youtu.be/9tfHVOgle6g?si=tgpjW0pskoifU4AI
21:54 Tết Âm Lịch tức là tết Nguyên Đán. Đây là tết mà Trung quốc bắt chước/học từ tộc Bách Việt ở phía nam dòng sông Trường Giang/Dương Tử chứ đâu phải phía bắc của Trung Nguyên đâu. Viện lý do ăn Tết là của Tàu, chỉ có kẻ mang mặc cảm dến nỗi muốn đi bắt chước Nhật, trong khi các vùng nông thôn của Nhật vẫn ăn Tết Nguyên Đán.
32:18
Việt Nam muốn thành cường quốc nên bỏ đảng chứ không phải bỏ tết Nguyên Đán. Đạp cái đảng cầm quyền cộng sản ấy vô thùng rác thì vài chục năm sau con cháu sẽ được thịnh vượng. Tôi khuyên nên học ti ếng Nhật nếu quý vị muốn con em thăng tiến. Còn học tiếng Trung thì chỉ có thể làm ăn buôn bán lòng vòng ở Việt Nam và “Trung quốc thôi nhưng không phát triển được ra khỏi Việt Nam được. Học Tiếng Nhật, học tiếng Anh thì có cơ sở, có thể phát triển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tượng Đài ở Khu Thương Xá Phước Lộc Thọ sẽ phất phới tung bay, nhưng chúng ta cùng đóng góp xây dựng
https://www.youtube.com/live/gs49UwfQx8k?si=uCMbDc0e6tZ7MtPh
PHỎNG VẤN ĐẶC BIỆT VỚI NGHỊ VIÊN AMY PHAN WEST WESTMINSTER CA.
https://www.youtube.com/live/gFB09ZciyA4?si=ijjdMF0nIihCE5tX
TÁN GẪU SÁNG THỨ BẢY 3/2/2024
https://youtu.be/dI-Ia8mFFsk?si=XrqM4ifuNCA0QdsK
XÂY TRỤ ĐẠI KỲ VNCH TẠI PLT
https://youtu.be/3XEz5GUJAZM?si=Bq_5SSv_s85Yh2gB
Thông Báo Quan Trong
https://www.youtube.com/embed/SSD-bp5i0-g?si=d3KjdPOvV-Lo077L
Cộng Sản Nằm Vùng nộp đơn kiện Huy Đức
https://youtu.be/cKGdoyBQbVY?si=MWGlUfmZ5oS_Ibiy
Tiếng Việt có trước, chữ Việt có sau Chữ cổ ngữ là chính ra là chữ Việt, chữ Việt có trước chữ Hán
Dựa trên căn bản ngữ vựng, tiếng Việt được phân loại là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á.
Tiếng Việt là ngôn ngữ có nhiều người nói nhất trong ngữ hệ này (nhiều hơn tổng số người nói của tất cả các ngôn ngữ còn lại trong ngữ hệ). Vì Việt Nam nửa phần nước nằm trong Vùng văn hóa Đông Á, tiếng Việt thu nhập chữ tiếng Hán, do đó; ngôn ngữ tiếng Việt có ít nhiều điểm tương đồng hơn so với các ngôn ngữ khác trong ngữ hệ Nam Á.
Chữ cổ ngữ là chính ra là chữ Việt, chữ Việt có trước chữ Hán, chính vì thế nên được gọi chung là chữ Việt-Hán.
Nghĩa là chữ Việt có trước chữ Hán và chữ Hán đã mượn Việt.
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
3
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
4
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
5
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
6
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
7
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
8
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
9
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
10
Phục Chế Ngôn Ngữ
Một ngày nào đó khi toàn khối Bách Việt đều tham gia việc phục chế ngôn ngữ thì họ sẽ thấy nguồn gốc của họ.
Đỗ Thành
frame chữ *
1
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
Đỗ Thành - ngày 09 /09 /2009
2
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
3
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
4
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
5
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
6
Chỉ cần nắm rõ căn bản ngữ vựng của tiếng VIỆT ngày nay là có thể học và hiểu ngay những tiếng VIỆT khác trong BÁCH VIỆT.
0000000000000000000000000000
Cuộc Thâu tóm Trung Nguyên lập nên nhà Tần.
Nhà Tần, đến đời nhà Hán thì có sứ giả Hán Triều là Đường Mông 唐蒙 đến nước "Dạ Lang 夜郎" mà Vua Dạ Lang hỏi sứ giả rằng "Nước Hán Lớn hay Nước Dạ-Lang lớn?" Bởi vì riêng "Dạ-Lang" đã quá lớn và Văn-Lang lại còn quá lớn hơn.
- Hãy nhìn xem tên Đông Đức và Tây Đức, Nam - Bắc Triều Tiên, Đông và Tây Hồi, Trung Hoa ngày nay một nước ở lục địavà một nước ở đảo Đài Loan đều cùng có tên Trung-Hoa.
Các quốc gia trong Cổ Sử gồm Văn-Lang, Lang-Sang, Dạ-Lang, Shan 楚, và Shan 商 tuy phát âm khác nhau do tùy theo địa phương và lại có địa lý nối liền nhau mà cùng mang một tên chung là Van-Lang-Sang" hay là "Văn-Lang" thì nếu không phải là chung một quốc gia thì đâu có chuyện "hi hữu" mang chung tên như vậy xảy ra?
Bằng phân tích kỹ lưỡng và hữu lý thì tất cả chi là một nước lớn là "Van-Lang-Sang" và đã từ Nam mà Bắc tiến, nên đã nhiều lần di dời thủ đô như lịch sử đã ghi lại của Shan 商 trong giáp cốt văn, và có nhiều đời Hùng Vương ở Shan楚 mà sau nầy người ta thêm vào chữ Sở trước chữ Hùng Vương.
Diễn biến của Văn-Lang sau nầy trở thành Bách Việt, nên có nhiều quốc gia lấy tên Việt và chữ viết thì giống nhau mà giọng nói đổi qua đổi lại tuy khác nhau nhưng lại cùng một gốc, mà khi hiểu được các ngôn ngữ khác nhau đó thì mới biết được là: À... thì ra là vậy!
Ví dụ như chữ *Thiên Đình 天庭 là:
Then thỉn,
thiến thìn,
then thén,
Thiên Đình...
Tất cả bây giờ đều mang tên khác nhau là tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu, tiếng Việt Nam... và thường là người ta nghe mà không hiểu nhau, đến khi đọc chậm, nghe kỹ, hoặc có người giải thích thì mới thấy là: Ồ, giống nhau.
Tam Hoàng Ngũ Đế (chữ Hán: 三皇五帝) là thời kỳ lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, gồm các vị quân chủ huyền thoại của Trung Quốc trong thời kỳ từ năm 2852 TCN tới 2205 TCN, thời kỳ ngay trước thời nhà Hạ.
Bản đồ còn thể hiện lãnh thổ người H’Mông, người Bách Việt, và tộc Ba Thục.
Ngũ Đế (五帝), là năm vị quân chủ nối tiếp theo Tam Hoàng, có công khai hóa dân tộc Trung Hoa, đưa dân tộc này thoát khỏi tình trạng sơ khai.
Nghiêu và Thuấn còn được gọi là Nhị Đế, cùng với Hạ Vũ, Thương Thang, Chu Văn vương, những người sáng lập ra nhà Hạ, Thương, Chu, được Nho giáo coi là các vị vua kiểu mẫu và là các tấm gương đạo đức, gọi chung thành Nhị đế Tam vương (二帝三王).
Sách Sở Từ (楚辭) nói đến Ngũ Đế như là các vị thần ở các phương:
Kinh Dương Vương's personal name was Lộc Tục (: 祿續). According to the Đại Việt sử ký toàn thư, he ruled over Xích Quỷ (赤鬼, later renamed Văn Lang) starting in 2879 BC. Kinh Dương Vương's father was Đế Minh (帝明, "Emperor Minh" in Vietnamese prehistory, was the descendant of
Thần Nông.[2] His mother was Vụ Tiên Nữ (婺僊女, lit. "Beautiful Immortal Lady, Beautiful Goddess"). Kinh Dương Vương married Thần Long, who was the daughter of Động Đình Quân (Lord of Dongting) and mother of Kinh Dương Vương's successor Lạc Long Quân.[1]
According to Đại Việt sử ký toàn thư,
Kinh Dương Vương son of Đế Minh, the great-great-grandson of the Shennong, went on a tour of inspection south of the Nanling Mountains, settled down and married a certain Beautiful Immortal Lady (鶩僊女 Vụ Tiên Nữ), who then gave birth to an intelligent son named Lộc Tục (祿續).
After Emperor Minh passed the throne to his eldest son, Emperor Ly (釐) to be king of the North state of Xích Thần, and Lộc Tục was appointed to be king of the South, his title Kinh Dương Vương (涇陽王). Kinh Duong Vuong was king and ruled from about 2879 BC onwards.[4] The territory of the country under Kinh Dương Vương was claimed to be large, reaching Dongting Lake in the north, the Husunxing (胡猻精; SV: Hồ Tôn Tinh) country (i.e. Champa) in the south, the East Sea (東海, part of the Pacific Ocean) in the east and BaShu (巴蜀; now in today Sichuan, China) in the west. Lĩnh Nam chích quái recorded the legend that the king vigorously expelled a murderous god named Xương Cuồng.
He married the daughter of the King of Động Đình (洞庭) Lake, named Thần Long (神龍 "Divine Dragon"), who gave birth to a son named Sùng Lãm (崇纜). Sùng Lãm would later succeed Kinh Dương Vương as ruler, titled Dragon Lord of Lạc (貉龍君; SV: Lạc Long Quân).
Worship[
Worship of Kinh Dương Vương in Vietnam is not as popular as worship of Shennong, the deity who is Hùng Vương's ancestor and a very respected one in Vietnam's agricultural beliefs; Đàn Xã Tắc (壇社稷) was established annually by feudal dynasties to worship.
Thượng Lãng communal house in Minh Hòa commune, Hưng Hà district, Thái Bình province is the oldest relic worshiping Kinh Dương Vương; Legend has it since the Đinh dynasty.
The Kinh Dương Vương Mausoleum and Temple (locally called Lăng và Đền thờ) in Bắc Ninh have long been classified by the Vietnamese feudal dynasties as shrines to worship the emperors, each time the National Ceremony will bring to the army to worship and worship people solemnly. In 2013, Bắc Ninh province announced a plan to preserve, embellish and promote the population of national historical and cultural relics of Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple with a total investment of more than 491 billion VND.[5] The project is divided into 4 main construction categories, including: relic conservation space, focusing on repairing and embellishing the relics of the Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple, temple grounds, tomb gardens; relic value space includes: ancestral monument, cultural festival square, cultural display... accompanied by ancillary services to develop spiritual cultural tourism, attracting tourists and technical infrastructure, leveling, roads, electricity lines.[6] At present, the Kinh Duong Vuong tomb and temple relic is worshiped in Á Lữ village, Đại Đồng Thành commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province.
Now we're examining what was written in the Outer Annals: The year of Nhâm Tuất [the sexagenary cycle's 59th year]?
When had been the beginning year of Giáp Tí [the same cycle's 1st year]? [The authors] recorded the taboo names of King of Kinh Dương and Dragon Lord of Lạc, why omitted [those of] Hùng kings? Before the
Five Emperors' time, [rulers] had not been called kings [王; standard as king: wáng; SV: vương]
What kind of name was the name Xích Quỷ? Why used it as a national name?
Xích Thần is a name of state in North (now called Sơn Đông city and Mount. Thái),
Xích Quỷ a state in South (now called Lĩnh Nam ranges area)
^Marie-Carine Lall, Edward Vickers Education As a Political Tool in Asia 2009 - Page 143 "Children learn about the legends of the nation's birth, which feature heroic figures such as Kinh Dương Vương, Âu Cơ... Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.22 is legend and scientific history."
King of Jingyang (Vietnamese: Kinh Dương Vương / King of Jingyang), named Lu Xu (Vietnamese: Lộc Tục / Lu Xu), a legendary figure in Vietnamese ancient history.
Overview
According to ancient Vietnamese books such as " Dayue Shiji Quanshu Wai Ji Hong Pang Ji" and "Lingnan Wei Wei Biography of Hong Pang Clan" , the Yan Emperor Shennong's Emperor Ming in the Chinese legend of the King of Jingyang visited the Wuling Mountains in the south. Born of fairies . Di Ming intends to pass the throne to King Jingyang, but he already has his eldest son, Di Yi. King Jingyang "redeems his elder brother" and renounces the right of succession. Di Ming decides that Di Yi will succeed him, rule the north, and confer the title of King Jingyang to the south, to implement the rule, the country is called Chigui Country, and the first year is "Jenxu Year (2879 BC)" . [1] [2] [3]
According to " Lingnan Weiguai ", King Jingyang has the supernatural power of "being able to travel to the water house", and married the daughter of "Dongting King Dragon King ", and gave birth to Raccoon Dragon King. Afterwards, King Jingyang "does not know where he will end up", and Lord Raccoon Dragon "governs the country on his behalf". [2]
Regarding the legendary plot of King Jingyang marrying the "daughter of the Dongting Lord", Chinese scholar Dai Kelai believes that this "obviously comes from the famous Tang Dynasty legend " Liu Yi Biography ". [4]
Reference
Wu Shilian et al. "The Complete Book of History of Dayue", page 97: At the beginning of the first year of Renxu, the third grandson of Emperor Yan Shennong, Diming, gave birth to Emperor Yi. Then, when he visited Wuling in the south, he picked up the fairy Wu and gave birth to the king. Wang Shengzhi is clever, and the emperor is very surprised, and wants to make an heir. Wang Gu asked his brother not to obey orders. Emperor Ming then established Emperor Yi as his heir, ruled the north and the north, named the king Jingyang King, ruled the south, and named it Chigui Kingdom. The king married the daughter of Dongting gentleman, named Shenlong, who gave birth to Raccoon Dragon Lord.
"Lingnan Monsters·Hong Pang's Biography", included in "Lingnan Monsters and Other Historical Materials", page 9.
Ruan Bozhuo's "Huangyue Jiazi Chronology" general examples: 1. According to my Yuehong Pang family, it started in the Renxu year (2879 BC),
which was 180 years before the Yellow Emperor of China (the first year of Jiazi). Thirteen years.
Dai Kelai's "About the Editor, Version and Content of ", appendix in "Three Kinds of Historical Materials such as Lingnan Monsters", p. 265.
Related literature
" Complete Book of Historical Records of Dai Viet · Wai Ji · Hong Pang Ji"
"Lingnan Monster: Biography of Hong Pang"
Hong Pang Clan and Ou Raccoon Kingdom Monarch
lineage
Hong Ponzi
King Jingyang → King Xiongxian → King Xiong → King Xiongye → King Xiongxi → King Xionghui → King Xiongzhao → King Xiongwei → King Xiongding → King Xiongxi → King Xiongzhen → King Xiongwu → King Xiongyue → King Xiongying → King Xiongchao → King Xiongzao → King Xiongyi → King Xiongsu
Ou Raccoon Country
King of Anyang
Hongpang → Shu → Zhao → The first northern genus → Zheng → The second northern genus → Qian Li → The third northern genus ( Tang Dynasty uprising ) → Independence period → Wu → Twelve envoys → Ding → Qian Li → Li → Chen → Hu → Hou Chen → Fourth Northern Subordination ( Lanshan Uprising ) → Hou Li → Mo → Li Zhongxing / Beihe / Guangnan / Xuanguang → Xishan →Nguyen → modern
Category :Hong Pang Monarchvietnamese historyVietnamese mythology
This page was last revised on Tuesday, September 20, 2022 at 23:43.
Nước Xích Thần = Đế Nghi cai quản
Nước Xích Quỷ = Kinh Dương Vương trị vì
- Đế Nghi Leader of Xích Thần (North, Mountain Thai)
- Kinh Dương Vương Leader of Xích Quỷ (South Linh Nam Range
Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. Vui lòng cải thiện bài viết bằng cách lược bớt các trích dẫn hoặc tóm tắt lại ý của người nói một cách trung thực và trung lập, nhớ dẫn nguồn đầy đủ. Hãy cân nhắc dời trích dẫn sang Wikiquote và các đoạn trích tác phẩm sang Wikisource.(Tháng 3/2023)
Kinh Dương Vương (chữ Hán: 涇陽王, 2919 TCN - 2792 TCN) là con của Đế Minh, tức em trai ruột của Đế Nghi (Đế Nghi cũng là con trai của Đế Minh), cháu nội của Đế Thừa, cháu 3 đời của Thần Nông. Kinh Dương Vương (tên húy là Lộc Tục) thuộc dòng dõi vua Thần Nông vốn được suy tôn là thủy tổ của người Bách Việt. Sử chép Kinh Dương Vương tên húy là Lộc Tục (祿續), là người hình thành nhà nước sơ khai đầu tiên vào năm Nhâm Tuất2879 TCN, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Hoa ngày nay). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho con là Lạc Long Quân (tên húy là Sùng Lãm).
Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương vương, Lạc Long quân trong 'Hồng Bàng thị kỷ', vốn từ thời thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với 'Liễu Nghị truyện' của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ.
Chuẩn tấu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và cương quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi".
Còn Liam Christopher Kelley nhận xét:
“
Trải qua nhiều thế kỷ, những truyền thống mà họ [các sử gia] sáng tạo đã trở thành cái tự nhiên thứ hai (second nature). Thực tế, trong nửa thế kỷ qua, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa dân tộc, những truyền thống được sáng tạo ấy (invented traditions) đã và đang trở thành những sự thực không thể thay đổi.[4]
Việc thờ cúng Kinh Dương Vương ở Việt Nam không phổ biến bằng tín ngưỡng thờ cúng Thần Nông, vị thần là cụ thủy tổ của Hùng Vương đồng thời là vị thần rất được sùng bái trong tín ngưỡng nông nghiệp ở Việt Nam; được các triều đại phong kiến lập Đàn Xã Tắc để tế lễ hàng năm.
Di tích đình Thượng Lãng ở xã Minh Hòa, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình là di tích cổ nhất thờ Kinh Dương Vương; tương truyền có từ thời nhà Đinh.
Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương ở Bắc Ninh từ lâu đã được các triều đại Phong kiến Việt Nam xếp vào loại miếu thờ các bậc Đế vương, mỗi lần Quốc lễ đều cho quân đến tế lễ, dân thờ phụng trang trọng. Năm 2013, tỉnh Bắc Ninh công bố quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương với tổng mức đầu tư khoảng hơn 491 tỷ đồng.[5] Dự án chia làm 4 hạng mục xây dựng chính gồm: Không gian bảo tồn di tích, tập trung tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương vương sân đền, vườn khu lăng mộ; không gian giá trị di tích gồm: Tượng đài thủy tổ, quảng trường văn hóa lễ hội, nhà trưng bày văn hóa... đi kèm các dịch vụ phụ trợ để phát triển du lịch văn hóa tâm linh, thu hút du khách và hạ tầng kỹ thuật, san nền, đường giao thông, đường điện.[6]
Hiện nay khu di tích lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương được thờ phụng tại thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Những góc nhìn khác
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm gần đây nghi vấn Kinh Dương Vương là một nhân vật huyền thoại, có nguồn gốc tiểu thuyết Liễu Nghị truyện. Trần Trọng Dương, một nhà nghiên cứu lịch sử trong một bài viết vào năm 2013 đã chỉ ra rằng:[7]
“
... truyện Kinh Dương Vương có sự sao chép từ tiểu thuyết Liễu Nghị truyện (柳毅傳) do Lý Triều Uy sáng tác vào đời Đường. Truyện có thể tóm tắt như sau: Liễu Nghị là một nho sinh thi trượt, trên đường gặp một thiếu phụ chăn dê xinh đẹp nhưng dáng vẻ tiều tụy. Người phụ nữ ấy nói rằng mình là con gái của Long Vương ở hồ Động Đình, vốn lấy con trai thứ của Kinh Xuyên, nhưng bị bạc đãi, bắt đi chăn dê, nên muốn nhờ Liễu Nghị chuyển thư đến cho cha để báo tình cảnh của mình. Liễu Nghị đem thư xuống Long cung. Em trai Long Vương là Tiền Đường giận quá nên giết con trai của Kinh Xuyên, cứu cháu về, rồi định gả cho Liễu Nghị. Nghị từ chối, xin về, được Long vương ban cho nhiều vàng bạc châu báu. Sau Liễu Nghị lấy vợ, lần nào lấy xong vợ cũng chết. Con gái Long Vương thấy vậy bèn nhớ lại duyên cũ, muốn báo đáp bèn hóa làm người con gái xinh đẹp mà lấy Liễu Nghị làm chồng. Sau hai vợ chồng đều thành tiên.
”
Quan điểm này được cho là phù hợp với nhiều sử gia thời Nguyễn (ví dụ như Ngô Thì Sĩ trong cuốn Đại Việt sử ký tiền biên,[8] hay trong Khâm định Việt sử thông giám cương mục[9]) và được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử và Hán Nôm ủng hộ. Tuy nhiên, cũng có nhiều nhà nghiên cứu lịch sử phản đối cách nhìn này.[10]
^Nhưng theo Ngô Sĩ Liên viết ở mục Lạc Long Quân tại trang 2 thì Con cháu Thần Nông thị là Đế Minh lấy con gái của Vụ tiên nữ mà sinh Kinh Dương Vương, tức là thủy tổ của Bách Việt. Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, nghĩa là Động Đình quân tên là Thần Long chứ không phải con gái của ông này tên là Thần Long.
^Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt Sử kí Tiền biên viết: "Nay xét phần Ngoại kỉ chép: Năm Nhâm Tuất thì bắt đầu Giáp Tí là năm nào? Ghi chép tên húy Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sao riêng lược bỏ Hùng Vương? Thời Ngũ Đế trở về trước thì chưa từng gọi là vương. Xích Quỷ là tên nào, mà lại để làm tên nước. Một loạt hoang đường càn rỡ đều là đáng bỏ đi. Cái lỗi ấy lại tại kẻ hiếu sự thấy trong Liễu Nghị truyền thư. Trong truyện nói con gái vua Động Đình gả cho con thứ của Kinh Xuyên Vương, tưởng càn Kinh Xuyên là Kinh Dương. Đã có vợ chồng thì có cha con, vua tôi, nhân đó mà thêu dệt thành văn, cốt cho đủ số đời vua, nhà làm sử theo đó mà chọn dùng, và cho đó là sự thực. Phàm những chuyện lấy từ Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, cũng như Bắc sử lấy ở Kinh Nam Hoa và thiên Hồng Liệt đấy".
^Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (1856 - 1883) viết: "Vâng tra sử cũ, danh xưng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân trong Kỉ họ Hồng Bàng, vốn từ thời Thượng cổ, thuộc thuở hồng hoang, tác giả căn cứ vào cái không và làm ra có, sợ rằng không đủ độ tin cậy, lại phụ hội với Liễu Nghị truyện của nhà viết tiểu thuyết đời Đường, lấy đó làm chứng cứ". Chuẩn tâu những lời của sử quan, vua Tự Đức đã nhận định đây là những "câu truyện đề cập đến ma trâu, thần rắn, hoang đường không có chuẩn tắc" và kiên quyết loại Kinh Dương và Lạc Long ra khỏi chính sử bằng cách đưa xuống phụ chú dưới niên kỷ Hùng Vương, để "cho hợp với cái nghĩa lấy nghi truyền nghi".
Kiến Trúc thời Kinh Dương vương phỏng theo sự mô tả trên Trống Đồng
Tại sao nước có cái tên Xích Quỷ?
Xích Quỷ (tên một vì sao sắc đỏ rực rỡ, sáng nhất trong 28 vì sao của dải ngân hà), chứ không phải là "Quỷ Đỏ" hay "Red Demon"
Chúng ta xem chuyện được kế thừa, được phong vua của Kinh Dương Vương thì sẽ rõ. Nhân tiện cũng hiểu thêm 28 ngôi sao ngày xưa được đặt tên, được cho vào tín ngưỡng như thế nào. Cũng đẻ hiểu Tại Sao Đế Nghi làm vua ở phương bắc đuợc gọi là "Đế Nghi", như Đế Minh, Đế Lai, Đế Du Võng.... Trong khi Lộc Tục lên làm vua chỉ được gọi là "Vương" là Kinh Dương Vương.
King of Jinyang/Kinh Dương Vương
King of Jinyang (Vietnamese: Kinh Dương Vương) was a Tấn Dương vương (tiếng Việt: Kinh Dương Vương) là một vị hoàng đế thời cổ sử của Việt Nam (trị vì 2879? -2793 TCN). Tên riêng của ông là 禄次 (tiếng Việt: Lộc Tục /禄續).
Truyền thống,
Teimei / Đế Minh (bản tiếng Việt), cháu trai thế hệ thứ ba của Thần Nông, đi về phía nam và đến Goling/Ngũ Lĩnh, gặp Wuxian [1][2].
Teimei /Đế Minh muốn chọn Rokutsugu/Lộc Tục, người thông minh, để kế thừa cấp bậc Tenshi. Tuy nhiên, Rokutsu/Lộc Tục không sẵn sàng, mà chấp nhận cấp bậc đó có lợi cho anh trai Te Yi/Đế Nghi. [ 3]
Do đó, Teimei/Đế Minh đã bổ nhiệm Thiên hoàng Yi/Đế Nghi cai trị miền bắc, và phong cho Rokutsugu/Lộc Tục làm vua để cai quản miền nam, quốc gia đó gọi nó là Quỷ đỏ Quốc gia (phiên bản tiếng Việt).
Vua Kiến Dương/Đế Minh kết hôn với con gái của chủ quân Đông Đình, con gái của Shenlong/Thần Long, và sinh ra Shenlong/Thần Long hoàng đế huyền thoại của Việt Nam (trị vì 2879? - 2793 TCN). Tên riêng của ông là 禄次 (tiếng Việt: Lộc Tục /禄續).
Cho ta thấy người ta lẫn lộn danh từ "Xích Quỷ" là "Quỷ Đỏ" là red Demon với ngôi sao Tinh Nhật Mã = α Hydra (Alphard)
Sau khi chúng ta biết "Nhị Thập Bát Tú" thì chúng ta sẽ hiểu.
Nhị thập bát tú (二十八宿) là cách gọi của 28 chòm sao (宿 "Tú") nằm trên bầu trời theo cách chia trong thiên văn học phương Đông cổ đại.
Nhị thập bát tú được cho là có nguồn gốc từ việc quan sát sự di chuyển của mặt trăng trên bầu trời. Mặt trăng đi một vòng quỹ đạo mất hơn 27 ngày, ứng với mỗi ngày là một vị trí trên thiên cầu, và từ đó người phương Đông tạo ra hệ thống 28 hoặc đôi khi là 27 hay 36 chòm sao trên bầu trời (Xem thêm: Lunar mansion hay
二十八宿).
Trong thiên văn học Ấn Độ cũng có hệ thống 28 chòm sao tương tự gọi là Nakshatra.
Một hệ thống khác cũng dựa trên đường mặt trăng di chuyển là 36 Decan
của Ai Cập cổ đại.
Người ta chia vòng
Hoàng Đạo thành bốn phần, quy ước như bốn hướng:
Đông, Tây, Nam, Bắc
Trên mặt đất và gán cho chúng hình ảnh của bốn con vật huyền thoại, hay
Tứ Tượng(四象), chúng là:
- Thanh Long (rồng xanh, ở phương Đông),
- Bạch Hổ (hổ trắng, ở phương Tây),
- Chu Tước (siếu đỏ, ở phương Nam) và
- Huyền Vũ (rùa đen, ứng với phương Bắc).
Mỗi phương có bảy chòm sao.
Tên chòm sao cũng là tên của chủ tinh (các sao chính), ngoài ra các sao khác, trong mỗi chòm cũng có tên riêng.
Tên của 28 chòm sao này được đặt cho 28 loài vật dùng để đếm ngày trong hệ thống tính lịch cổ, khi tính đơn vị tháng và năm thì rút gọn còn lại 12 con tương ứng với 12 tháng vì 12 lần trăng tròn thì trái đất đi hết một vòng hoàng đạo, và 12 năm vì sao Mộc (Thái Tuế) đi hết một vòng.
12 con vật đó tương đương với 12 địa chi được dùng rộng rãi đến ngày nay đó là:
Kinh Dương Vương's personal name was Lộc Tục (Hán tự: 祿續). According to the 15th-century Đại Việt sử ký toàn thư, he ruled over Xích Quỷ (赤鬼, later renamed Văn Lang) starting in 2879 BC. Kinh Dương Vương's father was Đế Minh (帝明, "Emperor Ming" of Chinese and Vietnamese mythology), the descendant of Thần Nông.[2] His mother was Vụ Tiên Nữ (婺僊女, lit. "Beautiful Immortal Lady, Beautiful Goddess"). Kinh Dương Vương married Thần Long, who was the daughter of Động Đình Quân (Lord of Dongting) and mother of Kinh Dương Vương's successor Lạc Long Quân.[1]
Today Kinh Dương Vương features with other ancient figures such as Thánh Gióng, Âu Cơ, Sơn Tinh and Thủy Tinh, in elementary school texts.[3] A popular shrine, and presumed tomb of Kinh Dương Vương, is located in the village of An Lữ, Thuận Thành District, Bắc Ninh Province .
According to Đại Việt sử ký toàn thư, a book written in a Confucian perspective, Kinh Dương Vương originates from China: Emperor Ming, the great-great-grandson of the mythological Chinese ruler Shennong, went on a tour of inspection south of the Nanling Mountains, settled down and married a certain Beautiful Immortal Lady (鶩僊女 Vụ Tiên Nữ), who then gave birth to an intelligent son named Lộc Tục (祿續).
After Emperor Ming passed the throne to his eldest son, Emperor Ly(釐) to be king of the North, and Lộc Tục was appointed to be king of the South, his title Kinh Dương Vương (涇陽王). Kinh Duong Vuong was king and ruled from about 2879 BC onwards.[4] The territory of the country under Kinh Dương Vương was claimed to be large, reaching Dongting Lake in the north, the Husunxing (胡猻精; SV: Hồ Tôn Tinh) country (i.e. Champa) in the south, the East Sea (東海, part of the Pacific Ocean) in the east and BaShu (巴蜀; now in today Sichuan, China) in the west. Lĩnh Nam chích quái recorded the legend that the king vigorously expelled a murderous god named Xương Cuồng.
He married the daughter of the King of Động Đình (洞庭) Lake, named Thần Long (神龍 "Divine Dragon"), who gave birth to a son named Sùng Lãm (崇纜). Sùng Lãm would later succeed Kinh Dương Vương as ruler, titled Dragon Lord of Lạc (貉龍君; SV: Lạc Long Quân).
Worship of Kinh Dương Vương in Vietnam is not as popular as worship of Shennong, the deity who is Hùng Vương's ancestor and a very respected one in Vietnam's agricultural beliefs; Đàn Xã Tắc(壇社稷) was established annually by feudal dynasties to worship .
Thượng Lãng communal house in Minh Hòa commune, Hưng Hà district, Thái Bình province is the oldest relic worshiping Kinh Dương Vương; Legend has it since the Đinh dynasty .
The Kinh Dương Vương Mausoleum and Temple (locally called Lăng và Đền thờ) in Bắc Ninh have long been classified by the Vietnamese feudal dynasties as shrines to worship the emperors, each time the National Ceremony will bring to the army to worship and worship people solemnly. In 2013 , Bắc Ninh province announced a plan to preserve, embellish and promote the population of national historical and cultural relics of Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple with a total investment of more than 491 billion VND.[5] The project is divided into 4 main construction categories, including: relic conservation space, focusing on repairing and embellishing the relics of the Mausoleum and Kinh Dương Vương Temple, temple grounds, tomb gardens; relic value space includes: ancestral monument, cultural festival square, cultural display ... accompanied by ancillary services to develop spiritual cultural tourism, attracting tourists and technical infrastructure, leveling, roads, electricity lines.[6] At present, the Kinh Duong Vuong tomb and temple relic is worshiped in Á Lữ village, Đại Đồng Thành commune, Thuận Thành district, Bắc Ninh province .
Many historical researchers suspected that Kinh Dương Vương was a legendary figure based on elements from the novella Story of Liu Yi (柳毅 SV: Liễu Nghị truyện).[7] Historical researcher Trần Trọng Dương pointed out that:[8]
The Kinh Dương Vương story has [signs of] being copied from the novella Story of Liu Yi (SV: Liễu Nghị truyện) by Li Chaowei (SV: Lý Triều Uy) composed in the Tang dynasty. The story can be summarized as follows: Liu Yi was a failed contestant; while on his way he met a beautiful young goatherdess with a worn-out appearance. The woman said that she was the daughter of the Dragon King in Dongting Lake (SV: Động Đình); she married the second son of [the Dragon Lord in] Jing River (SV: Kinh Xuyên), but was mistreated and was forced to herd goats; so she wanted Liu Yi to send a letter to [her] father and report her situation. Liu Yi brought the letter to the Dragon Palace. The [Dongting Lake's] Dragon King's younger brother, [the Dragon Lord in] Qiantang [river] (SV: Tiền Đường), was so angry that he killed the son of [the Dragon Lord in] Jing river, saved her, and intended to marry her to Liu Yi. Yi refused and just asked to [be allowed to] return [home]; and he was rewarded by the Dragon King with plenty of gold and silver and gems. Afterwards, Yi got married, yet every time he got married his wife would die. The daughter of the Dragon King, seeing that, recalled that their past fateful encounter. She wanted to repay him, so she turned herself into a beautiful lady and married Liu Yi as her husband. Afterwards, the couple became immortals.
This view has been expressed by many Vietnamese historians since the 18th century: for example, Ngô Thì Sĩ in Prefatory Compilation to Đại Việt's Historical Records[9]
Now we're examining what was written in the Outer Annals: The year of Nhâm Tuất [the sexagenary cycle's 59th year]? When had been the beginning year of Giáp Tí [the same cycle's 1st year]? [The authors] recorded the taboo names of King of Kinh Dương and Dragon Lord of Lạc, why omitted [those of] Hùng kings? Before the Five Emperors' time, [rulers] had not been called kings [王; standard Chinese: wáng; SV: vương]. What kind of name was the name Xích Quỷ? Why used it as a national name? A series of blatantly preposterous things only fit to be discarded. That was the fault of someone garrulous who found that story in The Story about Liễu Nghị. In the Story [about Liễu Nghị], it was said that the daughter of the [Dragon] King in Dongting Lake had been married off to the second son of the [Dragon] King in Jing River; [the story about Liễu Nghị] was irresponsibly imagined to be [the story about] King of Kinh Dương. Now that there have been husband and wife, there shall also be father and son, king and subject. Consequently, [someone] wove it into a written prose, just so there would be enough generations of kings. The historians, accordingly, chose to use it and took it as factual. All of those were stories taken from Selection of Strange Tales in Lingnan and Collection of Stories about the Shady and Spiritual Việt Realm; just as Northern historians had taken stories from The Classic of Southern Florescence or the Chapters of Honglie.
茲奉查之舊史,鴻厖氏紀,涇陽王、貉龍君之稱緣上古,世屬渺茫,作者憑空撰出,恐無所取信,又附小說家唐柳毅傳以為印證。 [Among] the old histories which [we've] obediently examined just now, the records of the Hồng Bàng clan, king of Kinh Dương, Dragon Lord of Lạc (those [which were] stated to stem from the distant past, in a vague and remote age), the author(s) relied on nothing to write [those], [yet] he(they) still feared not being taken as credible; so he(they) added [elements from] [a] Tang novellist's Story of Liu Yi as proofs.[10][11]
Consequently, Emperor Tự Đức of the Nguyen dynasty decided to exclude King of Kinh Duong and Dragon Lord of Lạc from their historiography as this did not conform with the Confucian ideals of the country.
^Marie-Carine Lall, Edward Vickers Education As a Political Tool in Asia 2009 -Page 143 "Children learn about the legends of the nation's birth, which feature heroic figures such as Kinh Dương Vương, Âu Cơ ... Sơn Tinh – Thủy Tinh, Thánh Gióng.22 The distinction between what is legend and what is scientific history is unclear."