Thời kỳ Hồng Bàng bắt đầu từ năm 2879 TCN (để biết được từ thời điểm đó đến nay đã trải qua bao nhiêu năm, ta lấy khoảng thời gian sau công nguyên cộng với 2879 sẽ có được kết quả) là niên đại của
Đế Minh là cháu ba đời của Thần Nông Đế Viêm.
Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Lãnh thổ của quốc gia dưới thời Kinh Dương Vương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay). Về sau người Việt chỉ thấy có ở miền Bắc Việt Nam ngày nay, có thể một phần do sự lấn áp của các tộc người Hoa Hạ từ phương Bắc.
- Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư: Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa) gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2879 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ (một nàng tiên ở phương Bắc), sinh một lần trăm người con. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: "Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó". Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.[1]
Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc, ngoài ra còn có một số nhóm người sinh sống trên các lưu vực sông thuộc khu vực Thanh Nghệ Tĩnh ngày nay. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù... những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hóa Đông Sơn).
- Xem thêm: Hành chính Việt Nam thời Hồng Bàng
Văn Lang, được coi là quốc hiệu đầu tiên của nước Việt Nam, có kinh đô đặt ở Phong Châu (nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Lãnh thổ gồm Bắc Bộ và ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh bây giờ.
Theo Lĩnh Nam chích quái, quyển 1, Hồng Bàng thị truyện (鴻龐氏傳) thì nước Văn Lang:
Cả nước được chia thành 15 bộ (部), còn gọi là quận (郡):
- Việt Thường (越裳)
- Giao Chỉ (交趾)
- Chu Diên (朱鳶)
- Vũ Ninh (武寧)
- Phúc Lộc (福祿)
- Ninh Hải (寧海)
- Dương Tuyền (陽泉)
- Lục Hải (陸海)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Chân (九真)
- Nhật Nam (日南)
- Chân Định (真定)
- Văn Lang (文郎)
- Quế Lâm (桂林)
- Tượng Quận (象郡)
Theo "Việt sử lược" (越史略), quyển thượng, Quốc sơ duyên cách (國初沿革) thì nước Văn Lang gồm 15 bộ lạc (部落) là:
- Giao Chỉ (交趾)
- Việt Thường Thị (越裳氏)
- Vũ Ninh (武寧)
- Quân Ninh (軍寧)
- Gia Ninh (嘉寧)
- Ninh Hải (寧海)
- Lục Hải (陸海)
- Thang Tuyền (湯泉)
- Tân Xương (新昌)
- Bình Văn (平文)
- Văn Lang (文郎)
- Cửu Chân (九真)
- Nhật Nam (日南)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Đức (九德)
Kinh đô đặt tại Văn Lang.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư (大越史記全書), Ngoại kỉ (外紀), quyển 1, Hồng Bàng thị kỉ (鴻厖氏紀), cương vực và tên gọi 15 bộ của nước Văn Lang được chép gần như tương tự với Lĩnh Nam chích quái chỉ khác là không có bốn bộ Nhật Nam, Chân Định, Quế Lâm và Tượng Quận mà thay vào đó là bốn bộ Vũ Định (武定), Bình Văn (平文), Tân Hưng (新興) và Cửu Đức (九德). Bộ Văn Lang là nơi vua đóng đô. 15 bộ của nước Văn Lang theo "Đại Việt sử ký toàn thư" bao gồm:
- Giao Chỉ (交趾)
- Chu Diên (朱鳶)
- Vũ Ninh (武寧)
- Phúc Lộc (福祿)
- Việt Thường (越裳)
- Ninh Hải (寧海)
- Dương Tuyền (陽泉)
- Lục Hải (陸海)
- Vũ Định (武定)
- Hoài Hoan (懷驩)
- Cửu Chân (九真)
- Bình Văn (平文)
- Tân Hưng (新興)
- Cửu Đức (九德)
- Văn Lang (文郎)
Trong triều đình có các quan Lạc hầu (駱侯) giúp việc, đứng đầu các bộ là các quan Lạc tướng (駱將), đều có thái ấp riêng, các quan nhỏ ở địa phương gọi là "Bồ chính" (蒲正). Con trai vua gọi là "Quan lang" (官郎), con gái vua gọi là "Mị nương" (媢娘) hay Mệ nàng, nữ nô lệ gọi là "xảo xứng" (稍稱) (còn gọi là "nô tỳ" (奴婢)). Xã hội phân làm ba tầng lớp là vua quan, dân, nô tỳ (nô lệ).
Sinh hoạt về vật chất còn thô sơ, dùng gỗ làm nhà sàn để ở, dệt cỏ làm chiếu, vỏ cây làm áo. Ngày thường đàn ông để trần mặc khố, vua quan thì có thêm áo hai mảnh, đàn bà thì mặc váy. Về sản xuất có trồng lúa nước, thuần hóa gia súc, dụng cụ có lưỡi cày, đồ dùng có thạp, vũ khí có rìu, đi lại có thuyền. Sinh hoạt tinh thần có những tục xăm mình, nhuộm răng đen, ăn trầu, thờ cúng tổ tiên, tôn thờ các sức mạnh thiên nhiên như thần núi, thần sông, thần gió... Vào các ngày lễ hội thường đội trên đầu mũ lông chim, thổi kèn, đánh trống, nhảy múa, bơi chải. Trích Thủy kinh chú (水經注):
- "Giao Chỉ có ruộng Lạc, trông nước triều lên xuống mà làm. Người ăn ruộng là Lạc Vương (Lạc Hầu). Các huyện gọi là Lạc Tướng (quan cai quản), có ấn đồng dãi xanh, tức quan lệnh ngày nay."
Trích Lĩnh Nam chích quái:
- "Hồi quốc sơ, dân không đủ đồ dùng, phải lấy vỏ cây làm áo, dệt cỏ gianh làm chiếu, lấy cốt gạo làm rượu, lấy cây quang lang, cây tung lư làm cơm (có chỗ viết là uống), lấy cầm thú, cá, ba ba làm mắm, lấy rễ gừng làm muối, cầy bằng dao, trồng bằng lửa. Đất sản xuất được nhiều gạo nếp, lấy ống tre mà thổi cơm. Bắc gỗ làm nhà để tránh hổ sói. Cắt tóc ngắn để dễ đi lại trong rừng rú. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm, có người chết thì giã cối làm lệnh, người lân cận nghe tiếng đến cứu. Chưa có trầu cau, việc hôn thú giữa nam nữ lấy gói đất làm đầu, sau đó mới giết trâu dê làm đồ lễ, lấy cơm nếp để nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân."
Thời Hồng Bàng được gắn với nhiều truyền thuyết. Dù có thể là độ chính xác không cao do được truyền miệng qua nhiều thế hệ, các truyền thuyết cho thấy nhiều khía cạnh đời sống văn hóa và chính trị ở Việt Nam thời kỳ này.
Truyện Hồng Bàng thị trong Lĩnh Nam chích quái chép rằng:
- "Long Quân lấy Âu Cơ rồi đẻ ra một bọc, cho là điềm bất thường, vứt ra cánh đồng; qua sáu bảy ngày, bọc vỡ ra một trăm quả trứng, mỗi trứng nở ra một con trai, mới đem về nhà nuôi... Âu Cơ và năm mươi con lên ở đất Phong Châu suy phục lẫn nhau, cùng tôn người con cả lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, lấy tên nước là Văn Lang, đông giáp Nam Hải, tây tới Ba Thục, bắc tới Động Đình hồ, nam tới nước Hồ Tôn (nay là Chiêm Thành). Chia nước làm 15 bộ (còn gọi là quận) là Việt Thường, Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Hoài Hoan, Cửu Chân, Nhật Nam, Chân Định, Văn Lang, Quế Lâm, Tượng Quận. Chia các em ra cai trị, lại đặt các em làm tướng văn tướng võ, văn là lạc hầu, võ là lạc tướng. Con trai vua gọi là quan lang, con gái vua gọi là mỵ nương, trăm quan gọi là bồ chính, thần bộc, nữ lệ gọi là xảo xứng (còn gọi là nô tỳ). Bề tôi gọi là hồn, đời đời cha truyền con nối gọi là phụ đạo. Vua đời đời thế tập gọi là Hùng Vương, không hề thay đổi".[2]
Truyền thuyết bánh chưng bánh dày gợi ý, về chính trị, các vua Hùng đã có thể công khai tổ chức các cuộc thi để tìm người kế vị; về nông nghiệp, người Việt thời này đã phát triển trồng lúa nước (có thể bao gồm cả lúa nếp) và chăn nuôi (có thể bao gồm lợn/heo...); về triết học, bánh chưng và bánh dày có thể tượng trưng cho quan niệm vũ trụ gồm có mặt đất hình vuông màu xanh lá cây và bầu trời hình tròn màu trắng. Tuy nhiên có học giả, như Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng nguyên thủy có hình tròn và dài, giống như bánh tét; đồng thời bánh chưng và bánh dày tượng trưng cho dương vật và âm hộ trong tín ngưỡng phồn thực Việt Nam.[3] Bánh tét, dùng thay cho bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng.
Truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh cho thấy thiên tai mà người Việt cổ phải chống chọi thiên về thủy tai, thể hiện ở mong muốn Thủy Tinh thua cuộc. Đó là thời rừng già nhiệt đới chưa bị phá hủy. Tại vùng trung du hay miền núi người cổ dễ dàng chống lại thú dữ và còn săn bắt chúng (loài ăn thịt như hổ báo, sói, đại bàng... có thể rình bắt các linh trưởng khác, nhưng thường phải chừa ra loài Homo Sapiens). Ở vùng đồng bằng thì di chuyển khó khăn, mùa mưa lụt lội, thủy quái không sợ người và ẩn dưới sông nước khó lường, nên chinh phục sông nước và đồng bằng khó hơn và diễn ra muộn hơn.[a] Nó cũng cho thấy những nhân vật quan trọng giúp người dân chống chọi với thiên nhiên được thần tượng hóa. Các vị thần này vẫn có thể có tình cảm qua hôn nhân với các công chúa của vua Hùng, vốn là những người bình thường. Thông lệ cống nạp sản vật quý hiếm như là một thước đo cho giá trị đã thịnh hành vào thời các vua Hùng, theo lời kể của truyền thuyết này.
Các truyền thuyết khác như Phù Đổng Thiên Vương miêu tả một cuộc xâm lấn của giặc Thương Ân vào thời Hùng Vương thứ 6, Mai An Tiêm miêu tả sự khai phá vùng đất phía nam (Thanh Hóa) với giống hoa quả mới (dưa hấu), Sự tích trầu cau giải thích về phong tục ăn trầu...
Đến đời Hùng Vương thứ 18, Thục Phán ở phía đông bắc Văn Lang hợp nhất nước Văn Lang của người Lạc Việt với vùng đất của người Âu Việt (Tây Âu) (năm 258 TCN), kết thúc thời kỳ nhà nước Văn Lang. Ngày nay ở vùng cao nguyên Đà Lạt vẫn còn một tộc người thiểu số tự xưng là con cháu loài chim Lạc, có thể giả định là di dân của các bộ lạc Lạc Việt cổ sau nhiều thời kỳ chiến tranh loạn lạc.[cần dẫn nguồn]
- Có đời Hồng Bàng hay không? Có người cho rằng di tích lịch sử chưa chứng minh được sự hiện hữu của một chế độ cai trị như sử vẫn chép về đời Hồng Bàng.
- Hồng Bàng là sản phẩm tưởng tượng của các sử gia thế kỷ 14. Nghi vấn này dựa trên việc sử cổ không viết về đời Hồng Bàng: Đại Việt Sử ký (1272) của Lê Văn Hưu không chép gì về đời Hồng Bàng mà bắt đầu từ đời Triệu Vũ Vương (Triệu Đà). An Nam chí lược của Lê Tắc, viết tại Trung Hoa khoảng 1335, cũng không viết gì về đời Hồng Bàng mặc dù có nói nước An Nam đã giao thiệp với Trung Hoa từ thời Nghiêu Thuấn. Phải đến khoảng năm 1377, trong Đại Việt Sử lược, một cuốn sách không rõ tác giả, mới có nhắc sơ qua đến đời Hồng Bàng: "Đến đời Trang Vương nhà Chu (696-682 trước Công nguyên), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang".
Truyền thuyết Kinh Dương Vương được ghi lại lần đầu là do Ngô Sĩ Liên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư năm 1479. Trong Việt sử tiêu án (1775), Ngô Thì Sĩ đặt nghi vấn về Kinh Dương Vương, Xích Quỷ, và nhiều truyền thuyết liên quan.
- Niên đại của đời Hồng Bàng có bắt đầu từ 2879 trước Tây lịch là không chính xác. Sử gia đặt nghi vấn này (như Trần Trọng Kim) tính từ con số truyền thuyết về vua Kinh Dương Vương (2879 TCN), qua Lạc Long Quân và 18 vua Hùng (kết thúc 257 TCN), tính ra 2622 năm cho 20 ông vua, trung bình mỗi người 121 năm. Nhiều người chấp nhận niên đại khoảng 700 TCN là năm bắt đầu đời Hồng Bàng vì Việt sử lược ghi rằng nước Văn Lang bắt đầu từ đời vua Chu Trang Vương (696-682 TCN).
- Tuy nhiên cũng có những giả thuyết nghi vấn về một quốc gia cổ là Việt Thường. Cổ sử Trung Hoa có chép: vào thời Chu Thành Vương (1042-1021 TCN) có người ở Việt Thường đến dâng chim Trĩ trắng. Có thể đặt ra giả thiết Văn Lang là nhà nước kế tục Việt Thường, khi Văn Lang thay thế Việt Thường đã đặt tên Việt Thường làm một trong 15 bộ của mình. Cả Văn Lang và Việt Thường đều thuộc thời đại Hồng Bàng, tên nước thì có thể đặt từ khi thành lập để gọi nhưng tên thời đại Hồng Bàng thì chắc chắn sau này các sử gia tự đặt cho dễ sắp xếp và theo dõi.
- Nói về niên đại đầu đời Hồng Bàng (2879 TCN) ở Việt Nam cũng giống như giả thuyết về quốc gia cổ Gojoseon trong lịch sử Triều Tiên (Triều Tiên này không phải là Bắc Triều Tiên ngay nay, mà là toàn bộ bán đảo Triều Tiên) được Dangun thành lập năm 2333 TCN và suy tàn vào khoảng thế kỷ 3 TCN và vương quốc này hiện nay cũng được chứng minh chỉ thực sự hình thành ở thế kỷ 5 TCN (tương tự Văn Lang).
- Một vấn đề khác là họ Hùng: Các sử gia cho rằng, người Việt cổ tới tận thời Hai Bà Trưng vẫn chưa có họ. Theo sách Lịch sử Việt Nam, tập 1 của Viện Sử học Việt Nam, chữ "Hùng" trong "Hùng Vương" thực ra là lấy từ tên các vua nước Sở, một nước chư hầu thời nhà Chu của Trung Hoa. Các vua Sở đều có tên mang chữ Hùng như: Hùng Thông (Sở Vũ vương), Hùng Vận (Sở Thành vương), Hùng Hòe (Sở Hoài vương)... Tổ tiên nước Sở vốn có tên là Hùng Dịch. Bởi Bách Việt ở gần nước Sở của Trung Hoa nhất nên những người Việt đã lấy theo tên các vua nước này. Mặt khác, người Việt ở Việt Nam còn tự gọi là người Kinh, mà chữ "Kinh" vốn xuất phát từ vùng Kinh Châu, sông Kinh mà nước Sở cai quản. Như vậy Hùng Vương nói riêng và Hồng Bàng nói chung, với nhiều tình tiết lịch sử pha lẫn truyền thuyết, có thể còn là sản phẩm pha trộn của người Việt gốc và người Việt lai Hán - người Kinh sau này.[4]
- Giả thiết khác đặt ra về họ của các vua Hùng là họ Lạc theo họ của Lạc Long Quân và Hùng Vương chỉ là họ. Biểu hiện là những chức danh-tên gọi như Lạc hầu, Lạc tướng (quan giúp việc), Lạc dân (dân đen), Lạc điền (đất ruộng)...
- Một số thần phả còn ghi chép rõ thụy hiệu của các vua Hùng (như Hùng Hy vương, Hùng Duệ vương...) nhưng các nhà nghiên cứu không cho rằng đó là đáng tin. Mặt khác, lại có thuyết tính Kinh Dương Vương là Hùng Vương đầu tiên và Lạc Long Quân là Hùng vương thứ hai, sau đó chỉ có 16 Hùng Vương là hết thời Hồng Bàng.
- Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư và Lĩnh Nam chích quái, tên 15 bộ của Văn Lang không được thuyết phục vì tên các bộ trên phần lớn là tên Hán-Việt chỉ có sau khi lệ thuộc nhà Hán. Chỉ có tên 2 bộ được sử cũ Trung Hoa ghi chép có trước khi văn hóa Hán xâm nhập là Việt Thường (thời vua Chu Thành Vương) và Gia Ninh (thời vua Chu Trang Vương). Theo như nhận định thì bộ Việt Thường ở cực nam Văn Lang tức vùng Hà Tĩnh ngày nay, còn bộ Gia Ninh ở Phú Thọ ngày nay.
- Về dân số đến đầu Công nguyên trên khu vực Giao Chỉ, Cửu Chân chưa đến 1 triệu người. Vậy trước đó hàng trăm năm thời Hùng Vương dân số còn ít hơn nữa, chắc chỉ vài trăm nghìn người là tối đa, chỉ tương đương với dân số tỉnh Điện Biên (500 nghìn) hoặc Lào Cai (560 nghìn) ngày nay, với dân cư như trên thì Văn Lang không thể là một quốc gia rộng như miêu tả của Lĩnh Nam chích quái được. (Tuy nhiên trước đây vùng Bắc Mỹ có nhiều bộ lạc của người da đỏ, mà mỗi bộ lạc chỉ có vài chục người cho đến hai, ba trăm người là nhiều. Vậy thuyết "ít dân số không thể tản mác trên một diện tích rộng lớn" cũng không có được tính thuyết phục).
- Về lãnh thổ, phía bắc thì không biết ở đâu nhưng chắc chắn ở phía nam lãnh thổ Văn Lang chỉ đến đèo Ngang vì khi An Dương Vương chiếm Văn Lang chia đất của Vua Hùng ra làm hai phần tương đương với đất Giao Chỉ và Cửu Chân thời Hán và vùng Việt Thường chính là phần đất cực Nam của Văn Lang - tương đương với Hà Tĩnh ngày nay.
Đặc điểm, dị hình[sửa | ]
Theo vài sử sách ở Trung Quốc thì người Văn Lang mặc áo đỏ, xăm mình. Một số nghi vấn về vấn đề nhân chủng học, các bằng chứng khai quật ở miền nam Bách Việt châu á, có thể cho rằng người Văn Lang mắt to, mồm bẹp và rộng, lông mày rậm, họ có thể nói ngôn ngữ Nam Đảo, những đặc điểm này có thể thấy ở một vài người bản địa Đài Loan hay Nam Hải. Quá trình này biến đổi cùng với sự di dân của các dân tộc phương Bắc, dần dần giống dân du mục này bị đồng hóa với người Việt cổ nên họ thành người dịnh cư định canh hoặc bán nông nghiệp (simi - argri culture) người Việt cổ. Rồi lại diễn ra các cuộc xâm lược và của giống dân người Hán/Hãn/Hung, và tộc Bách Việt bị Hán hóa của các triều đại đế quốc phương Bắc trở nên sâu sắc hơn sau này.
Chú giải[sửa |
- ^ Đồng bằng miền Bắc được khai phá thời nhà Lý khi đắp được hệ thống đê điền. Các vùng sát biển ở miền Bắc bắc phần, hay phần miền Nam nam phần ở đồng bằng Mê Kông mới được khai phá từ 300 năm nay.
[ | ]
Rachel Kaplan
A chapel, a courthouse, a barracks, a beacon. For hundreds of years, the rong house, or Nhà Rông, has functioned as a spiritual, cultural, administrative, and focal center of minority villages throughout Vietnam's Central Highlands. Distinguishable by its massive, steeply pitched roof, stilt construction, large balconies, and locally sourced materials, the formal manifestation of the Nhà Rông is a rich juxtaposition of context and symbol. A Nhà Rông is part of the visual identity of a village, and as such, the scale and elaborateness of the rong are seen as a reflection of the power and wealth of the village itself.
In the modern sociopolitical landscape of central Vietnam, the troubled relationship between the Vietnamese government and the ethnic minority groups in the region can be seen in subtle and overt ways. Ethnic groups residing in the Central Highlands, known collectively as the Montagnards, or "people of the mountain," have a long and brutal history of conflict with the Vietnamese majority and have battled persecution, violence, displacement, discrimination, and state-sponsored colonization. Within this context, the role of the Nhà Rông is ever-changing. As external forces are threatening ethnic communities, some are forging closer bonds with their histories, while others are moving away towards a modern and globalized future. Thus, the Nhà Rông of the 21st century is a varied and fluid concept. While almost always still present, either by choice or government mandate, it can reflect identity or represent an anachronism.
On Ritual and Resilience: The Nhà Rông of Vietnam is a formal and contextual investigation of the Nhà Rông as a vernacular building type. The exhibition showcases four prototypical Nhà Rông from the Kon Tum and Gia Rai provinces in Vietnam. Through a series of technical drawings and photographs, the project investigates the unique qualities of the Nhà Rông across different ethnic groups and localities, and studies how environmental, political, and other factors have influenced the design, use, and contextual development.
Rachel Kaplan (M.Arch. '14) is an architectural designer at MDSzerbaty Associates in New York City. On Ritual and Resilience: The Nhà Rông of Vietnam presents research funded by the 2017–18 Eidlitz Travel Fellowship.
Related Links
Robert James Eidlitz Fellowship Information
Source: https://aap.cornell.edu/news-events/rachel-kaplan-ritual-and-resilience-nh-r-ng-vietnam
Trống Đông Sơn là một nhạc cụ kỳ diệu tạo ra âm thanh trữ tình và là một đối tượng lịch sử nâng cao hiểu biết của chúng ta về
Thời đại đồ đồng ở Đông Nam Á. Điều này là do trống Đông Sơn (500 TCN – 100 CN) đã được tìm thấy trên khắp Đông Nam Á, bao gồm Lào, Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar), Malaysia, Campuchia và Indonesia, cho thấy mạng lưới thương mại và tương tác ban đầu rất xa.
The Đông Sơn drum is a magical musical instrument that produces lyrical sounds and an historical object that advances our understanding of the
Bronze Age in Southeast Asia. This is because the Đông Sơn drums (500 B.C.E.–100 C.E.) have been found throughout Southeast Asia, including Laos, Vietnam, Thailand, Burma (Myanmar), Malaysia, Cambodia, and Indonesia, suggesting far ranging early trade networks and interactions.
Circulation of Đong Son bronze drums
Rong House in Vietnam / Nhà Rong ở Việt Nam
Many indigenous peoples of Vietnam are not Sinicized
Nhiều đồng bào sắc tộc ở việt Nam không bị Hán hóa.
《Zhouyi ·Kiji(旣濟)》
Wikipedia, the free encyclopedia.
The Guibang (鬼方) is a people of ancient East Asia.
History
During the Shang Dynasty, it existed in what is now eastern Shaanxi Province, northern Shanxi Province, and western Inner Mongolia Autonomous Region. [1] They lived by nomadism and hunting, and their leaders were called ghosts and demons. As a nation that became an external threat to the Shang Dynasty,《Zhouyi ·Kiji(旣濟)》 says, "Gojong conquered the hometown and won a big victory after 3 years. [高宗伐鬼方,三年克之。] " he writes. However, Guibang and the Huaxia people at the time also had kinship ties. [2] The gods of the Shang Dynasty had a relationship with the Guibang, and the Guihou (鬼侯) was also in the ranks of the Three Dukes. [3] Although not a few documents contain the content that King Gojong conquered the homecoming, there is no phrase that clearly contains the content that he went out to conquer the hometown among the copies of oracle bone inscriptions . [4] In addition, Gwibang came from Lake Baikal and worked mainly in the Mongolian Plateau, and alsoThere is also a view that it went south to the Hetao region , went around the Yellow River, and entered the Shaanxi and Shanxi regions, and was also referred to as the red enemy, and became the ancestor of the spirits, Uyghurs, and the current Uyghurs and Uyghurs. [5]
Gwibang was often mixed with names such as Kunyong (昆戎), Nakcheon (洛泉), Kunyi (昆夷), Kunyi (緄夷), and Guanyi (串夷). Bang Jun-ik (方濬益) of the Qing Dynasty said, "Gwibang is a common name for various yongs in the West." [6] In addition, during the Shang Dynasty, various small countries were all referred to as Fang(方), which corresponds to the meaning of Fang(邦) and is considered to be a name given to forces not subjugated to the Shang Dynasty . [7] For example, in addition to Guibang, Tobang, Seolbang, Kobang, Yongbang, Mabang, Mabang, Chokbang, Ubang, and Gangbang There are (羌方), four directions (𠭯方), slander (轡方), and two (二邦方).
Currently, there are various explanations in the academic world about the tribe and development of the homecoming, but there is no definitive theory yet. In modern times, Wang Guowei believed that Guibang was the predecessor of the Xiongnu . [8] However, modern scholar Lin Yun (林沄) said that there is no relationship between the nomadic tribes such as the Xiongnu and the Yongzhi in the advanced era, such as returning home, when analyzed from the viewpoints of anthropology and natural environment. [9] Archaeologists are comparing the Rijaya culture in the current Sanbei area with Guibang. [10 ] The indigenous people of the Rijaya culture mainly engaged in agricultural economy in the mountains and made a living through small amounts of pastoralism. It is said to have been run in the form of [11]
杨建敏《黄帝·鬼方与大隗》
《Daegungryegi‧帝繫篇》有提到陸終氏與鬼方氏的婚姻。
《The King of the World》记载“Imperial demon.
Wang Yuan, 〈Demon Directions 考補證, 收於 《Ancient History Collection, 頁310.
鬼方遗民:维吾尔族的真正来历
Directions, 《綴遺齋彝器考釋》 上冊 (Taipei:Taiwan National Wind Publication Company, Republic of Korea 65), 頁 285
落合淳思 『殷─中國史最古の王朝』(中公新書)p.51
Wang Guo Text: 《Demon Fangshuang玁狁考》
Lin Yue 《戎狄不胡論》
呂智榮在<鬼方文化及相關問題初探>一文中說“而且在李家崖古城址中出土了'鬼'characters。 Culture is evil稱它'鬼方culture'。”
“陕北发现商代宏大重楼环屋形建筑群”. Archived from the original on 25 March 2020 . Retrieved 15 Sep 2019.
This article was last edited on Saturday, February 12, 2022 at 13:09.