Không lực Việt Nam Cộng hòa (tiếng Anh: Republic of Vietnam Air Force, RVNAF) là lực lượng không quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tiền thân là những phi cơ ném bom nhỏ và cũ do quân đội Liên hiệp Pháp chuyển giao cho Quân đội Quốc gia Việt Nam sau khi rút khỏi Việt Nam, sau đó dần được bổ sung cải tiến bằng những phi cơ tối tân, hiện đại do Hoa Kỳ cung cấp, trở nên ngày càng mạnh mẽ về số lượng cùng hỏa lực trên không. Không quân đã đóng vai trò quan trọng trong việc yểm trợ Bộ binh Việt Nam Cộng hòa trên mặt đất.
Không lực Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ cung cấp số lượng máy bay rất lớn, được xếp hạng sức mạnh thứ 4 trên thế giới và thứ 2 tại châu Á (chỉ đứng sau Mỹ, Liên Xô và Trung Quốc) [3] theo số lượng máy bay và binh sĩ. Một số nguồn cho rằng KLVNCH lớn thứ 6 trên thế giới (chỉ sau Liên Xô, Hoa Kỳ, Trung Quốc, Pháp và Tây Đức[4]
Lúc cao điểm Không lực Việt Nam Cộng hòa có tới trên 2.300 máy bay và trực thăng các loại, tức là còn nhiều máy bay hơn không quân các cường quốc đương thời như Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản... Tuy nhiên khi so sánh với Không quân Hoa Kỳ thì Không lực Việt Nam Cộng hòa chỉ có Không quân chiến thuật để hỗ trợ tiền tuyến mà không có Không quân chiến lược (cụ thể là pháo đài bay B-52). Đồng thời lực lượng này bị Hoa Kỳ kiểm soát và khống chế việc chỉ huy các chiến dịch, khiến phi cơ chỉ có thể hoạt động giới hạn tại Nam Việt Nam, không được phép thực hiện những phi vụ oanh tạc sâu trong lãnh thổ miền Bắc Việt Nam cũng như 2 nước láng giềng là Lào và Campuchia. Sau khi để mất các đảo trong Hải chiến Hoàng Sa về phía Trung Quốc, Nguyễn Văn Thiệu đã lên kế hoạch huy động không lực Việt Nam Cộng hòa oanh tạc Hoàng Sa để chiếm lại nhưng sau đó bị hủy bỏ do phía Mỹ ngăn chặn. Trong Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cùng với sự sụp đổ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, lực lượng không quân cũng chính thức tan rã.
Trong số 2.750 máy bay và trực thăng các loại của Không lực Việt Nam Cộng hòa (toàn bộ do Hoa Kỳ trang bị), chỉ có 308 chiếc sống sót qua chiến tranh (240 chiếc bay thoát sang Thái Lan hoặc ra tàu sân bay Mỹ, 68 chiếc được gửi về Mỹ,[5] hơn 2.440 chiếc còn lại đã bị bắn rơi, phá hủy hoặc bị tịch thu. Trong số đó, 877 chiếc máy bay và trực thăng đã bị Quân đội Nhân dân Việt Nam tịch thu vào năm 1975.[6]
Lược sử hình thành và phát triển
Lực lượng không quân Việt Nam Cộng hòa được hình thành từ một số phi công người Việt được tuyển chọn bay cùng với các phi công Pháp với tư cách là sĩ quan của quân đội Pháp. Khi Quốc gia Việt Nam, được thành lập, các sĩ quan người Việt này được chuyển sang cơ cấu Quân đội Quốc gia.
Bản thân Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt Nam Nguyễn Văn Hinh cũng xuất thân là một sĩ quan phi công, vì vậy, ông rất chú trọng việc xây dựng Lực lượng Không quân. Tháng 6 năm 1951, một cơ quan phụ trách về ngành Không quân trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập với tên gọi là Ban Không quân, ban đầu chỉ làm nhiệm vụ phụ trách Phi đội Liên Lạc. Trên thực tế, các phi công người Việt chỉ làm nhiệm vụ bay cùng với các phi công Pháp trong các phi vụ. Các chức vụ chỉ huy và Phi công chính đều là sĩ quan Pháp. Ngay cả chức vụ Trưởng ban Không quân, kiêm Phụ tá Không quân cho Tổng tham mưu trưởng cũng là sĩ quan Pháp.
Tháng 4 năm 1952, thành lập Trung tâm Huấn luyện Không quân tại Nha Trang nhưng vẫn do các sĩ quan Pháp đảm nhiệm Chỉ huy trưởng và trực tiếp huấn luyện. Năm 1953, thành lập thêm 2 phi đội Quan Sát và Trợ Chiến tại Tân Sơn Nhứt và Nha Trang. Năm 1954, Ban Không quân được đổi thành Phòng Không quân.
Năm 1955, Không quân Pháp bàn giao lại cho Không quân Quốc gia Việt Nam khoảng 25 vận tải cơ C-47, 2 Phi đoàn quan sát L-19 và 25 Khu trục cơ cánh quạt F8F Bearcat lỗi thời[7]. Tháng 7 năm 1955, lần đầu tiên một người Việt được giữ chức vụ Phụ tá Không quân là Trung tá Nguyễn Khánh. Giai đoạn đầu ngành Không quân chỉ được quy định với quân số 40 sĩ quan, 120 hạ sĩ quan và 500 binh sĩ.
Năm 1957, theo chương trình hợp tác viện trợ, một phái đoàn Không quân Hoa Kỳ sang nghiên cứu tình hình để soạn thảo kế hoạch huấn luyện cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Nhiều sĩ quan, hạ sĩ quan được tuyển chọn sang tu nghiệp tại các trường Không quân Hoa Kỳ. Các phi trường Tân Sơn Nhất, Biên Hòa, Đà Nẵng được xây dựng mở rộng. Trung tâm Huấn luyện Không quân Nha Trang cũng được xây dựng quy mô hơn, nhằm đào tạo tại chỗ các khóa hoa tiêu và quan sát viên, và các khóa đào tạo chuyên viên để bổ sung cho các đơn vị.
Tháng 9 năm 1959, một Phi đội đầu tiên gồm 6 phi cơ A-1 Skyraider (Thiên tướng) được Hoa Kỳ chuyển giao cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Sau đó trong vòng 1 năm có thêm 25 chiếc Skyraider khác được bàn giao tại Căn cứ Không quân Tân Sơn Nhứt. Năm 1960, Phi đoàn 1 Khu trục cơ được thành lập và bắt đầu hoạt động từ Bến Hải đến Cà Mau để yểm trợ cho Bộ binh Việt Nam Cộng hòa[8]
Năm 1961, chương trình trợ giúp của Hoa Kỳ có tên Farm Gate đã đưa các loại phi cơ cánh quạt huấn luyện T28, Oanh tạc cơ hạng nhẹ B26 và vận tải cơ C.47 cùng khoảng 124 sĩ quan và 228 quân nhân Hoa Kỳ sang giúp huấn luyện. Các hệ thống hướng dẫn và kiểm soát không lưu được thiết lập tại các phi trường Tân Sơn Nhứt, Đà Nẵng và Pleiku[9]. Liên đoàn 1 Không vận đầu tiên được thành lập với Trung tá Nguyễn Cao Kỳ được chỉ định làm Liên đoàn trưởng. Hoa Kỳ cũng trao cho Không quân Việt Nam Cộng hòa thêm 16 Vận tải cơ hạng trung C.123 trong tháng 12 năm 1961.
Ngày 26 tháng 2 năm 1962, hai phi công Phạm Phú Quốc và Nguyễn Văn Cử trên đường bay huấn luyện đã đột ngột bay trở lại dội bom mưu toan giết chết Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm. Ngay lập tức Tổng thống Ngô Đình Diệm ra lệnh đình chỉ vô hạn định các phi vụ chiến đấu[10]. Cũng vì lý do này mà đương kim Tư lệnh Không quân là Đại tá Nguyễn Xuân Vinh bị thất sủng, phải xin giải ngũ với lý do sang Hoa Kỳ học ngành Tiến sĩ Không gian.
Năm 1962, các đơn vị Không quân tác chiến và Yểm trợ tác chiến được tăng lên cấp Không đoàn tại mỗi vùng Chiến thuật: Không đoàn 41 (căn cứ ở Đà Nẵng), Không đoàn 62 (Pleiku), Không đoàn 23 (Biên Hòa), Không đoàn 33 (Tân Sơn Nhất), Không đoàn 74 (Cần Thơ)[11]
Đệ Nhị Cộng hòa
Sau cuộc "Chỉnh lý" lên nắm quyền, tướng Nguyễn Khánh thực hiện một số cải tổ trong Quân đội. Ngoài việc đặt ra thêm cấp bậc Chuẩn tướng, ông còn cho thay đổi tên gọi "Quân đội Việt Nam Cộng hòa" thành "Quân lực Việt Nam Cộng hòa". Danh xưng Không Lực Việt Nam Cộng Hòa cũng được sử dụng chính thức từ lúc đó.
Ngày 3 tháng 2 năm 1965, một Phi đoàn gồm 24 chiếc A-1H Skyraider do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ chỉ huy cất cánh từ Căn cứ Không quân Đà Nẵng và tham gia vào Chiến dịch Mũi tên lửa (Flaming Dart) do Hoa Kỳ vạch định, tấn công các địa điểm ở phía bắc Vĩ tuyến 17[12]
Ngày 11 tháng 2 năm 1965, Đại tá Nguyễn Ngọc Loan, Tư lệnh phó Không lực Việt Nam Cộng hòa, làm Phi đoàn trưởng 28 chiếc Skyraider của Việt Nam Cộng hòa cùng với 28 chiếc F100 của Không quân Hoa Kỳ mở cuộc tấn công thứ hai vào lãnh thổ phía bắc Vĩ tuyến 17. Trong đợt này phi công Phạm Phú Quốc bị bắn rơi trên bầu trời miền Bắc Việt Nam[13]
Năm 1967, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có thêm 1 Phi đoàn Khu trục trang bị phản lực cơ F-5. Số hiệu của các đơn vị cấp Phi đoàn được cải tổ xếp thành 3 số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của đơn vị cấp phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của phi đoàn đó: số 1 là liên lạc, số 2 là trực thăng, số 3 là đặc vụ, số 4 là vận tải, số 5 là khu trục, số 7 là quan sát, số 8 là máy bay cường kích, và số 9 là huấn luyện.[11]
Năm 1970, với đà phát triển nhanh của Không Lực Việt Nam Cộng Hòa, các Không đoàn Chiến thuật phát triển thành 4 Sư đoàn không quân[14], tác chiến hỗ trợ cho 4 Vùng Chiến thuật. Năm 1971, Sư đoàn 5 Không quân được thành lập và trở thành Lực lượng Không quân Trừ bị của Bộ Tổng Tham mưu. Năm 1972, thành lập thêm tại Quân khu 2 Sư đoàn 6 chịu trách nhiệm vùng trời chiến trường Cao nguyên Trung phần.
Ở thời điểm 28/1/1973, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có 2.073 máy bay các loại: 79 A-1, 248 A-37, 66 C-119G/K, 32 C-130, 239 O-1, 35 O-2, 24 T-37, 10 U-6, 85 U-17, 19 C-123, 56 C-7, 76 C-47, 24 T-41, 70 CH-47, 859 UH-1, 151 F-5 A/B/E[15]
Tính đến cuối năm 1974, Không lực Việt Nam Cộng hòa có tổng số quân lên tới 62.583, trong đó có 6.788 phi công; tổng số máy bay lên tới 1.850 chiếc, trong đó có 260 máy bay tiêm kích, số còn lại là máy bay ném bom, trinh sát, vận tải và trực thăng. Chất lượng máy bay cũng cải tiến (thay F-5A bằng F-5E).
Số hiệu của các Phi đoàn gồm có 3 chữ số. Theo đó, chữ số đầu trong 3 chữ số của phi đoàn được dùng để chỉ công dụng của Phi đoàn đó và được quy định như sau:
Tư lệnh đầu tiên. Sinh năm 1928 tại Chợ Lớn, tên quốc tịch Pháp là Paul. Được thăng vượt cấp từ Trung úy lên Thiếu tá, Trung tá (1955) và Đại tá (1956).
Sinh năm 1930 tại Yên Bái. Thăng cấp Đại tá (1961). Thất sủng sau Vụ đánh bom Dinh Độc Lập 1962. Xin giải ngũ sang Hoa Kỳ du học, về sau là Tiến sĩ Vật lý phục vụ trong ngành Khoa học Không gian của Hoa Kỳ.
Tháng 12/1963, Quyền Tư lệnh Không quân đến tháng 3/1964 chính thức Tư lệnh, tháng 7/1964 kiêm Chỉ huy trưởng Không đoàn 83 Đặc nhiệm (tức Biệt đoàn 83 Thần Phong). Năm 1965 giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương (Thủ tướng) nhưng vẫn kiêm Tư lệnh Không quân đến 1967. Cấp bậc sau cùng: Thiếu tướng.
Cấp bậc sau cùng: Trung tướng. Trong QLVNCH có hai Trung tướng cùng họ và tên, nên để phân biệt mỗi ông có một biệt danh đi kèm với tên: Minh Lục quân và Minh Không quân. Tướng Minh Lục quân sinh năm 1923, năm 1965 giữ chức vụ Tổng Tư lệnh Quân lực (Tổng Tham mưu trưởng), hơn tướng Minh Không quân 9 tuổi và được thăng cấp Trung tướng (1957) trước tướng Minh Không quân 11 năm.
Martin B-57 Canberra - Không quân Hoa Kỳ cho mượn để dùng cho huấn luyện - chưa bao giờ được Không Lực Việt Nam Cộng Hòa khai triển cho tác chiến Khu trục cơ
Vào thời điểm 28/1/1973, Không Lực Việt Nam Cộng hòa có 2.073 máy bay các loại: 79 A-1, 248 A-37, 66 C-119G/K, 32 C-130, 239 O-1, 35 O-2, 24 T-37, 10 U-6, 85 U-17, 19 C-123, 56 C-7, 76 C-47, 24 T-41, 70 CH-47, 859 UH-1, 151 F-5 A/B/E[15]
^Toperczer, Istvan. MiG-21 Units of the Vietnam War. Osprey 2001, No. 29. pp.80-81.
^Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong máu lửa, trang 374, Phạm Phong Dinh, Tủ sách Vinh Danh, tháng 6 năm 1998;
^Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong máu lửa, trang 375;
^Trước năm 1960, các phi công Pháp-Việt thường bay theo thói quen, do chưa có các thiết bị dẫn đường mặt đất cũng như do ít sử dụng thiết bị dẫn đường trên không.
^Quân lực Việt Nam Cộng hòa trong máu lửa, trang 378;
Intel Core i3 5015U Dual Core Mobile Processor (đời thứ 5)
15.6" 1366x768 HD LED Backlit Display, Built-In HD Webcam và Microphone
1TB Internal Hard Drive
4GB RAM
Intel HD Graphics 5500
WiFi với Bluetooth 4.0
4-Cell Lithium Battery
Win 10 OS
Inputs
2x USB 2.0
1x USB 3.0
1x HDMI
Anh nằm đó suốt một đời hoang lạnh
Non nước buồn hương khói chẳng ai dâng
Anh ra đi giữa mùa hè rực nắng
Hai năm rồi thân xác đã tiêu tan
Thương cho anh bao nhiêu người nhắc nhở
Nghĩ đến anh ai cũng thấy ngậm ngùi
Tiếc vô cùng một tài hoa tuồi trẻ
Tình đang nồng anh vội vã buông xuôi
Anh nằm đó sau một lần thất thủ
Căn cứ N. ơi! Xương máu ngập tràn
Còn đâu nữa những ngày theo quân ngũ
Những vui buồn ấp ủ đời anh
Trời Kontum cũng một lần chiến thắng
Hai năm rồi thôi yên nghĩ đi anh.
Vô Danh
Bài thơ thương tiếc về một anh lính VNCH hy sinh tại KonTum.
bài thơ có thể được viết vào năm 1974 sau hai năm (1972) mùa hè đỏ lửa.
22
23
3
4
5
=============================================
Tr/Tá Ngôn đã bị đưa đi tù “cải tạo” tại miền Bắc. Bị bạc đãi, hành hạ tinh thần, ông vẫn bình tĩnh giữ đúng tư cách của một quân nhân dù đã bị bại trận, vẫn duy trì được niềm tin vào chính nghĩa. Nhưng ông đã không chống chọi nổi với cơn bệnh hiểm nghèo trong điều kiện khốn cùng, thiếu thốn thuốc men và dinh dưỡng. Cuối cùng, ông đã lặng lẽ giã từ cõi đời.
#C3D6EF
4
gia nhập ban quân nhạc Tổng Thống Phủ với cấp bậc trung sĩ nhất.