Wednesday, March 15, 2017

CÁNH TAY NỐI DÀI của Viêt cộng nằm trong truyền thông hải ngoại

 

CÁNH TAY NỐI DÀI của Viêt cộng nằm trong truyền thông hải ngoại

 



Có người căng biểu ngữ tố cáo bộ ba Nam Lộc, Trúc Hồ, Việt Dzũng là cánh tay nối dài của Việt cộng tại hải ngoại.

Nhưng chưa ai trưng bằng chứng về hai nghệ sĩ Việt Dzũng và Nam Lộc là cánh tay nối dài.

Riêng Trúc Hồ thì trước mắt có SBTN về làm phóng sự tại Việt Nam. Có thể xem đây là một bằng chứng, nhưng chưa đủ sức thuyết phục vì chưa có lời giải thích thỏa đáng TẠI SAO SBTN có thể ngang dọc xuyên suốt Việt Namtrong lúc Giám Đốc, phóng viên, cameraman đều là những người bề ngoài tõ ra chống cộng kịch liệt.

GIAO LƯU VĂN HÓA

Năm 1999, vấn đề giao lưu văn hóa được Việt cộng nâng lên hàng quốc sách. Tại Hoa kỳ, chúng sử dụng tên nằm vùng Lê Quý Biên (cùng Trần Khánh Vân) móc nối với nhiều người trong đó có Đỗ Ngọc Yến, chủ báo Người Việt ở Nam Cali.

Truyền thông đại chúng hải ngoại là đích nhắm của tập đoàn mafia đỏ. SBTN từ từ cũng rầm rộ lên, nhưng nổi nhất là khi truyền hình VC VTV4 phát hình ra hải ngoại

Tấm ảnh nầy chụp ngày 22 th5, 1998 . Từ trái là Lê Quý Biên (xe cán chết tại Hà Nội vì chiếc chân què). kế đến là Nguyễn Xuân Phong (lãnh sự Việt cộng),rồi đến Đỗ Ngọc Yến (cũng từ trần), sau cùng là Võ Tá Chước.

Sau nầy có SBTN về Việt Nam Làm phóng sự mang chiếu khắp nước Mỹ qua hệ thống vệ tinh. Người phóng viên đi dễ dàng khắp nước Việt Nam là Thanh Toàn, con trai của cố ca nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, một người chống cộng nổi tiếng. Đó là một điều lạ!
Thanh Toàn trong nhạc hội trợ giúp Thương Phế Binh VHCH ở Garden Grove, Nam Cali, với quân phục Nhảy Dù QLVNCH, súng colt lủng lẳng. Nhảy dù là binh chủng Việt cộng thù nhất. Vô lý!
MẶC DÙ SBTN ĐƯỢC Việt cộng "CƯNG CHÌU" CHO NGANG DỌC VN, THẾ THÌ TẠI SAO TRÚC HỒ LẠI PHÓNG TAY KÊU GỌI KÝ Thỉnh Nguyện Thư VẬN ĐỘNG NHÂN QUYỀN CHO Việt Nam.

ẮT HẲN PHẢI CÓ GÌ BÍ ẨN!

Trúc Hồ và vợ là Diệu Quyên, Trúc Sinh em Trúc Hồ, đâu nghe đồn có qua lại VN!

Nhạc sĩ Trúc Giang là thân phụ của Trúc Hồ,Trúc Sinh. Trúc Giang là sáng lập viên Nhóm Sưởi Ấm có Kiều Mỹ Duyên, một nhà tài trợ địa ốc, Vi Anh, nhà báo kỳ cựu... Nhóm là một tổ chức Từ Thiện phi lợi nhuận từ 2006, nói là để hoạt động trong lãnh vực giúp đỡ người già đơn chiếc và trẻ em thất học được đến trường ở Việt Nam.

Với lý do đó, Trúc Giang qua lại Việt Nam thường xuyên.
Trong 5 năm qua Nhóm Sưởi Ấm đã tặng:

Năm 2006 tặng 6000 phần quà
Năm 2007 tặng 9600 phần quà
Năm 2008 tặng 12000 phần quà
Năm 2009 tặng 8000 phần quà
Năm 2010 tặng 5000 phần quà

Chưa nghe báo cáo số phần quà gởi vền VN năm 2011.

Khác với những cá nhân, tổ chức quyên góp bác ái thường nhờ cái mà Việt cộng gọi là mặt trận tổ quốc tổ chức phân phát có NHÀ NƯỚC đạo diễn quay phim, cho vào DVD mang về Mỹ làm bằng, Trúc Giang giao thẳng tiền mặt cho người chị bạn dì tên Ca Lê Hồng, dân Bến Tre, đi tập kết ra Bắc năm 1954 lúc 15 tuổi, hiện đang giữ vai trò bí thư hội sân khấu miền nam. Với chức vụ nầy, Ca Lê Hồng thường phối hợp nhịp nhàng với câu lạc bộ nữ doanh nghiệp để cùng sở thương binh xã hội VC tổ chức phát quà tại các địa phương.

NÓI MỘT CÁCH NGẮN GỌN, TRÚC GIANG LÀ ĐẠO DIỄN MỌI SINH HOẠT, HÀNH ĐỘNG CỦA TRÚC HỒ, TRÚC SINH, và SBTN, LÀM SAO CHO PHÙ HỢP VỚI Nghị Quyết 36, hòa hợp hoà giải, mà con đường văn nghệ là cái bẩy rập.



THÂN THẾ NGƯỜI ĐẠO DIỄN TRÚC GIANG

 photo ec 3_zpssbddqs4l.jpg
Hình chụp SBTN Trúc Hồ trước tòa Bạch Ốc trong ngày 5 th 3, 2012, trong vụ 150 ngàn chữ ký.

Trúc Giang là thân phụ của Trúc Hồ và Trúc Sinh, linh hồn của SBTN và Asian Entertainment. Chính Trúc Giang đạo diễn mọi sinh hoạt của con cái.

Trúc Giang tên thật Trương Vĩnh Nghĩnh, sinh ngày 01 tháng 3 năm 1937 tại xã Nhuận Phú Tân thuộc quận Mõ Cày, tỉnh Bến Tre Nam Việt. Sau khi thân phụ mất, ông lên Sài Gòn năm 1959. Thi đậu vào trường Quân Nhạc Thủ Đức ngày 01 tháng 3 năm 1962. Sau đó gia nhập ban quân nhạc Tổng Thống Phủ với cấp bậc trung sĩ nhất. Trúc Giang cũng có mở lớp dạy nhạc tại Sàigòn hồi năm 1968, hoạt động liên tiếp trong 26 năm, tức là mãi cho đến năm 1994, qua Mỹ do sự bảo lãnh của con trai, nhạc sĩ Trúc Hồ.

* Trúc Hồ tên thật là Trương Anh Hùng, sinh ngày 2 tháng 4 năm 1964 tại Saigon, vượt biên đường bộ tháng 3/ 1981 và định cư tại Nam California, Hoa Kỳ, vào tháng 8/ 1981.

Trúc Giang Trương Vĩnh Nghĩnh, với tư cácH trưởng nhóm Sưởi Ấm, thường xuyên qua lại VN, tiếp xúc trực tiếp với hai anh em Ca Lê HồngCa Lê Thuần.

Tại sao hai họ Trương VĩnhCa Lê là anh chị em bạn dì? Xin xem sơ đồ liên hệ huyết thống dưới đây:

Giải thích:

* Bà Lê Thị Tài, lấy ông Ca Văn Thỉnh sanh ra Ca Lê Dân, Ca Lê Du, Ca Lê Thuần,Ca Lê Hồng, Ca Lê Hiến

* Em gái của Bà Lê Thị Tài lấy một người cháu của Trương Vĩnh Ký (Petrus Ký), sanh ra Trương Vĩnh Nghĩnh mà sau nầy lấy nghệ danh là Trúc Giang, để nói lên lòng nhớ quê hương Bến Tre.

Sau 30/4/75, lớp nhạc Trúc Giang vẫn mở cửa hoạt động như trước, nhờ vào sự bảo đảm của Ca văn Thỉnh mà Trương Vĩnh Nghĩnh gọi bằng dượng tức là chồng của Lê Thị Tài, chị ruột của mẹ Trúc Giang.

DÒNG HỌ CA LÊ
* Ca văn Thỉnh (1902-1987) Sinh ngày 21-3-1902, trong một gia đình nông dân ở xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Ca Văn Thỉnh thuở nhỏ học trường tiểu học ở tỉnh. Được học bổng vào Trường Sư phạm Sài Gòn, sau đó học Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Thời sinh viên, Ca Văn Thỉnh cùng với bạn đồng học như Đặng Thai Mai, Phạm Thiều hoạt động trong phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Hà Nội. Ca Văn Thỉnh rất mê cỗ nhạc Nam phần. Vợ là Lê Thị Tài ca vọng cỗ rất mùi...

Tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, Ca Văn Thỉnh được bổ nhiệm làm Đốc học tỉnh Bến Tre. Tháng 8-1945, Ca Văn Thỉnh tham dự vào cuộc cướp chính quyền ở tỉnh, nhưng thất bại, bèn dẫn vợ là Lê Thị Tài trốn vào mật khu (bưng), giao 5 con nhỏ là Ca Lê Dân 14 tuổi, Ca Lê Du 12 tuổi, Ca Lê Thuần 9 tuổi, Ca Lê Hồng 8 tuổi, Ca Lê Hiến 6 tuổi nhờ bà nội nuôi. Năm 1946, là thành viên phái đoàn khu 8 vượt biển ra Trung ương ngoài Bắc, báo cáo tình hình, xin chi viện cho chiến trường miền Nam và được Hồ tặc giao chức vụ chức vụ Quyền Bộ trưởng Bộ Giáo dục của cái gọi là Chính phủ Kháng chiến.

Năm 1952, Ca Văn Thỉnh trở về lại miền Nam, giữ chức vụ bí thư ủy ban hành chánh kháng chiến Nam Bộ, kiêm ủy viên Ủy ban Liên Việt Nam Bộ. Sau hiệp định Genève (1954), tập kết dẫn hết vợ con ra Bắc (Ca Lê Dân và Ca Lê Du chết vì kiệt sức do giông bão nhồi lắc tàu).

Nhờ có học, Ca Văn Thỉnh được giao phụ trách vụ Đông Nam Á Bộ Ngoại giao, Ủy viên tuyên huấn trung ương cục miền nam, Đại sứ ở Campuchia, Giám đốc Thư viện Khoa học Trung ương. Sau ngày 30-4-1975, Ca Văn Thỉnh giữ chức Viện trưởng Viện Khoa học xã hội miền Nam, chủ tịch Ủy ban Khoa học xã hội thành Hồ.

Bất cứ ai đi tù cải tạo thuộc thành phần khoa học kỹ thuật được thả về Saigon trong những năm 1977, 1978, 1979 đều biết Ca Văn Thỉnh vì y ta lên lớp nhồi nhét mớ tư tưởng "đảng đải ngộ" tại trụ sở ở đường Phan Thanh Giảng cũ, quận Ba.

Bác Sĩ, kỹ sư phải tham gia Hội Trí Thức Yêu Nước, trụ sở ở góc đường Hiền Vương Nguyễn Thông Quận Ba Saigon. Mỗi người được cấp một tấm thẻ màu hồng đậm có đóng mộc hình chữ nhật, do Ca văn Thỉnh ký.

* Lê Thị Tài (1905-1983) Vợ của Ca Văn Thỉnh, cũng quê Bến Tre, giáo sư Pháp Văn trường trung học tỉnh, là tay không vưa. Từ 1945 y thị đả giữ chức vụ chủ tịch hội phụ nữ cứu quốc Bến Tre, trong lúc Nguyễn Thị Định mới còn là ủy viên.

Khi tập kết ra Bắc năm 1954, Lê Thị Tài được kết nạp vào hội liên hiệp phụ nữ và nằm trong tổ chức nầy cho đến ngày nhắm mắt tại Phú Nhuận. VC cái nào cũng như nhau, như chị Út Tịt, đánh cho đến khi chỉ còn cái lai quần cũng oánh.

Sau cái gọi là cách mạng tháng 8/1945- khi Nhật đầu hàng- bị thất bại, Pháp theo đồng minh trở lại VN, vợ chồng Ca Văn Thỉnh bị truy nả ráo riết. Túng thế, phải tổ chức cuộc trốn chạy bằng đường thủy, ra Bắc, nói là đi xin chi viện.

Khoảng giữa tháng 3/1946, một chiếc ghe đi biển loại chở gạo ra trung, khởi hành tại Cồn Lợi, Thạnh Phú, Bến Tre. Trên ghe có 4 nam nhân, 3 phụ nữ và một thiếu nhi. Trong số đó là vợ chồng Ca Văn Thỉnh và Nguyễn Thị Định. Ca Văn Thỉnh lúc ấy giữ chức vụ ủy viên trung ương của cái gọi là ủy ban hành kháng, 44 tuổi. Vợ Lê Thị Tài, 41 tuổi, chủ tịt cái gọi là hội phụ nữ cứu nước. Nguyễn Thị Định lúc đó 26 tuổi, gái Trúc Giang, trưởng đoàn là một đảng viên từ trung ương đảng CSVN cử vào. Ghe chạy đến Phan Thiết phải tấp vào bờ tránh bão. Mọi người đều bị say sóng. Dứt bão, ghe quay về, chỉ còn Ca Văn Thỉnh và Nguyễn Thị Định theo trưởng đoàn VC mướn ghe tiếp tục đi. Đến Phú Yên (Tuy Hòa), chúng vào bờ, nghỉ ngơi, đoạn đón xe lửa ra Bắc và được giao liên đưa về cái gọi là chiến khu Tân Trào (tỉnh Tuyên Quang), mà Việt cộngkính cẩn gọi đó là thủ đô chánh phủ cách mạng lâm thời. Nơi đây, Ca Văn Thỉnh được Hồ tặc giao cho chức vụ quyền bộ trưởng giáo dục quốc gia (khác với Bộ Quốc Gia Giáo dục trong Nam), Còn Nguyễn Thị Định được chỉ định kề cận "boác" ngày đêm để xin "chi viện". Khoảng 6 tháng sau, Nguyễn Thị Định trở về Nam với một ghe vũ khí. Từ đó Bắc Việt liên tục đổ người và vũ khí vào Nam với dã tâm chiếm cho bằng được vùng gọi là vựa lúa của Á Đông.

Cặp Việt cộng nầy ghép hai họ chồng CA vợ lại với nhau, sanh ra giòng CA LÊ, kiểm soát văn hóa tư tưởng toàn dân Nam phần. Duyên dáng Việt Nam, nhạc vàng sống lại, là nghiên cứu của dòng CA LÊ nằm trong chính sách giao lưu văn hóa, hòa giải (giả vờ), hòa hợp hòa tan bằng NQ 36.

Kế sách an bang của Quản Trọng (Tàu): một năm không gì bằng trồng lúa. Mười năm không gì bằng trồng cây. Trăm năm không gì bằng trồng người.

CÔNG THẦN CA VĂN THỈNH

* Một chút lịch sử:

Ngày 2 th9, 1945 Hồ tặc đọc tuyên ngôn độc lập tại Hà Nội. Các đảng phái quốc gia phản đối quyết liệt.

Cuộc tranh chấp quốc cộng bắt đầu nổ bùng và lan rộng. Các đảng phái quốc gia chống lại chính sách bịp bợm và khủng bố của bọn Việt Minh, đòi hỏi phải có tổng tuyển cử công bằng. Hồ tặc buộc phải dời ngày tổng tuyển cử đến 6/1/1946. Sau đó là chính phủ liên hiệp được thành lập.

Mọi chuyện tiến hành êm đẹp, Hồ tặc (thuộc phe Việt Minh Cộng sản chiếm đa số trong Quốc Hội) được bầu làm Chủ Tịch Chính Phủ Liên Hiệp, cụ Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch, và cựu Hoàng Bảo Đại (ông Vua thoái vị) được mời làm cố vấn cho Hồ, Chủ Tịch Chính Phủ Liên Hiệp.

Trong cùng lúc đó, Hồ tặc và nhóm Việt Minh ký Hiệp Ước Sơ Bộ với Sainteny (đại diện Pháp) vào lúc 4 giờ chiều ngày 6/3/1946 tại căn nhà số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội. Theo bản hiệp ước, thì chính phủ do Hồ tặc lãnh đạo thỏa thuận cho Pháp được tự do đổ 15.000 quân để trấn đóng một số tỉnh trọng yếu tại miền Trung và miền Bắc Việt Nam (kể cả thủ đô Hà Nội). Các đảng phái chính trị không cộng sản trong Chính Phủ Liên Hiệp tổ chức biểu tình chống đối, đã bị Hồ tặc và phe Việt Minh gian manh xảo quyệt phao tin vu khống là các đảng phái quốc gia cấu kết với Pháp phản bội tổ quốc, để công khai dùng binh lực và công an tổ chức các cuộc hành quân thẳng tay tiêu diệt các thành phần đối lập với cộng sản, ngay tại Hà Nội và tại các tỉnh khác mà phần đông dân chúng sợ bị liên lụy không dám phản kháng.

Cụ Nguyễn Hải Thần đã được anh em Đồng Minh Hội đưa trốn thoát khỏi Hà Nội lên thị xã Lạng Sơn, và được anh em Phục Quốc Quân tại đây hộ tống trốn sang Tầu qua cửa Ải Nam Quan tại Đồng Đăng, sang Bình Tường bên đất Trung Hoa.
Đêm 19/12/1946, chiến tranh giữa quân Pháp và quân Việt Minh bùng nổ trên toàn lãnh thổ Việt Nam, vì tranh chấp thương thảo chia chác quyền cai trị đất nước giữa Việt Minh và Pháp không êm xuôi. Quân của Hồ tặc thua phải bỏ thủ đô Hà Nội và nhiều thành phố trọng yếu khác để rút vào rừng vùng Việt Bắc (gọi là Bưng). Trước khi rút vào bưng, Hồ tặc ra lệnh bắt buộc nhân dân Việt Nam cả thành thị lẫn thôn quê, phải thực hiện chính sách "tiêu thổ kháng chiến" (tức là phá bình địa tất cả các nhà gạch to lớn đồ sộ của tư nhân, cũng như cơ sở công cộng, nhà thờ, đình, chùa, đào đường đắp mô, phá cầu cống v.v…) gọi là chiến lược chống Pháp tái xâm lăng. Nhưng mục đích thực sự sâu xa của việc làm này là, để thực hiện bước đầu tiên bần cùng vô sản hóa toàn dân, chuẩn bị xây dựng chế độ vô sản chuyên chính, độc tài, bạo lực, sắt máu tàn bạo, theo mô hình của Quốc Tế Cộng Sản do Liên Xô chỉ đạo.

* Hết lòng với cáo Hồ

Nhờ giỏi Pháp văn, Ca văn Thỉnh được Hồ tặc giao trọng trách đàm phán với Pháp về những điều khoảng trong Hiệp Ứớc Sơ Bộ.

Sau 1954, Hồ sai Thỉnh qua Campuchia làm đại sứ, òn ỉ với Shianuk(vợ đầm) để được thiết lập căn cứ quân sự (cục R) trên đất Miên .

Nhờ trú ngụ lâu năm tại Miên, Ca Văn Thỉnh đã giúp Trúc Hồ vượt biên bằng đường bộ vào tháng 3/1981, trong thời gian VC chiếm đóng Campuchia 10 năm ròng từ 1979 đến 1989 một cách an toàn và để bén rể xứ Mỹ, mới có cơ hội thực hiện kế hoạch "trăm năm trồng..."

CÀ THA VÀ BÙA HỘ MẠNG

- Ngay và sau ngày 30/4/75, Saigon loạn tung lên. Bọn côn đồ 30/4 quấn vội mảnh vải đỏ nơi bắp tay, ngang nhiên cướp bóc, giết người. Không có pháp luật chính thống, chỉ có luật rừng. Hình ảnh những tên bộ đội ngơ ngác mán mường, mũ tai bèo, dép râu là "hộ pháp" [trong ngoặc kép] duy nhất làm bọn côn đồ VC thừa nước đục thả câu, lủi mất không dám léo hánh. Trong bối cảnh đó, một tên già khoác quần kaki Nam Định, mặc áo sơ mi trắng bèo nhèo rộng thùng thình, đội nón cối, đeo xà-cột (saccoche-tiếng Pháp) xuất hiện trước cửa lớp nhạc Trúc Giang, cùng với một toán võ trang, áo quần đen, dép râu, khăn rằng, mũ tai bèo. Bản mặt choắt như khỉ già ngâm rượu nầy của tên cán bộ "có thớ" đó, là một cái CÀ THA tránh né lằng tên mũi đạn cho gia đình Trúc Giang.

- Một đứa nhỏ chừng 8,9 tuổi - sau nầy mới biết là Trương Anh Kiệt tức nhạc sĩ Trúc Sinh bây giờ - đứng ôm tên cán bộ già. Vì thế, lối xóm biết tên già nầy là thân nhân của Trúc Giang Trương Vĩnh Nghĩnh mà các đứa nhỏ trong nhà không xa lạ. Như thế ông trung sĩ nhất ban quân nhạc khánh tiết phủ tổng thống VNCH làTHÂN NHÂN CÁCH MẠNG, dễ té hoảng chưa!

- Không bao lâu sau, lối xóm to nhỏ nhau là tên già gầy choắt nầy từ trung ương cục miền nam theo đoàn quân về Saigon. Tay nầy làm lớn lắm và hiện là một trong 10 tên lãnh đạo ủy ban quân quản thành hồ. Do sự nhạy miệng của mấy đứa nhỏ trong nhà như Trương Anh Hùng (Trúc Hồ), Trương Anh Kiệt, người ta biết tên của cán bộ già nầy là Ca Văn Thĩnh mà Trúc Giang Trương Vĩnh Nghĩnh gọi bằng dượng.

NHƯ THẾ, TRÚC GIANG NGANG NHIÊN CHƯỜNG MẶT NẰM VÙNG

- Miếng giấy bảo đảm của Ca Văn Thỉnh chỉ là một loại CÀ THA, có hiệu lực nhất thời vì sau đó y ta chuyển qua phụ trách khoa học xã hội. Sau khi dẹp yên bọn 30/4, áp đặt hệ thống công an phường, công an khu vực, an ninh tổ, ủy ban quanh quẩn thành phố bắt đầu nghĩ tới việc "thanh lý" và "quản lý" các dịch vụ tư nhân. Đến lúc nầy, thấy xuất hiện anh em Ca Lê Thuần, Ca Lê Hồng. Với chức vụ quản lý văn học nghệ thuật miền Nam, Ca Lê Thuần cấp giấy giới thiệu cho người em bạn dì là Trương Văn Nghĩnh tự Trúc Giang "đăng ký" sinh hoạt lớp nhạc ở vùng Cầu Kho, trực thuộc phòng thông tin văn hóa quận 5, Saigon. Đây không khác nào một lá bùa hộ mạng,

- Cuộc sống gia đình Trúc Giang phất lên từ đó vì lớp nhạc ký giấy chứng nhận học viên. Trương Anh Hùng (sau nầy là Trúc Hồ), Trương Anh Kiệt (sau nầy là Trúc Sinh) bận rộn suốt ngày công tác đoàn, nhóm, Anh Hùng, Anh Kiệt khoác khăn quàng đỏ, gia nhập vào đội văn nghệ quận chuyên trình diễn tại các "tụ điểm", nhằm lôi kéo thanh thiếu niên đi theo con đường "bi đát- bác đi". Lúc mới "phỏng dzế- giải phóng" Anh Hùng mới 11 tuổi và cậu em Anh Kiệt chỉ biết ham vui, hết mình vì sự nghiệp cùng cả nước tiến lên XHCN.

- Ca Văn Thỉnh rất thương Trương Anh Kiệt, đứa cháu gọi y bằng ông duợng vì nó giống thằng con xâm lăng Ca Văn Hiến của y, bỏ xác trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân đợt 2 vào Saigon năm 1968 (sẽ đề cập đoạn sau) nên Trúc Giang Trương Vĩnh Nghĩnh thường xuyên chở Kiệt đến nhà duượng chơi. Nhà nầy vốn là một biệt thự rộng lớn, xây kiểu Nhật do ông kỹ sư Nam, giám đốc hãng đóng tàu CARIC sát bến đò Thủ Thiêm, làm chủ. Gia đình Ông Nam di tản hết sang Pháp từ trước, chỉ còn một mình ông ở lại. Ngay sau 30/4/75, ông Nam bị lấy nhà, đuổi xuống nhà bồi, dành chỗ cho vợ chồng tên già Ca Văn Thỉnh - Lê Thị Tài. Vài tuần sau, Ca Lê Thuần, em gái Ca Lê Hồng và em tư sanh (em ghẻ) Ca Lê Thắng từ Bắc khăn gói quả mướp dọn vào ngôi nhà tọa lạc tại số 229/4 đường Hoàng Văn Thụ tức Vo Tánh cũ trước 30/4/75, thuộc quận Phú Nhận, đối diện cổng sau Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực VNCH. Số 229/4 mới bị VC đổi lại sau nầy. Khi gặp Trương Anh Kiệt lần đầu tiên, lúc đó mới 9 tuổi, VC cái Ca Lê Hồng thảng thốt chạy lại ôm xiết chặc cứng và cứ khen Kiệt sao giống thằng em quá cố Ca Lê Hiến. Từ đó, anh em Anh Hùng, Anh Kiệt thường xuyên được bố chở Vespa đến chơi, chiếc Vespa nầy sau được trao lại cho Ca Lê Thắng sư dụng.

TRÚC GIANG TRƯƠNG VĨNH NGHĨNH

ÂM THẦM HỢP TÁC với Việt cộng KỂ TỪ ĐÓ

- Những năm đầu đổi đời, dân miền Nam đói kinh khủng vì chính sách kinh tế tập trung, ngăn sông cấm chợ, tiêu diệt văn hóa đồi trụy, đánh tư sản mại bản v.v... Ai bị ảnh hưởng, ăn bo bo mì sợi chứ riêng gia đình Trúc Giang thì không, vẫn gạo trắng, nước trong, thịt cá hàng ngày, xăng nhớt đầy đủ. Nhờ dượng và các anh chị bạn dì...

- Liên tiếp 12 đêm, từ 18 đến 30 tháng 4 năm 1978 bộ đội bắc việt giả lính Pol Pot giết 3157 dân Làng Ba Chúc tỉnh An Giang để tạo cớ xâm lăng Campuchia.. Hạ tuần tháng 12, 1978, VC xua 50 ngàn quân tràn qua xứ Chùa tháp. Tháng 5/79 VC hoàn toàn làm chủ tình hình và chiếm đóng Miên suốt 10 năm. Với lối đánh biển người nướng quân không thương tiếc, VC cần lính bổ sung quân số ngày càng hao hụt. Hàng trăm ngàn thanh niên miền Nam đã bị lùa sang xứ láng giềng làm bia đở đạn. Việc bắt lính mà chúng gọi bằng mỹ từ Nghĩa vụ quân sự làm gia đình có công với cách mạng nơm nớp lo sợ cho sinh mạng con em. Xin mở dấu ngoặc "VC không dùng con ngụy", dóng ngoặc.

- Thương vong gia tăng, VC nghĩ ngay việc bắt lính lứa tuổi 17. Năm 1981, gia đình Trúc Giang quýnh quáng sợ Trương Anh Hùng đi quân dịch, bèn cậy Ca Văn Thỉnh giúp đưa qua Thái Lan bằng đường bộ. Thời Shianuk, Ca Văn Thỉnh từng làm đại sứ. Thời Lon Nol đảo chánh Shianuk năm 1970, Ca văn Thỉnh trốn chui trốn nhũi vì các mật khu bên Cam Bốt bị QLVNCH phá sạch. Nhờ ông dượng, Trúc Hồ được chở bằng xe gắn máy từ Saigon xuống Châu Đốc và theo mô-lô-tô-va đến khu biên giới Miên Thái, nơi hành lang nhóm buôn lậu, an toàn vượt biên giới mò vào trại tạm cư Khao I Dang.Lúc đó, Trúc Hồ mới 17 tuổi, chưa ý niệm rõ rệt về vai tuồng sẽ phải thủ diển sau nầy, chỉ lo gây dựng tương lai, chờ Trúc Giang qua được Mỹ theo đường bảo lãnh. Trúc Giang đến Mỹ năm 1994.

ANH EM PHÙ THỦY DÒNG CA LÊ

Ca Lê Thuần

Ca Lê Hồng

*Ca Văn Thỉnh năm 1952 nhận lệnh hố tặc về lại Nam, sống lẩn khuất trong rừng U Minh, bỏ lại ngoài Bắc đứa con ngoại hôn Ca Văn Thắng, 3 tuổi. Khi hiệp định Genève ký kết chia đôi lãnh thổ vào năm 1954, Ca Văn Thỉnh dẫn vợ và 5 con (Ca Lê Dân, Ca Lê Du, Ca Lê Thuần, Ca Lê Hồng, Ca Lê Hiến) xuống tàu tập kết ra bắc. Dân và Du chịu không nổi sóng gió, ngã bệnh chết. Vợ Thỉnh - Lê thị Tài- sau đó gia nhập hội liên hiệp phụ nữ cho đến ngày chết (1983) tại Phú Nhuận.

Ca Lê Thuần sinh ngày 1 tháng 4 năm 1938, tại quận Mõ Cày, Bến Tre.

- Theo cha tập kết ra Bắc năm 1954.

- Học Trung học tại trường học sin miền nam tập kết.

- Năm 1960, sau khi học Sáng tác ở Trường Âm nhạc Hà nội, Ca Lê Thuần được gởi đi học Lý luận và Sáng tác ở Nhạc viện Odessa (Liên Xô cũ). Về nước, giảng dạy ở Nhạc viện Hà Nội.

- Năm 1964, sắp tốt nghiệp, Thuần phải về nước (vì khủng hoảng chính trị ở nước bạn)

- Năm 1972, Thuần trở lại Liên Xô tiếp tục học và năm 1974, tốt nghiệp cả 2 môn: LỶ luận và Sáng tác, rồi quay trở về giảng dạy tại Nhạc viện Hà Nội cho đến năm 1975.

- Sau năm 1975, chuyển về làm Phó Giám đốc Nhạc viện thành phố, rồi lên Giám đốc Nhạc viện, rồi làm Giám đốc Sở Văn hóa - Thông tin thành hồ.

- Từ khi vào Nam năm 1975 đế nay, Ca Lê Thuần đã lần lựợt được đảng đề cử vào các chức vụ Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ Việt Nam khoá IV (1989-1995). Đại biểu Quốc hội khoá VII, khoá VIII và khoá IX (1981-1997), Trưởng khối tư vấn, Phó trưởng Ban Tuyên giáo Thành ủy, Chủ tịch Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật.

- Và gần đây nhất, được đảng cử tiếp tục hy sinh thêm một nhiệm kỳ chủ tịch Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật nhiệm kỳ 2010-2015.
Ca Lê Hồng Sinh năm 1939 tại Mõ Cày, Bến Tre

- Tập kết ra bắc năm 1954 với tư cách là một diễn viên trẻ của đoàn văn công miền Nam chuyên ca cổ nhạc và múa. Năm 1955, Việt cộng thành lập đoàn cải lương Nam Bộ, Ca Lê Hồng được chọn làm diễn viên ca kịch

- Năm 1961,đảng gởi đi học đạo diễn tại Liên Xô. Tốt nghiệp xong, về nước làm việc tại trường đại học sân khấu Việt nam ở Hà Nội

- Sau 30/4/1975, y thị trở về Nam làm phó GĐ, rồi GĐ Ttường Nghệ thuật sân khấu 2, tiền thân của trường cao đẳng sân khấu điện ảnh hành hồ. Hiện đang đảm trách chức vụ Phó Tổng thư ký Hội sân khấu thành phố kiêm chủ nhiệm CLB nữ nghệ sĩ thành hồ: Chuyên viên ngành sư phạm nghệ thuật, quản lý nghệ thuật.

- Ca Lê Hồng đã được phong tặng danh hiệu Nữ Nghệ Sĩ Ưu Tú.

Ca Lê Hồng đạo diển vở tuồng cải lương "Thái hậu Dương Vân Nga", đưa đến cái chết của người nữ nghệ sĩ tài danh thanh sắc vẹn toàn. Chinh y thị đêm hôm ấy (26/11/1978) cố tình cà rà với Thanh Nga sau khi tuồng vãng đã lâu, hình như cố kéo dài thời gian để cho đường xá vắng bớt. Sau nầy hung thủ bắn Thanh Nga (Nguyễn Thanh Tân) thường được thấy lui tới nhà của Ca văn Thỉnh ở số 229/4 Hoàng văn Thụ (theo lời người giúp việc nhà tên Cúc).

Ngoài lãnh vực sân khấu, Ca Lê Hồng còn là nhà đạo diễn phim ảnh. Phần lớn những đọan phim tuyên truyền nhằm bôi lọ người lính VNCH quay tại ngôi biệt thự của Ca Văn Thỉnh. Sau năm 1980, Việt cộng cưỡng chiếm Kampuchia bị thế giới lên án kịch liệt, đcsvn chỉ thị Ca Lê Hồng chỉ đạo đoàn phim quân khu 7, qua xứ chùa Tháp thực hiện một cuốn tài liệu về tội ác diệt chủng của Pol Pot hầu biện minh cho hành động xâm lược. Trung ương đảng đã tính sẽ bắt thêm lính (nghĩa vụ quân sự) lứa tuổi 17. Ca văn Thỉnh-sau khi đưa thành công Trúc Hồ Trương Anh Hùng qua Thái Lan năm 1981 bằng đường bộ- nhân dịp nầy, chỉ vẻ Ca Lê Hồng giúp con cháu của họ hàng trốn qua Thái. Ca Lê Hồng cải trang những thanh niên trẻ, nhỏ con như là công nhân khuân vác máy móc quay phim. Đoàn quay phim thực hiện ngoại cảnh phần lớn dọc biên giới Thái. Việt cộng đã dàn xếp trước để mướn một số cảnh sát Thái giữ an ninh cho đoàn. Với 1 lựơng vàng đút lót, kèm theo giấy khai sanh dưới 15 tuổi cảnh sát làm ngơ cho một công nhân Việt bước qua lãnh thổ vương quốc Thái, Ca Lê Hồng thực hiện trót lọt ba chuyến, giúp vượt biên thành công 30 thanh thiếu niên. Chính chồng của người giúp việc nhà tên Cúc nầy cũng thoát được nhờ việc ấy.

Năm 1976, Nguyễn Văn Linh từ bắc vào làm bí thư thành ủy thành hô.
Tháng 12 năm 1976, tại Đại hội Đảng lần thứ IV Linh được bầu vào ban chấp hành trung ương và bộ chính trị, ban bí thư trung ương, giữ chức trưởng ban cải tạo XHCN của trung ương, trưởng ban dân vận mặt trận trung ương, chủ tịch tổng công đoàn Việt Nam đến 1980.
Trước đại hội đảng lần thứ V, Nguyễn Văn Linh xin rút ra khỏi bộ chính trị, trở lại làm bí thư thành ủy thành hồ (1981), thay thế Võ Văn Kiệt bị điều ra trung ương.

Chính trong thời gian từ 1981 nầy, Linh giao hai anh em Ca Lê soạn thảo kế hoạch "đổi mới". Thuần và Hồng đề nghị kế sách "Giao Lưu Văn Hóa" để chiêu dụ Việt kiều đóng góp tiền bạc cứu nguy kinh tế bị khủng hoảng của chế độ.

Tháng 6 năm 1986, sau khi Lê Duẩn mất, Trường Chinh làm quyền tổng bí thư, thì NVLinh được bầu vào ban bí thư trung ương đảng, thường trực ban bí thư. Gần cuối nhiệm kỳ V, Linh được bầu bổ sung vào bộ chính trị.
Tháng 12 năm 1986, tại đại hội đảng lần thứ VI, Nguyễn Văn Linh được bầu vào ban chấp hành trung ương, ủy viên bộ chính trị, giữ chức tổng bí thư kiêm chức bí thư quân ủy (1987). Từ đây bắt đầu thời kỳ Đổi Mới và Cởi Mở...

" Đề xướng" của Ca Lê Thuần

Vốn tốt nghiệp lý luận và sáng tác tại Liên Xô, Ca Lê Thuần - với trách nhiệm lãnh đạo thông tin văn hóa miền Nam - khởi công nghiên cứu nhạc vàng, lý luận (duyệt xét) cân nhắc từng câu văn, nội dung, ý nghĩa bản nhạc, chuẩn bị cho phép phổ biến một số nhạc vàng trước 30/4/75 trong miền Nam. Phần lớn các dự án do Ca Lê Thuần đệ đạt, đều được trung ương chấp thuận, thi hành "khẩn trương"

- Thoạt tiên các tụ điểm được phép hòa nhạc miền Nam (không cho ca lời) 1983-1984

- Đề xướng xây cất hí viện qui mô có tầm vóc quốc tế để qui tụ quần chúng, điển hình là dự án xây cất nhà hát hòa bình trong khuôn viên VN Quốc Tự GHPGVNTN ở đường Trần Quốc Toản cũ.

- Lần lượt cho phép ca sĩ trong nước trình bày một số lớn nhạc vàng. Riêng nghệ sĩ xuất ngoại có quyền hát những bản nhạc chưa được phép khi đứng trên sân khấu nước ngoài. Khi quay về phải đi tập huấn để nhớ rằng nhiệm vụ văn công là phục vụ ý đảng trong đó công tác làm mờ nhạt dần những hình ảnh chiến sĩ VNCH qua nhiều hình thức.

- Giao lưu văn hóa, đưa ca múa qua các nước tư bản làm công tác dân, trí vận và ngược lại cho phép nghệ sĩ nước ngoài về trình diễn có chỉ đạo (nguyên văn).

- Xây dựng các báo điện tử "đối lập cuội" , yểm trợ tài chánh, huấn luyện chuyên viên cho các hãng truyền thông đối lập cuội, "cải thiện" dân chủ nhưng không xa rời cương lĩnh của đảng, gợi nhớ tình hoài hương của đồng bào nước ngoài.

Đặc biệt vào giữa năm 2010, hãng Sony Nhật bản ký kết với Sở thông tin văn hóa thành phố một thỏa thuận trang bị kỹ thuật sản xuất DVD tân kỳ Blu-Ray.. CÁC DVD GOLDEN EDITION của Trung Tâm ASIA được đặc biệt sản xuất từ thành Hồ, chẳng hạn như Hùng Ca Sử Việt. Đó là lý do tại sao Hùng Ca Sử việt không có hình lá cờ vàng khi hát nhạc quốc ca.

"Đề xướng " của Ca Lê Hồng

- Chủ trương đưa các nghệ sĩ cổ nhạc ra nước ngoài trình diễn trước tiên, điển hình như Thành Được, Bạch Tuyết, Ngọc Giàu sang Pháp từ năm 1982, từ đó đưa đến việc Thành Được đào tị rồi xin tị nạn chính trị.

- Đề xướng thành lập “duyên dáng Việt Nam" đưa đi trình diễn giao lưu nước ngoài như là một sự đánh thức dậy lòng hoài hương.

- Vận động cho lưu hành một số lớn bản nhạc tiền chiến và nhạc Trịnh Công Sơn.

- Duyệt xét công trình xây cất đại học điện ảnh thành hồ với phim trường tối tân vào bậc nhất nhì Đông Nam Á.


Nhật ký Lê Anh Xuân tức Ca Lê Hiến

Trúc Sinh Trương Anh Kiệt

THẰNG EM NỢ MÁU

Ca Lê Hiến là em của Ca Lê Thuần và Ca Lê Hồng, sinh ngày 5 th6, 1940 tại Mõ cày Bến Tre. Theo cha Ca văn Thỉnh tập kết ra Bắc năm 1954, học tại trường học sinh tập kết Nam Bộ. Lê học đại sử và được bổ làm giáo viên sử bậc trung học. Thíc văn thơ từ nhỏ nên lấy bút hiệu là Lê Anh Xuân.

Sau trận tổng công kích Mậu Thân 1968, Việt cộng thất bại, nướng sạch gần hết quân số, vội hốt thêm lính, trong đó có Ca Lê Hiến. Vốn không quen trận mạc, Ca Lê Hiến lớ ngớ thế nào, bị biết kích dù 81 bắn chết tại Hàng Xanh trong đợt tổng công kích vào Saigon đợt 2. VC sau nầy truy tặng danh hiệu anh hùng liệt sĩ và cho xuất bản sách với ngày ra mắt sách rình rang được Anh Thuần và Chị Hồng tổ chức khoản đải.

Khi mới gặp đứa cháu Trương Anh Kiệt (Trúc Sinh sau nầy) ông dượng Ca Văn Thỉnh không ngớt cảm xúc, sau đến Ca Lê Thuần và Ca Lê Hồng vì từ cử chỉ, lời nói, khuôn mặt đều toát lên hình ảnh giống hệt Ca Lê Hiến.

Hai anh em Hùng (Trúc Hồ), Kiệt (Trúc Sinh) đột nhiên biến thành con cưng của Ca Lê Thuần vì y ta chỉ có độc nhất một mụn con gái là Ca Lê Thủy, hiện đang dùng tiền dân rong chơi dài hạn bên Bỉ.

THẰNG CON TƯ SANH

- Ca Lê Thắng sinh ngày 01 th 6, 1949 (con rơi) *

- Nơi sinh: Mõ Cày, Bến Tre (Ca Văn Thỉnh khai gian, sinh tại Tuyên Quang Bắc Việt)

- Học lực: Đại Học Mỹ Thuật Hà Nội

- Địa chỉ: 229/4 đường Hoàng Văn Thụ tức Võ Tánh cũ trước 30/4/75 quận Phú Nhận.

- Cơ quan: Hội Mỹ Thuật thành Hồ

- Chức vụ: Ủy viên hội đồng Mỹ Thuật các tỉnh miền Nam

* Cũng như mọi đảng viên cộng sản khác, Ca Văn Thỉnh, khi mới ra Bắc, được Hồ cho làm quyền bộ trưởng giáo dục, và gài cho dan díu với một nữ cán bộ và sinh ra Ca Lê Thắng. Khi Ca Văn Thỉnh nằm xuống (1987), thì lập tức hai vợ chồng Thắng và hai con nhỏ bị con dòng chánh là Ca Lê Thuần, Ca Lê Hồng bắt dọn ra nhà bồi, vì số nhà 229/4 đường Hoàng Văn Thụ Phú Nhuận vốn là một biệt thự sang trọng, rộng rãi, kiến trúc kiểu Nhật, của kỷ sư Nam, Giám Đốc hãng Caric (hãng đóng tàu của Pháp nằm sát cạnh bến đò Thủ Thiêm.)

Đạo đức là cái gì trừu tượng. Muốn hình dung, người ta phải dùng một đối tưọng để là mẫu. Mẫu duy nhất của cộng sản Việt Nam là Hồ Chí Minh.

Vì cũng có con rơi như Hồ Chí Minh, Ca Văn Thỉnh được đảng cho tạc tượng nơi chôn nhao cắt rún, đặt tên đường ở Phú Nhuận, Đà Nẵng, Bến Tre. Đặt tên Trường ở sinh quán để sống học tập theo gương... sáng ngời đạo đức cách mạng.

THỰC THI MƯU ĐỊNH


Trúc Hồ, cho đến năm 1990 vẫn còn lo bay nhảy vô tư bên Mỹ.
Năm 1992, nhận lệnh từ Trúc Giang bên Việt Nam dặn cố gắng tìm một cơ sở sản xuất nhạc và video, Trúc Hồ mới để mắt tìm kiếm.

Một dịp may, Trúc Hồ gặp nữ ca sĩ Khánh Ly giới thiệu nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, ông này đề cập đến Trung Tâm Asia.

Nhạc sĩ Anh Bằng (sinh 1925) sáng lập ra Asia năm 1981, chuyên sản xuất băng nhạc cassette, rồi CD, rồi VCD.
Mãi 1991 Asia mới sản xuất DVD và sau đó nghệ sĩ Anh Bằng giao quyền quản trị trung tâm cho con gái Thy Vân. Trúc Hồ và Trầm Tử Thiêng được mời cộng tác, sau đến Nam Lộc và Việt Dzũng.

Năm 1994, Trúc Giang đến Mỹ theo diện đoàn tụ gia đình.

Vốn là đồng nghiệp về lớp nhạc tại Việt Nam, giữa Anh Bằng và Trúc Giang không có vấn đề khúc mắc. Trước 75, tại số nhà 102/8 đường Hai Bà Trưng, Tân Định, có một lớp nhạc lấy tên Lê Minh Bằng, mở cửa hoạt động từ 1966 chuyên dạy ký âm pháp, nhạc lý, luyện giọng, xướng âm, thực hành nhạc cụ. Lê Minh Bằng là tên ghép của ba nhạc sĩ: Lê Dinh, Minh Kỳ và Anh Bằng.

Trúc Giang mở lớp nhạc vùng Cầu Kho năm 1968.

Không bao lâu sau đó, bản hiệu Asia Entertainment sang tay Trúc Hồ và đài truyền hình SBTN phát tiển vượt bực...

KỂ TỪ ĐÓ,TRÚC GIANG TRƯƠNG VĨNH NGHĨNH ĐỨNG SAU CÁNH GÀ GIẬT DÂY MỌI ĐỘNG TÁC CỦA HAI CON: TRÚC HỒ TRƯƠNG ANH HÙNG, TRÚC SINH TRƯƠNG ANH KIỆT, BIẾN THÀNH CÁNH TAY NỐI DÀI CHO VIỆT CỘNG QUA CA LÊ THUẦN VÀ CA LÊ HỒNG.


 

NGUỒN: See more posts from Vanessa Nguyen
https://beta.groups.yahoo.com/neo/groups/Daploisongnui/conversations/messages/139346

 

 

 

1
Photo:

 

 

2


 

3
Nghi vấn quanh bản nhạc "Đáp Lời Sông Núi"

Photo:

 

 

https://www.scribd.com/document/160159569/TRUC-H%E1%BB%92-CANH-TAY-N%E1%BB%90I-DAI

 

Monday, March 13, 2017

Tôi Thấy và Nghe Được Gì ở Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam Sau 32 Năm Dưới Chế Độ Cộng Sản?

Tôi Thấy và Nghe Được Gì ở Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam Sau 32 Năm Dưới Chế Độ Cộng Sản?

 






  Tôi Thấy và Nghe Được Gì ở Sài Gòn và Miền Nam Việt Nam
Sau 32 Năm Dưới Chế Độ Cộng Sản?


Lời người viết: Đây không phải là một phóng sự hay một bài nghiên cứu xã hội với những phương pháp khoa học của nó - mà chỉ là những điều vụn vặt mắt thấy tận nơi, tai nghe tận chỗ - ghi lại môt cách trung thực. PHÓ THƯỜNG DÂN.


Tôi thấy bộ mặt Sài Gòn đổi mới với: Những khách sạn năm sao, bốn sao lộng lẫy. Đổi mới với những nhà hàng "vĩ đại"  trên các tuyến đường du lịch. Với những trung tâm “thư giản” sang trọng, quý phái cỡ câu lạc bộ Lan Anh. Với những vũ trường cực kỳ tráng lệ như vũ trường New Century Hà Nội. Với những trường trung học tư thục mang tên Mỹ, giáo sư Mỹ, chương trình học của Mỹ, giảng dạy bằng tiếng Mỹ - học sinh phải trả học phí bằng tiền Mỹ - 600US$ đến 1000US$ /tháng. (Giai cấp nào đủ sức trả học phí nầy cho con?)





Tôi cũng thấy Sài Gòn - người, xe và phố xá dầy đặc, nghẹt thở - vài tòa cao ốc mọc lên vô trật tự - ở xa xa, có cái trông giống như chiếc hộp quẹt. nhà cửa mặt tiền hầu hết đều lên lầu nhiều tầng. Kiến trúc hiện đại. Vật liệu nhập cảng đắc tiền. Nhà trong hẻm - phần lớn cũng lên nhiều tầng cao nghệu. Có nhiều khu xây cất bừa bãi, nhô ra thụt vào như những chiếc răng lòi sĩ vô duyên, lấn chiếm ngang ngược đất công hoặc lề đường…  


Tôi thấy Sài Gòn bị ô nhiểm trầm trọng với hằng triệu tiếng động cơ, ngày đêm đinh tai nhức óc và 3.000.000 chiếc gắn máy Honda - phun khói mịt mù - chưa kể đến xe hơi.

  

Và hệ thống cống rãnh lạc hậu. Mỗi khi trời mưa lớn - nước rút không kịp, ứ đọng tràn ngập nhà cửa. Hệ thống đổ rác còn lạc hậu. không đáp ứng nổi nhu cầu thải rác của 8.000.000 dân nhun nhúc như kiến. Sài Gòn đầy dẫy những hàng ngoại hóa do công ty ngoại quốc sản xuất tại chỗ. hàng lậu của Trung quốc tràn vào vô số kể. Máu kinh tế Việt Nam bị loãng ra. Nhưng chế độ xã nghĩa im thin thít chịu trận, không dám một lời phản kháng. Một chiếc xe gắn máy Honda nhãn hiệu Trung quốc giá khoảng chừng 1000 đô la Mỹ. chưa kể hàng Trung quốc lậu thuế, rẻ mạt. Thuốc lá và bia - bia nội địa, bia ngoại quốc- có đủ. Nhậu và hút là hai cái mốt bình dân thời thượng nhứt ở Sài Gòn. Đảng viên, cán bộ - giai cấp thống trị - nhậu. Già nhậu, trẻ nhậu… con nít cũng tập tành nhậu. Hút thì khỏi nói. Giai cấp cán bộ răng đen mã tấu bây giờ là giai cấp nắm thống trị - đã lột xác - không còn quấn thuốc rê, bập bập phà khói mịt mù nữa - mà lúc nào cũng lấp ló một gói ba con số 5, Craven A, trong túi. Lãnh đạo hút, cán bộ hút, dân chúng hút - thậm chí con nít chín, mười tuổi ở đồng quê cũng phì phà điếu thuốc một cách khoái trá. Các hãng bia và thuốc lá ngoại quốc đã tìm được một thị trường tiêu thụ béo bở. Cán bộ lớn cũng âu phục cà vạt hẳn hoi, xe hơi bóng loáng. nhưng bộ răng hô, mái tóc bạc thếch, và nước da mốc mốc, cũng không dấu được nét thô kệch của một anh nhà quê lên Tỉnh.

Tôi còn thấy Sài Gòn với hiện tượng “tiếm công vi tư” lộng hành, ngang ngược của công an đến độ dân chúng quen thuộc, xem là một chuyện đương nhiên như chuyện hối lộ đã trở thành cái lệ bất thành văn trong chế độ xã nghĩa. Chiếm đoạt một nửa công viên, xây nhà gạch dùng làm quán cà phê. Chưa thỏa mãn - ban đêm còn dọn thêm bàn ghế trên sân cỏ của phần công viên còn lại và thắp đèn màu trên mấy chậu kiểng cho thêm thơ mộng. Ông chủ bự nầy chắc chắc không phải là dân thường. Ông lớn nầy xem công viên như đất nhà của ông vậy. Ai có dịp đi ngang qua mũi tàu - nơi gặp gở của hai con đường Nguyễn Trải và Lê Lai cũ, ngang hông nhà thờ Huyện Sĩ - thì rõ.            

Còn nhiều, rất nhiều chuyện lộng hành chiếm đất công, lấn lề đường nhan nhãn ở khắp Sài Gòn. Chỉ đưa ra vài thí dụ cụ thể: Một công thự tại vườn Tao Đàn (có lẽ là nhà cấp cho viên giám đốc công viên Tao Đàn) - mặt tiền ngó vào trong - mặt hậu nhìn ra phía đường Nguyễn Du (Taberd cũ) - bèn có màn trổ cửa mặt sau nhà, xây thêm phía sau thành hai căn phố thương mãi mặt tiền ngó ra đường Nguyễn Du, trị giá mỗi căn, nhiều trăm ngàn mỹ kim - ngon ơ! Tương tự như vậy - ở góc đường Thành Thái và Cộng Hòa cũ, trước sân nhà của ông hiệu trưởng trường Quốc gia sư phạm trước 75 - phố thương mãi, quán xá la liệt chiếm mất mặt tiền. Ngang ngược và lộng hành nhứt là hai căn phố thương mãi bên hông trường Trương Minh Ký, đường Trần Hưng Đạo, chễm chệ xây lên ngay bên góc phải sân trường như thách đố dân chúng. Còn trên lề đường khá rộng trước câu lạc bộ CSS cũ, bây giờ là câu lạc bộ Lao Động - nhiều gian hàng thương mãi bán quần áo, giày vớ thể thao, buôn bán ầm ĩ, náo nhiệt suốt ngày. 

Công an chiếm đất công, xây nhà tư. Công viên, lề đường trước nhà dân là đất riêng của Công An. Công an sử dụng làm chỗ gửi xe, bịt kín cả lối đi vào nhà. Không ai dám hó hé. Im lặng là an toàn. Thưa gửi là dại dột. Mà thưa với ai? Tất nhiên là phải thưa với công an. Không lẽ công an xử công an?

Nón cối, nón tai bèo, dép râu, áo chemise xùng xình bỏ ngoài chiếc quần màu cứt ngựa của người cán bộ Việt cộng ngơ ngác khi mới vào Sài Gòn - đã biến mất.

Cũng không còn thấy những chiếc áo dài tha thướt của những cô gái đi dạo phố ngày cuối tuần trên các đại lộ Lê Lợi, Lê Thánh Tôn, Tự Do... những ngày trước 75 nữa. Thay vào đó là một đội ngũ phụ nữ - mũi và miệng bịt kín bằng “khẩu trang”, găng tay dài đến cùi chỏ, cỡi xe gắn máy Honda chạy như bay trên đường phố. 
  
Tôi còn thấy những người nghèo khổ chở trên chiếc xe thồ, những thùng carton và bao túi ny long, chồng chất lên nhau cao ngất như sắp đổ xuống… những bà cụ già, những cậu bé tuổi đáng được ngồi ở ghế nhà trường, những anh phế binh cụt tay, cụt chưn, lê lết trên một miếng ván gổ… đi bán vé số (một cách ăn xin trá hình).

Bộ mặt Sài Gòn “đổi mới” bằng những khách sạn lộng lẫy, những câu lạc bộ thời thượng, những phố xá thương mãi sang trọng, những hiệu kim hoàn lóng lánh kim cương, những nhà hàng ăn rộng lớn, những vũ trường cực kỳ tráng lệ, những biệt thự đồ sộ nguy nga mới xây bằng vật liệu ngoại đắt tiền. trang trí cây cảnh như một mảng vườn thượng uyển của vua chúa ngày xưa, những xe hơi bóng loáng nhởn nhơ trên đường phố - nhiều người chóa mắt. choáng váng, cho là “Việt Nam bây giờ tiến bộ quá”. Riêng Phó Thường Dân tôi tự nghĩ: Như vậy có phải là tiến bộ không? Sự tiến bộ của một nước cần phải nhìn về nhiều mặt: Mặt y tế và giáo dục, mặt đời sống vật chất và tinh thần của dân chúng. Lợi tức đầu người của Việt Nam - theo thống kê của báo The Economist - bằng: 555 US$ năm 2007 (Hà Nội bốc lên 730 US $) chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh. So với các nước láng giềng:

- Thái Lan: 2.550 US$

- Phi luật Tân: 1.040 US$

- Nam Dương: 1.160.US$.

Tân Gia Ba 24.840 US$.

(The Economist World, năm 2007 - p. 158, 176, 238)

- Việt Nam còn lẹt đẹt đàng sau rất xa.

Và trước bộ mặt thay đổi choáng ngợp nầy - nếu đặt câu hỏi: Ai là chủ nhân của những xe hơi, khách sạn - vũ trường, những thương hiệu lớn, những biệt thự lộng lẫy kia?
- Thì câu trả lời không sợ sai lầm là của cán bộ đảng viên (tại chức hoặc giải ngủ) hoặc con cháu thân nhân của họ.
Và ở thôn quê:

- Giai cấp giàu có bây giờ là ai?
- Giai cấp địa chủ là ai?
- Có phải do của cải của ông cha để lại hay do sự kinh doanh tự do, mua bán làm ăn mà có?

HIỆN TƯỢNG NGƯỜI BẮC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CHIẾM HỮU TOÀN BỘ PHỐ XÁ THƯƠNG MẠI QUAN TRỌNG Ở SÀI GÒN - KHỐNG CHẾ MỌI LÃNH VỰC TRỌNG YẾU Ở MIỀN NAM.

Cho dù núp dưới cái hào quang chiến thắng “đánh Tây, đuổi Mỹ” - cho dù che giấu, lấp liếm, giải thích thế nào chăng nữa - thì dân miền Nam (gồm cả Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) vẫn thấy một sự thật. Sự thật đó là người Bắc XHCN tràn ngập, chiếm hữu toàn bộ phố xá thương mãi trọng yếu của Sài Gòn. Làm sao nói khác được khi đi một vòng quanh Sài Gòn và các khu phố sầm uất nhứt, vào những hiệu buôn lớn để mua hàng hay hỏi han chuyện trò thì thấy toàn là người Bắc Cộng Sản - từ cô bán hàng đến bà chủ ngồi phía trong - cũng toàn là người của xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Các tiệm buôn lớn trước 75 - như các tiệm vàng Nguyễn Thế Tài, Nguyễn Thế Năng, Pharmacie Trang Hai, tiệm Émile Bodin của bầu Yên, nhà hàng Bồng Lai, Thanh Thế, Nguyễn Văn Đắc, Phạm Thị Trước. Hiện nay, một số đã đổi bảng hiệu hoặc xây cất lại. nhưng đều do người miền Bắc XHCN làm chủ. Các cơ sở khác như nhà hàng ăn lớn, tiệm phở, công ty thương nghiệp, dịch vụ lớn, những tiệm buôn bán đồ nhập cảng v. v... cũng đều do người Bắc XHCN chiếm giữ. Tuy không có con số thống kê chính xác nhưng tự mình đi đếm hàng trăm tiệm buôn sang trọng quanh các khu phố lớn ở Sài Gòn thì khám phá ra được chủ nhân là người Bắc XHCN (Tất nhiên là vợ con, thân nhân cán bộ lớn). Những gái Bắc XHCN bán hàng là con cháu của chủ nhân người Bắc Cộng Sản (do các cô tự nói ra). Các cô chiêu đãi viên trên phi cơ Việt Nam Hàng Không đều là người Bắc thân nhân hay con cháu cán bộ - dĩ nhiên - vẻ mặt lạnh lùng, hách dịch với người Việt Nam và khúm núm lịch sự với khách ngoại quốc. Cán bộ, công nhân viên trọng yếu - cũng đều là người Bắc - trừ một số cán bộ gốc miền Nam tập kết - theo đoàn quân viễn chinh vào đánh chiếm miền Nam - thì cũng kể họ là người XHCN miền Bắc

Hệ thống quyền lực từ trên đến dưới - từ trung ương đến địa phương - từ tỉnh thành đến quận lỵ, thị trấn, làng xã gần - đều do đảng viên người miền Bắc XHCN - nắm giữ. Những công ty dịch vụ có tầm cỡ, những công ty thương mãi sản xuất lớn - điển hình là một công ty vận tải và du lịch có đến 6000 xe hơi đủ loại, chủ nhân cũng là người Bắc XHCN. Từ chính trị đến văn hóa, từ giáo dục đến truyền thông, từ nhà cầm quyền cai trị đến chủ nhân cơ sở thương mãi, sản xuất - cũng do người miền Bắc XHCN nắm giữ. 

Đó là sự thật trước mắt ai cũng thấy. Còn những vàng bạc, kim cương, đô la, tài sản tịch thu, chiếm đoạt được trong các cuộc đánh tư sản, cải tạo công thương nghiệp - nhà cửa của tù cải tạo, của dân bị đuổi đi kinh tế mới, những tấn vàng của VNCH để lại, những luợng vàng thu được từ những người vuợt biên bán chánh thức - tài sản những người thuộc diện tư sản - toàn bộ tài sản nầy từ Saigòn đến các Tỉnh miền Trung, miền Nam - được đem đi đâu?
 - Không ai biết.

Thông thường - những của cải nầy phải được sung vào công quỷ - để làm việc công ích như các ông cộng sản thường rêu rao bằng những mỹ từ đẹp đẽ. Thế nhưng - sự thật trước nhứt - là các ông đem chia chác nhau. Chia nhau một cách hợp hiến và hợp pháp theo luật pháp XHCN (Đọc Đất Đai - Nguồn Sống và Hiểm Họa của Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Giang). Ông lớn lấy tài sản lớn. Ông nhỏ - nhà cửa nhỏ. Có ông cán bộ trung cấp chiếm hữu đến 4, 5 căn nhà. Ở không hết… đem cho công ty ngoại quốc thuê. Điều phổ biến nhứt là các ông cán bộ nầy - vì lo sợ cái gì đó - bèn đem “ bán non” những căn nhà đó lấy tiền bỏ túi trước. Một căn nhà của một viên chức tù cải tạo đã sang tay đến ba đời chủ. Nhà cửa thuộc diện tù cải tạo là dứt khoát phải tịch thu - không ngoại lệ. Những trường hợp con ruột có hộ khẩu (sổ gia đình) chánh thức còn được phép ở lại - là những biện pháp vá víu. Chủ quyền căn nhà nầy là Nhà nước XHCN.   

Không chỉ có những người thuộc diện cải tạo công thương nghiệp, tù cải tạo, vượt biên mà người dân thường có nhà cửa phố xá đều bị “ giải phóng” ra khỏi nhà bằng nhiều chánh sách: Đuổi đi kinh tế mới, dụ vào hợp tác xã tiểu công nghiệp, mượn nhà làm trụ sở, cho cán bộ vào ở chung (chủ nhà chịu không nổi… phải bỏ đi), đổi tiền để vô sản hóa người dân, khiến họ bắt buộc phải bán tất cả những gì có thể bán để mua gạo ăn, cuối cùng chịu không nổi, phải bán nhà với giá rẻ bỏ, để vô hẻm ở, ra ngoại ô hoặc về quê… Cán bộ hoặc thân nhân cán bộ miền Bắc XHCN tràn vào “mua” nhà Sài Gòn với giá gần như cho không… và bây giờ là chủ những căn nhà mặt tiền ở Sài Gòn.

Mang xe tăng T. 54, cà nông Liên xô, AK Trung cộng, đẩy hàng hàng lớp lớp thiếu niên “xẻ dọc Trường Sơn” bằng máu, nước mắt và xác chết… vào xâm chiếm miền Nam. Chiêu bài là “giải phóng” nhân dân miền Nam - nhưng sự thật khó chối cãi được - là vào để chiếm đoạt tài sản, đất đai, của cải, đuổi dân Sài Gòn (gồm cả người Nam lẫn Bắc theo chế độ Tự Do) ra khỏi Thủ Đô bằng nhiều chánh sách khác nhau - để bây giờ chính các ông đã trở thành những nhà tư bản đỏ triệu phú, tỉ phú đô la, vàng bạc kim cương đầy túi - những ông chủ công Ty có tầm vóc, những địa chủ đầy quyền lực. Trương mục ở nước ngoài đầy nhóc đô la. Con cái du học ngoại quốc. (Trường hợp con Thủ Tướng Việt cộng Nguyễn tấn Dũng đang du học Mỹ là trường hợp điển hình). Như vậy hành vi nầy gọi là gì? Trong những lúc canh tàn rượu tỉnh - một mình đối diện với lương tâm thuần lương của mình - các ông tự gọi mình đi. 

Đến thời “mở cửa” - cơ hội hốt tiền còn nhiều hơn gấp bội. Tư bản ngoại quốc ồ ạt đầu tư, khai thác dầu khí, thâu đô la Việt kiều về thăm quê hương - đô la khách du lịch ngoại quốc, bán đất cho công ty ngoại quốc xây cất cơ xưởng, cấp giấy phép các công ty ngoại quốc, các dịch vụ đấu thầu xây cất cầu cống, làm đuờng xá, xây cất đại công tác. Những món nợ kếch xù từ Ngân hàng thế giới, từ quỷ tiền tệ quốc tế - những món nợ trả đến mấy đời con cháu cũng chưa dứt. Những đại công tác nầy mặc sức mà ăn, no bóc ké. Nhiều công trình vừa xây cất xong đã muốn sụp xuống vì nạn ăn bớt vật liệu, một thí dụ điển hình: Một bệnh viện gần chợ “cua” Long Hồ - quê hương của Phạm Hùng - nước vôi còn chưa ráo đã muốn sụp. Hiện đóng cửa không sử dụng được.

Hiện tượng người Bắc XHCN khống chế toàn bộ, làm chủ nhân ông mọi lãnh vực, chiếm hữu nhà cửa, phố xá thương mãi ở những khu thương mãi quan trọng nhứt - là một sự thật không thể chối bỏ. Cán bộ lớn đã trở thành những nhà tài phiệt đầy quyền lực - những ông chủ lớn giàu có nhứt lịch sử. Trong khi dân chúng miền quê - nhứt là miền Nam - ngày càng nghèo khổ, thất nghiệp kinh niên. Khoảng cách giàu nghèo càng lớn - đời sống cán bộ và dân chúng càng ngày cách biệt. Giàu thì giàu quá sức. Nghèo thì nghèo cùng cực.

Nhà văn - bác sĩ Hoàng Chính - gọi thời kỳ sau 75 là thời “Bắc thuộc”:

- "Năm Bắc thuộc thứ 2: Lưu vong tại quê nhà trong cái đói lạnh.  
- Năm Bắc thuộc thứ 6: Cầu cho em nhỏ 10 tuổi đầu đủ cơm ăn giữa bầy thú hát điên cuồng chuyện thù oán. 
- Năm Bắc thuộc thứ 12: Trong ngục thất quê hương ấy, có những bộ xương thôi tập khóc cười."

Miền Bắc XHCN đem quân xâm chiếm miền Nam để khống chế nơi đó bằng sự đô hộ hà khắc và tinh vi.

BÔ MẶT THÔN QUÊ MIỀN NAM

Có nhìn tận mắt, nghe tận nơi, mới hình dung được khuôn mặt miền Nam sau 32 năm dưới chế độ cộng sản. Để được trung thực - người viết ghi những điều thấy và nghe - không bình luận - tại những nơi đã đi qua. Thôn quê miền Nam - những làng xóm gần tỉnh lỵ quận lỵ đã có điện. Những làng xã xa xôi hẻo lánh vẫn còn sống trong sự tăm tối. Đường sá có tu sửa phần nào. Đường mòn đi sâu vào thôn xóm được lót bằng những tấm dalle lớn (đường xóm Cái Nứa, Cái Chuối xã Long Mỹ, Vĩnh Long), xe Honda và xe đạp chạy qua được. “Cầu tre lắt lẻo”, cầu khỉ được thay thế bằng cầu ván, cầu đúc (vật liệu nhẹ). Cầu tiêu công cộng trên sông các chợ quận (Cái Bè, Cái Răng) nay không còn thấy nữa.

Nhà cửa dọc theo bờ sông Cần Thơ - chen vào những nhà gạch ngói, nhà tôn - còn nhiều nhà lá nghèo nàn. Tương tự như vậy - dọc theo bờ sông Long Hồ - một số nhà gạch nhỏ mới cất. xen kẽ những mái lá bạc màu. Vùng Trà Ốp, Trà Cú (Vĩnh Bình), chợ Thầy Phó (Vĩnh Long) nhiều nhà gạch mới xây nhưng vẫn không thiếu nhà lá, nhà tôn. Đường mòn chạy sâu vào thôn xóm vẫn còn đường đất lầy lội vào mùa mưa nước nổi.

Hai bên đường xe chạy từ Mỹ Tho, Cao Lãnh, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá, Cần Thơ. Nhìn chung - có một sự thay đổi rõ rệt. Nhà cửa, hàng quán dầy đặc, động cơ ồn ào, người ta chen chúc. Cảm giác chung là ngột ngạt, khó thở. Những vườn cây xanh um bên đường đã biến mất hoặc thụt sâu vào trong, không còn thấy nữa. Không còn vẻ đẹp thiên nhiên ngày nào của vườn xoài cát sai oằn, mát mắt vùng Cái Bè, An Hữu, vườn mận Hồng Đào chạy dài hàng mấy cây số ở Trung Lương.

Dưới sông - từ kinh Vĩnh Tế chảy dài ra sông Tiền Giang - hai bên bờ toàn là nhà sàn, phía sau chống đỡ sơ sài bằng những trụ cây tràm. Mỗi nhà hoặc hai, ba nhà đều có cầu tiêu tiểu bắc phía sau. Tắm rửa giặt giũ, múc nước lên uống, phóng uế - cũng cùng trên một dòng sông, không có gì thay đổi. Làng Chàm còn gọi là chà Châu Giang cũng còn đó, cũng nghèo như trước. Những chiếc ghe vừa dùng làm nhà ở, vừa là hồ nuôi cá Basa, cá diêu hồng v .v.. ở dọc bờ sông khá dài... Dường như ngành nầy hoạt động khá mạnh. Dọc trên những nhánh phụ lưu của hai con sông Tiền và sông Hậu - người ta không còn thấy bóng dáng của những cô gái thướt tha trong chiếc áo bà ba và chiếc quần lãnh Mỹ A, chèo ghe tam bản, bơi xuồng như thời trước 75 nữa... Hỏi một ông già tên Ph. tại Cái Răng, được trả lời:

- “Ừ. Ði lấy Ðại Hàn, Ðài Loan hết rồi ông ơi!”

Tôi hỏi thêm:

- “Các cô gái có nghe nhiều người bị gạt bán vào ổ mãi dâm, nhiều cô gái bị chồng bắt làm lao động khổ sai, bị ngược đãi, đánh đập... các cô gái nầy không sợ sao ông?

- “Ừ... Biết hết - mấy cổ biết hết, báo Tuổi Trẻ đăng hàng ngày. Nhưng cũng có những cô có chồng Ðại Hàn, cho tiền cha mẹ xây nhà gạch. Cô khác thấy vậy ham. Phần nghèo, phần không có việc làm kinh niên. Họ liều đó ông. Biết đâu gặp may.”

Câu chuyện gái Việt lấy chồng Ðại Hàn, Ðài Loan hiện không ai là không biết.

Tờ Tuổi Trẻ - số ra ngày Mùng Một Tết năm Ðinh Hợi - trong bài: “Nỗi Đau Từ Những Con Số” - có nói đến số phận của 65,000 phụ nữ đang làm vợ những ông chồng Ðài Loan già, tàn tật đui mù, làm vợ tập thể cho cả gia đình cha lẫn con. Cũng do tờ báo nầy: “Tại một tổ chức kết hôn lậu, hàng chục cô gái đang 'bày hàng' để hai ông Hàn quốc tuyển chọn làm vợ và 118 cô gái khác đang nằm, ngồi, lố nhố chờ đến lượt mình” Và cũng do tờ Tuổi Trẻ số phát hành ngày 25-04-2007, viết: “Hơn 60 cô gái, tuổi từ 18 đến 20 từ miền Tây Nam bộ lên Sài Gòn để dự tuyển. Các chàng rể Hàn Quốc được quyền soi xem kỹ, chú ý đến cả từng vết thẹo trên thân thể cô gái. Dịch vụ môi giới hôn nhân lậu có chiều hướng gia tăng. Chỉ trong vòng nửa tháng mà Công An đã phát giác ba vụ môi giới hôn nhân trái phép ở quận 6, 10 và Tân Bình với gần 400 lượt cô gái hiện diện. Thậm chí - những cô gái được xe ôm chở tới địa điểm dồn dập gây náo loạn cả xóm”.

Người viết có lần lang thang trên đường Nguyễn Tri Phương tìm quán ăn cơm trưa, có chứng kiến tại chỗ: Từng cặp trai gái lố nhố xếp hàng đôi trước cửa một trường học, để lần lượt vào trong. Hỏi một người trung niên lái xe Honda ôm, được anh trả lời: “Ðó là những người con gái đi lấy chồng Ðài Loan và Ðại Hàn. Hàng bên trong là những đang làm thủ tục xuất ngoại theo chồng. Hàng bên ngoài là những người đang vào ký giấy hôn thú sau khi đã qua các cửa ải môi giới và thủ tục tuyển lựa”. Tôi nhìn kỹ các cô gái nầy tuổi rất trẻ... khoảng chừng 18 đến 20... Không thấy có thanh niên trẻ. Nhìn cách ăn mặc và nghe họ nói chuyện - tôi đoán chừng họ đến từ miền Tây Nam Bộ. Ðây là tổ chức môi giới chánh thức có giấy phép hành nghề.

Song song với tổ chức chánh thức, còn có một tổ chức “môi giới hôn nhân lậu”- sự thật là một tổ chức buôn người, chuyên đi dụ dỗ trẻ em và gái, nói gạt là đi bán hàng hay đi làm việc tại các cơ xưởng ngoại quốc nhưng là để bán thẳng vào các ổ mãi dâm ở Kampuchia, Thái Lan, Ma Cau... để nơi đây huấn luyện trẻ em làm nô lệ tình dục... các cô gái làm điếm... hoặc bán cho người Tàu bỏ tiền ra mua nô lệ... Tất nhiên là phải có sự tiếp tay che chở ăn chia của công an, nhan nhản xảy ra hằng tuần - thậm chí hằng ngày trước mặt dân chúng tại các quận Bình Thạnh, quận 11... Sài Gòn.

Cho dù chánh thức hay lậu... hậu quả cũng gần giống nhau. Chánh thức thì có giấy phép, có công an làm thủ tục, chánh phủ thu tiền lệ phí. Lậu thì lén lút với sự che chở của công an. Hậu quả gần giống nhau.
Cựu Quốc Trưởng Sihanouk không giấu được nỗi xót xa trước thảm cảnh người phụ nữ Miên làm vợ mấy thằng Tàu... lên tiếng kêu gọi họ trở về nước.

Không thấy Việt Nam nói nửa lời! Cha mẹ có đồng ý hay cản trở? Nguyên nhân nào đã thúc đẩy họ dấn thân vào con đường hiểm nguy, tương lai mù mịt?

Trừ những trường hợp bị dụ dỗ qua đường dây buôn người - những người con gái này thật sự là họ TỰ NGUYỆN. Họ còn phải vay tiền mua sắm, ăn diện, hối lộ để được giới thiệu. Nhưng nguyên nhân nào thúc đẩy họ đi lấy chồng Ðài Loan, Ðại Hàn?

Có thể có nhiều nguyên nhân phức tạp. Phó Thường Dân tôi chỉ đưa ra vài nhận định thiển cận như sau: Quá nhiều chương trình ngăn chống lũ lụt, chương trình công nghiệp hóa, đô thị hóa... bừa bãi, không được nghiên cứu cẩn trọng... đất đai canh tác bị thu hẹp. Dân số gia tăng... Khối lượng đông đảo người miền Trung, Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa tràn vào... Nông dân miền Nam thiếu đất canh tác... Các cô gái miền Tây... quẫn bách vì không có việc làm kinh niên - cuộc sống vô vọng mịt mờ - có nhiều trường hợp bị thúc đẩy vì cha mẹ mắng nhiếc, đay nghiến... khi so sánh con gái mình với cô con gái làng bên có chồng Ðại Hàn mang tiền về xây nhà gạch cho cha mẹ. Và cũng vì hấp thụ một nền giáo dục của chế độ cộng sản (sinh sau 75) - những người trẻ tuổi không có ý niệm về luân lý đạo đức cũ... thang giá trị bị đảo lộn... nên họ không đặt nặng danh dự, sĩ diện như thời trước... Do vậy - khi bị dồn vào đường cùng... họ đành đánh liều nhắm mắt đưa chưn... Nhưng động lực chánh là nghèo...

NGHÈO…

Là nguyên nhân chánh đưa đẩy các cô gái miền Tây Nam Bộ đi lấy chồng Ðại Hàn và Ðài Loan… để hy vọng thoát khỏi cảnh đời cơ cực, vô vọng không lối thoát... Thế nhưng Tại sao đồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL) - vựa lúa nuôi sống cả nước - sau 32 năm dưới chế độ cộng sản lại trở nên nghèo như vậy - nghèo hơn cả đồng bằng sông Hồng (ÐBSH)? Theo tiêu chuẩn nghèo từng vùng của Tổng Cục Thống Kê Việt Nam - thì tỷ lệ Đồng Bằng Sông Cửu Long-

năm 1998:
ÐBSCL: 37%.
ÐBSH: 29%.
Năm 2002:
ÐBSCL: 13 %.
ÐBSH: 9%.
(Nhà xuất bản Thống Kê - Hànội, trang 13 - LVB trích dẫn).
Dù theo tiêu chuẩn nào: tiền tệ (tính bắng tiền hay bằng gạo) - mức sống (bao gồm lương thực, nhà ờ, mức sống văn hóa) - Đồng Bằng Sông Cửu Long vẫn nghèo hơn Đồng Bằng Sông Hồng - bởi lẽ khi nghèo về lương thực - thì khó có thể giàu về nhà ở và đời sống văn hóa.

Ðó là cái nghèo mà anh Lâm Văn Bé đã nhìn qua những con số có giá trị của những chương trình nghiên cứu thống kê khoa học. Và sau đây là cái nghèo miền Nam qua cái nhìn tận mắt, nghe tận nơi của người viết: Cái nghèo ở Việt Nam bao gồm cả thành thị lẫn thôn quê là cái nghèo thiếu trước hụt sau, ăn bữa sáng lo bữa chiều - cái nghèo của một nông dân, nhà dột nát... khi trời mưa lúc ban đêm... không có chỗ để nằm phải tìm một góc nhà, phủ cái mền rách lên người ngồi run cằm cặp... trước từng cơn gió lạnh buốt lùa vào căn nhà trống hốc… Cái nghèo của một người đi mượn tiền, mượn gạo... tới ngày hẹn không tiền trả... Cái nghèo của một thanh niên thất nghiệp... cha bị lao phổi không tiền mua thuốc nằm ho sù sụ... mẹ bơi xuồng đi bán bắp nấu không đủ gạo cho một đàn con bốn đứa, mũi dãi lòng thòng đang bốc đất cát chơi ngoài sân.

Tục ngữ bình dân có câu: Ít ai giàu ba họ, khó ba đời.
- Có. Tôi quen biết ông Sáu S. làm nghề chài lưới... ở sông Long Hồ. Ðời con là anh Tư Te tiếp nối nghề nầy: nghề đi nhủi tép... Và trên bờ sông Long Hồ năm nay (2007) tôi thấy vợ chồng một cậu thanh niên tên M. vừa cặp xuồng vào bến, đem miệng nhủi còn dính đầy rong rêu phơi trên mái nhà lá đã nhuộm màu thời gian bạc thếch... Hỏi thăm thì té ra là con của Tư Te. Ðời ông nội - nghèo! Ðời cha nghèo! Ðời cháu cũng nghèo! Khó ba đời đó. Cộng Sản đổi đời cho người giàu thành nghèo - không đổi đời cho người nghèo thành giàu. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo.

Nói chung thì nông dân Việt Nam chiếm 85% dân số mà đất không đủ để canh tác - còn công nghiệp không có khả năng biến nông dân thành thợ thuyền... trong khi dân số lại gia tăng quá mức. Cho nên thất nghiệp không thể tránh. Nghèo là hiện thực. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh trong một bài phổ biến trên mạng, viết: “Nông dân đã nghèo, đất đã kém đi, nhưng mỗi năm thêm một triệu miệng ăn, lấy đâu ra mà ăn. Lao động vất vả mỗi ngày trên 8m2 đất thì lấy gì mà giàu có được?”

MIỀN NAM - 32 NĂM DƯỚI CHẾ ÐỘ cộng sản

Kinh tế Việt Nam - trong đó có miền Nam - có chút tiến bộ - so từ thời kỳ bao cấp đến thời kỳ mở cửa. Nhưng chỉ là tiến bộ với chính mình. Ðối với các nước khác trong vùng thì còn lẹt đẹt.. cầm lồng đèn đỏ… Và điều quan trọng là sự phát triển nầy có đem lại phúc lợi cho dân chúng qua sự tái phân lợi tức quốc gia, để tài trợ các chương trình y tế, giáo dục - các chương trình tạo công ăn việc làm, phát triển nông nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở hay không? Hay là phát triển bằng những con số báo cáo rỗng tuếch? Lợi tức tạo được đã bị cả hệ thống của những con virus tham nhũng đục nát cơ thể... Và hiện tại - muốn phát triển công nghiệp - nhà cầm quyền địa phương - theo lệnh Ðảng - mở rộng khu công nghiệp, khu du lịch, đã quy hoạch lấy đất, phá mồ phá mả, chiếm nhà dân một cách bạo ngược... Lòng dân phẫn uất, kêu la than khóc... Oán hận ngút trời xanh! (19 tỉnh miền Nam biểu tình khiếu kiện trước trụ sở quốc hội 2 Sài Gòn). Như vậy có gọi là phát triển không?

KẾT LUẬN


32 năm nhìn lại: Người ta thấy


- Miền Bắc đã “giải phóng” dân Sài Gòn ra khỏi đất đai, nhà cửa của họ; dân Sài Gòn phải rút vô hẻm, ra ngoại ô hay về quê bằng nhiều chánh sách khác nhau.

- “Giải phóng” miền Đồng Bằng Sông Cửu Long ra khỏi sự trù phú do thiên nhiên ưu đãi từ nhiều thế kỷ.

- “Giải phóng” quân nhân, viên chức chế độ cũ ra khỏi nhà, để đưa họ vào các trại tù cải tạo hoặc đẩy họ ra biển…”

- Giải phóng” phụ nữ miền Tây, để họ được tự do đi làm “vợ nô lệ”, đi làm điếm ở Kampuchia, Thái Lan...


32 năm nhìn lại:

- Người ta thấy Việt Nam trở lại thời kỳ mua bán nô lệ như thời Trung cổ. Phụ nữ Việt Nam bị bán đấu giá trên E-bay Taiwan website (2003) - bị trưng bày trong lồng kính, cũng để bán đấu giá như một con súc vật ở Singapour (2005). Chỉ trong năm 2005 - có khoảng 400.000 phụ nữ và trẻ em bị bán ra ngoại quốc. (Theo UNI CEF - LHQ và Bộ Tư Pháp Việt Nam)


32 năm nhìn lại:

- Mượn lời nhà báo Claude Allegre, báo L”expresse ngày 29-8-2002----“Người ta không thể cho qua một cách im lặng những Khơ Me Đỏ, những trại tập trung ở Cambodia và những cuộc tàn sát man rợ ở đó. Và Việt Nam không được biết đến như là một chế độ nhân đạo hơn. Dưới cái cớ là dân tộc can đảm nầy đã chiến thắng các siêu cường quốc - người ta đi đến chỗ quên đi một nền độc tài đẫm máu đang thực thi trên xứ sở đó".


32 năm nhìn lại:


- Miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa rõ ràng đã thiết lập một nền đô hộ miền Nam - khắc nghiệt, tinh vi hơn cả thời Pháp thuộc.

Và điều quan trọng trên hết là Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Một đảng viên kỳ cựu của chế độ Cộng Sản lên tiếng cảnh cáo: “Việt Nam đang đứng trước hiểm họa mất nước. Mất cả đất đai, sông núi và dân tộc. Việt Nam sẽ trở thành một tỉnh lẻ của Tàu”.


(Trích Người Việt hải ngoại - Nguyễn Văn Trấn)


PHÓ THƯỜNG DÂN

http://www.bacaytruc.com/

LTS: Nay đã 35 năm, Việt Nam vẫn vậy và sẽ mãi mãi như vậy nếu Việt cộng còn tồn tại.

http://www.lyhuong.net/uc/index.php/bandoc/632-632