ĐÔ-LA NGOẠI SẼ ĐI TỚI ĐÂU?
Nguồn: Blog Trần Đông Chấn
Cuối tháng 6-2008 báo chí đồng loạt đưa tin Việt Nam thu hút hơn 31,6 tỷ đô-la Mỹ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đến giữa tháng 7 con số này được dự báo là sẽ vượt qua mức 40 tỷ vào cuối năm 2008. Nhưng chỉ chưa đầy 2 tuần sau đó số liệu chính thức được công bố đã làm ai cũng phải kinh ngạc: hơn 45 tỷ đô-la Mỹ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được cấp phép trong 7 tháng đầu năm 2008. Cơn sốt tỷ giá USD/VND tạm lắng dịu từ cuối tháng Sáu vừa rồi là nhờ một phần tác động rất lớn của những con số FDI này. Nhà nước thì hồ hởi với những thành quả tột bật, người dân thì hy vọng điều đó sẽ cải thiện đáng kể tình hình u ám đầy bất ổn từ cuối năm 2007 đến giờ.
Tuy nhiên, nếu phân tích một cách có trách nhiệm các con số này thì người ta sẽ phải thực sự lo lắng vì những hệ quả rất đáng lo ngại của nó.
Hãy tạm bỏ qua những khả năng xấu nhất – dùng kinh tế bẫy chính trị – tức là đăng ký thật nhiều để được cấp phép nhưng sẽ thực hiện giải ngân vốn rất ít để đặt Việt Nam vào tình trạng sụp đổ do vỡ nợ. Hãy giả định một tình huống lạc quan nhất mà chính phủ đang trông đợi: nguồn vốn FDI sẽ được thực hiện giải ngân nhanh chóng và ồ ạt trong vòng 3 năm 2008-2010. Theo dự báo mới nhất chưa được công bố rộng rãi của cục Đầu tư nước ngoài, tổng số vốn FDI đăng ký trong năm nay sẽ đạt không dưới 50 tỷ đô-la Mỹ. Số vốn FDI đã được cấp phép trước cuối năm 2007 nhưng chưa thực hiện vẫn còn thời hạn khoảng 40 tỷ nữa, đưa tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên hơn 90 tỷ đô-la Mỹ đang và sẽ rót vào Việt Nam. Để đạt được con số ấn tượng này, chính phủ đã phải ưu đãi “giành” cho các nhà đầu tư nước ngoài những lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn, từ thuế đến đất đai, từ quyền kinh doanh đặc biệt đến cả những bảo hộ ngầm. Ngược lại, những con thú sừng dài này phải cam kết thực hiện giải ngân nhanh chóng theo tiến độ mà chính phủ mong muốn (2008: 10 tỷ USD, 2009: 15 tỷ USD, 2010: 20 tỷ USD).
Những đồng đô-la ngoại này sẽ làm chuyển biến và tác động như thế nào đến các khía cạnh kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước là điều đòi hỏi sự quan tâm của không chỉ nhà nước mà cả đông đảo các thành phần xã hội.
Tỷ trọng nền kinh tế
Dù được mọi ưu đãi và tập trung hỗ trợ của nhà nước nhưng sau 20 năm kể từ lúc có luật đầu tư nước ngoài 1988, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chỉ mới chiếm tỷ trọng hơn 17% tổng sản phẩm trong nước (GDP) vào cuối năm 2007 như số liệu của tổng cục Thống kê công bố:
Trong khi đó, thành phần kinh tế tư nhân (ngoài nhà nước) chỉ mới được công nhận chính thức từ đầu năm 1991 bởi luật doanh nghiệp tư nhân 1990, và chỉ thực sự có được một môi trường pháp lý tương đối tốt từ đầu năm 2000 bởi luật doanh nghiệp 1999. Thành phần này không nhận đầu tư gì từ ngân sách hay hưởng những đặc quyền kinh doanh và bảo hộ đặc biệt từ nhà nước, cũng là thành phần bị nhũng nhiễu nhiều nhất bởi tệ quan liêu hành chính và tham nhũng nhưng đã vươn lên dẫn đầu tỷ trọng GDP từ đầu thập niên 1990. Đến cuối năm 2007 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp đến hơn 46% tổng sản phẩm trong nước (GDP), bỏ xa 36,8% của khu vực kinh tế nhà nước vốn chiếm gần trọn ngân sách đầu tư quốc gia và hơn 70% lượng vốn cho vay của các ngân hàng huy động được từ người dân, cùng với 100% vốn vay của nước ngoài do chính phủ bảo lãnh. Tổng cộng trong 3 năm từ 2005 đến 2007, khu vực kinh tế nhà nước đầu tư đến hơn 546 ngàn tỷ đồng, chiếm hơn 45% tổng giá trị đầu tư phát triển toàn xã hội:
Tuy nhiên, cấu trúc tỷ trọng này sẽ thay đổi đột biến từ năm nay khi dòng đô-la ngoại rót vào ồ ạt để đầu tư phát triển cho khu vực kinh tế nước ngoài tại Việt Nam. Trong cùng lúc đó thì khu vực kinh tế tư nhân bị chính sách thắt chặt tiền tệ - nâng lãi suất để chống lạm phát - trói cứng, vốn để duy trì mức cũ còn khó nói gì đến đầu tư mở rộng. Khu vực kinh tế nhà nước thì phải cắt giảm đầu tư công, nhưng dù sao nguồn vốn đầu tư cho nó vẫn khá dồi dào. Theo tài liệu “Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009” của bộ Kế hoạch Đầu tư gửi các bộ ngành, địa phương vào cuối tháng 6-2008 vừa rồi thì tổng giá trị đầu tư công trong năm 2008 dự kiến đạt 238 ngàn tỷ đồng[1] (tăng 19% so với 200 ngàn tỷ năm 2007), năm 2009 sẽ đạt 295 ngàn tỷ đồng[2]; đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân (ngoài quốc doanh) được dự báo đạt mức 190 ngàn và 235 ngàn tỷ đồng tương ứng cho 2008 và 2009, đây quả thật là một con số quá lạc quan so với 187 nghìn tỷ đồng trong năm 2007. Tiếp tục lạc quan để đưa ra số dự báo trị giá đầu tư phát triển trong năm 2010 của 2 khu vực kinh tế trong nước này sẽ tăng 20% so với số dự kiến của 2009[3].
Những giả định lạc quan
Tỷ trọng đầu tư này sẽ dịch chuyển tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế như thế nào? Để có đủ thông số để tính toán, chúng ta lại giả định những con số lạc quan nhất trong tình hình hiện nay: chỉ số giá tiêu dùng CPI trung bình 2008 tăng 25% so với 2007, 2009 tăng 15% so với 2008, 2010 tăng 9% so với 2009; chính phủ sẽ kiềm được tỷ giá VND/USD ở mức bình quân là 16.700 cho cả năm 2008, 17.200 cho 2009 và 17.700 cho 2010. Dùng chỉ số hiệu quả sử dụng vốn ICOR[4] (bằng mức thay đổi tổng giá trị đầu tư chia cho mức thay đổi tổng giá trị sản lượng GDP được qui về giá so sánh với 1994 theo chuẩn của tổng cục Thống Kê) cho từng thành phần kinh tế, có thể tính ra kết quả:
Tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế nước ngoài bứt phá từ 17% trong năm 2007 lên 30% trong 2008; đến 2009 thì vươn lên dẫn đầu với 35%, nhỉnh hơn thành phần kinh tế tư nhân trong nước một chút. Nhưng nó sẽ khống chế hoàn toàn với tỷ trọng 37.5% GDP, bỏ xa hai thành phần kinh tế trong nước vào năm 2010. Một đất nước mà ngoại lực kiểm soát đến 30% nền kinh tế thì chủ quyền của người dân nước đó sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.
Ở Việt Nam ta, khi mới đạt tỷ trọng có 15% - 17% GDP mà thành phần kinh tế nước ngoài đã tạo sức ảnh hưởng rất lớn, chi phối thao túng đến hầu hết các chính sách vĩ mô thì sức mạnh của lực lượng này sẽ đến mức nào một khi nó chiếm tỷ trọng khống chế của cả nền kinh tế. Tỷ trọng này sẽ còn lớn hơn nhiều nếu tính cả tác động của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Chưa có số liệu thống kê nào cho biết hiện nay có bao nhiêu phần trăm tỷ lệ vốn của các doanh nghiệp trong nước (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) được sở hữu bởi các tổ chức nước ngoài. Nhưng với nguồn vốn khổng lồ tích lũy được sau chiến dịch đầu cơ vào thị trường chứng khoán Việt Nam quá thành công của bầy thú sừng ngắn vừa rồi, cộng với việc chính phủ vừa cho phép chuyển nhượng các dự án đầu tư bất động sản cho nước ngoài, và hiệp định đầu tư song phương Việt-Mỹ sắp ký kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ và đảm bảo cho hoạt động này, chưa kể tình trạng thiếu vốn do lãi suất cao buộc các doanh nghiệp tư nhân phải tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư gián tiếp này thì không ai có thể nghĩ cái tỷ lệ này sẽ dưới 25% trong một hai năm tới.
Đầu tư trực tiếp sẽ kiểm soát 37,5% GDP, đầu tư gián tiếp sẽ kiểm soát 25% của 62,5% còn lại, tương đương với 15,6% GDP. Tổng cộng thành phần kinh tế nước ngoài sẽ chiếm trên 53% của cả nền kinh tế. Thật khó mà không choáng váng khi nghĩ đến một con số như vậy. Nên nhớ rằng các con số này được tính toán dựa trên những giả định lạc quan nhất, chưa tính đến các tác động tự nhiên và cả những tác động bằng sức mạnh có chủ đích của các thực thể tham gia vào quá trình kinh tế làm biến đổi nhanh chóng các yếu tố kinh tế. Xem xét các tác động này theo đúng qui luật vận hành thì sẽ thấy rằng những mong muốn lạc quan này là không có cơ sở.
Lạm phát và nhập siêu
Báo chí trong nước đang lạc quan về những dấu hiệu giảm dần của tốc độ lạm phát và nhập siêu trong tháng Sáu và tháng Bảy vừa qua. Điều này chẳng khác gì việc chườm đá cho con bệnh đang bị sốt. Nguồn gốc căn bản của lạm phát và nhập siêu chưa bao giờ được thừa nhận để áp dụng những giải pháp đúng phù hợp. Thay vào đó là những mệnh lệnh hành chính áp đặt chủ quan lên quá trình vận hành nhằm kiềm nén, che dấu những triệu chứng biểu hiện ra ngoài của căn bệnh đang ngày một trầm trọng hơn.
Nhập siêu là một nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát. Trước hết nó tác động làm giảm giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ, sự suy giảm này sẽ làm gia tăng chi phí nhập khẩu. Nếu nhu cầu nhập khẩu phải giữ nguyên khối lượng để đáp ứng nhu cầu nội địa thì giá cả trong nước sẽ tăng vọt và tiếp tục làm tăng cao mức nhập siêu. Cái vòng xoáy lẩn quẩn ấy chỉ chấm dứt khi nào nhu cầu tiêu dùng nội địa bị cắt giảm đáng kể. Trong tình hình hiện nay của Việt Nam, sự cắt giảm nhu cầu này sẽ dẫn đến suy thoái và khủng hoảng, nhấn chìm cả nền kinh tế và gây rối loạn xã hội. Với trên 99% dân số thuộc thành phần nghèo, bình dân và trung lưu thì mức chi tiêu hiện nay của họ đa phần là cầu tự định (thuật ngữ kinh tế học để chỉ mức cầu căn bản tối thiểu mà người ta muốn sử dụng ngay cả khi không có thu nhập). Đang cố gắng thoát nghèo như Việt Nam ta thì mức cầu như vậy là chính đáng và cần được thúc đẩy. Nếu nó bị kéo thấp xuống thì trung lưu sẽ trở thành bình dân, bình dân trở thành nghèo, nghèo trở thành đói. Thành quả tăng trưởng của nhiều năm có thể bị xóa sạch.
Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 của bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết: “tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội cả năm 2008 dự kiến đạt khoảng 925 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 27,4% so với năm 2007”. Con số tăng trưởng 27,4% này tương đương với mức lạm phát, có nghĩa rằng người dân phải trả một cái giá cao hơn 27,4% cho cùng một khối lượng hàng hóa và dịch vụ sử dụng trong năm 2007. Như vậy mức tiêu dùng nội địa không tăng trong khi mỗi năm dân số tăng thêm cỡ một triệu người, tính trên đầu người là giảm sút. Xu thế này tiếp tục thêm một năm nữa thì những rối loạn xã hội sẽ xảy ra.
Một quốc gia xây dựng chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu mà không đạt được tình trạng xuất siêu ở mức cao để tạo dự trữ lớn và thặng dư đủ cho tiêu dùng nội địa thì sẽ rước vào mình những nguy cơ chờ sẵn. Chúng sẽ bùng phát khi thị trường các nước nhập khẩu bị sụt giảm và thị trường toàn cầu bị biến động. Dựa vào xuất khẩu mà lại nhập siêu là “cái chết được báo trước”. Việt Nam theo đuổi chiến lược này nhiều năm qua nhưng chưa bao giờ có được xuất siêu, thay vào đó nhập siêu liên tục, năm sau cao hơn năm trước. Các chính sách vĩ mô hướng ngoại của Việt Nam đã không mang lại đến quả mong muốn. Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu được chú trọng thúc đẩy nhưng lại tạo ra giá trị gia tăng quá thấp nên phần thu nhập còn ở lại trong nước không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng nội địa ngày một tăng.
Trong khi đó chiến lược khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu lại được thực hiện bằng việc bảo hộ bởi các rào cản hành chính là thuế và giấy phép. Sự bảo hộ này lại chỉ dành cho thành phần kinh tế nhà nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp được bảo hộ lại khai thác lợi thế đó để bán giá cao cho người tiêu dùng trong nước. Nhà nước giảm nguồn thu thuế, người dân bị giảm sức mua, tất cả lợi ích này chạy hết vào túi các doanh nghiệp được bảo hộ và các quan chức làm nhiệm vụ bảo hộ. Điều trớ trêu là lợi ích càng cao thì khả năng cạnh tranh của chúng càng thấp. Sau khi gia nhập WTO thì các rào cản hành chính dần bị gỡ bỏ, thuế suất nhập khẩu giảm dần nên hàng nhập khẩu giá rẻ và chất lượng tốt hơn trở thành lựa chọn chính đáng của người dân. Các doanh nghiệp được bảo hộ giờ đây không còn sức chống đỡ, nhiều doanh nghiệp nhà nước thì không biết làm gì ngoài việc kinh doanh trái ngành nghề như đầu tư vào chứng khoán, tài chính và bất động sản; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì đóng cửa sản suất xoay sang kinh doanh hàng nhập khẩu. Nhập siêu tăng vọt là tất yếu.
Cầu tiêu dùng nội địa
Một phần nhu cầu tiêu dùng nội địa trước giờ được đáp ứng tốt bởi các nhà sản xuất khu vực tư nhân. Nhưng nguồn cung này đang bị sụt giảm và đe dọa nghiêm trọng bởi lãi suất cho vay quá cao hiện nay. Lực lượng sản xuất này đang chịu đựng để duy trì hoạt động, đầu tư phát triển để tăng thêm sản lượng là chuyện không thể. Trong khi đó, nếu nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam trong thời gian tới đây thì sẽ làm tăng mạnh mức cầu đầu tư trong nước. Đầu tư này chưa thể tạo ngay ra sản phẩm trong vòng 1-2 năm nên sẽ gia tăng sự thiếu hụt nguồn cung hàng hóa và dịch vụ. Điều đó sẽ tạo áp lực lên nhu cầu tiêu dùng nội địa làm nó càng tăng giá. Sự khan hiếm hàng hóa tất yếu xảy ra. Để hoàn tất việc đầu tư nhanh chóng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường nhập khẩu. Với nguồn đô-la ngoại sẵn có cộng với chính sách miễn giảm thuế để thu hút FDI thì việc nhập khẩu này trở nên quá dễ dàng và thuận lợi. Nhập siêu lại tăng, bắt đầu cho một vòng xoáy lẩn quẩn mới. Vốn đầu tư vừa rót vào lại chảy ra ngay lập tức. Người dân chưa kịp hưởng thành quả của đầu tư thì đã bị lạm phát và khan hiếm hàng hóa hoành hành ngay lập tức.
Như vậy có thể thấy nguyên nhân gốc của vấn đề lạm phát và nhập siêu là do nhu cầu tiêu dùng nội địa đã không được chú trọng để có giải pháp đáp ứng hiệu quả. Chính phủ đang giải quyết vấn đề này bằng lệnh kiềm chế giá một số mặt hàng thiết yếu. Nhưng đây lại chính là nguyên nhân làm gia tăng thêm lạm phát và thiếu hụt nguồn cung. Nhìn thẳng vào sự thật sẽ thấy người dân không được hưởng mức giá đó. Các mức giá đó chỉ tồn tại trên sổ sách và được dùng để thống kê chỉ số giá tiêu dùng CPI. Nhưng nó lại để ngỏ một cơ hội tuyệt vời cho tham nhũng. Bình thường không ai dễ dàng gì làm cái việc bán rất rẻ sản phẩm của mình dưới giá thị trường để nhận những khoản đút lót lớn của các đại lý phân phối, tuy nhiên khi có mệnh lệnh hành chính là phải kiềm giá để hỗ trợ chống lạm phát thì việc này trở nên rất hợp pháp.
Đại lý phân phối các mặt hàng này muốn mua được hàng buộc phải chi một khoản tiền hối lộ lên đến 80% phần chênh lệch giữa giá thị trường và giá kiềm chế. Và đây mới chính là căn nguyên của nạn đầu cơ trục lợi mà các quan chức chính phủ lớn tiếng phê phán, đổ lỗi cho người dân và doanh nghiệp. Những nhà sản xuất đàng hoàng không thể lươn lẹo như vậy, cũng không thể phạm pháp mà bán cao hơn giá chính phủ yêu cầu, theo giá này thì sẽ chịu lỗ lớn mà người tiêu dùng cuối cũng chẳng đuợc hưởng gì. Họ chỉ còn cách dừng sản xuất làm cho sản lượng cung ứng cho toàn xã hội càng sụt giảm trong lúc nhu cầu thì không giảm. Giá cả vì thế càng leo thang. Những nguyên vật liệu đã nhập khẩu để sản xuất lại được xuất ngược trở ra. Nhập siêu vì thế mà giảm chút ít. Triệu chứng chườm đá ấy lại được tuyên truyền lạc quan. Hiện tượng một số ngân hàng hạ lãi suất cho vay hiện nay là sự áp dụng bài vở này của những quan chức tham nhũng lọc lõi.
Lựa chọn chống lạm phát
Chúng ta đang ở trong tình trạng bệnh rất nặng. Nếu các triệu chứng phát bệnh trầm trọng bị che dấu thì đến khi nó bùng phát sẽ không còn cách nào chữa trị. Nguy hại hơn nữa là nó làm cho định bệnh sai dẫn đến chọn sai phương thuốc. Nếu không mau chóng chấm dứt chính sách lãi suất cao để chống lạm phát thì nền kinh tế Việt Nam sẽ sụp đổ ngay vào năm sau.
Có 2 phương thức để chống việc tăng giá do lạm phát tiền. Thứ nhất là thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền đang lưu hành bằng cách tăng lãi suất đi kèm với cắt giảm chi tiêu. Thứ hai là gia tăng sản lượng nhưng không tăng thêm lượng tiền lưu hành. Cách thứ nhất làm giảm sản lượng dẫn đến thiếu hụt nguồn cung, hậu quả của nó đối với nền kinh tế Việt Nam như vừa phân tích ở trên. Cách thứ hai là lựa chọn tối ưu cho tình hình của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên những thầy thuốc ngoại danh giá đã đồng loạt khuyến nghị, thậm chí tạo sức ép lên chính phủ để phương thức thứ nhất phải được thực hiện.
Nền kinh tế Việt Nam lâu nay tăng trưởng dựa chủ yếu vào sự gia tăng nguồn vốn chứ không phải nâng cao năng suất và giá trị sáng tạo. Điều này chưa bao giờ được chú trọng cải thiện mà còn bị làm xấu hơn do hiệu quả đầu tư ngày càng thấp của khu vực kinh tế nhà nước. Hiệu quả sử dụng vốn chưa được cải thiện mà thắt chặt tiền tệ, nâng cao lãi suất, cắt giảm chi tiêu thì chẳng khác gì hút máu khỏi cơ thể và khai tử các doanh nghiệp trong nước. Nó đồng thời tạo ra một khoảng trống tuyệt vời cho các doanh nghiệp nước ngoài vốn chẳng bị ảnh hưởng gì bởi chính sách thắt chặt tiền tệ lấp vào thay thế. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tăng vọt gần đây. Các nhà doanh nghiệp nước ngoài thừa biết và có thể dự báo chính xác được thời điểm xảy ra những khoảng trống như vậy. Và do đó, lúc nào thì sẽ thực hiện giải ngân nguồn vốn đã đăng ký để hưởng ưu đãi là những kế hoạch đầy mưu tính để đạt được hiệu quả tối ưu.
Hãy xem xét lý thuyết của phương thức thứ nhất – thắt chặt tiền tệ để hút tiền về bằng lãi suất cao. Nguyên lý hoạt động: đầu tiên sản lượng sẽ giảm do các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất vì thiếu vốn, dẫn đến sa thải làm tăng mức thất nghiệp; cung lao động gia tăng nên sẽ làm thay đổi kỳ vọng của người lao động về mức lương doanh nghiệp phải trả; điều này làm giảm thu nhập cá nhân dẫn đến giảm nhu cầu chi tiêu và giữ tiền; và do đó sẽ làm cho mức cầu hàng hóa và tiền giảm xuống nên cung tiền cũng giảm. Lạm phát nhờ vậy mà hạ nhiệt. Khi lạm phát giảm thì có thể điều chỉnh hạ lãi suất, từ đó sẽ tăng ngồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất làm giảm thất nghiệp và tăng nguồn cung hàng hóa. Liệu đây có phải là những gì mà người dân chúng ta sẽ kỳ vọng và chấp nhận? Những nghiên cứu thực chứng gần đây của các nhà kinh tế học tại nhiều nước áp dụng phương thức này đã chứng minh rằng những tác động của nguyên lý trên chỉ có thể tạo ra sự điều chỉnh đầy đủ trong vòng 2 năm. Hai năm là quá đủ để những khoảng trống tai hại nói trên được lấp đầy kín.
Bây giờ hãy xem xét tiếp cách thức áp dụng thực tế lý thuyết này. Trước hết nó đòi hỏi rằng giá cả của hàng hóa, dịch vụ và tiền lương phải hoàn toàn linh hoạt theo phương thức thị trường, đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho nguyên lý của nó hoạt động. Một nền kinh tế rơi vào lạm phát cao, chính phủ của nó sau khi nghiên cứu rất kỹ để đưa ra những con số lạm phát thấp hơn dần rất cụ thể cho từng thời kỳ (gọi là lạm phát kỳ vọng). Tất cả những chỉ số giá này phải được công bố với toàn dân cùng với cam kết chống lạm lạm phát kiên quyết bằng cách thắt chặt tiền tệ. Niềm tin là một yếu tố rất quan trọng mà chính phủ phải có được từ dân chúng để họ tin tưởng mà thay đổi kỳ vọng của mình theo ý chí của chính phủ. Để đạt được điều này, chính phủ phải cam kết và thực hiện đúng việc cắt giảm chi tiêu của các cơ quan công quyền (bao gồm cả thu nhập của công chức) đồng thời với việc tăng trợ cấp và an sinh xã hội để hỗ trợ cho những người bị mất việc làm; điều chỉnh mức thuế thu nhập cá nhân để phù hợp với thu nhập thực tế bị giảm xuống do lạm phát tăng. Ngân hàng Trung ương sẽ liên tục quan sát và đo lường mức lạm phát thực tế và điều chỉnh nhanh chóng lãi suất theo nguyên tắc thực dương, tức là làm sao để lãi suất tiền gửi phải luôn cao hơn mức lạm phát hiện hành ở một mức cố định (gọi là lãi suất thực tế). Quá trình đo lường và điều chỉnh này phải diễn ra liên tục và nhanh chóng cho đến khi lạm phát giảm xuống mức kỳ vọng và xác lập trạng thái cân bằng dài hạn của nền kinh tế tại đó.
Không chọn lãi suất cao
So sánh với những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì có thể thấy trước sự thất bại nặng nề của việc áp dụng lý thuyết này. Giá cả bị áp chế và dùng đó để đo lường chỉ số lạm phát. Không hề thấy chính phủ đưa ra một lộ trình cụ thể cho những chỉ số lạm phát kỳ vọng thấp dần theo từng thời điểm như thế nào, người dân chỉ được biết chung chung khi báo chí đưa tin về việc thủ tướng trả lời đại diện tập đoàn J.P Morgan Chase ngày 05-06-2008 rằng “lạm phát sẽ được hạ dần dần về mức một con số vào năm 2010”. Niềm tin thì lấy đâu ra khi mà cam kết trợ giá xăng dầu cho toàn dân bị thất hứa đột ngột, những chương trình trợ cấp cho một số đối tượng thì bị tệ quan liêu tham nhũng hạch họe và cắt xén. Có nhiều tiếng nói đề nghị xem xét điều chỉnh ngay mức đóng thuế theo pháp lệnh thuế thu nhập cho người có thu nhập cao hiện hành, thay đổi mức khởi điểm đóng thuế thu nhập cá nhân theo luật thuế mới sẽ được áp dụng đầu năm 2009 hoặc dời thời điểm thực hiện nó. Nhưng các quan chức tổng cục Thuế “thay mặt” quốc hội trả lời dứt khoát là không cần thiết. Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 của bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2008 tăng cao, vượt xa mức dự toán và cùng kỳ năm 2007[5]. Lạm phát là một thứ “thuế” khủng khiếp đánh vào toàn dân làm giảm thu nhập thực tế của họ. Thuế nhà nước lại không điều chỉnh, đánh luôn vào phần thu nhập bị sụt giảm thì sức dân làm sao chịu đựng nổi.
Chọn phương thuốc không phù hợp, lại dùng nó một cách sai trái thì hậu quả không thể lường hết được. Chỉ xét trên mục tiêu chống lạm phát của liều thuốc này được áp dụng ở nhiều nước, chưa nói đến những hệ quả mà nó tạo ra: có rất nhiều nước đã thất bại không thể hạ nhiệt lạm phát dù họ đã áp dụng nghiêm ngặt cách dùng thuốc. Lý do: chính phủ không tạo được niềm tin đối với dân chúng. Biện pháp này trên thực tế chỉ có thể áp dụng thành công ở những nước có nền kinh tế phát triển khá cao, có một hệ thống đảm bảo an sinh xã hội rất mạnh và sâu rộng, trạng thái kinh tế đã đạt gần tới mức toàn dụng lao động và sản lượng tiềm năng[6]. Nhưng điều quan trọng và trên hết là nội lực của nền kinh tế đó đã phải rất mạnh để chống lại những hệ quả do tác động của ngoại lực gây ra. Một cơ thể yếu không thể dùng một liều thuốc mạnh. Những thầy thuốc danh giá đã không hề cảnh báo cho con bệnh như vậy. Tệ hại hơn, họ lờ đi một điều kiện ban đầu rất quan trọng của lý thuyết này: “tốc độ lưu thông tiền giả định là không thay đổi”. Tốc độ lưu thông tiền là tốc độ lưu chuyển của lượng tiền trong một nền kinh tế. Tốc độ này càng cao thì lượng tiền cần càng ít cho cùng một khối lượng giao dịch.
Đây là điều thực sự rất có ý nghĩa đối với việc quản trị kinh tế vi mô lẫn vĩ mô. Trong quản lý doanh nghiệp, nếu mỗi năm cần tạo ra mức doanh số 100 đồng mà số vòng quay vốn chỉ đạt 1 vòng/năm thì người ta cần đến 100 đồng vốn, nhưng nếu quay được 2 vòng/năm thì người ta chỉ cần 50 đồng vốn, nếu 4 vòng/năm thì chỉ cần 25 đồng vốn. Cứ thế, tốc độ quay vòng càng nhanh người ta càng cần ít vốn. Trong kinh tế vĩ mô cũng vậy, cùng một giá trị sản lượng (GDP) nếu môi trường kinh tế thông thoáng, vận hành trơn tru, tốc độ lưu thông tiền nhanh chóng thì nền kinh tế đó sẽ cần một lượng tiền ít hơn so với tình trạng ngược lại. Lý thuyết nói trên ngụ ý rằng khi mà tốc độ lưu thông tiền đã đạt mức tối ưu, không còn có thể cải thiện hơn được nữa bằng những biện pháp khác, thì gia tăng lãi suất lúc đó là cách khả dĩ duy nhất nhằm gia tăng tốc độ lưu thông tiền để giảm lượng cung tiền nên giảm được lạm phát. Điều này một lần nữa giải thích vì sao lý thuyết này chỉ có thể áp dụng cho những nền kinh tế đã có trình độ phát triển cao, tệ quan liêu tham nhũng ở mức rất thấp.
Tốc độ lưu thông tiền
Như vậy bản chất của vấn đề là gia tăng tốc độ lưu thông tiền. Hiểu được điều này Việt Nam ta có thể tự xây dựng một phương thức chống lạm phát hữu hiệu mà không tạo ra những hậu quả nghiêm trọng kèm những tác động khác không lường trước được. Về nguyên lý, khi gặp tình trạng lạm phát tiền thì một là hút lượng tiền đã cung ứng thừa trở về, hai là tăng sản lượng (tức là giá trị của cải) tương ứng với lượng tiền đã cung thừa ra. Phương thức thứ nhất dùng lãi suất đã phân tích là không phù hợp vì sẽ tạo ra những hậu quả nghiêm trọng. Phương thứ thứ hai thì nguy cơ ở chỗ lạm phát có thể tác động nhanh và mạnh gây sụp đổ nền kinh tế trước khi nó có thể tạo ra một lượng của cải cân bằng. Tuy nhiên, trong cái rủi có cái may: tốc độ lưu thông tiền hiện nay của nền kinh tế Việt Nam quá thấp[7] mà lý do chính của nó cũng là do tệ quan liêu tham nhũng gây ra. Quyết tâm cải cách hành chính thực sự và kiên quyết chống tham nhũng thực tâm sẽ có thể tăng tốc độ lưu thông tiền của cả nền kinh tế lên nhiều lần. Nó không những không tạo ra hệ quả xấu mà còn gia tăng hiệu quả đầu tư vốn (ICOR) cho cả nền kinh tế.
Thành phần kinh tế nhà nước lâu nay chiếm tỷ trọng khoảng 37% GDP. GDP là đại lượng đại diện tốt nhất cho khối lượng giao dịch trong quá trình lưu thông vận hành của một nền kinh tế. Có nghĩa rằng thành phần kinh tế nhà nước chiếm đến 37% các giao dịch kinh tế. Nền kinh tế được vận hành theo một chu trình khép kín mà nhà nước, doanh nghiệp và người dân là những mắc xích quan trọng. Ở Việt Nam nhà nước tham gia vào chu trình này với hai tư cách, vừa là doanh nghiệp, vừa là chính phủ. Do vậy sự ì ạch của khu vực nhà nước sẽ tạo ra sự chậm chạp, tắt nghẽn ở cả hai mắc xích lớn tập trung nhiều lưu lượng, gây ảnh hưởng dây chuyền lên toàn bộ chu trình và những mắc xích còn lại. Những doanh nghiệp tư nhân làm ăn với những doanh nghiệp nhà nước luôn phải chịu thiệt thòi về vòng quay vốn, chẳng có hợp đồng nào dù nhỏ có thể thu hồi tiền dưới 1 năm, trung bình là 2 năm, dài thì có khi vài ba năm. Cung cấp hàng hóa dịch vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước thì còn tệ hơn nữa.
Các giao dịch giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước theo nghĩa công bộc của dân thì lại càng tồi tệ. Muốn nhận được tiền thoái thu thuế thì không khác gì ăn xin. Tiền vốn đã bỏ ra nhập hàng phải nằm chờ hải quan kiểm hóa thông quan đến cả tuần lễ. Tiền và vât liệu xây dựng nằm chờ để xin được giấy phép xây sửa nhà. Có thể kể cả tháng mà không hết tất cả những thứ tương tự làm tắt nghẽn lưu thông tiền. Thu hồi vốn chậm nên doanh nghiệp và người dân phải vay tiền ngân hàng, vì thế lượng cung tiền gia tăng trong khi giá trị của cải (sản lượng) chẳng tăng lên chút nào mà còn phải chia sẻ cho các ngân hàng do lãi suất vay. Lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm liền luôn ở mức cao là vì vậy. Giới ngân hàng nhờ đó hưởng lợi lớn quá dễ dàng mà chẳng cần sáng tạo cung cấp thêm dịch vụ gì có lợi cho doanh nghiệp và người dân. Kết quả là đã tạo ra ma lực kéo người ta ùn ùn bỏ vốn đi lập ngân hàng. Một số ngân hàng cho vay vô tội vạ mà không ý thức rằng mình đang “in” thêm tiền cho nền kinh tế.
Tốc độ lưu thông của cả nền kinh tế chậm đến là vậy. Thế nhưng ở một vài lĩnh vực cục bộ thì lại có tốc độ nhanh đến dị thường, quay vòng nhanh lẹ đến chóng mặt. Đó chính là thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Chẳng có đâu trên thế giới mà chứng khoán lên ồ ạt rồi xuống ào ào trong vòng một vài tháng, bất động sản thì sốt rồi đóng băng vài ba lần chỉ trong vòng hơn 3 năm. Ai cũng hiểu là do những nhóm lợi ích mạnh thao túng, nhưng thực tế là họ chẳng thể làm được nếu không có sự tiếp tay của quan chức nhà nước. Khi hai thị trường này sốt đến chóng mặt thì nhà nước lại hồ hởi, báo chí lại hoan nghênh. Không biết người ta có hiểu rằng đó vừa là triệu chứng của một căn bệnh nặng, vừa là nguyên nhân làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng như ngày nay hay không. Lượng tiền các ngân hàng cung ra được bơm vào vòng xoáy hút nhồi của 2 thị trường này, nó hút luôn cả những nguồn vốn trong dân và lĩnh vực kinh tế khác. Kết quả nó tạo ra là một nền kinh tế thừa tiền nhưng thiếu vốn. Lưu thông tiền vì thế lại càng chậm chạp. Nó tạo ra rất ít của cải vật chất, thậm chí không có nhưng lại sản sinh ra một lớp người có rất nhiều tiền. Lớp người này kiếm tiền quá dễ nên tiêu xài bạt mạng cho những nhu cầu xa xỉ, tạo thêm gánh nặng và cả tệ nạn cho xã hội. Sự phồn vinh giả tạo là vì thế.
Xem tiếp tại đây
Tải file pdf và prc (đọc trên di động) tại đây
Chú dẫn:
[1] Bao gồm: vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước khoảng 102 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ đạt 25 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đạt 40 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 71 nghìn tỷ đồng.
[2] Bao gồm: nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 125 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 35 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 85 nghìn tỷ đồng.
[3] Tài liệu “Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009” của bộ KHĐT không đưa ra số dự báo cho năm 2010.
[4] Incremental Capital Output Ratio. Do đặc điểm về độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên các chỉ số này được thống kê một giai đoạn dài 3 năm (2005-2007) và dùng chúng để tính mức tăng trưởng dựa trên mức đầu tư cho giai đoạn 3 năm kế tiếp (2008-2010), xem như 3 thành phần kinh tế sẽ giữ nguyên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho tăng trưởng. Tình hình thực tế hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế có vốn nước ngoài là có khả năng gia tăng hiệu quả này.
[5] Nguyên văn: “Thu ngân sách nhà nước 6 tháng tăng cao bảo đảm nhu cầu chi tiêu cần thiết, nhất là bảo đảm cấp đủ kinh phí thực hiện các chính sách an sinh, xã hội. Thu NSNN 6 tháng đạt 195.850 tỷ đồng, bằng 60,6% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ năm 2007 và bằng 31,3% GDP; trong đó: thu nội địa (không kể dầu thô) ước đạt 107.300 tỷ đồng, bằng 56,7% dự toán (cùng kỳ năm 2005 đạt 53,8%, năm 2006 đạt 48,8%, năm 2007 đạt 46,1%), tăng 37,3% so với cùng kỳ năm 2007; thu từ dầu thô đạt 42.210 tỷ đồng, bằng 64,3% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ. Giá dầu thanh toán tháng 6 bình quân đạt 125 USD/thùng, bình quân 6 tháng đầu năm đạt 105 USD/thùng, tăng 41 USD/thùng so với dự toán; sản lượng dầu thanh toán ước đạt 6,89 triệu tấn, bằng 44,5% dự kiến năm; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 43.740 tỷ đồng, bằng 67,8% dự toán năm, tăng 53,7% so với cùng kỳ. Cả năm 208 phấn đấu thu ngân sách Nhà nước ước đạt trên 358 nghìn tỷ đồng, tăng 11% so với dự toán năm. Trong đó: thu nội địa đạt 198 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với dự toán; thu từ dầu thô đạt trên 85 nghìn tỷ đồng, tăng 30,8% so với dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 71 nghìn tỷ đồng, tăng trên 10% so với dự toán. Tổng chi ngân sách nhà nước dự kiến đạt 369 nghìn tỷ đồng, giảm 7,4% so với dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển 102 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với dự toán. Bội chi ngân sách khoảng 59 nghìn tỷ đồng, bằng 4% GDP. Năm 2009 Tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 379-388 nghìn tỷ đồng; tổng chi ngân sách nhà nước 461-470 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87.000 nghìn tỷ đồng, bằng 5% GDP. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 thấp hơn năm 2008.”
[6] Thuật ngữ kinh tế học để chỉ mức sản lượng mà một nền kinh tế làm ra được nếu tất cả các lực lượng sản xuất được sử dụng đầy đủ.
[7] So với các nước phát triển thấp hơn cả chục lần, với các nước công nghiệp tới vài lần.
Tuesday August 5, 2008 - 01:06pm (ICT)
Đầu thu tháng 8, 2008.
Chú dẫn :
Cuối tháng 6-2008 báo chí đồng loạt đưa tin Việt Nam thu hút hơn 31,6 tỷ đô-la Mỹ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Đến giữa tháng 7 con số này được dự báo là sẽ vượt qua mức 40 tỷ vào cuối năm 2008. Nhưng chỉ chưa đầy 2 tuần sau đó số liệu chính thức được công bố đã làm ai cũng phải kinh ngạc: hơn 45 tỷ đô-la Mỹ đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được cấp phép trong 7 tháng đầu năm 2008. Cơn sốt tỷ giá USD/VND tạm lắng dịu từ cuối tháng Sáu vừa rồi là nhờ một phần tác động rất lớn của những con số FDI này. Nhà nước thì hồ hởi với những thành quả tột bật, người dân thì hy vọng điều đó sẽ cải thiện đáng kể tình hình u ám đầy bất ổn từ cuối năm 2007 đến giờ.
Tuy nhiên, nếu phân tích một cách có trách nhiệm các con số này thì người ta sẽ phải thực sự lo lắng vì những hệ quả rất đáng lo ngại của nó.
Hãy tạm bỏ qua những khả năng xấu nhất – dùng kinh tế bẫy chính trị – tức là đăng ký thật nhiều để được cấp phép nhưng sẽ thực hiện giải ngân vốn rất ít để đặt Việt Nam vào tình trạng sụp đổ do vỡ nợ. Hãy giả định một tình huống lạc quan nhất mà chính phủ đang trông đợi: nguồn vốn FDI sẽ được thực hiện giải ngân nhanh chóng và ồ ạt trong vòng 3 năm 2008-2010. Theo dự báo mới nhất chưa được công bố rộng rãi của cục Đầu tư nước ngoài, tổng số vốn FDI đăng ký trong năm nay sẽ đạt không dưới 50 tỷ đô-la Mỹ. Số vốn FDI đã được cấp phép trước cuối năm 2007 nhưng chưa thực hiện vẫn còn thời hạn khoảng 40 tỷ nữa, đưa tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lên hơn 90 tỷ đô-la Mỹ đang và sẽ rót vào Việt Nam. Để đạt được con số ấn tượng này, chính phủ đã phải ưu đãi “giành” cho các nhà đầu tư nước ngoài những lợi thế cạnh tranh vô cùng lớn, từ thuế đến đất đai, từ quyền kinh doanh đặc biệt đến cả những bảo hộ ngầm. Ngược lại, những con thú sừng dài này phải cam kết thực hiện giải ngân nhanh chóng theo tiến độ mà chính phủ mong muốn (2008: 10 tỷ USD, 2009: 15 tỷ USD, 2010: 20 tỷ USD).
Những đồng đô-la ngoại này sẽ làm chuyển biến và tác động như thế nào đến các khía cạnh kinh tế, xã hội và chính trị của đất nước là điều đòi hỏi sự quan tâm của không chỉ nhà nước mà cả đông đảo các thành phần xã hội.
Tỷ trọng nền kinh tế
Dù được mọi ưu đãi và tập trung hỗ trợ của nhà nước nhưng sau 20 năm kể từ lúc có luật đầu tư nước ngoài 1988, thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chỉ mới chiếm tỷ trọng hơn 17% tổng sản phẩm trong nước (GDP) vào cuối năm 2007 như số liệu của tổng cục Thống kê công bố:
Trong khi đó, thành phần kinh tế tư nhân (ngoài nhà nước) chỉ mới được công nhận chính thức từ đầu năm 1991 bởi luật doanh nghiệp tư nhân 1990, và chỉ thực sự có được một môi trường pháp lý tương đối tốt từ đầu năm 2000 bởi luật doanh nghiệp 1999. Thành phần này không nhận đầu tư gì từ ngân sách hay hưởng những đặc quyền kinh doanh và bảo hộ đặc biệt từ nhà nước, cũng là thành phần bị nhũng nhiễu nhiều nhất bởi tệ quan liêu hành chính và tham nhũng nhưng đã vươn lên dẫn đầu tỷ trọng GDP từ đầu thập niên 1990. Đến cuối năm 2007 khu vực kinh tế tư nhân đóng góp đến hơn 46% tổng sản phẩm trong nước (GDP), bỏ xa 36,8% của khu vực kinh tế nhà nước vốn chiếm gần trọn ngân sách đầu tư quốc gia và hơn 70% lượng vốn cho vay của các ngân hàng huy động được từ người dân, cùng với 100% vốn vay của nước ngoài do chính phủ bảo lãnh. Tổng cộng trong 3 năm từ 2005 đến 2007, khu vực kinh tế nhà nước đầu tư đến hơn 546 ngàn tỷ đồng, chiếm hơn 45% tổng giá trị đầu tư phát triển toàn xã hội:
Tuy nhiên, cấu trúc tỷ trọng này sẽ thay đổi đột biến từ năm nay khi dòng đô-la ngoại rót vào ồ ạt để đầu tư phát triển cho khu vực kinh tế nước ngoài tại Việt Nam. Trong cùng lúc đó thì khu vực kinh tế tư nhân bị chính sách thắt chặt tiền tệ - nâng lãi suất để chống lạm phát - trói cứng, vốn để duy trì mức cũ còn khó nói gì đến đầu tư mở rộng. Khu vực kinh tế nhà nước thì phải cắt giảm đầu tư công, nhưng dù sao nguồn vốn đầu tư cho nó vẫn khá dồi dào. Theo tài liệu “Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009” của bộ Kế hoạch Đầu tư gửi các bộ ngành, địa phương vào cuối tháng 6-2008 vừa rồi thì tổng giá trị đầu tư công trong năm 2008 dự kiến đạt 238 ngàn tỷ đồng[1] (tăng 19% so với 200 ngàn tỷ năm 2007), năm 2009 sẽ đạt 295 ngàn tỷ đồng[2]; đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân (ngoài quốc doanh) được dự báo đạt mức 190 ngàn và 235 ngàn tỷ đồng tương ứng cho 2008 và 2009, đây quả thật là một con số quá lạc quan so với 187 nghìn tỷ đồng trong năm 2007. Tiếp tục lạc quan để đưa ra số dự báo trị giá đầu tư phát triển trong năm 2010 của 2 khu vực kinh tế trong nước này sẽ tăng 20% so với số dự kiến của 2009[3].
Những giả định lạc quan
Tỷ trọng đầu tư này sẽ dịch chuyển tỷ trọng GDP theo thành phần kinh tế như thế nào? Để có đủ thông số để tính toán, chúng ta lại giả định những con số lạc quan nhất trong tình hình hiện nay: chỉ số giá tiêu dùng CPI trung bình 2008 tăng 25% so với 2007, 2009 tăng 15% so với 2008, 2010 tăng 9% so với 2009; chính phủ sẽ kiềm được tỷ giá VND/USD ở mức bình quân là 16.700 cho cả năm 2008, 17.200 cho 2009 và 17.700 cho 2010. Dùng chỉ số hiệu quả sử dụng vốn ICOR[4] (bằng mức thay đổi tổng giá trị đầu tư chia cho mức thay đổi tổng giá trị sản lượng GDP được qui về giá so sánh với 1994 theo chuẩn của tổng cục Thống Kê) cho từng thành phần kinh tế, có thể tính ra kết quả:
Tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế nước ngoài bứt phá từ 17% trong năm 2007 lên 30% trong 2008; đến 2009 thì vươn lên dẫn đầu với 35%, nhỉnh hơn thành phần kinh tế tư nhân trong nước một chút. Nhưng nó sẽ khống chế hoàn toàn với tỷ trọng 37.5% GDP, bỏ xa hai thành phần kinh tế trong nước vào năm 2010. Một đất nước mà ngoại lực kiểm soát đến 30% nền kinh tế thì chủ quyền của người dân nước đó sẽ bị đe dọa nghiêm trọng.
Ở Việt Nam ta, khi mới đạt tỷ trọng có 15% - 17% GDP mà thành phần kinh tế nước ngoài đã tạo sức ảnh hưởng rất lớn, chi phối thao túng đến hầu hết các chính sách vĩ mô thì sức mạnh của lực lượng này sẽ đến mức nào một khi nó chiếm tỷ trọng khống chế của cả nền kinh tế. Tỷ trọng này sẽ còn lớn hơn nhiều nếu tính cả tác động của nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Chưa có số liệu thống kê nào cho biết hiện nay có bao nhiêu phần trăm tỷ lệ vốn của các doanh nghiệp trong nước (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) được sở hữu bởi các tổ chức nước ngoài. Nhưng với nguồn vốn khổng lồ tích lũy được sau chiến dịch đầu cơ vào thị trường chứng khoán Việt Nam quá thành công của bầy thú sừng ngắn vừa rồi, cộng với việc chính phủ vừa cho phép chuyển nhượng các dự án đầu tư bất động sản cho nước ngoài, và hiệp định đầu tư song phương Việt-Mỹ sắp ký kết sẽ hỗ trợ mạnh mẽ và đảm bảo cho hoạt động này, chưa kể tình trạng thiếu vốn do lãi suất cao buộc các doanh nghiệp tư nhân phải tìm kiếm các nguồn vốn đầu tư gián tiếp này thì không ai có thể nghĩ cái tỷ lệ này sẽ dưới 25% trong một hai năm tới.
Đầu tư trực tiếp sẽ kiểm soát 37,5% GDP, đầu tư gián tiếp sẽ kiểm soát 25% của 62,5% còn lại, tương đương với 15,6% GDP. Tổng cộng thành phần kinh tế nước ngoài sẽ chiếm trên 53% của cả nền kinh tế. Thật khó mà không choáng váng khi nghĩ đến một con số như vậy. Nên nhớ rằng các con số này được tính toán dựa trên những giả định lạc quan nhất, chưa tính đến các tác động tự nhiên và cả những tác động bằng sức mạnh có chủ đích của các thực thể tham gia vào quá trình kinh tế làm biến đổi nhanh chóng các yếu tố kinh tế. Xem xét các tác động này theo đúng qui luật vận hành thì sẽ thấy rằng những mong muốn lạc quan này là không có cơ sở.
Lạm phát và nhập siêu
Báo chí trong nước đang lạc quan về những dấu hiệu giảm dần của tốc độ lạm phát và nhập siêu trong tháng Sáu và tháng Bảy vừa qua. Điều này chẳng khác gì việc chườm đá cho con bệnh đang bị sốt. Nguồn gốc căn bản của lạm phát và nhập siêu chưa bao giờ được thừa nhận để áp dụng những giải pháp đúng phù hợp. Thay vào đó là những mệnh lệnh hành chính áp đặt chủ quan lên quá trình vận hành nhằm kiềm nén, che dấu những triệu chứng biểu hiện ra ngoài của căn bệnh đang ngày một trầm trọng hơn.
Nhập siêu là một nguyên nhân quan trọng gây ra lạm phát. Trước hết nó tác động làm giảm giá trị đồng nội tệ so với ngoại tệ, sự suy giảm này sẽ làm gia tăng chi phí nhập khẩu. Nếu nhu cầu nhập khẩu phải giữ nguyên khối lượng để đáp ứng nhu cầu nội địa thì giá cả trong nước sẽ tăng vọt và tiếp tục làm tăng cao mức nhập siêu. Cái vòng xoáy lẩn quẩn ấy chỉ chấm dứt khi nào nhu cầu tiêu dùng nội địa bị cắt giảm đáng kể. Trong tình hình hiện nay của Việt Nam, sự cắt giảm nhu cầu này sẽ dẫn đến suy thoái và khủng hoảng, nhấn chìm cả nền kinh tế và gây rối loạn xã hội. Với trên 99% dân số thuộc thành phần nghèo, bình dân và trung lưu thì mức chi tiêu hiện nay của họ đa phần là cầu tự định (thuật ngữ kinh tế học để chỉ mức cầu căn bản tối thiểu mà người ta muốn sử dụng ngay cả khi không có thu nhập). Đang cố gắng thoát nghèo như Việt Nam ta thì mức cầu như vậy là chính đáng và cần được thúc đẩy. Nếu nó bị kéo thấp xuống thì trung lưu sẽ trở thành bình dân, bình dân trở thành nghèo, nghèo trở thành đói. Thành quả tăng trưởng của nhiều năm có thể bị xóa sạch.
Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 của bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết: “tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã hội cả năm 2008 dự kiến đạt khoảng 925 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 27,4% so với năm 2007”. Con số tăng trưởng 27,4% này tương đương với mức lạm phát, có nghĩa rằng người dân phải trả một cái giá cao hơn 27,4% cho cùng một khối lượng hàng hóa và dịch vụ sử dụng trong năm 2007. Như vậy mức tiêu dùng nội địa không tăng trong khi mỗi năm dân số tăng thêm cỡ một triệu người, tính trên đầu người là giảm sút. Xu thế này tiếp tục thêm một năm nữa thì những rối loạn xã hội sẽ xảy ra.
Một quốc gia xây dựng chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu mà không đạt được tình trạng xuất siêu ở mức cao để tạo dự trữ lớn và thặng dư đủ cho tiêu dùng nội địa thì sẽ rước vào mình những nguy cơ chờ sẵn. Chúng sẽ bùng phát khi thị trường các nước nhập khẩu bị sụt giảm và thị trường toàn cầu bị biến động. Dựa vào xuất khẩu mà lại nhập siêu là “cái chết được báo trước”. Việt Nam theo đuổi chiến lược này nhiều năm qua nhưng chưa bao giờ có được xuất siêu, thay vào đó nhập siêu liên tục, năm sau cao hơn năm trước. Các chính sách vĩ mô hướng ngoại của Việt Nam đã không mang lại đến quả mong muốn. Đầu tư nước ngoài và xuất khẩu được chú trọng thúc đẩy nhưng lại tạo ra giá trị gia tăng quá thấp nên phần thu nhập còn ở lại trong nước không đủ bù đắp cho nhu cầu tiêu dùng nội địa ngày một tăng.
Trong khi đó chiến lược khuyến khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu lại được thực hiện bằng việc bảo hộ bởi các rào cản hành chính là thuế và giấy phép. Sự bảo hộ này lại chỉ dành cho thành phần kinh tế nhà nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp được bảo hộ lại khai thác lợi thế đó để bán giá cao cho người tiêu dùng trong nước. Nhà nước giảm nguồn thu thuế, người dân bị giảm sức mua, tất cả lợi ích này chạy hết vào túi các doanh nghiệp được bảo hộ và các quan chức làm nhiệm vụ bảo hộ. Điều trớ trêu là lợi ích càng cao thì khả năng cạnh tranh của chúng càng thấp. Sau khi gia nhập WTO thì các rào cản hành chính dần bị gỡ bỏ, thuế suất nhập khẩu giảm dần nên hàng nhập khẩu giá rẻ và chất lượng tốt hơn trở thành lựa chọn chính đáng của người dân. Các doanh nghiệp được bảo hộ giờ đây không còn sức chống đỡ, nhiều doanh nghiệp nhà nước thì không biết làm gì ngoài việc kinh doanh trái ngành nghề như đầu tư vào chứng khoán, tài chính và bất động sản; doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì đóng cửa sản suất xoay sang kinh doanh hàng nhập khẩu. Nhập siêu tăng vọt là tất yếu.
Cầu tiêu dùng nội địa
Một phần nhu cầu tiêu dùng nội địa trước giờ được đáp ứng tốt bởi các nhà sản xuất khu vực tư nhân. Nhưng nguồn cung này đang bị sụt giảm và đe dọa nghiêm trọng bởi lãi suất cho vay quá cao hiện nay. Lực lượng sản xuất này đang chịu đựng để duy trì hoạt động, đầu tư phát triển để tăng thêm sản lượng là chuyện không thể. Trong khi đó, nếu nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ồ ạt đổ vào Việt Nam trong thời gian tới đây thì sẽ làm tăng mạnh mức cầu đầu tư trong nước. Đầu tư này chưa thể tạo ngay ra sản phẩm trong vòng 1-2 năm nên sẽ gia tăng sự thiếu hụt nguồn cung hàng hóa và dịch vụ. Điều đó sẽ tạo áp lực lên nhu cầu tiêu dùng nội địa làm nó càng tăng giá. Sự khan hiếm hàng hóa tất yếu xảy ra. Để hoàn tất việc đầu tư nhanh chóng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ tăng cường nhập khẩu. Với nguồn đô-la ngoại sẵn có cộng với chính sách miễn giảm thuế để thu hút FDI thì việc nhập khẩu này trở nên quá dễ dàng và thuận lợi. Nhập siêu lại tăng, bắt đầu cho một vòng xoáy lẩn quẩn mới. Vốn đầu tư vừa rót vào lại chảy ra ngay lập tức. Người dân chưa kịp hưởng thành quả của đầu tư thì đã bị lạm phát và khan hiếm hàng hóa hoành hành ngay lập tức.
Như vậy có thể thấy nguyên nhân gốc của vấn đề lạm phát và nhập siêu là do nhu cầu tiêu dùng nội địa đã không được chú trọng để có giải pháp đáp ứng hiệu quả. Chính phủ đang giải quyết vấn đề này bằng lệnh kiềm chế giá một số mặt hàng thiết yếu. Nhưng đây lại chính là nguyên nhân làm gia tăng thêm lạm phát và thiếu hụt nguồn cung. Nhìn thẳng vào sự thật sẽ thấy người dân không được hưởng mức giá đó. Các mức giá đó chỉ tồn tại trên sổ sách và được dùng để thống kê chỉ số giá tiêu dùng CPI. Nhưng nó lại để ngỏ một cơ hội tuyệt vời cho tham nhũng. Bình thường không ai dễ dàng gì làm cái việc bán rất rẻ sản phẩm của mình dưới giá thị trường để nhận những khoản đút lót lớn của các đại lý phân phối, tuy nhiên khi có mệnh lệnh hành chính là phải kiềm giá để hỗ trợ chống lạm phát thì việc này trở nên rất hợp pháp.
Đại lý phân phối các mặt hàng này muốn mua được hàng buộc phải chi một khoản tiền hối lộ lên đến 80% phần chênh lệch giữa giá thị trường và giá kiềm chế. Và đây mới chính là căn nguyên của nạn đầu cơ trục lợi mà các quan chức chính phủ lớn tiếng phê phán, đổ lỗi cho người dân và doanh nghiệp. Những nhà sản xuất đàng hoàng không thể lươn lẹo như vậy, cũng không thể phạm pháp mà bán cao hơn giá chính phủ yêu cầu, theo giá này thì sẽ chịu lỗ lớn mà người tiêu dùng cuối cũng chẳng đuợc hưởng gì. Họ chỉ còn cách dừng sản xuất làm cho sản lượng cung ứng cho toàn xã hội càng sụt giảm trong lúc nhu cầu thì không giảm. Giá cả vì thế càng leo thang. Những nguyên vật liệu đã nhập khẩu để sản xuất lại được xuất ngược trở ra. Nhập siêu vì thế mà giảm chút ít. Triệu chứng chườm đá ấy lại được tuyên truyền lạc quan. Hiện tượng một số ngân hàng hạ lãi suất cho vay hiện nay là sự áp dụng bài vở này của những quan chức tham nhũng lọc lõi.
Lựa chọn chống lạm phát
Chúng ta đang ở trong tình trạng bệnh rất nặng. Nếu các triệu chứng phát bệnh trầm trọng bị che dấu thì đến khi nó bùng phát sẽ không còn cách nào chữa trị. Nguy hại hơn nữa là nó làm cho định bệnh sai dẫn đến chọn sai phương thuốc. Nếu không mau chóng chấm dứt chính sách lãi suất cao để chống lạm phát thì nền kinh tế Việt Nam sẽ sụp đổ ngay vào năm sau.
Có 2 phương thức để chống việc tăng giá do lạm phát tiền. Thứ nhất là thắt chặt tiền tệ để giảm lượng tiền đang lưu hành bằng cách tăng lãi suất đi kèm với cắt giảm chi tiêu. Thứ hai là gia tăng sản lượng nhưng không tăng thêm lượng tiền lưu hành. Cách thứ nhất làm giảm sản lượng dẫn đến thiếu hụt nguồn cung, hậu quả của nó đối với nền kinh tế Việt Nam như vừa phân tích ở trên. Cách thứ hai là lựa chọn tối ưu cho tình hình của chúng ta hiện nay. Tuy nhiên những thầy thuốc ngoại danh giá đã đồng loạt khuyến nghị, thậm chí tạo sức ép lên chính phủ để phương thức thứ nhất phải được thực hiện.
Nền kinh tế Việt Nam lâu nay tăng trưởng dựa chủ yếu vào sự gia tăng nguồn vốn chứ không phải nâng cao năng suất và giá trị sáng tạo. Điều này chưa bao giờ được chú trọng cải thiện mà còn bị làm xấu hơn do hiệu quả đầu tư ngày càng thấp của khu vực kinh tế nhà nước. Hiệu quả sử dụng vốn chưa được cải thiện mà thắt chặt tiền tệ, nâng cao lãi suất, cắt giảm chi tiêu thì chẳng khác gì hút máu khỏi cơ thể và khai tử các doanh nghiệp trong nước. Nó đồng thời tạo ra một khoảng trống tuyệt vời cho các doanh nghiệp nước ngoài vốn chẳng bị ảnh hưởng gì bởi chính sách thắt chặt tiền tệ lấp vào thay thế. Đây chính là nguyên nhân sâu xa của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký vào Việt Nam tăng vọt gần đây. Các nhà doanh nghiệp nước ngoài thừa biết và có thể dự báo chính xác được thời điểm xảy ra những khoảng trống như vậy. Và do đó, lúc nào thì sẽ thực hiện giải ngân nguồn vốn đã đăng ký để hưởng ưu đãi là những kế hoạch đầy mưu tính để đạt được hiệu quả tối ưu.
Hãy xem xét lý thuyết của phương thức thứ nhất – thắt chặt tiền tệ để hút tiền về bằng lãi suất cao. Nguyên lý hoạt động: đầu tiên sản lượng sẽ giảm do các doanh nghiệp thu hẹp sản xuất vì thiếu vốn, dẫn đến sa thải làm tăng mức thất nghiệp; cung lao động gia tăng nên sẽ làm thay đổi kỳ vọng của người lao động về mức lương doanh nghiệp phải trả; điều này làm giảm thu nhập cá nhân dẫn đến giảm nhu cầu chi tiêu và giữ tiền; và do đó sẽ làm cho mức cầu hàng hóa và tiền giảm xuống nên cung tiền cũng giảm. Lạm phát nhờ vậy mà hạ nhiệt. Khi lạm phát giảm thì có thể điều chỉnh hạ lãi suất, từ đó sẽ tăng ngồn vốn đầu tư cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất làm giảm thất nghiệp và tăng nguồn cung hàng hóa. Liệu đây có phải là những gì mà người dân chúng ta sẽ kỳ vọng và chấp nhận? Những nghiên cứu thực chứng gần đây của các nhà kinh tế học tại nhiều nước áp dụng phương thức này đã chứng minh rằng những tác động của nguyên lý trên chỉ có thể tạo ra sự điều chỉnh đầy đủ trong vòng 2 năm. Hai năm là quá đủ để những khoảng trống tai hại nói trên được lấp đầy kín.
Bây giờ hãy xem xét tiếp cách thức áp dụng thực tế lý thuyết này. Trước hết nó đòi hỏi rằng giá cả của hàng hóa, dịch vụ và tiền lương phải hoàn toàn linh hoạt theo phương thức thị trường, đây là điều kiện tiên quyết để đảm bảo cho nguyên lý của nó hoạt động. Một nền kinh tế rơi vào lạm phát cao, chính phủ của nó sau khi nghiên cứu rất kỹ để đưa ra những con số lạm phát thấp hơn dần rất cụ thể cho từng thời kỳ (gọi là lạm phát kỳ vọng). Tất cả những chỉ số giá này phải được công bố với toàn dân cùng với cam kết chống lạm lạm phát kiên quyết bằng cách thắt chặt tiền tệ. Niềm tin là một yếu tố rất quan trọng mà chính phủ phải có được từ dân chúng để họ tin tưởng mà thay đổi kỳ vọng của mình theo ý chí của chính phủ. Để đạt được điều này, chính phủ phải cam kết và thực hiện đúng việc cắt giảm chi tiêu của các cơ quan công quyền (bao gồm cả thu nhập của công chức) đồng thời với việc tăng trợ cấp và an sinh xã hội để hỗ trợ cho những người bị mất việc làm; điều chỉnh mức thuế thu nhập cá nhân để phù hợp với thu nhập thực tế bị giảm xuống do lạm phát tăng. Ngân hàng Trung ương sẽ liên tục quan sát và đo lường mức lạm phát thực tế và điều chỉnh nhanh chóng lãi suất theo nguyên tắc thực dương, tức là làm sao để lãi suất tiền gửi phải luôn cao hơn mức lạm phát hiện hành ở một mức cố định (gọi là lãi suất thực tế). Quá trình đo lường và điều chỉnh này phải diễn ra liên tục và nhanh chóng cho đến khi lạm phát giảm xuống mức kỳ vọng và xác lập trạng thái cân bằng dài hạn của nền kinh tế tại đó.
Không chọn lãi suất cao
So sánh với những gì đang diễn ra ở Việt Nam thì có thể thấy trước sự thất bại nặng nề của việc áp dụng lý thuyết này. Giá cả bị áp chế và dùng đó để đo lường chỉ số lạm phát. Không hề thấy chính phủ đưa ra một lộ trình cụ thể cho những chỉ số lạm phát kỳ vọng thấp dần theo từng thời điểm như thế nào, người dân chỉ được biết chung chung khi báo chí đưa tin về việc thủ tướng trả lời đại diện tập đoàn J.P Morgan Chase ngày 05-06-2008 rằng “lạm phát sẽ được hạ dần dần về mức một con số vào năm 2010”. Niềm tin thì lấy đâu ra khi mà cam kết trợ giá xăng dầu cho toàn dân bị thất hứa đột ngột, những chương trình trợ cấp cho một số đối tượng thì bị tệ quan liêu tham nhũng hạch họe và cắt xén. Có nhiều tiếng nói đề nghị xem xét điều chỉnh ngay mức đóng thuế theo pháp lệnh thuế thu nhập cho người có thu nhập cao hiện hành, thay đổi mức khởi điểm đóng thuế thu nhập cá nhân theo luật thuế mới sẽ được áp dụng đầu năm 2009 hoặc dời thời điểm thực hiện nó. Nhưng các quan chức tổng cục Thuế “thay mặt” quốc hội trả lời dứt khoát là không cần thiết. Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009 của bộ Kế hoạch Đầu tư cho biết thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2008 tăng cao, vượt xa mức dự toán và cùng kỳ năm 2007[5]. Lạm phát là một thứ “thuế” khủng khiếp đánh vào toàn dân làm giảm thu nhập thực tế của họ. Thuế nhà nước lại không điều chỉnh, đánh luôn vào phần thu nhập bị sụt giảm thì sức dân làm sao chịu đựng nổi.
Chọn phương thuốc không phù hợp, lại dùng nó một cách sai trái thì hậu quả không thể lường hết được. Chỉ xét trên mục tiêu chống lạm phát của liều thuốc này được áp dụng ở nhiều nước, chưa nói đến những hệ quả mà nó tạo ra: có rất nhiều nước đã thất bại không thể hạ nhiệt lạm phát dù họ đã áp dụng nghiêm ngặt cách dùng thuốc. Lý do: chính phủ không tạo được niềm tin đối với dân chúng. Biện pháp này trên thực tế chỉ có thể áp dụng thành công ở những nước có nền kinh tế phát triển khá cao, có một hệ thống đảm bảo an sinh xã hội rất mạnh và sâu rộng, trạng thái kinh tế đã đạt gần tới mức toàn dụng lao động và sản lượng tiềm năng[6]. Nhưng điều quan trọng và trên hết là nội lực của nền kinh tế đó đã phải rất mạnh để chống lại những hệ quả do tác động của ngoại lực gây ra. Một cơ thể yếu không thể dùng một liều thuốc mạnh. Những thầy thuốc danh giá đã không hề cảnh báo cho con bệnh như vậy. Tệ hại hơn, họ lờ đi một điều kiện ban đầu rất quan trọng của lý thuyết này: “tốc độ lưu thông tiền giả định là không thay đổi”. Tốc độ lưu thông tiền là tốc độ lưu chuyển của lượng tiền trong một nền kinh tế. Tốc độ này càng cao thì lượng tiền cần càng ít cho cùng một khối lượng giao dịch.
Đây là điều thực sự rất có ý nghĩa đối với việc quản trị kinh tế vi mô lẫn vĩ mô. Trong quản lý doanh nghiệp, nếu mỗi năm cần tạo ra mức doanh số 100 đồng mà số vòng quay vốn chỉ đạt 1 vòng/năm thì người ta cần đến 100 đồng vốn, nhưng nếu quay được 2 vòng/năm thì người ta chỉ cần 50 đồng vốn, nếu 4 vòng/năm thì chỉ cần 25 đồng vốn. Cứ thế, tốc độ quay vòng càng nhanh người ta càng cần ít vốn. Trong kinh tế vĩ mô cũng vậy, cùng một giá trị sản lượng (GDP) nếu môi trường kinh tế thông thoáng, vận hành trơn tru, tốc độ lưu thông tiền nhanh chóng thì nền kinh tế đó sẽ cần một lượng tiền ít hơn so với tình trạng ngược lại. Lý thuyết nói trên ngụ ý rằng khi mà tốc độ lưu thông tiền đã đạt mức tối ưu, không còn có thể cải thiện hơn được nữa bằng những biện pháp khác, thì gia tăng lãi suất lúc đó là cách khả dĩ duy nhất nhằm gia tăng tốc độ lưu thông tiền để giảm lượng cung tiền nên giảm được lạm phát. Điều này một lần nữa giải thích vì sao lý thuyết này chỉ có thể áp dụng cho những nền kinh tế đã có trình độ phát triển cao, tệ quan liêu tham nhũng ở mức rất thấp.
Tốc độ lưu thông tiền
Như vậy bản chất của vấn đề là gia tăng tốc độ lưu thông tiền. Hiểu được điều này Việt Nam ta có thể tự xây dựng một phương thức chống lạm phát hữu hiệu mà không tạo ra những hậu quả nghiêm trọng kèm những tác động khác không lường trước được. Về nguyên lý, khi gặp tình trạng lạm phát tiền thì một là hút lượng tiền đã cung ứng thừa trở về, hai là tăng sản lượng (tức là giá trị của cải) tương ứng với lượng tiền đã cung thừa ra. Phương thức thứ nhất dùng lãi suất đã phân tích là không phù hợp vì sẽ tạo ra những hậu quả nghiêm trọng. Phương thứ thứ hai thì nguy cơ ở chỗ lạm phát có thể tác động nhanh và mạnh gây sụp đổ nền kinh tế trước khi nó có thể tạo ra một lượng của cải cân bằng. Tuy nhiên, trong cái rủi có cái may: tốc độ lưu thông tiền hiện nay của nền kinh tế Việt Nam quá thấp[7] mà lý do chính của nó cũng là do tệ quan liêu tham nhũng gây ra. Quyết tâm cải cách hành chính thực sự và kiên quyết chống tham nhũng thực tâm sẽ có thể tăng tốc độ lưu thông tiền của cả nền kinh tế lên nhiều lần. Nó không những không tạo ra hệ quả xấu mà còn gia tăng hiệu quả đầu tư vốn (ICOR) cho cả nền kinh tế.
Thành phần kinh tế nhà nước lâu nay chiếm tỷ trọng khoảng 37% GDP. GDP là đại lượng đại diện tốt nhất cho khối lượng giao dịch trong quá trình lưu thông vận hành của một nền kinh tế. Có nghĩa rằng thành phần kinh tế nhà nước chiếm đến 37% các giao dịch kinh tế. Nền kinh tế được vận hành theo một chu trình khép kín mà nhà nước, doanh nghiệp và người dân là những mắc xích quan trọng. Ở Việt Nam nhà nước tham gia vào chu trình này với hai tư cách, vừa là doanh nghiệp, vừa là chính phủ. Do vậy sự ì ạch của khu vực nhà nước sẽ tạo ra sự chậm chạp, tắt nghẽn ở cả hai mắc xích lớn tập trung nhiều lưu lượng, gây ảnh hưởng dây chuyền lên toàn bộ chu trình và những mắc xích còn lại. Những doanh nghiệp tư nhân làm ăn với những doanh nghiệp nhà nước luôn phải chịu thiệt thòi về vòng quay vốn, chẳng có hợp đồng nào dù nhỏ có thể thu hồi tiền dưới 1 năm, trung bình là 2 năm, dài thì có khi vài ba năm. Cung cấp hàng hóa dịch vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước thì còn tệ hơn nữa.
Các giao dịch giữa người dân, doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước theo nghĩa công bộc của dân thì lại càng tồi tệ. Muốn nhận được tiền thoái thu thuế thì không khác gì ăn xin. Tiền vốn đã bỏ ra nhập hàng phải nằm chờ hải quan kiểm hóa thông quan đến cả tuần lễ. Tiền và vât liệu xây dựng nằm chờ để xin được giấy phép xây sửa nhà. Có thể kể cả tháng mà không hết tất cả những thứ tương tự làm tắt nghẽn lưu thông tiền. Thu hồi vốn chậm nên doanh nghiệp và người dân phải vay tiền ngân hàng, vì thế lượng cung tiền gia tăng trong khi giá trị của cải (sản lượng) chẳng tăng lên chút nào mà còn phải chia sẻ cho các ngân hàng do lãi suất vay. Lạm phát ở Việt Nam trong nhiều năm liền luôn ở mức cao là vì vậy. Giới ngân hàng nhờ đó hưởng lợi lớn quá dễ dàng mà chẳng cần sáng tạo cung cấp thêm dịch vụ gì có lợi cho doanh nghiệp và người dân. Kết quả là đã tạo ra ma lực kéo người ta ùn ùn bỏ vốn đi lập ngân hàng. Một số ngân hàng cho vay vô tội vạ mà không ý thức rằng mình đang “in” thêm tiền cho nền kinh tế.
Tốc độ lưu thông của cả nền kinh tế chậm đến là vậy. Thế nhưng ở một vài lĩnh vực cục bộ thì lại có tốc độ nhanh đến dị thường, quay vòng nhanh lẹ đến chóng mặt. Đó chính là thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Chẳng có đâu trên thế giới mà chứng khoán lên ồ ạt rồi xuống ào ào trong vòng một vài tháng, bất động sản thì sốt rồi đóng băng vài ba lần chỉ trong vòng hơn 3 năm. Ai cũng hiểu là do những nhóm lợi ích mạnh thao túng, nhưng thực tế là họ chẳng thể làm được nếu không có sự tiếp tay của quan chức nhà nước. Khi hai thị trường này sốt đến chóng mặt thì nhà nước lại hồ hởi, báo chí lại hoan nghênh. Không biết người ta có hiểu rằng đó vừa là triệu chứng của một căn bệnh nặng, vừa là nguyên nhân làm cho nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng như ngày nay hay không. Lượng tiền các ngân hàng cung ra được bơm vào vòng xoáy hút nhồi của 2 thị trường này, nó hút luôn cả những nguồn vốn trong dân và lĩnh vực kinh tế khác. Kết quả nó tạo ra là một nền kinh tế thừa tiền nhưng thiếu vốn. Lưu thông tiền vì thế lại càng chậm chạp. Nó tạo ra rất ít của cải vật chất, thậm chí không có nhưng lại sản sinh ra một lớp người có rất nhiều tiền. Lớp người này kiếm tiền quá dễ nên tiêu xài bạt mạng cho những nhu cầu xa xỉ, tạo thêm gánh nặng và cả tệ nạn cho xã hội. Sự phồn vinh giả tạo là vì thế.
Xem tiếp tại đây
Tải file pdf và prc (đọc trên di động) tại đây
Chú dẫn:
[1] Bao gồm: vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước khoảng 102 nghìn tỷ đồng, vốn trái phiếu Chính phủ đạt 25 nghìn tỷ đồng, vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước đạt 40 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước đạt 71 nghìn tỷ đồng.
[2] Bao gồm: nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 125 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 35 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 85 nghìn tỷ đồng.
[3] Tài liệu “Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009” của bộ KHĐT không đưa ra số dự báo cho năm 2010.
[4] Incremental Capital Output Ratio. Do đặc điểm về độ trễ trong hiệu quả đầu tư nên các chỉ số này được thống kê một giai đoạn dài 3 năm (2005-2007) và dùng chúng để tính mức tăng trưởng dựa trên mức đầu tư cho giai đoạn 3 năm kế tiếp (2008-2010), xem như 3 thành phần kinh tế sẽ giữ nguyên hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho tăng trưởng. Tình hình thực tế hiện nay thì chỉ có thành phần kinh tế có vốn nước ngoài là có khả năng gia tăng hiệu quả này.
[5] Nguyên văn: “Thu ngân sách nhà nước 6 tháng tăng cao bảo đảm nhu cầu chi tiêu cần thiết, nhất là bảo đảm cấp đủ kinh phí thực hiện các chính sách an sinh, xã hội. Thu NSNN 6 tháng đạt 195.850 tỷ đồng, bằng 60,6% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ năm 2007 và bằng 31,3% GDP; trong đó: thu nội địa (không kể dầu thô) ước đạt 107.300 tỷ đồng, bằng 56,7% dự toán (cùng kỳ năm 2005 đạt 53,8%, năm 2006 đạt 48,8%, năm 2007 đạt 46,1%), tăng 37,3% so với cùng kỳ năm 2007; thu từ dầu thô đạt 42.210 tỷ đồng, bằng 64,3% dự toán, tăng 40,8% so với cùng kỳ. Giá dầu thanh toán tháng 6 bình quân đạt 125 USD/thùng, bình quân 6 tháng đầu năm đạt 105 USD/thùng, tăng 41 USD/thùng so với dự toán; sản lượng dầu thanh toán ước đạt 6,89 triệu tấn, bằng 44,5% dự kiến năm; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất, nhập khẩu đạt 43.740 tỷ đồng, bằng 67,8% dự toán năm, tăng 53,7% so với cùng kỳ. Cả năm 208 phấn đấu thu ngân sách Nhà nước ước đạt trên 358 nghìn tỷ đồng, tăng 11% so với dự toán năm. Trong đó: thu nội địa đạt 198 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% so với dự toán; thu từ dầu thô đạt trên 85 nghìn tỷ đồng, tăng 30,8% so với dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 71 nghìn tỷ đồng, tăng trên 10% so với dự toán. Tổng chi ngân sách nhà nước dự kiến đạt 369 nghìn tỷ đồng, giảm 7,4% so với dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển 102 nghìn tỷ đồng, tăng 4% so với dự toán. Bội chi ngân sách khoảng 59 nghìn tỷ đồng, bằng 4% GDP. Năm 2009 Tổng thu ngân sách nhà nước khoảng 379-388 nghìn tỷ đồng; tổng chi ngân sách nhà nước 461-470 nghìn tỷ đồng. Bội chi ngân sách nhà nước khoảng 87.000 nghìn tỷ đồng, bằng 5% GDP. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2009 thấp hơn năm 2008.”
[6] Thuật ngữ kinh tế học để chỉ mức sản lượng mà một nền kinh tế làm ra được nếu tất cả các lực lượng sản xuất được sử dụng đầy đủ.
[7] So với các nước phát triển thấp hơn cả chục lần, với các nước công nghiệp tới vài lần.
Tuesday August 5, 2008 - 01:06pm (ICT)
ĐÔ-LA NGOẠI SẼ ĐI TỚI ĐÂU (tiếp theo)
Được đăng bởi Tra Tu Do vào lúc 03:57
Tham nhũng hãm tốc độ
Chẳng có gì là không chính xác khi nói rằng nguyên nhân của tất cả mọi vấn đề trên làm nền kinh tế lưu thông ì ạch là do tham nhũng. Vì để được hối lộ nên những thủ tục hành chính quan liêu không thể cải thiện bất chấp quyết tâm cải cách hành chính từ trên cao. Người dân muốn được việc thì phải chi tiền bôi trơn, càng làm giảm đi nguồn vốn. Vì để được đút lót, ăn chia những món lợi béo bở từ làm giá đầu cơ chứng khoán, bất động sản nên quan chức mới tiếp tay cho những nhóm lợi ích. Tham nhũng không những làm chậm tốc độ lưu thông tiền mà còn giảm mạnh hiệu quả sử dụng vốn. Một tác động kép thật tai hại.
Tham nhũng là nhân chứ không phải là quả, không như chủ tịch nước thường nói “tham nhũng là do ta quản lý kém”. Do tham nhũng nên hệ thống quản lý kém đã cố tình được tạo ra và duy trì. Muốn chống tham nhũng thì phải hạn chế rồi tiến đến triệt tiêu động lực tham nhũng. Thế nào để làm được điều đó thì đã có nhiều góp ý gửi cho các vị lãnh đạo cao nhất từ lâu. Vấn đề còn lại là ở các vị. Chống tham nhũng vừa dễ vừa khó. Dễ vì nó chẳng tốn kém gì mà lại còn được lợi, không phải đánh đổi cái gì khác như các giải pháp chống lạm phát đang thực hiện. Khó vì nó đòi hỏi người ta phải vượt qua khỏi những gì đời thường, những vấn đề lịch sử, những vấn đề tình cảm và lợi ích cá nhân để chỉ nhắm đến một thước đo duy nhất: quyền lợi của đa số dân chúng.
Ở Việt Nam nhập siêu tăng nhanh cũng có phần đóng góp của tham nhũng. Các quan chức tham lam giờ đây thích tích trữ tài sản ở nước ngoài. Họ yêu cầu các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, nguyên liệu và dịch vụ nhập khẩu phải thanh toán tiền hối lộ ở bên ngoài. Giá nhập khẩu vì vậy mà bị nâng lên. Năm ngoái thủ tướng chính phủ có văn bản chỉ thị một số chủng loại hàng hóa mà các đơn vị nhà nước phải mua qua các doanh nghiệp trong nước thì các quan chức tham nhũng này yêu cầu các nhà thầu trong nước phải có công ty đại diện ở nước ngoài để ký hợp đồng cung ứng cho những phần hàng hóa nhập khẩu. Với mức nhập khẩu lớn như Việt Nam hiện nay, một khoản thất thoát 5-10% từ nhập khẩu của các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước cũng làm cho nhập siêu tăng thêm vài tỷ đô-la Mỹ một năm.
Chống lạm phát hiệu quả
Một lần nữa, xin được kêu gọi chính phủ hãy dừng ngay chính sách thắt chặt tiền tệ gia tăng lãi suất để chống lạm phát. Hãy tập trung gia tăng tốc độ lưu thông tiền cho cả nền kinh tế bẳng cải cách hành chính kèm chống tham nhũng triệt để. Song song đó, tập trung lành mạnh hóa ngay thị trường chứng khoán và bất động sản để đưa nó vào chu trình vận hành chung của cả nền kinh tế nhằm thực sự tạo ra của cải vật chất phục vụ cho người dân chứ không phải là công cụ để đầu cơ trục lợi. Điều này đồng nghĩa với việc nó sẽ được trả về với giá trị thực và sẽ có không ít kẻ đầu cơ phá sản. Nhưng tuyệt đối không cứu thị trường, không cứu bất kỳ ai tham gia vào thị trường bằng bàn tay của nhà nước. Thay vào đó là tập trung xác lập một thị trường hoàn toàn cạnh tranh[8], đảm bảo sự công bằng cho mọi thành phần kinh tế kể cả nước ngoài được tham gia dễ dàng vào thị trường. Nhưng nhà nước phải có những chương trình hỗ trợ (chứ không phải bảo hộ) cho các thành phần kinh tế trong nước bằng những biện pháp xanh phù hợp với qui định của WTO.
Thực tế sau gần 5 tháng thực hiện thắt chặt tiền tệ cho thấy nó chẳng mang đến kết quả nào cho việc chống lạm phát. Cung tiền thay vì phải giảm thì vẫn tiếp tục tăng nhưng tốc độ lưu thông tiền vẫn chậm chạp[9]. Tiền tăng nhưng nền kinh tế vẫn thiếu vốn, doanh nghiệp trong nước vẫn khát tiền, người dân không có niềm tin lạm phát sẽ giảm. Đua tranh lãi suất để thu hút tiền tiết kiệm trong dân thực chất không khác gì tiếp máu để nuôi những hạch ung thư chứng khoán và bất động sản. Chỉ có cách tăng cao tốc độ lưu thông tiền thì doanh nghiệp sẽ cần ít vốn đi mà vẫn có thể tăng được sản lượng nhanh chóng với chi phí thấp – một yếu tố quan trọng để giảm lạm phát. Nếu làm thật tốt điều đó thì có khi chẳng cần phải vay thêm vốn, có thể điều chuyển vốn lưu động đang dôi ra (do tốc độ quay vòng vốn được cải thiện) để đầu tư phát triển, tiếp tục tạo ra sản phẩm đáp ứng rất tốt cho nhu cầu tiêu dùng và đầu tư trong nước.
Về phía người dân, một chính sách vĩ mô đúng đắn vào lúc này là phải thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng nội địa và làm sao để người dân có đủ sức mua nhằm gia tăng thể lực, trí lực hơn nữa để thay đổi thành phần của mình cao hơn. Trí lực và thể lực của người dân là những nền tảng quan trọng để tạo ra của cải cho quốc gia, chúng càng tốt thì đất nước càng mạnh, người dân càng giàu. Có tiền mà đem cất đi thì người ta không thể thay đổi tốt hơn, xã hội không thể phát triển thịnh vượng. Quốc hội cần điều chỉnh ngay mức phải nộp thuế thu nhập dành cho người có thu nhập cao hiện hành phù hợp với mức độ lạm phát, cần đình hoãn việc thi hành luật thuế thu nhập cá nhân vào đầu năm sau đến một thời điểm thích hợp. Việc này chắc chắn sẽ tạo niềm tin cho dân chúng rất lớn để tiếp tục đầu tư vào tương lai, thay vì hoài nghi phòng thủ bằng những kế hoạch dự phòng tiêu cực như hiện nay. Khi không có niềm tin thì việc làm đó của người dân là chính đáng.
Việc lành mạnh hóa thị trường chứng khoán và bất động sản sẽ thực sự giải nguy cho các ngân hàng vốn đang rất nguy cấp vì bị chôn một lượng tiền cực lớn vào đó. Không những thế, nó còn làm giảm ngay áp lực đua tranh gia tăng lãi suất. Cùng với lượng vốn cần ít đi do tốc độ lưu thông tiền tăng mạnh chắc chắn sẽ kéo lãi suất xuống mức thấp. Làm thật tốt thì kéo lãi suất xuống dưới 10% trong năm nay không phải là việc quá khó. Chính phủ không được can thiệp, ngược lại cần hỗ trợ các ngân hàng phát mãi các tài sản thế chấp không thanh toán được nợ cho dù con nợ đó có là ai. Số tiền thu hồi về có thể không thể bằng lúc cho vay ra nên phải chịu lỗ nặng, nhưng lỗ nặng còn hơn là sụp đổ lúc chưa kịp lỗ. Dù sao các ngân hàng cũng đã được hưởng lợi quá lớn thời gian trước. Ngân hàng không còn nguy cơ, doanh nghiệp không bị khát vốn, người dân không cần thủ nhiều dự trữ thì sức mạnh của những kẻ ghim giữ tiền với những mưu tính thâm hiểm sẽ giảm đi một cách đáng kể.
Những kẻ này muốn đưa tiền vào lưu thông cũng không phải dễ nếu như chính phủ có biện pháp chống đầu cơ hữu hiệu. Muốn vậy thì giá cả phải được hoàn toàn linh hoạt theo nguyên tắc thị trường đồng thời với việc chính phủ phải tập trung giám sát và chế tài nghiêm ngặt việc tuân thủ luật pháp để duy trì một môi trường cạnh tranh quyết liệt. Việt Nam đã có đủ những bộ luật như vậy, điều cần thay đổi là sửa các nghị định để tăng mức xử phạt hành chính lên thật cao, thật thích đáng. Việc ghìm giá chẳng mang đến lợi ích gì ngoài việc tiếp tay cho tham nhũng và làm giảm động lực đầu tư cho sản xuất để gia tăng sản lượng.
Duy nhất ba mặt hàng là xăng dầu, điện, nước cần được nhà nước trợ giá. Việc nâng giá xăng dầu vừa rồi chính phủ đã bỏ mất một cơ hội và công cụ quan trọng để tạo sự bình ổn vĩ mô. Nếu giữ mức giá cũ thì ngân sách nhà nước chỉ cần bù không quá 15 ngàn tỷ đồng trong năm nay (không thể là trên 70 ngàn tỷ như bộ trưởng Tài chính phát biểu). Con số này quá nhỏ so với thu 85 ngàn tỷ đồng từ dầu thô vào ngân sách 2008, nó chưa bằng khoản thặng dư tăng thêm do giá dầu thô tăng vọt. Trong tình hình vĩ mô rất nhiều biến động, các nhà quản lý rất cần một số cái neo để cố định một vài yếu tố đầu vào quan trọng. Khủng hoảng giá dầu thế giới gây rối loạn cho rất nhiều nền kinh tế. Nhưng Việt Nam may mắn khai thác được dầu thô. Dùng thặng dư do tăng giá dầu thô để trợ cấp giữ cố định giá xăng dầu cho toàn dân, cho cả nền kinh tế là biện pháp vừa hợp đạo lý, vừa mang lại hiệu quả cao. Nhiều ý trả lời, phát biểu của nhiều quan chức chính phủ cho thấy những quan điểm sai lầm: trợ giá là phi kinh tế thị trường trong khi đó các mệnh lệnh hành chính để áp chế giá cả lại được xem là cần thiết của chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Những phản bác chỉ trích về việc trợ giá xăng dầu nếu có sẽ đến từ những nước thành viên WTO, nhưng tới hiện nay Việt Nam chưa bị ràng buộc bởi những việc làm như thế. Giá xăng dầu đã được điều chỉnh lên bằng mức ở Mỹ, ở Úc. Thế nhưng bộ trưởng Tài chính vẫn dự kiến có thể sẽ phải bù trên 50 ngàn tỷ đồng cho đến cuối năm nay thì thực sự phải đáng lo ngại.
Quốc doanh và tư nhân
Cần tạo điều kiện ngay cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia vào tất cả các lĩnh vực kinh doanh mà Việt Nam đã cam kết mở cửa cho nước ngoài theo lộ trình gia nhập WTO, sắp tới là hiệp định đầu tư song phương với Mỹ. Doanh nghiệp tư nhân hiện nay không chỉ bị hạn chế đầu tư bởi lãi suất cao mà còn bị gạt ra bên ngoài bằng rào cản pháp lý. Những lĩnh vực có khả năng sinh lời cao hiện nay chỉ dành cho doanh nghiệp nhà nước và được cam kết cho nước ngoài tham gia vào sau 3 đến 5 năm gia nhập WTO. Doanh nghiệp trong nước không có lý do gì không thể tận dụng lợi thế đi trước trên sân nhà. Doanh nghiệp tư nhân thì không được làm, doanh nghiệp nhà nước cả năm nay dồn sức cho những khoản đầu tư vào chứng khoán, tài chính-ngân hàng, bất động sản và nhiều việc trái nghề khác, giờ thì loay hoay với cắt giảm đầu tư công. Điều này lại càng tạo ra thêm những khoảng trống tai hại cho các doanh nghiệp nước ngoài dễ dàng lấp vào.
Hơn nữa, cần thay đổi vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước là để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân phát triển, chứ không phải trở thành những đối thủ cạnh tranh mạnh, trực diện với khu vực tư nhân như hiện nay. Với tiềm lực lớn, các doanh nghiệp nhà nước luôn phải đi tiên phong để đầu tư vào những hạ tầng kỹ thuật đòi hỏi đầu tư lớn để phục vụ, hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ, xem họ là khách hàng của mình. Người ta sẽ phải hỗ trợ và nâng đỡ khách hàng của mình chứ không thể chèn ép như tình trạng hiện nay. Làm được như vậy thì cả 2 khu vực doanh nghiệp trong nước đều mạnh, tạo ra một nội lực rất khỏe. Chính sức mạnh này sẽ cuốn các đầu tư nước ngoài vào để gia tăng thêm giá trị và sức mạnh cho guồng máy kinh tế Việt nhờ kết hợp với công nghệ ngoại và kết nối với thị trường quốc tế. Với thực trạng “chia rẽ” như hiện nay nền kinh tế đã yếu lại còn yếu hơn khi dòng vốn ngoại ập vào. Khối ngoại sẽ điều khiển cuộc chơi, những tập đoàn và tổng công ty nhà nước sẽ chẳng khác gì những con hổ giấy, dễ dàng bị xé nát, bán rẻ.
Một khi các doanh nghiệp nhà nước mạnh lên theo như cách đã đề cập ở trên, tự nó sẽ tạo ra một động lực giải tư lành mạnh đặt trên lợi ích của quốc gia hài hòa với tất cả các thành phần kinh tế. Động lực như vậy sẽ hoàn toàn khác với những kiểu động lực của cổ phần hóa hiện nay. Khách hàng – những doanh nghiệp tư nhân đương nhiên là muốn được sở hữu một phần các nhà cung cấp chủ lực của mình, ngược lại thì các nhà cung cấp này cũng muốn khách hàng của mình trở thành cổ đông. Điều này sẽ tạo ra những cấu trúc cổ đông hiệu quả, chặt chẽ nên càng gia tăng giá trị của doanh nghiệp. Sẽ thực sự tai hại nếu nghĩ rằng chỉ có cách bán rẻ cổ phần cho các nhà đầu tư chiến lược (được hiểu là nước ngoài) thì mới có thể làm cho doanh nghiệp nhà nước mạnh lên.
Chính trị và xã hội
Nếu không chấp nhận thay đổi và thay đổi nhanh chóng từ nay đến cuối năm 2009 thì chắc chắn rằng nền kinh tế Việt Nam sẽ lệ thuộc mạnh mẽ vào nước ngoài khi những cam kết mở cửa sâu rộng với quốc tế có hiệu lực. Hãy nhìn vào nhiều nước ở châu Mỹ La tinh mà xem, nước ngoài sở hữu và chi phối hầu hết nền kinh tế. Những nơi đó có rất nhiều những tập đoàn khổng lồ nhưng chẳng thấy hoạt động hay tiếng tăm gì ở ngoài nước. Chúng xây rào để tập trung khai thác tối đa thị trường nội địa với giá cắt cổ. Những kết nối với thị trường quốc tế của chúng nếu có cũng chỉ là gia công nhờ lao động rẻ, xuất khẩu nguyên liệu, khoáng sản, nông sản nhờ lợi thế thiên nhiên. Chúng bóp chết cạnh tranh để liên kết thỏa thuận với nhau kiểm soát thị trường, bóng dáng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ gần như không có. Vì thế mà thành phần trung lưu cũng chẳng tồn tại. Một nền kinh tế như thế thì có khác gì với kiểu của các nước thuộc địa thời thực dân.
Ở những nước này, người ta sẽ dễ choáng ngợp với những đô thị nguy nga tráng lệ nhưng những người buôn bán nhỏ lẻ bị cấm đoán ở đó. Xã hội phân chia ra hai thành phần ở hai thái cực, tầng lớp thượng lưu chỉ dưới 1% dân số nhưng sở hữu đến hơn 50%-60% lượng của cải của toàn xã hội, kiểm soát đến 80%-90% cả nền kinh tế, 99% thành phần bình dân nghèo chia nhau phần còn lại. Ở bất kỳ đất nước phát triển nào, thành phần trung lưu luôn là lực lượng và động lực để dẫn dắt sự tiến bộ của toàn xã hội. Giáo sư Joseph E. Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh tế năm 2001 viết: “Tầng lớp trung lưu là tầng lớp có truyền thống ủng hộ sự cai trị bằng luật pháp, ủng hộ giáo dục phổ thông cho mọi người và ủng hộ tạo lập hệ thống an sinh xã hội. Đây là những yếu tố cơ bản cho một nền kinh tế lành mạnh và sự xói mòn của tầng lớp trung lưu đã đồng thời kéo theo sự giảm sút ủng hộ những cải cách quan trọng này... Trong lịch sử, tầng lớp trung lưu luôn là trung tâm trong xây dựng xã hội dựa trên những nguyên tắc luật pháp và giá trị dân chủ”.[10] Chính vì vậy mà tầng lớp thống trị ở những nước này không muốn tồn tại thành phần trung lưu. Không có thành phần này dẫn dắt nên lá phiếu đa số của thành phần bình dân nghèo rất dễ bị lợi dụng và thao túng.
Ở Peru vào năm 1990 người dân nước đó đã bầu một người Nhật, với khuôn mặt Nhật, cái tên cũng Nhật – Fujimori - lên làm tổng thống trong 10 năm liền. Sau một vài chương trình mị dân đầu nhiệm kỳ, Fujimori bắt đầu thực hiện những chính sách hạn chế cạnh tranh làm lợi cho các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt từ Nhật. Kinh tế Peru có thời tăng trưởng rất cao nhưng phân hóa xã hội và giàu nghèo lại càng trầm trọng. Cuối cùng ông ta bị hạ bệ trong lúc đang công du ở Nhật. Sau đó người dân phát hiện ra tổng thống của mình đã khai man là sinh trưởng ở Peru, thực chất là sinh ra ở Nhật, gần trưởng thành mới tới Peru.
Văn hóa và bản sắc
Một nền kinh tế bị bóp chết cạnh tranh không chỉ tạo ra các vấn đề về kinh tế. Ở một môi trường cạnh tranh quyết liệt thì cạnh tranh cao nhất cuối cùng là cạnh tranh con người, cạnh tranh chất xám. Chỉ khi đó con người mới thực sự được tôn trọng. Xem xét tác động của việc này ở khía cạnh văn hóa và bản sắc sẽ thấy nó ảnh hưởng quan trọng như thế nào. Một doanh nghiệp nước ngoài vào làm ăn tại một địa phương nào đó. Nếu buộc phải cạnh tranh thì họ phải có những chính sách nâng đỡ tài lực, thể lực và trí lực của người lao động địa phương. Muốn vậy họ phải xây dựng những chính sách quản trị phù hợp với văn hóa địa phương để ưu đãi và thu hút nhân tài về cho họ. Kết quả là chính lực lượng lao động này sẽ tăng cường tính văn hóa địa phương kết hợp sự giao thoa với văn hóa du nhập từ doanh nghiệp nước ngoài để tạo nên những thành tựu văn hóa mới của địa phương đó mà không mất đi bản sắc. Tiến đến là làm giàu văn hóa đó đến mức có thể lan tỏa ra những khu vực khác, cộng đồng khác.
Nhưng nếu ngược lại, ở một môi trường cạnh tranh không phải là sống còn và tại đó thu hút đầu tư nước ngoài là nhờ nguồn lao động rẻ. Lực lượng lao động đó không đủ mạnh về tri thức và năng lực, hay chỉ là những lao động giản đơn thì thường phải tranh giành để làm việc cho doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp này không việc gì phải nương theo văn hóa địa phương để xây dựng các chính sách quản trị phù hợp mà ngược lại người lao động địa phương đó phải thỏa mãn ông chủ nước ngoài, hành xử hoàn toàn theo văn hóa của họ. Kết quả là lực lượng lao động địa phương sẽ đánh mất đi bản sắc văn hoá của mình và để văn hóa ngoại du nhập lấn át. Còn nhiều những quan hệ giao tiếp văn hóa ở nhiều lĩnh vực và cộng đồng khác nhau nhưng chắc chắn rằng trong thế giới ngày nay văn hóa chịu ảnh hưởng rất mạnh bởi các sản phẩm, dịch vụ và phương thức quản trị của các doanh nghiệp.
Hoàng yến và diều hâu
Những đồng đô-la ngoại luôn có sức ảnh hưởng lớn, làm chuyển biến sâu sắc và tác động khốc liệt một cách toàn diện đến tất cả các khía cạnh kinh tế, xã hội lẫn chính trị của những nơi mà nó đi đến. Dù vậy kết quả của những tác động này sẽ thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào thái độ phản ứng và sức mạnh của nội lực. Những mong tầng lớp trí thức, tầng lớp trung lưu của đất nước hãy thực sự quan tâm, nghiên cứu và lên tiếng cảnh bảo cần thiết cho cả xã hội. Có nhiều định nghĩa về trí thức, nhưng thật đơn giản: trí thức là dùng trí tuệ của mình để thức xã hội; thức là thức tỉnh, là đánh thức người ngủ mê, là làm cho người khác nhận thức đúng. Người có học mà không làm được chữ thức thì không thể gọi là trí thức, lại còn để bị ru ngủ nữa thì thật nguy hiểm cho xã hội. Xã hội Việt Nam ta bây giờ không ngủ nhưng vẫn mê.
Những tiếng nói đại diện cho ngoại lực ngày càng có sức ảnh hưởng mạnh hơn trong xã hội Việt Nam. Lý thuyết dùng lãi suất cao để chống lạm phát ra đời từ những năm đầu thế kỷ 20 bởi nhà kinh tế học nổi tiếng Irving Fisher, nhưng các nước phát triển ngày nay chưa bao giờ áp dụng nó mãi cho đến những năm cuối thập kỷ 1970. Đơn giản vì nó chưa phù hợp với tình trạng lúc đó của họ. Ấy vậy mà phương thức này lại được quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) áp đặt cho rất nhiều nước cần sự trợ giúp, bất chấp sự thất bại rõ ràng của những nơi đã dùng trước đó. Giáo sư Joseph E. Stiglitz, cựu phó chủ tịch ngân hàng Thế giới (World Bank), đã từng lên tiếng phản đối quyết liệt phương thức này vì ông thấy rõ những hậu quả của nó gây ra cho các nước đang phát triển. Sau nhiều lần thuyết phục ông giữ im lặng không được, World Bank đã sa thải ông vào đầu năm 2000. Việt Nam chưa cầu viện chính thức tới sự trợ giúp của IMF nhưng phương thuốc này đã đang được đưa vào áp dụng ở Việt Nam quá dễ dàng. Nó được rao giảng rất nhiều bởi các chuyên gia nước ngoài với sự ủng hộ tuyên truyền mạnh mẽ của nhiều tờ báo lớn. Kinh tế học không phải là kỹ thuật – công nghệ mà có thể đi tắt đón đầu.
Nếu chúng ta không lên tiếng, không làm gì thì những sự ảnh hưởng như vậy không chỉ dừng lại ở một phương thuốc. Danh nhân Cao Bá Quát đã từng chia trí thức thành ba loại, ứng với ba loài chim. Loại thứ nhất là hồng hạc bay giữa trời xanh. Loại thứ hai là hạc đen ẩn bên sườn núi. Loại thứ ba là hoàng yến luẩn quẩn ở chốn lâu đài của kẻ quyền quý. Ngày nay, những con chim hoàng yến không chỉ biết hót vui tai mà còn biết đồng thanh gầm gừ lại những tiếng lạ trái tai chủ. Nhưng có lẽ chính Cao Bá Quát cũng không thể ngờ rằng bây giờ nhưng con diều hâu cũng biết hót rất ngọt tai con mồi.
Gốc dân hay gốc ngoại
Vào những lúc khó khăn thế này, triết lý lấy dân làm gốc luôn đúng và càng có ý nghĩa. Chúng ta vẫn thường nghe tuyên truyền như vậy nhưng diễn biến thực tế lại không hoàn toàn đúng thế. Trong một lần trả lời thời báo Kinh tế Việt Nam vào ngày 12-06-2008 về việc làm sao để củng cố lòng tin của người dân vào chính sách tiền tệ, thống đốc ngân hàng Nhà nước trả lời bằng cách nói rằng nó được đánh giá cao bởi đại diện tập đoàn JP Morgan Chase và phó chủ tịch ngân hàng Thế giới. Hay như mới đây, một doanh nhân nổi tiếng trong nước trả lời thời báo Kinh tế Sài Gòn ngày 03-08-2008, tờ báo này ngạc nhiên đặt câu hỏi về cơ sở cho khả năng nộp ngân sách 4,5 tỷ đô-la Mỹ/năm trên mức doanh thu 6,5 tỷ đô-la Mỹ/năm có thể tạo ra của một dự án liên doanh với nước ngoài là trung tâm phần mềm Thủ Thiêm. Vị doanh nhân này toàn mượn lời và uy của đối tác nước ngoài làm câu trả lời của mình.
Cách thức ứng xử như thế đã trở nên phổ biến ở rất nhiều thành phần trong xã hội. Tai hại hơn là nó không chỉ tạo ra một tâm lý sính ngoại mà còn định hình một niềm tin rằng có ngoại lực sẽ làm mọi thứ trở nên tốt đẹp. Sự tập kích của dòng vốn ngoại vào Việt Nam được quảng bá rộng khắp để người dân tin rằng các chính sách vĩ mô của chính phủ vẫn đúng đắn nên thu hút được người ngoài vào làm ăn, chứng tỏ môi trường Việt Nam đầy hấp dẫn và thuận lợi, khó khăn là tạm thời. Sức chịu đựng của dân được đánh giá quá cao nhưng lòng tự trọng của họ lại bị đánh giá quá thấp.
Nếu thực hiện các biện pháp chống lạm phát và khắc phục tình hình khó khăn hiện nay dựa trên nguyên tắc lấy dân làm gốc thì chắc chắn sẽ thu được kết quả tốt đẹp và nhanh chóng. Lạm phát sẽ giảm nhanh, có thể xuống dưới 10% vào năm sau. Ngược lại duy trì các giải pháp và chính sách vĩ mô như hiện nay thì lạm phát không thể dưới 35% vào cuối năm và khó có thể giảm trong năm sau. Lúc đó sức mạnh của những đồng đô-la ngoại sẽ càng lớn. Họ sẽ gây sức ép phá giá tiền đồng để giá trị tiền đô đủ bù đắp cho mức lạm phát khi giải ngân vốn đầu tư. Khi đã mất lòng dân, chính phủ lấy gì để chống đỡ ngoài việc chấp nhận “trả tỷ giá về giá trị thực”. Không dưới 22.000 VND/USD. Ở mức này, tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế nước ngoài sẽ còn lớn con số 53% đã tính toán ở mức giả định lạc quan nhiều.
Các nhà cầm quân giỏi là những người xác định được những điểm nhắm chiến lược để tập trung quân lực vào đó. Chiếm được những điểm này sẽ khống chế được cục diện của cuộc chiến. Trong quản lý kinh tế xã hội cũng vậy. Với Việt Nam hiện nay, điểm nhắm chiến lược chính là tệ quan liêu tham nhũng.
“Hiểu lòng dân, hậu dân sinh để dụng sức dân” là điều mà những người gánh vác việc lớn cần phải biết.
Trần Đông ChấnĐầu thu tháng 8, 2008.
Chú dẫn :
[8] Bảo đảm sự cạnh tranh đồng nghĩa với việc chống lại những hành động bóp chết cạnh tranh.
[9] Theo Khung hướng dẫn xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2009: “Qua 6 tháng thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, tổng phương tiện thanh toán (M2) trong nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2008 chỉ tăng 4,48% so với cuối năm 2007, thấp hơn cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước 24,62%) và tăng 24,06% so với cùng kỳ năm trước. Tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng tháng 6 giảm 7,13% so với tháng 12/2007 và giảm 17,46% so với cùng kỳ năm trước”.
[10] Trang 117 & 215 Sách Toàn cầu hóa và những mặt trái – Nhà xuất bản Trẻ – 04/2008.
And today's weather will be... FINE!
Note that at the time of writing, browser support for CSS3 marquees was very limited (or non-existent). For this reason, the WebKit version has been included in this example. Therefore, if this example does not appear to be working, try viewing it in either Safari or Google Chrome.
No comments:
Post a Comment