Monday, October 31, 2016

Cần Phải Giải Thể Chế Độ Cộng Sản Tại Việt Nam

Cần Phải Giải Thể Chế Độ Cộng Sản Tại Việt Nam

 




Tiến Sĩ
Nguyễn Văn Lương


Chuyên gia Điện Toán Kinh Tế Tài Chánh
Chuyên ngành Quản Trị Thương Mại Quốc Tế




 photo rsshome_zpselaif7cm.gif http://audio.freevietnews.com/20130202_TsNguyenvanLuong.m3u

 photo rsshome_zpselaif7cm.gifhttp://audio.freevietnews.com/20130202_TsNguyenvanLuong.mp3










 



00


0




1


2
 photo kinhtemoi_zpsphahwhfx.jpg

3
 photo

4
 photo

 

 

NGỪNG DU LỊCH & HẠN CHẾ GỞI TIỀN VỀ VIỆT NAM!

Kính thưa Đồng Bào:
Là người Việt hải ngoại, chúng tôi rất mong nước Việt Nam được tự do dân chủ thực sự, để chúng tôi có dịp đóng góp tích cực, đưa Việt Nam thân yêu của chúng ta trở thành một quốc gia phú cường, thịnh vượng hàng đầu của Đông Nam Á Châu.

Kính thưa quý vị,

Là người Việt Nam, chúng ta cần phải nhận thức rằng, chúng ta đã bị CSVN lừa đảo quá nhiều rồi và đã tốn nhiều thời gian chờ đợi vì những sự lừa đảo đó, hết thủ đoạn này đến đường lối khác. Họ tuyên truyền dối trá để xâm chiếm miền Nam. Họ dùng MTGPMN làm công cụ đánh phá miền Nam. Sau khi chiếm miền Nam, họ xây nhà tù mà bảo là trại học tập để giam người miền Nam có khả năng chỉ huy lãnh đạo. Họ không cai trị được người miền Nam bất khuất, nên đã thay đổi hệ thống lãnh đạo bằng cách dùng người miền Nam, để người miền Nam mơ tưởng là có sự cởi mở.

Rồi bây giờ, họ dùng gia đình Nguyễn Tấn Dũng để tạo sự mơ tưởng đây là một chính phủ thân Mỹ nên có những sự “yên ổn” và kéo dài chờ đợi trong dân chúng rằng, Hoa Kỳ sẽ trở lại Việt Nam. Họ bày đặt nói chủ quyền với Trung Cộng, để kêu gọi người Việt hải ngoại hợp tác, nhưng sự thực, bè lũ CSVN không ngừng bắt bớ, giam cầm người trong nước đấu tranh đòi hải đảo, đòi đất đai mà VC đã dâng hiến cho Trung cộng. Và sự thật quá rõ ràng là họ đã hoàn toàn thất bại.

Năm nay, họ đang bày trò thanh trừng, dùng người tham nhũng để chống tham nhũng. Họ bày trò đổi Hiến Pháp, cải tổ chính trị trở thành đa đảng, để lừa đối người dân VN thêm một lần nữa…

Kính thưa quý vị,

Chúng ta cũng biết rằng, Trung cộng sẽ gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn sắp tới. Không đấu tranh, CSVN cũng phải tự thay đổi, vì quan thầy của chúng đang suy xụp.

Nhưng, sự kéo dài chờ đợi của người dân Việt Nam trong giai đoạn này sẽ không có lợi cho đất nước chúng ta. Cũng như, sự chờ đợi cho đến ngày Trung cộng sụp đổ để thay đổi Việt Nam, thì e rằng quá trễ, vì những lý do sau đây:

1) Những sự chờ đợi khiến Hoa Kỳ và ngoại quốc hiểu lầm là người dân trong nước hài lòng vối chế độ hiện tại, và chấp nhận những gì đang có.

2) Tài nguyên bị tịch thu bán cho ngoại quốc để trục lợi cho bè nhóm chế độ hiện hữu, cang ngay cang gia tang. Đã không biết bao nhiêu mẫu đất từ Bắc xuống Nam của người dân bị tịch thu bán cho ngoại quốc… Tuy người dân trong nước có chống đối nhưng không hiệu quả.

3) Sự nô lệ Trung cộng càng ngày càng trầm trọng, không lối thoát, sẽ đưa đến sự đồng hóa nhanh chóng của Trung cộng, vì tình trạng di dân của khối đàn ông Tàu đến Việt Nam gia tăng trong thời gian gần đây.

4) Sự thiếu khả năng, thiếu sức mạnh của một quốc gia, khiến Việt Nam mất dần tài nguyên ngoài khơi, và hải sản. Những kẻ lãnh đạo không ngừng buôn bán ăn chia những đất đai, tài nguyên cho ngoại quốc khai thác, giống như những nhà lãnh đạo của các quốc gia độc tài khác ở Lybia, Trung Đông…

5) Ở quốc nội, sự thiếu dinh dưỡng, do thức ăn nguy hiểm từ Trung Quốc, khiến dân Việt Nam thiếu thốn các điều kiện căn bản cho đời sống. Việt Nam trở thành một quốc gia lạc hậu, chỉ biết có ăn để mà sống. Yếu tố này trực tiếp gây ra nhiều khó khăn cho sự tiến bộ của Đất Nước, sự khoẻ mạnh của xã hội. Người dân Việt chết dần mòn theo thời gian, mà không có năng xuất.

6) Ở hải ngoại, nhân tài Việt Nam già yếu, hoặc dần dần qua đời. Việt Nam sẽ mất đi những khả năng chuyên môn, tiền của, trong công cuộc tái thiết Việt Nam. Đặc biệt là mat di những gạch nối, móc nối tốt giữa người Việt hải ngoại với các quốc gia văn minh nơi họ cư ngụ.

Do đó, tất cả người Việt Nam chúng ta phải nghĩ đến những gì chính yếu, những gì chúng ta làm được, để thay đổi Việt Nam càng sớm càng tốt!! Chỉ có như thế, chúng ta mới hãnh diện với những gì chúng ta đang có đã có! Và chúng ta cùng bắt đầu cải thiện Đất Nước, đưa đời sống người dân Việt Nam lên cao, và để đưa Việt Nam trở lại vị trí “hòn ngọc của Viễn Đông”, đưa Việt Nam trở về vị trí số 1 của Đông Nam Á Châu.

Kính thưa quý vị,

Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta có nhiều ưu điểm:

1) Hoa-Kỳ hiện diện trong vùng Đông Nam Á. Đây là một điểm rất thuận lợi. Nhìn trên bản đồ thế giới, từ Âu Châu đến Á Châu, sự hiện diện của Hoa Kỳ giúp tạo ra sự ổn định. Sự ổn định đã mang lại sự dễ dàng phát triển quốc gia. Đó là chưa kể đến sự tái phối trí, lưu động, hiện hữu dài hạn của quân đội Hoa Kỳ tai vùng này!

2) Người dân từ Bắc xuống Nam bất mãn, đói khổ lầm than, họ rất mong Hoa Kỳ trở lại Việt Nam, mơ ước một sự thay đổi cho Việt Nam.

3) Hệ thống tài chánh Việt Nam gặp trở ngại một cách khá trầm trọng, sẽ bị sụp đổ bất cứ lúc nào. Tiền Việt Nam không được công nhận tại những nước ngoài. Không có Dollars, không trả được tiền lời cho những món nợ ngoại quốc, sẽ bị những quốc gia này tuyên bố Việt Nam bị phá sản, và chế độ Việt Nam phải sụp đổ như đã xảy ra cho Liên Bang Sô Viết vào đầu thập niên 1990s.

4) Chúng ta có một khối chuyên viên hùng hậu trên thế giới, có thể nói là chỉ thua nước Hoa Kỳ. Kinh nghiệm của những chuyên viên này, hấp thụ từ Đông sang Tây, từ quân sự đến dân sự, từ văn phòng đến hầm mỏ, từ tài chánh đến kỹ thuật… Họ không những chỉ có tài, mà có tiền nữa! Cộng thêm một giá trị vô giá là có sự móc nối với khối chuyên gia của dân bản xứ ! Chính vì thế, nếu đồng lòng, không có gì là chúng ta không làm được!

5) Nước Việt Nam tự do sẽ có một bộ “Ngoại Giao” vững chắc ở hải ngoại, nhờ sự hiện diện của khối người tị nạn tại những nơi họ cư ngụ, làm gạch nối với chính quyền địa phương, làm hậu thuẫn cho một Cộng Đồng Việt-Nam lớn và mạnh tại Hải Ngoại.

Kính thưa quý vị,

Chúng ta phải làm những gì?

Chế độ CSVN hiện tại chỉ còn một lợi điểm duy nhất đó là nguồn lợi tức gửi về Việt Nam gồm có: du lịch và tiền của người dân tị nạn, tiền lao động, và kinh tài thương mại tại những thành phố đông người Việt cư ngụ. Nếu không có nguồn lợi này, chế độ Việt Nam sẽ đối diện với sự sụp đổ không thể tránh khỏi.
Bởi vì:

1) ► Nền thương mại giả tạo có được tại Việt Nam hiện nay là kết quả luân lưu của tiền người Việt gửi về. Nó sẽ bị bế tắc như Trung cộng hiện tại vì không có mãi lực.

2) ► Việt Nam sẽ không có sự giao thương với quốc gia lân cận một cách mạnh mẽ: Nếu không có Dollars, những quốc gia này không mang hàng hoá thừa thãi để bán rẻ cho Việt Nam (thay vì phế thải...). Việt Nam sẽ bị cô lập!

3) ► Việc cấm xử dụng Dollars và vàng (áp dụng từ 25 tháng 5 năm 2012) trên thị trường sẽ giúp chế độ CSN kìm chế được sự lạm phát giả tạo trong nước. Nhưng trên thực tế, CSVN đang cố thu tóm đồng bạc Dollars để dùng vào việc trả các khoản tiền lời, đẻ ra từ những số tiền lớn mà CSVN đang nợ ngoại quốc. Bởi vì tiền Việt Nam không được công nhận tại những quốc gia khác trên thế giới. Nếu không có dollars để trả tiền lời cho những món nợ này, thì CSVN sẽ bị sụp đổ như Liên bang Sô Viết trước đây. Do đó, Người Việt hải ngoại và người dân đang sống cực khổ tại Việt Nam, cần phải hợp tác với nhau, và phải có kế hoạch vô hiệu hóa những nguồn lợi tức gửi về Việt Nam.

1. ☛ Hoa Kỳ có kế hoạch để người dân không xử dụng hàng hóa Trung cộng, Người Việt hải ngoại phải hành động tương tự, tẩy chay hàng hóa xuất cảng từ Việt Nam.

2. ☛ Vì danh dự của người dân Việt Nam, nếu chúng ta còn hãnh diện về quá khứ, còn ngẩng mặt lên ngạo nghễ khi Việt Nam thay đổi, thì ngay từ bây giờ, chúng ta cần làm những điều sau đây:

   a. → Không du lịch Việt Nam như người Cuba đã và đang còn áp dụng cho đất nước của họ.

   b. → Không gửi tiền về Việt Nam…

Năm 1954, chúng ta còn nhớ, hàng triệu người miền Bắc di cư vào Nam không có sự trợ giúp nào nhưng vẫn sinh sống được; và ngược lại, sau khi ổn định tại miền Nam, người di cư không gửi tiền về thân nhân, mà họ vẫn sống được… Kể từ năm 2004, người tị nạn Cuba đã thi hành đạo luật cấm gửi tiền về Cuba, đến năm 2009, chế độ CS Cuba phải thay đổi cơ chế pháp trị…

   c. → Không ủng hộ, không quyên góp cho những tổ chức từ thiện, tôn giáo, hay những tổ chức có danh nghiã từ Việt Nam. Tẩy chay hàng hóa xuất cảng từ Việt Nam.

☛ 3. Người dân trong nước phải hy sinh, để thay đổi chế độ CSVN một cách nhanh chóng hơn, bằng cách không nhận tiền của người Việt hải ngoại, hoặc khuyên người hải ngoại không gửi tiền về.

Thật là mâu thuẫn, khi chúng ta có những thỉnh nguyện thư yêu cầu chính phủ dia phuong không trợ cấp, khong viện trợ khong quà tặng chế độ VC... mà chính chúng ta lại trực tiếp hoặc gián tiếp chuyển về Việt Nam hàng tỉ dollars. Số tiền này chiếm khoảng 1/3 ngân khoản tài chánh CSVN hàng năm. Do do, sự tự nguyện không gửi tiền, không du lịch Việt Nam sẽ làm chế độ đang cầm quyền khốn đốn từ quốc nội (vì không có mãi lực), đến đối ngoại (vì không có hối đoái)…

Kính thưa quý vị:

Cộng đồng tị nạn Cuba giúp thay đổi nước Cuba được, vì họ đã quyết định không gửi tiền về Cuba, áp dụng từ năm 2004, đến năm 2009, CS Cuba đang thay đổi. Nếu chúng ta đồng lòng, chúng ta sẽ thay đổi thể chế tại Việt Nam nhanh hơn thế nữa, với sự tiếp tay của những công ty ngoại quốc cho Việt Nam vay nợ. Trước kia, những kế hoạch cấm vận, không viện trợ, phong tỏa kinh tế... không có hiệu quả, vì CSVN chỉ cực khổ mà không bị nợ nần… Ngày nay, CSVN nợ nần quá nhiều, mà không trả được tiền lời hàng tháng cho những số nợ này.

Chúng ta phải tự hỏi, Cộng đồng Cuba làm được, tại sao người Việt tỵ nạn chúng ta không làm được? Hoặc là, Chúng ta phải tự hỏi, chúng ta muốn thân nhân chúng ta sung sướng sau khi cộng sản Việt Nam sụp đổ, hay chúng ta muốn thân nhân của chúng ta, dân Việt trong nước chúng ta chết dần chết mòn trong nỗi chờ đợi như bây giờ?

Chúng ta phải suy nghĩ và tìm hưóng đi cho Việt Nam của chúng ta! Muốn chế độ CSVN phải sụp đổ sớm, điều phải làm ngay từ bây giờ là người Việt tại hải ngoại không mua hàng hóa của Việt Nam, không du lịch, và không gửi tiền về Viêt-Nam! Người Việt trong nước cũng khẳng định lập trường với thân nhân của mình, không nhận tiền từ nước ngoài gửi về dù nhiều hay ít!

Tôi tin chắc chắn rằng, với sự hợp tác của người Việt trong và ngoài nước, chỉ trong một tương lai gần, rất gần… nước Việt Nam sẽ được giải thoát khỏi ách cộng sản! Và với sự đóng góp của người Việt hải ngoại cho một nước Việt Nam không cộng sản! Nước Việt Nam sẽ được kính phục khắp năm châu, trong đó có cả kẻ thù của chúng ta tại phương Bắc: Trung Cộng.

Xin kính chào quý vị trong tinh thần cương quyết giải thể chế độ cộng sản tại Việt Nam, để quang phục Quê Hương, đưa Việt Nam đến sự phú cường thịnh vượng nhất tại Đông Nam Á Châu!

Tiến Sĩ Nguyễn Văn Lương

Hoa Kỳ, tháng Giêng 2013

⚫----> Ngừng/hạn chế du lịch về Việt Nam

⚫----> Ngừng/hạn chế gởi tiền về Việt Nam

Kính chuyển AUDIO và TEXT bài phát biểu đặc biệt của Tiến sĩ Nguyễn Văn Lương, chuyên gia kinh tế tài chánh, tị nạn 1975, làm việc tại Hoa Kỳ & nhiều quốc gia hải ngoại. Bài phát biểu và các thảo luận này được thu âm qua hệ thống PALTALK ngày Chúa Nhật 10-6-2012. Kính chuyển audio bài nhận định ghi chép.

Phần 1:
20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part1.mp3

 



20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part1.mp3
Phần 2:
:
20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part1.mp3 20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part2.mp3
Phần 3:
20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part3.mp3
Phần 4:
20120610_Paltalk8406_212_TsNguyenVanLuong_part4.mp3
----
Thứ năm, tháng năm 24, 2012
Tóm tắt 7 điểm chiến dịch “xiết kiều hối”

Ngày 30-4-2012, Tiến sĩ Nguyễn Văn Lương, chuyên gia kinh tế tài chánh tị nạn 1975 tại Hoa Kỳ đã phát biểu và thảo luận về chiến dịch ngừng du lịch Việt Nam, ngừng gửi đô-la Mỹ (hay còn gọi là chiến dịch xiết kiều hối) trên mạng PALTALK nhân dịp tưởng niệm ngày Quốc hận 30-4.

Buổi thảo luận hết sức sôi nổi và đã thu hút được sự quan tâm của rất nhiều đồng bào hải ngoại chung chiến tuyến chống cộng sản. Do bản transcript của cuộc thảo luận trên PALTALK này tương đối dài nên tôi xin phép tóm tắt ngắn gọn lại trong 7 điểm sau cho bạn đọc gần xa rõ ràng hơn.

1. Đồng bào hải ngoại tị nạn không du lịch Việt Nam.
2. Dừng việc gửi tiền kiều hối quá mức về Việt Nam (chỉ gửi hạn chế không quá $50/tháng).
3. Tẩy chay hàng hóa nhập cảng từ Việt Nam.
4. Không ủng hộ, quyên góp cho các tổ chức tôn giáo, từ thiện, danh nghĩa tại Việt Nam.
5. Vận động chính phủ quốc gia nơi đồng bào cư trú ban hành đạo luật cấm gửi tiền và du lịch Việt Nam.
6. Du lịch và gửi đô-la Mỹ về Việt Nam là PHẢN QUỐC!
7. Du lịch và gửi đô-la Mỹ là nuôi chế độ VC sống lâu thêm!
Trong buổi thảo luận công khai trên mạng, TS Lương đã vạch rõ ra cho chúng ta thấy vai trò quan trọng của đồng đô-la (kiều hối) đồng bào gửi về Việt Nam đã giúp cho chế độ VC tồn tại ra làm sao. Đồng thời TS Lương cũng chỉ rõ rằng đây là thời điểm sống còn đối với nền kinh tế Việt Cộng.

Chúng ta không thể ngồi chờ Trung Cộng sụp đổ hay Hoa Kỳ trợ giúp nữa mà hãy hành động chống Việt Cộng ngay lập tức bằng công cụ mình đang nắm trong tay, đó là những đồng đô-la chúng ta gửi về cho thân nhân. Số tiền kiều hối hàng năm chúng ta gửi về đóng góp một khoản không nhỏ trong nền kinh tế Việt Cộng và giúp chế độ này tiếp tục sống thoi thóp qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế hiện nay.

Vậy chúng ta còn chờ gì nữa mà không đồng lòng xiết kiều hối, ngưng du lịch, tẩy chay hàng hóa độc hại nhập cảng từ Việt Nam để giật sập nền kinh tế Việt Cộng trong lúc nó đang yếu nhất, qua đó làm lung lay tận gốc rễ chế độ Việt Cộng tham nhũng, bán nước, hại dân.

Đài Loan bị hất ra khỏi Liên Hiệp Quốc làm được, giữ được đất nước của họ, tại sao Việt-Nam chúng ta không làm được?

Do Thái đơn độc đối diện với khối Trung Đông được, giữ được chủ quyền được, tại sao Việt-Nam chúng ta không làm được?

Cộng đồng tị nạn Cuba thay đổi nước Cuba được, vì quyết định không gửi tiền về Cuba, tại sao tị nạn Việt-Nam chúng ta không làm được?

Sự ích kỷ cá nhân của chúng ta đang góp phần giết chết đất mẹ Việt Nam bằng cách du lịch, gửi tiền về Việt Nam nuôi dưỡng chế độ Việt Cộng.

Kính mong quý vị phổ biến tin tức về chiến dịch này đi xa.

Mỗi người chúng ta là một chiến sĩ truyền tin.

Transcript:
http://www.congdongnguoiviet.fr/DienDan3/1205CDNgungDuLichGTVeVNh.htm

Audio:

Phần 1:
http://lacvietnews.com/ta8406/20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part1.mp3

Phần 2:
http://lacvietnews.com/ta8406/20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part2.mp3

Phần 3:
http://lacvietnews.com/ta8406/20120429_Paltalk8406_206_TsNguyenVanLuong_part3.mp3
MỖI NGƯỜI LÀ MỘT CHIẾN SĨ

----> Ngừng/Hạn Chế Du Lịch & Gởi Tiền về Việt Nam

Hưởng ứng chiến dịch "xiết kiều hối"!

NGỪNG DU LỊCH, HẠN CHẾ GỞI TIỀN VỀ VIỆT NAM

-- để nhanh chóng làm sụp đổ chế độ Việt Cộng!

-- để nhanh chóng đuổi giặc Tàu!

-- để nhanh chóng Cứu Nước!

Hải ngoại ngày 2 tháng 2, 2013

http://motgoctroi.com/DienDan/Dd_Taichanh/NVLuong_NPLien/NgungDulich_GoiTien.htm


Sunday, October 23, 2016

Tôi hiểu Việt cộng là gì... Việt Cộng là cộng sản Việt Nam

 







Tôi Hiểu Việt Cộng Là Gì...


Tôi hiểu Việt cộng lần đầu tiên là khi tôi khoảng bốn hoặc năm tuổi, vào khoảng năm 1978-79.
Việt cộng vô nhà tôi tịch thu đồ đạc, họ lấy chiếc xe đạp có bánh xe mập màu trắng mà khi đó tôi đang tập chạy.

Tôi còn nhớ khi đó tôi khóc rất thê thảm, trong lòng thật sự cảm thấy đau đớn oằn oại, cảm giác mà sau này đọc "The Thorn Birds", tôi có thể đồng cảm với cô bé Meggie trong đó, khi cô bé này bị mất con búp bê.

 photo o-142732610-facebook_zpsugywpeo8.jpg Đối với một đứa trẻ nhỏ thì chiếc xe đạp, hay con búp bê, là cả thế giới của họ.
Việt cộng đành lòng nào mà vô giựt như vậy, sau khi đã lấy nhiều nhà cửa, đất đai, của gia đình tôi!

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tuổi thơ tôi đã mất đi theo chiếc xe đạp bị đánh cắp.
Mẹ tôi không nói gì, sau đó chỉ nói:

— "Sao con lại khóc trước quân thù, kẻ thù?"

Trước đó, tôi có kẻ thù nào đâu, con nít năm tuổi làm gì biết kẻ thù là gì.

Nhưng sau đó thì tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Nguồn: Internet



 

 

====

 







Tôi hiểu Việt cộng là gì...



Tôi hiểu Việt cộng lần đầu tiên là khi tôi khoảng bốn hoặc năm tuổi, vào khoảng năm 1978-79.
Việt cộng vô nhà tôi tịch thu đồ đạc, họ lấy chiếc xe đạp có bánh xe mập màu trắng mà khi đó tôi đang tập chạy.

Tôi còn nhớ khi đó tôi khóc rất thê thảm, trong lòng thật sự cảm thấy đau đớn oằn oại, cảm giác mà sau này đọc "The Thorn Birds", tôi có thể đồng cảm với cô bé Meggie trong đó, khi cô bé này bị mất con búp bê.

 photo o-142732610-facebook_zpsugywpeo8.jpgĐối với một đứa trẻ nhỏ thì chiếc xe đạp, hay con búp bê, là cả thế giới của họ.
Việt cộng đành lòng nào mà vô giựt như vậy, sau khi đã lấy nhiều nhà cửa, đất đai, của gia đình tôi!

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tuổi thơ tôi đã mất đi theo chiếc xe đạp bị đánh cắp.
Mẹ tôi không nói gì, sau đó chỉ nói:

— "Sao con lại khóc trước quân thù, kẻ thù?"

Trước đó, tôi có kẻ thù nào đâu, con nít năm tuổi làm gì biết kẻ thù là gì.

Nhưng sau đó thì tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.

Nguồn: Internet



 

 

Giải phóng hay ăn cướp?

 




Giải Phóng Hay Đi Ăn Cướp?

* Chúng nó rêu rao rằng chúng nó đi giải phóng miền Nam.

“Giải phóng” xong, tài sản nhà cửa của người VNCH bị chúng chiếm đoạt tất cả rồi chia nhau hưởng!

* Chúng rêu rao rằng chúng đi làm cách mạng là để xây dựng một xã hội công bằng.

Chúng đã xây dựng cái “xã hội công bằng” đó như thế nào?

Sau 30/4/1975, bằng nhiều hình thức, chúng tịch thu nhà cửa tài sản của người Miền Nam.

Nếu chúng nó là những người đi giải phóng chân chính, thì những tài sản đó chúng tịch thu rồi trao lại cho dân nghèo miền Nam, cho những kẻ không nhà, hoặc dùng vào những lợi ích dân sinh…
Nhưng không! Chúng chia nhau hưởng những tài sản chúng cướp đoạt đó và ngang nhiên trở thành giai cấp giàu có cho tới bây giờ đã gần 40 năm!

* Chúng nó rêu rao rằng chúng nó đi giải phóng miền Nam.

Cướp đoạt tài sản, nhà cửa xong, chúng còn tống khứ những người Miền Nam nghèo khổ đi “kinh tế mới” là những nơi khô cằn sỏi đá, phèn chua nước mặn, rừng thiêng nước độc, địa dư ám khí, để chúng chia chác nhau tọa hưởng thành quả “giải phóng” của chúng!

* Chúng nó đi giải phóng hay đi ăn cướp?

Sau khi chiếm được Miền Nam, Việt cộng ra lệnh đổi tiền... Mỗi gia đình chỉ được đổi 350 đồng. Tiền cũ còn lại vô giá trị... Người dân miền Nam không có tiền để sống, phải bán tài sản nhà cửa để sống, lớp đi vượt biên đường biển, lớp đi vượt biên bằng đường rừng, lớp đi vùng "Kinh Tế Mới" - Người Thành Phố ra rừng ở - bọn Việt cộng trong rừng ra - Người Rừng về thành phố ở - bỗng dưng có tiền mua không "Cưỡng Chiếm" nhà cửa của người thành phố...

* Chúng nó đi giải phóng hay đi ăn cướp?

Miền nam Việt Nam được cai trị bằng một lũ Người Rừng...

Những điều này không ai có thể quên được, lớp trẻ sinh sau năm 1970 không chứng kiến sự độc ác này.


https://vn.answers.yahoo.com/question/index?qid=20121108181554AAA18Nn



 

 

1
Ngày chúng nó vào đây

 




 photo chuacuteng noacute_zpsozedkfuk.jpg

 

2
Vào vơ vét về

 

3

 photo hogravea bigravenh trong tagraven nhn_zpsexe5ksyz.jpg

 

4

Đẩy dân miền nam đi vùng kinh tế mới để cướp nhà, gia sản

 

5

 

 photo thng tiacuten_zpsrezxg49y.jpg

 

6






 

 



 photo sau 1975 b VC saacutet hi_zpsnrsbgy1g.jpg

 photo t thng_zpswiioelf0.jpg

 

 

 

Đảng viên Việt cộng Đỗ Mười phát biểu

 photo 2015 - 1 14_zpsriw1oa7w.jpg

 

 







Làm Thinh



Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhụm lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.

Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con - vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi - ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà!
Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan chính quyền v. v… Họ hay nói với nhau: “Vợ chồng ông Lê thật dễ thương”.

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie - người quản gia - rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.

Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: “Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy”.
Ông Lê giới thiệu:

— “Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia”.

Sau đó, ông nói:

— “Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho”.

Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói:

— “Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm”.

Ông Jean Marie hỏi:

— “Còn bà cụ đâu? Sao không cùng ra đây với ông cụ?”. Ông Lê trả lời như không trả lời:

— “Mẹ tôi ở Paris”.

Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa-long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng.
Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.

Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước - cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản - ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sài Gòn. Ông giao du rộng, lại “biết cách giao du”, thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của chính phủ và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

Ông thường nói: “Hồi tôi từ Đà Nẵng vô Sài Gòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hóa Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẵng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết.
Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết”.

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: “Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền!”.

Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói: “Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng”. Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.

Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói:

— Trời ơi! Mấy bả đi hết rồi kìa! Ông cười:

— Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, “họ” đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không? Tôi bình chân như vại!

Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp 'cách mạng' qua ngả thằng cháu - cũng gốc liên khu năm như ông - đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng “bị” mời đi “làm việc” như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng “lá bùa” đó không linh! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng.

Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để “làm việc”. Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần “làm việc” cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược!

Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa “nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo”. Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc “đổi đời vĩ đại” này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi!

Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: “Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được!”. Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa.

"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dãy nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời!” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ được chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai?

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?

Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù:

– Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì? Phải không?

Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi! Gã còn nói như ra lịnh:

– Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước. Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ?

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa: ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng!

Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ - có ba dãy nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân - và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng? v. v... đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông “phải” nghe.
Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở “chui rúc” trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng!

Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông:

– Tôi đã nhờ người quen trong tòa đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng “thần tượng” của thời trước chỉ còn là một cái bóng! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu… Đúng là một sự “đổi đời vĩ đại”!

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó.
Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle. Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại.

Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng:

– “Cha mày!”.

Rồi tiếp:

– “Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ!”

Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.

Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng Tư, nhứt là ở đoạn “mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần”. Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có “cái gì không ổn”, nhưng ông nghĩ: “Có lẽ tại nó ở bên này lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời”. Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu: – “cho tụi nó chết”.

Bỗng người con hỏi:

– Còn mấy thằng tướng ngụy?

Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:

– Mấy người đó thì ba không biết.

– Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nầy báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun!

Người con nói xong cười lên khoái trá. Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống “tụi nó” y chang!

Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu.

Về đến nhà - ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu - ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói:

– Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê - giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt - không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư. Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.

Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:

– Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.

Khi bước qua xa-long để uống cà phê, ông Lê hỏi:

– Ba má định qua đây ở chơi bao lâu?

Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời:

– Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

Người con ngạc nhiên:

– Ủa? Sao lại ở luôn? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý!

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng: nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt: chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:

– Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?

– Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết!

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.

Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách “đầy đủ và trung thực”!

Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.

Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:

– Chị bác sĩ A, sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.

Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang:

– Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.

Ông nói “xin con cho ba”, đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.

Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!

Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời!

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằn trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ.

Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng “cám ơn”, nhẹ như hơi thở.

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang.

Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết! Vợ con: hết! Sức khỏe của ông rồi cũng sẽ hết! Hết! Hết!

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.

Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.

Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn:

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.

Tiểu Tử



 

 

Thursday, October 20, 2016


slant

 photo mul_zpsfjdwakiy.jpg

 photo mul_zpsfjdwakiy.jpg

 

diagonal - 1

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.


 

 

2

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.


 

 

 

1

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.

 

 

2

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.


 

3

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.


 

 

Ca sĩ

Bài hát: Nhớ Mẹ. Tác giả: Lê Minh Đảo & Đỗ Trọng Huề Ca sĩ: Đan Nguyên, Quốc Khanh, Đoàn Phi, Cardin, Mai Thanh Sơn, Nguyên Khang. Bài hát được trích từ chương trình Asia 70- Việt Nam Quê Hương Yêu Dấu.


 

 

Tô Hải, Bùi Tín, Đào Hiếu, Osin… nói chung là những văn học nghệ thuật báo chí cs đang viết những bài báo phản tỉnh đả kích chế độ tà quyền cộng sản. nhìn sự việc từ lâu đã như thế nào.

Nhân việc nhà báo Đào Hiếu dân Tây Sơn Bình Định. Người có 20 tác phẩm viết bên lề phải gần 18 tác phẩm; nhưng chung quy có tới hầu hết tác phẩm và bài viết báo mấy chục năm, là thế lực thù địch với chân lý tự do dân chủ của toàn dân VN và của thể chế VNCH. Không kể các nhà văn nhà báo từng bồi bút cho chế độ csbkì tà quyền như Dương Thu Hương, Bùi Tín nay đã ở nước tự do dân chủ được quyền viết văn viết bài công khai bày tỏ chánh kiến, tà kiến riêng. Những nhà còn lại trong nước như Bùi Thanh, Đào Hiếu, Osin Huy Đức, Tô Hải... họ bắt đầu viết các bài báo trên webssite, blogsite để tố cáo chế độ cộng sản và sự tham ô độc ác của đảng cộng sản Việt Nam. Trong khi thực tế cái gọi là lý tưởng cộng sản đã chết trên toàn thế giới từ năm 1990 rồi. Quan trọng và đám nhỏ cần lưu ý là đám cha chú bác của mấy đứa vì chính nghĩa, đã chống cộng sản thế giới và csbkì đã hơn 75 năm trước rồi. Nên khi đám văn nhân bồi bút trong nước như Đào Hiếu trở cờ hồi chính, phản tỉnh quay về chính nghĩa quốc gia dân tộc thực sự, thì bác Tiệm và những chú bác chống cộng sản phải coi từng lời nói, từng đường đi nước bước của họ: Những kẻ từng gây tội ác khủng khiếp với nhân dân không có gì là lạ, là đa nghi như Tào Tháo cả.

Phải coi cho kỹ, rất kỹ để nhận ra những người như Đào Hiếu nay chống cộng, phản tỉnh, trở cờ là do Thân Phận vốn bồi bút của chúng (nay hết thời để Việt cộng dùng), hay thực sự chống cộng bằng Lương Tri con người của họ, trước họa nô lệ đã đè nặng trên đầu dân Việt Nam. Quan trọng hơn hết là Đào Hiếu và những người như Đào Hiếu, Bùi Thanh, Bùi Tín, Osin, Dương Thu Hương, Tô Hải... nay viết bài chống cộng vì đã thực sự nhận ra chế độ cs là tà quyền là bất lương, là vong nô bán nước. Vẫn phải đặt câu hỏi, một sự dò xét đánh giá nghiêm cẩn:

-- Bọn như Đào Hiếu chống tà quyền, nhưng có biết chính quyền, chính nghĩa chân lý dân tộc là gì không nữa. Bởi đấu tranh của dân Việt Nam hiện nay chỉ có món vũ khí duy nhứt để chống bọn csbkì độc tài vong nô chỉ có phương tiện truyền thông bằng Internet là duy nhứt, và cũng chỉ có như thế.

Nên khi những người như Đào Hiếu, Bùi Tín, Tô Hải.. vừa viết những bài mở đầu cho công cuộc phản tỉnh của họ, bác Tiệm đã liền tức thời đưa họ đến lằn ranh rõ ràng:

-- Nếu đã viết chống tà quyền cộng sản thật sự. Bác Tiệm sẽ đưa họ sang chiến tuyến đối nghịch với tà cộng liền. Đã viết chống đối tà cộng thì viết cho tới luôn, vạch cho tới tận những tội ác thâm độc mà tà cộng che dấu mấy mươi năm nay luôn.

Nhờ vậy anh nào chống cuội, ngụy phản tỉnh lập tức thụt vòi liền. Vô web, vô blog mấy người đó thấy họ ăn nói ú ớ như thằng ngọng liền, lộ ý đồ bất lương liền. Nếu tiếp tục chắc chắn không thể giả bộ đưa đẩy lấy lòng cộng đồng blogsite được nữa. Đó là:

-- Giả ngụy thành chân, tương kế tựu kế, khổ nhục kế.

Bọn nào dùng ngôn ngữ hý lộng để tiếp tục bưng bô, bác Tiệm thừa sức úp cái bô đó lên đầu chúng nó để nó phải lộ nguyên hình yêu quái ra liền. Bác Tiệm biết những bloggers hiểu về chiến thuật chiến lược đấu tranh chính trị trên phương tiện thông tin duy nhứt nầy; đã hiểu chiến thuật tranh đấu loại bỏ những tên ngụy phản tỉnh của bác Tiệm. Bác Tiệm đã tạo ra bộ lọc từ blog của bác Tiệm bằng những entries có thăm dò bởi các comts, với thái độ phản ứng từ những blog khác.

Đến nay thì tà cộng đã nhận ra: Đem mớ bồi bút âm binh chen vô blogsite, website lấy lòng, lấy uy, để phất ngọn cờ ngụy phản tỉnh trong hệ thống truyền thông internet lợi không có mà hại rất nhiều. Đã Xuất Hiện các vụ bịt miệng những blogger như Đào Hiếu, Tô Hải, giải tán đám trí thức như Nguyễn Quang A với tổ chức Phản Biện Xã Hội là bắt buộc, sẽ còn dài dài. Đám trẻ đừng in trí việc bác Tiệm coi họ là thật hay ngụy phản tỉnh ở đây nữa. Mà cái chính là đám Đào Hiếu, Bùi Tín, Osin Huy Đức, Nguyễn Quang A, Lê Đăng Doanh... có thật hay ngụy, thì tà cộng nó vẫn “mời im miệng” cho lẹ.

Nếu đám nầy tiếp tục nói tự do, đã kích đảng csbkì công khai trên các phương tiện thông tin sẽ không bảo đảm họ được yên thân và yên lành nữa. Đào Hiếu từng viết một câu đại ý: “Nói tự do và công khai như anh ta mà tà quyền có làm gì được anh ta đâu”. Hồi Đào Hiếu chưa bị bắt bác Tiệm hay bất cứ ai hiểu sự gian manh độc ác của tà cộng đều cho rằng anh ta là con chim mồi, khi nói vậy. Nay anh ta bị cấm không được “Công Khai” viết blog, web nữa, bác Tiệm rất vui. Vì nếu anh ta có lương tri và thật sự đã biết thế nào là chính nghĩa của dân tộc, thế nào là hận mất nước nhục thân, Đào Hiếu sẽ tạo ra blog nặc danh khác để viết blogsite để đấu tranh tiếp tục. Những người viết báo kia cũng sẽ làm như Đào Hiếu, nếu họ có lương tri và nay đã thấu hiểu thân phận họ rồi.

“Chỉ cần coi bạn viết cái gì trong blogsite của bạn, chớ đâu cần biết trước đó bạn là ai, danh tiếng ra sao.”.

Bác Tiệm tin chắc rằng -- những người từng làm bồi bút tích cực cho chế độ tà cộng. Khi họ đã có tiếng gọi của lương tri dân tộc; họ sẽ tiếp tục ẩn thân để đấu tranh nữa. Nhờ đó đám Giặc Chòm nằm vùng trong các cơ quan tà quyền csbkì càng đông, càng ráo riết chống phá, mà tà cộng không biết ai theo chúng, ai chống chúng. Đấu tranh cho lợi ích của dân tộc, khác xa đấu tranh vì danh tiếng, lợi ích cá nhân.

Đám trẻ hãy tìm đọc lại các bài của bác Tiệm trước đây sẽ thấy sự việc bác Tiệm lật ngửa bài hôm nay là đã có cái nhìn và có sẳn chuẩn bị từ lâu. Đã nói trước là mình yếu lắm, nên mượn sức của địch để đánh địch. Và trong tương lai sẽ còn một bài toán thử lại coi các chiến sĩ “giặc chòm” do tà cộng cài đặt bị loại ra khỏi diễn đàn blog, web rồi. Cuộc truy lùng tìm diệt, ngăn chận bằng tường lửa với những trang web blog sẽ khắt khe ráo riết như thế nào. Chúng ta sẽ biết “con đường IT trải thảm” tỏ ra hớ hênh trong công tác ngăn chận thông tin của đám cán bộ thông tin, an ninh mạng ra sao. Có thể khi đó các blog trong nước sẽ bị khóa kín. Vì đường lót cho bầy chim mồi chập choạng đánh lận con đen không còn cần nữa. Nên chuyện bác Tiệm có khả năng không kịp nói lời từ biệt là chuyện dễ hiểu.

Riêng bản thân bác Tiệm đã dự phòng trước các biến động có khả năng xẩy ra, nên không coi blog, web là cứu cánh cuối cùng trong công cuộc đấu tranh giành tự do dân chủ cho đất nước để dân Việt phục sinh, thoát vòng nô lệ bọn tàu cộng với lũ csbkì bán nước.

“Bởi khi đám csbkì dâng đất nước VN và bộ máy thống trị vào tay bọn đặc tình đặc vụ Tàu cộng, việc bọn xâm lược nầy bịt kín thông tin trong nước là có khả năng rất cao. Và hiện nay chúng đang tiến hành khống chế thông tin về những hành vi xâm lăng VN rất ráo riết”.

Blogsite không phải mục tiêu tối cần thiết và vũ khí tối hậu. Mà nó đã làm được trách nhiệm phổ biến thông tin chính trị xã hội cho đám trẻ chịu đọc sẽ có cái nhìn khác với thói thường mà các bậc thầy, bậc đàn anh nào cũng muốn đàn em chỉ biết tuân lịnh.

Bác Tiệm là thông tin hiện thực, thực tế và bắt suy luận của mỗi cá nhân tự vận động trí não. Đứa nào nghe rồi cứ vậy tin bác Tiệm thì bác Tiệm chán và rầu lắm. Vì mấy đứa đó không có bác Tiệm thì không tự tư duy độc lập được. Mà bác Tiệm có sống lâu như ông bành tổ đâu để viết blog hoài chớ.
Hôm nay trên BBC trong mục ý kiến bạn đọc và nhiều diễn đàn khác. Bác Tiệm rất vui vì thấy nhiều người đã biết nói câu: Đào Hiếu mấy mươi năm nay tranh đấu cho cái ác cái gian trá giúp nó chiến thắng. Nay chính nó trả cái kết quả công lao đó lại cho Đào Hiếu.. Tức họ đã thấy và đã tự ý nghĩ của bản thân nói ra. Bắt kẻ gây tội, nếu nay thấy sai quấy mà thực sự còn lương tri, sẽ phải chiến đấu dữ dội hơn, triệt để hơn để chuộc lại lỗi lầm quá lớn với nhân dân, với chân lý. Mà đó là lương tri họ bắt buộc họ phải chiến đấu như vậy thôi, chớ không ai ép họ, bắt buộc họ được.

“Xưa họ dám liều chết chiến đấu cho bọn gian ngoa đểu giả, tầm bậy. Nay chân lý đã kéo họ về lại làm người, tại sao họ lại sợ chết ?”.

Tại sao họ phải kêu gọi người khác, quần chúng bao che cho họ tiếp tục chiến đấu vì chính nghĩa thực sự? Phải chăng họ lại tiếp tục làm thân phận bầy chó hùa, ngòai cách dựa vô quần chúng nhờ danh tiếng một thời của chúng, cũng như từng dựa vô thế lực tàn bạo của chế độ mới dám nói vung tàn táng? Nay họ bị vô thế cô độc là nuốt mất lưỡi luôn rồi? Cuộc chiến đấu giành tự do dân chủ, cứu dân Việt thoát khỏi họa nô lệ. Có những bầy chó hùa ỷ đông ỷ mạnh và không biết thực sự thế nào là chân lý. Có bọn nầy trong cộng đồng blogsite, website cũng kể như không.
Chúng chỉ là thứ giả nhân giả nghĩa yểu mạng người tên Nguyễn Văn Cự hồi đó có tên bót cảnh sát và tên ngã tư Nguyễn Văn Cự.

Còn thật nhiều điều bác Tiệm đã viết, từ từ thời gian thực tế sẽ giải mã cho đám trẻ hiểu. Đưa ra cho bài trước rồi chính là để dọn đường cho những bài viết sau.

Có những bài khúc đầu như chuyện không đâu, đọc thêm khúc sau liên kết nhau muốn chết điếng. Nên chuyện trường hợp của Đào Hiếu hiện nay.
Áp lực của tàu cộng nó đè rất nặng trên đầu bọn tà gian csbkì, hiện nay chỉ còn giao đất nước cho nó cai trị thôi, đám trẻ có thấy vậy chưa hỡi đám trẻ?!.

Hồ Trực Ngôn.


 

 

Screen






****************

 

***************

 

88 box-shadow: -15px 15px tan

 





Làm Thinh



Cái làng nhỏ đó nằm gần biển Manche, cách thành phố Etretat (miền bắc nước Pháp) độ 10 km. Trong làng có chừng năm chục nóc gia nằm chùm nhum lại thành một khu, trừ một cái nhà nằm rời xa một mình về phía biển. Người trong làng gọi cái nhà đó là “nhà ông Lê”.

Cách đây mấy năm, ông Lê - người Việt Nam độ 40 tuổi- từ Paris ra đây mua lại cái nhà đó để làm nhà nghỉ mát. Mùa hè và các ngày lễ lớn, ông đưa vợ con -vợ người Pháp và hai con trai chín mười tuổi- ra đây đổi gió và lâu lâu ông cho bạn bè mượn năm bảy hôm. Ông có mướn một người trong làng - tên Jean Marie - trông nom nhà cửa và cắt tỉa vườn tược cây trái.

Mới đầu, người trong làng cứ tưởng ông Lê là người Tàu. Cho nên, họ hơi dè dặt. Chừng biết ổng là người Việt Nam, họ cởi mở hơn, thân thiện hơn. Làm như, đối với họ, người Tàu là người ngoại quốc xa lạ, còn người Việt Nam thì ít nhiều gì cũng đã từng được xem là người trong nhà!
Họ càng có cảm tình với ông Lê khi biết rằng ổng qua Pháp học từ hồi mười lăm tuổi, rằng ổng tốt nghiệp trường Arts et Métiers, rằng ổng làm chức lớn trong cơ quan Nhà Nước v. v… Họ hay nói với nhau: “Vợ chồng ông Lê thật dễ thương”.

Vùng này cao hơn mặt biển hai ba chục thước mà cuộc đất lại không lài lài xuống lần khi ra gần biển như ở những nơi khác, nên không có bãi. Ở đây, biển đâm thẳng vô bờ, loại bờ đá dựng thiên nhiên sừng sững như một bức tường cao thật cao. Những ngày biển động, sóng đập vào chân tường đá nghe ầm ầm. Vì nhà ông Lê nằm cách bờ đá dựng không xa, nên vào những ngày đó, từ trong nhà nghe âm vang tiếng sóng giống như những tiếng thở dài.

Hè năm đó, ông Lê và gia đình ra đây nghỉ mát chỉ có ba tuần thay vì một tháng như thường lệ. Ông nói với ông Jean Marie -người quản gia- rằng phải trở về Paris để đón cha mẹ từ Việt Nam qua. Ông Jean Marie hỏi ông có định đưa ông bà cụ ra đây chơi không thì ông Lê trả lời rằng không, bởi vì ông bà cụ mới xuất ngoại lần đầu tiên nên phải đợi một thời gian cho quen với khí hậu phong thổ.

Vậy mà chỉ mươi ngày sau, thấy ông Lê chở ra đây một ông già tóc trắng với hai va-ly hành trang. Người quản gia nghĩ: “Chắc định ở lâu nên mới mang hành trang nhiều như vậy”.
Ông Lê giới thiệu:

— “Đây là cha tôi. Còn đây là Jean Marie, quản gia”.

Sau đó, ông nói: “Trong thời gian cha tôi ở đây, tôi xin nhờ bà Jean Marie lo dùm việc nấu nướng giặt giũ giống như những lúc gia đình tôi ra đây nghỉ mát. Có điều là cha tôi không thể đi chợ ở Etretat như chúng tôi vẫn làm lâu nay, nên tôi nhờ ông bà lo giùm luôn vụ này. Đổi lại, tôi sẽ tăng tiền thù lao của hai ông bà lên mười phần trăm. Tôi xin ông bà chấp nhận cho”.

Sau khi gọi điện thoại về nhà bàn tính với vợ, ông Jean Marie bằng lòng. Tiếp theo đó, ông Lê trao cho ông Jean Marie một số tiền và nói: “Đây, tôi gởi ông bà một tháng tiền chợ. Tôi dự trù dư dả phòng khi cha tôi cần mua những gì khác, nhưng nếu thấy thiếu thì điện thoại cho tôi hay để tôi gởi ra thêm. Mỗi cuối tháng, tôi sẽ gởi tiền để gối đầu cho tháng kế tiếp, ông bà yên tâm”. Ông Jean Marie hỏi: “Còn bà cụ đâu ? Sao không cùng ra đây với ông cụ?”. Ông Lê trả lời như không trả lời:

— “Mẹ tôi ở Paris”.

Rồi sau khi nói mấy lời cám ơn ông Jean Marie, ông bắt tay từ giả người quản gia và ông già tóc trắng để trở về Paris, vội vã như không muốn vấn vương gì nữa ! Thấy ông Lê đối xử với ông già tóc bạc như là một người quen thường, ông Jean Marie vừa ngạc nhiên vừa bất nhẫn, bởi vì ông nhận thấy rõ ràng ông già tóc bạc đó và ông Lê thật sự giống nhau như hai cha con.

Ông già ở trong nhà ông Lê như một cái bóng. Ông không xem tê-lê, không nghe ra-đi-ô. Ông cứ ngồi ở xa long hút thuốc liên miên, mắt nhìn thẳng ra cửa kiếng hướng về phía biển, giống như đang coi một cái gì ở ngoài đó. Ở ngoài đó không có gì hết! Không có một cái cây, không có một lùm bụi. Cỏ dại cũng không mọc cao. Mặt đất trống trơn chạy thẳng ra bờ đá dựng.
Từ chỗ ông ngồi, nhìn ra chỉ thấy đất và trời. Lâu lâu, vài con hải âu bay phớt ngang, và lâu lâu trên nền trời trong xanh của mùa hè, một sợi mây đi lạc. Chỉ có bao nhiêu đó, vậy mà ông cứ ngồi nhìn, nhìn đăm đăm.

Mới đầu, ông bà Jean Marie cứ tưởng rằng ông già không biết nói tiếng Pháp. Nhưng sau mấy lần hỏi han thấy ông trả lời trôi chảy mạch lạc, ông bà mới yên tâm. Có điều là hỏi thì ông mới trả lời chớ không thấy bao giờ tự ông gợi chuyện. Suốt ngày, ông làm thinh. Cần dùng gì thì ông viết ít chữ rồi gắn trên mặt tủ lạnh. Ông bà Jean Marie thấy vậy cũng ráng giữ ý không làm tiếng động khi quét dọn hay đi ra đi vào. Nhiều khi, họ có cảm tưởng như trong nhà không có ai hết! Chỉ có mùi khói thuốc là nhắc đến sự hiện diện của ông già.

Ông già đó tên Lê Tư. Hồi thời trước - cái thời mà miền nam Việt Nam chưa biết mùi cộng sản- ông Tư là một nhà thầu xây cất rất có bề thế ở Sàigòn. Ông giao du rộng, lại “biết cách giao du”, thêm giỏi tính toán sắp xếp nên ông trúng thầu nhiều công trình lớn của Nhà Nuớc và của các công ty ngoại quốc. Do đó, càng ngày ông càng nổi tiếng và sự nghiệp thì cứ nhân lên gấp năm gấp mười. Dù vậy, ông không bao giờ chối bỏ cái gốc hàn vi của ông và rất tự hào đã bắt đầu bằng hai bàn tay trắng.

Ông thường nói: “Hồi tôi từ Đà Nẳng vô Sàigòn, tôi chỉ có một chiếc xe đạp cũ và cái nghề thợ hồ. Ban ngày đạp xe đi làm, ban đêm đạp xe đi học thêm ở Trung Tâm Văn Hoá Pháp và hội Việt Mỹ. Hồi thời đó, quanh năm suốt tháng, tôi chỉ biết có thắt lưng buộc bụng, ăn uống kham khổ, để dành tiền gởi về cho cha mẹ ở Đà Nẳng và để đóng các học phí. Vậy mà tôi vẫn không ngã lòng. Lúc nào trong đầu tôi cũng nghĩ rằng phải cố gắng vương lên, bởi vì không ai giúp mình bằng mình hết.
Nhờ vậy mà bảy tám năm sau, tôi đã có một cơ sở vững chắc để cạnh tranh với các nhà thầu khác. Rồi thì xây cất hết công trình này đến công trình khác, có khi hai ba công trình cùng một lúc, cơ sở cứ lớn lần lớn lần để trở thành bề thế như ngày hôm nay. Nghe tôi nói tôi bắt đầu sự nghiệp bằng con số không chẳng có mấy ai tin hết “.

Khi đã khá giả, ông mới cưới vợ. Ông hay nói đùa: “Tình phải có tiền đi theo nó mới vững. Giống như bê-tông phải có cốt sắt nó mới bền!”.

Ông bà Lê Tư chỉ sanh có một người con trai đặt tên Lê Tuấn. Năm Tuấn được mười lăm tuổi, ông gởi con qua Pháp học. Ông muốn nó học ngành kiều lộ để sau này trở về nối nghiệp ông. Ông nói: “Việt Nam mình cạnh tranh không nổi với hãng thầu ngoại quốc bởi vì mình có binh mà thiếu tướng”. Và ông hy vọng trong tương lai, con ông sẽ thực hiện những công trình vĩ đại, vượt trội hẳn những gì ông đã làm. Để cho ông được nở mặt.

Cái tương lai đó bỗng tắt ngúm chỉ trong một thời gian ngắn sau ngày 30 tháng tư, 1975.

Trước cái ngày đen tối đó, một người như ông Lê Tư dư sức để di tản dễ dàng. Vậy mà không thấy ông nhúc nhích. Ông cứ điềm nhiên hút thuốc, uống trà, xem truyền hình, nghe ra-đi-ô. Giống như một kẻ bàng quan. Bà Lê Tư thì cứ đi ra đi vô, hết gọi điện thoại cho bà bạn này đến gọi cho bà bạn khác. Rồi thúc giục ông đi di tản. Bà nói:

— Trời ơi! Mấy bả đi hết rồi kìa! Ông cười:

— Thì ai sợ cứ đi. Bà yên tâm. Tôi bảo đảm không có sao hết. Nói thiệt với bà, “họ” đã liên lạc với tôi cách đây hơn tháng, nói rõ rằng họ cần dùng những người như tôi để xây dựng lại đất nước. Cho nên, bà thấy tôi không? Tôi bình chân như vại!

Điều mà ông không nói cho bà biết là từ bao lâu nay, ông vẫn đều đặn gởi tiền giúp cách mạng qua ngả thằng cháu -cũng gốc liên khu năm như ông- đang hoạt động ở mấy tỉnh miền Đông. Chính người cháu đó đã cho người về gặp ông để giải thích rõ ràng chủ trương đường lối của cách mạng. Nhờ vậy, ông mới vững tâm tin tưởng.

Đâu dè, sau khi cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, cách mạng quay về đánh tư sản. Ông Lê Tư cũng “bị” mời đi “làm việc” như mọi người. Ông có xuất trình giấy chứng minh của Liên khu bảy, là vùng ông đã giúp đỡ, nhưng “lá bùa” đó không linh! Ông cũng nghĩ đến thằng cháu cách mạng, nhưng bây giờ ông không biết nó ở đâu để gọi nó đến làm chứng.

Vì vậy, ông vẫn bị mời tới mời lui để “làm việc”. Mỗi lần làm việc, họ quay ông như con dế ! Đến nỗi về sau, mệt mỏi quá, chán chường quá, thấy nói gì cũng vô ích, nên ông bèn làm thinh, mặc cho họ muốn nói gì thì nói, hỏi gì thì hỏi. Rồi đến lần “làm việc” cuối cùng, ông cũng làm thinh ký tên trên xấp giấy tờ họ đưa ra, ông ký mà không thèm đọc qua một chữ ! Lần đó, ông bước ra khỏi cơ quan, có cảm tưởng như đang sống trong một thế giới khác, một thế giới lộn ngược!

Ông không còn khái niệm không gian thời gian. Ông chỉ biết rằng sau cái phút ký tên đó, ông trắng tay. Và ông còn nghe trong đầu câu nói ơn nghĩa “nhờ ông đã sớm giác ngộ cách mạng nên không phải đi cải tạo”. Ông lái xe về nhà như một người máy. Ông đâu biết rằng trong cuộc “đổi đời vĩ đại” này, con người đâu còn sống bằng lý trí: con người chỉ sống bằng bản năng thôi!

Về đến trước cổng nhà, bỗng nhiên ông Lê Tư nhận thức rằng tất cả những gì trực thuộc về ông bây giờ chỉ còn lại người vợ đang đợi ông ở nhà.

Xưa nay, mọi việc trong gia đình đều do ông quyết định. Bà Lê Tư luôn luôn làm theo ý của ông, không bao giờ thắc mắc. Bởi vì bà hoàn toàn tin tưởng vào người chồng mà lúc nào bà cũng cảm phục như một thần tượng. Bà nói: “Từ bàn tay trắng dựng nên sự nghiệp đồ sộ như vầy, không phải ai làm cũng được!”. Và bà thường ví chồng bà như một cây cau vững chắc để bà bám vào đó như một giây trầu. Vậy mà bây giờ bây giờ Ông Lê Tư không biết ví mình như cái gì nữa.

"Cách mạng" mà ông đã giúp từ ngày ông dựng nghiệp, hôm nay nhân danh gì gì đó, đã biến ông thành con số không. Dễ dàng như người ta cầm nùi giẻ bôi hết những hàng chữ phấn trên một bảng đen, bôi mà không cần biết những hàng chữ đó viết những gì! Chỉ trong có một khoảnh khắc, ông chẳng còn gì hết và bản thân ông cũng không là gì hết! Ông đã trở thành một “thứ gì” đó không có tên, một sản phẩm của cách mạng mà sách vở xưa nay chưa thấy có định nghĩa!

Ông bước vào nhà mà cảm thấy mình lêu bêu như bọt nước, không làm chủ được gì hết, kể cả làm chủ chính bản thân mình ! Cái biệt thự có hồ tắm vườn hoa, có năm ngăn bảy nắp, mà ngày xưa ông đã xây cất cho tương xứng với địa vị xã hội của ông bây giờ bỗng trở nên ngạo nghễ, vô duyên.

Nhà vắng teo. Một số gia nhân đã xin nghỉ việc từ những ngày sôi động, số còn lại đã được cho nghỉ ngay sau ngày 30 tháng tư. Bà Lê Tư chắc đang làm gì ở dải nhà sau nên ông không nghe tiếng động. Ông đốt điếu thuốc rồi ngồi xuống phô-tơi nhìn thẳng ra vườn. Ông nhìn mà không thấy gì hết! Yên lặng.

Tiếng bà Lê Tư làm ông giựt mình:

– Sao ông? Họ đòi gì nữa vậy?

– Họ đâu có đòi. Họ lấy.

– Lấy gì?

– Lấy hết tài sản của mình.

Giọng bà bỗng cao lên một nấc:

– Lấy hết tài sản?

Ông nhìn bà rồi trả lời bằng cái gật đầu. Giọng của bà lại cao thêm một nấc:

– Gì lạ vậy? Tự nhiên rồi đòi lấy tài sản của người ta. Đó là ăn cướp chớ đâu phải lấy! Rồi ông trả lời làm sao?

Ông thở mấy hơi thuốc, rồi mới nói:

– Thì tôi giao hết lại cho họ chớ còn làm sao?

Bà chỉ kêu được một tiếng “Trời !” rồi ngồi phịch xuống ghế, mắt nhìn thẳng ra vườn. Bà nhìn mà cũng không thấy gì hết ! Yên lặng. Một lúc sau, ông nói, giọng thật trầm tĩnh:

– Bà nghĩ coi. Bây giờ họ là kẻ chiến thắng. Quyền sanh sát nằm hết trong tay, họ muốn nói gì làm gì mà không được.

– Còn luật pháp để đâu?

– Luật pháp của ai

Bà làm thinh. Một lúc sau, bà nói:

– Hôm trước ông nói họ đã móc nối với ông để ông ở lại giúp họ xây dựng gì gì đó. Sao bây giờ họ lột hết của ông vậy?

Ông làm thinh. Khói thuốc trong miệng bỗng trở nên thật đắng. Ông nghe thèm một hớp trà hay một hớp nước lạnh, hay bất cứ một chất lỏng nào cũng được để ông nuốt xuống “cái gì đó” đang nghẹn ngang ở cổ. Ông dụi điếu thuốc rồi đi lại bar ở góc xa-long rót một ly nhỏ Porto uống ực một cái, giống như người ta bị mắc xương. Xong ông trở lại phô-tơi ngồi xuống, đốt điếu thuốc. Chất rượu đang nồng trên mũi, nhưng sao khói thuốc vẫn còn nghe thật đắng!

Giọng bà Lê Tư có vẻ trách móc:

– Chớ phải ông nghe lời tôi đi di tản như thiên hạ thì đâu có sao.

– Đi di tản cũng mất hết chớ hơn gì.

– Sao mất hết được? Ông quen lớn nhiều mà không hốt được một mớ đem đi theo à ? Có nhiều người còn gởi được bàn ghế và vô số đồ cổ nữa. Như anh X, như anh T, như ông tướng Z toàn là bạn thân của ông không.

Ông làm thinh. Bà vẫn nói, càng nói giọng càng gay gắt:

– Thà rằng mình đi, cái gì không đem theo được là mình bỏ. Tụi nó có lấy, cũng là lấy những gì mình bỏ. Chớ còn bây giờ, tụi nó bóp họng ông để lấy, bộ ông không thấy tức sao?

Ông làm thinh. Ngừng một lúc như để suy nghĩ, rồi bà nói một câu giống như bà đóng sập cánh cửa sắt để nhốt ông trong một nhà tù:

– Chẳng bằng ông muốn ở lại để giúp cách mạng chớ gì? Phải không?

Ông nuốt nước miếng mấy lần, rồi tiếp tục làm thinh. Bây giờ, ông thật sự thấy mình như bọt nước trôi lêu bêu, không bám được vào đâu hết?

Chiều bữa đó, cách mạng đưa đến mười mấy thanh niên trai gái và một toán bảo vệ cầm súng để làm công tác kiểm kê. Họ bắt mở hết các hộc, các kệ, các tủ để họ đem ra đếm từng món, không bỏ sót một nơi nào hết, một món nào hết. Đêm, họ ngủ lại trong nhà ông Lê Tư để sáng sớm hôm sau họ tiếp tục. Xong công tác kiểm kê, người cán bộ chỉ huy chỉ định một nhóm bốn người ở lại để canh giữ những gì đã kiểm kê, sợ ông bà Lê Tư ăn cắp mang đi! Gã còn nói như ra lịnh:

– Từ hôm nay trở đi, anh chị phải dọn ra nhà sau để ở, không được bước lên đây nữa. Anh chị cũng không được quyền sử dụng chiếc ô-tô bây giờ thuộc diện quản lý của Nhà Nước . Khi ra vào nhà, anh chị phải dùng cái cổng hậu, không được đi bằng cổng chánh. Rõ chớ?

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư cũng làm thinh. Nhưng hai sự làm thinh đó không cùng một ý nghĩa : ông làm thinh vì biết rằng có nói gì cũng vô ích còn bà làm thinh là vì bà hận ông vô cùng!

Từ ngày dọn xuống ở trong một nhà phụ -có ba dảy nhà phụ trước đây dùng cho gia nhân- và từ ngày biết rằng văn phòng, các kho vật liệu, kho dụng cụ cơ giới, biệt thự ở Núi Lớn Vũng Tàu, các chương mục ở ngân hàng?v.v. đã hoàn toàn nằm trong tay Nhà Nước, bà Lê Tư ít nói chuyện với ông. Nhưng hầu như ngày nào bà cũng ngồi nói một mình, nói trổng, cố tình nói lớn tiếng để cho ông “phải” nghe. Bà cứ lải nhải với giọng trách móc chanh chua, hết chuyện tin lời cách mạng, đến chuyện mất hết của cải, rồi bắt qua chuyện di tản, chuyện ở “chui rúc” trong nhà của bếp của bồi. Còn ông thì cứ làm thinh ngồi nghe, nghe riết mà tóc của ông càng ngày càng bạc trắng!

Thời gian đi qua. Một hôm bà bỗng nói với ông:

– Tôi đã nhờ người quen trong toà đại sứ liên lạc được với thằng Tuấn ở Paris. Nó sẽ lo giấy tờ cho mình qua bển.

Bây giờ, mọi sự đều do bà quyết định, ông chỉ làm thinh đi theo. Bây giờ, người chồng “thần tượng” của thời trước chỉ còn là một cái bóng ! Bây giờ, bà mới là thân cây cau, còn ông, ông chỉ là một thứ giây trầu … Đúng là một sự “đổi đời vĩ đại”!

Ít lâu sau, chính bà đã chạy chọt đút lót để có xuất cảnh cho hai vợ chồng bay qua Paris, vào giữa mùa hè năm đó. Ông Lê, người con trai của ông bà Lê Tư, đến đón ông bà ở phi trường Charles De Gaulle . Gặp lại nhau, mừng mừng tủi tủi. Ông Lê Tư có cảm tưởng như mình vừa sống lại.

Ông ôm con siết mạnh, rồi buông ra để nhìn. Lòng tràn sung sướng, ông vừa cung tay đấm nhẹ lên vai con, vừa chửi đổng: “Cha mày!”. Rồi tiếp: “Ba tưởng không còn gặp lại con nữa chớ!” Trong một khoảnh khắc, ông tìm lại được lời nói và cử chỉ của một con người bình thường, con người của thời trước tháng tư 1975.

Trên đường về nhà, ông Lê vừa lái xe vừa hỏi về những chuyện đã xảy ra ở Việt Nam trong những ngày sôi động của tháng tư, nhứt là ở đoạn “mấy thằng Mỹ kéo nhau chạy sút quần”. Nghe lời nói và giọng điệu của con, ông Lê Tư cảm thấy có “cái gì không ổn”, nhưng ông nghĩ: “Có lẽ tại nó ở bên này lâu quá nên nó nói tiếng Việt không biết chọn lời”. Rồi ông kể lại những gì mắt thấy tai nghe. Người con lâu lâu khoái chí, vỗ tay lên tay lái, gục gặc đầu “cho tụi nó chết”.

Bỗng người con hỏi:

– Còn mấy thằng tướng nguỵ?

Câu hỏi đó như ánh sáng bật lên trong bóng tối để ông nhìn thấy rõ sự thật: không phải con ông không nói rành tiếng Việt mà là con ông nghiêng về phía bên kia, cái phía đã lật lọng, ăn cháo đá bát, cái phía đã lấy hết tài sản của ông một cách ngang nhiên trắng trợn ! Trời đất chung quanh bỗng như sụp xuống ! Tuy nhiên ông vẫn trả lời:

– Mấy người đó thì ba không biết.

– Tụi nó chạy ra đảo Guam hết. Thằng chủ chạy thì thằng tớ phải chạy theo chớ dám ở lại đâu. Tưởng ba biết gì kể lại nghe chơi chớ ở bên nầy báo chí tê-lê nói đầy đủ. Trên tê-lê thấy nhiều thằng tướng ngơ ngác như bầy gà nuốt giây thun!

Người con nói xong cười lên khoái trá . Ông Lê Tư nghe giận phừng lên mặt ! Ông đưa tay định xáng cho thằng con một cái, nhưng ông kềm lại kịp. Ông bỏ tay xuống mà nghe ngực mình tức ran. Tự nhiên, ông ứa nước mắt. Từ phút đó, ông làm thinh. Thấy như vậy, tưởng cha bị mệt vì cuộc hành trình quá dài nên ông Lê cũng không hỏi tiếp.

Bà Lê Tư ngồi ở băng sau, không chen vô một lời. Bà cảm thấy rồi đây sẽ không thể nào ở chung với một thằng con như vậy được. Bà đã tưởng đi ra khỏi xứ để khỏi phải thấy hằng ngày những chuyện trái tai gai mắt, nào ngờ qua đây gặp thằng con không biết học ở đâu mà ăn nói giống “tụi nó” y chang!

Nhưng không sao. Rồi bà sẽ mua nhà ở riêng. Bà dư sức. Với số hột xoàn mà bà đã cất giấu sau 1975 và bây giờ đang nằm an toàn trong cái giỏ mây hai đáy bà ôm trong lòng, bà dư sức. Cho dù bà phải cưu mang suốt phần đời còn lại ông chồng mà bà đã không còn coi là thần tượng nữa, từ lâu.

Về đến nhà - ở Neuilly Sur Seine, khu nhà giàu- ông Lê giới thiệu vợ con rồi đưa cha mẹ lên phòng trên lầu, nói:

– Ba má nghỉ một chút rồi xuống ăn trưa.

Bữa ăn được dọn lên từng món theo phong cách tây phương. Vợ ông Lê hỏi han lễ độ và kín đáo chăm sóc ông bà Lê Tư. Hai thằng con ông Lê -giống mẹ hơn giống cha nên ít thấy lai Việt- không biết một tiếng Việt. Chúng ăn nhanh nhanh. Xong món thứ nhì, chúng không đợi món kế tiếp, vội vã rút lên phòng. Suốt bữa ăn, câu chuyện chỉ vây quanh mấy món ăn nấu theo tây, bởi vì ông Lê khoe có bà bếp giỏi. Bà bếp, người Pháp, có bước ra chào ông bà Lê Tư.

Nhờ vậy, không khí trong bữa ăn không đến nỗi nào tẻ lạnh.

Sau bữa ăn, vợ ông Lê vì tế nhị, muốn để cho chồng và cha mẹ nói chuyện riêng với nhau, nên xin phép lên lầu. Bà dặn chồng:

– Anh không nên nói chuyện nhiều. Ba má chắc cần phải ngủ vì sai giờ giấc. Mình còn nhiều thì giờ mà.

Khi bước qua xa long để uống cà phê, ông Lê hỏi

– Ba má định qua đây ở chơi bao lâu?

Ông Lê Tư châu mày, nhìn bà. Bà trả lời:

– Ba má định qua ở luôn chớ đâu phải ở chơi.

Người con ngạc nhiên:

– Ủa? Sao lại ở luôn? Bây giờ nước nhà độc lập rồi, không còn thằng nào ngồi trên đầu trên cổ mình hết. Tất cả đều thuộc về mình, không còn sợ thằng ác ôn nào cướp giựt nữa. Như vậy mà ba má định bỏ xứ qua đây ở luôn. Thiệt là vô lý!

Hồi nãy, trên xe về đây, ông Lê Tư còn nghĩ rằng thằng con ông chỉ nghiêng về phía bên kia. Bây giờ thì quá rõ ràng : nó đã đứng hẳn về phía bên đó. Ông nghe lòng quặn thắt : chẳng những cách mạng đã cướp hết tài sản của ông, mà tụi nó còn cướp luôn thằng con duy nhứt của ông, cướp từ hồi nào rồi.

Ông Lê Tư làm thinh. Bà Lê Tư hơi mất bình tĩnh:

– Tại con không biết. Tụi nó lấy hết tài sản của ba má rồi còn đuổi xuống ở căn nhà của bồi, rồi lại bắt không được đi cổng chánh phải đi cổng hậu. Bây giờ tụi nó sợ mình không chấp hành chỉ thị nên kéo kẽm gai cô lập căn nhà ba má ở. Con nghĩ coi sống làm sao?

– Buổi đầu lúc nào chẳng có chuyện sai sót. Rồi cách mạng sẽ trả lại hết cho ba má, yên tâm đi! Điều mà con muốn nói là chưa chi mà ba má đã muốn bỏ xứ ra đi giống như bè lũ đĩ điếm trộm cắp tháo chạy mấy ngày trước giải phóng làm con thấy không hãnh diện chút nào hết!

Câu nói chưa dứt, ông Lê Tư đã đứng phắt dậy, làm thinh đi thẳng lên lầu. Bà Lê Tư cũng nối gót, nhưng bước chân bà nặng chình chịch. Đứa con máu mủ mà bà mới ôm hun thắm thiết hồi nãy trên phi trường, bây giờ bỗng giống như người xa lạ. Bà cảm thấy hụt hẫng đến độ bà không biết phải làm gì, nói gì. Đến giữa cầu thang, kềm không được, bà ôm mặt khóc tức tưởi.

Suốt buổi chiều, ông Lê Tư ngồi trong phòng làm thinh hút thuốc. Ông không nghe buồn ngủ, ông chỉ nghe mệt – thật mệt – và chán chường – thật chán chường. Ông bắt gặp lại tâm trạng của ông vào những ngày cuối cùng của thời ông bị cách mạng quay hằng bữa để ông kê khai tài sản một cách “đầy đủ và trung thực”!

Bà Lê Tư cũng không ngủ. Bà điện thoại để liên lạc mấy bà bạn đã định cư ở Pháp, nhứt là ở vùng phụ cận Paris. Rồi bà hẹn hò. Sung sướng như thấy chân trời đang mở rộng.

Sau bữa ăn tối, đợi bà Lê và hai con lên lầu, bà Lê Tư nói:

– Chị bác sĩ A sáng mai lại rước má về nhà chỉ chơi vài bữa. Sau đó, có lẽ sẽ qua nhà bà dược sĩ L. Ở đây, má có nhiều bạn bè lắm, con đừng lo cho má. Con chỉ cần lo cho ba thôi.

Ông Lê Tư nhìn thẳng mặt con, giọng nghiêm trang:

– Ba nói thật: ba với con không hạp nhau. Ba không thể ở chung với con được. Ba xin con cho ba ở một nơi nào khác, ở một mình cũng không sao.

Ông nói “xin con cho ba”, đó là sự thật. Bởi vì bây giờ ông hoàn toàn trắng tay. Xưa nay, tiền dư ra, ông cho bà một phần để mua hột xoàn, còn bao nhiêu ông chuyển hết qua chương mục của người con.

Ông Lê ngồi làm thinh, không biết ông đang nghĩ gì. Cũng là làm thinh, nhưng sự làm thinh của ông khó hiểu hơn sự làm thinh của ông bà Lê Tư!

Vậy rồi sáng hôm sau, bà bác sĩ A lái xe lại rước bà Lê Tư. Tiếp theo là ông Lê chở người cha ra ở cái nhà nghỉ mát ở gần bờ đá dựng. Suốt cuộc hành trình dài mấy tiếng đồng hồ, hai cha con không nói với nhau một lời!

Từ ngày ra đây ở, ông Lê Tư cảm thấy cuộc đời mình như đang đi vào một ngõ bí. Không sống được với cách mạng, đã đành. Còn lại bà vợ thì bây giờ bả coi mình như cục bứu trên lưng. Rồi đến thằng con, đối với mình, nó còn lạ hơn người xa lạ! Cứ nghĩ quẩn nghĩ quanh như vậy hết ngày này qua ngày khác mà con người ông sa sút thấy rõ. Bây giờ, ông ốm nhom. Đi đứng đã phải chống ba-toon và đêm đêm cứ phải nằm trằn trọc tới khuya lơ mới dỗ được giấc ngủ.

Thấy tội nghiệp, ông bà Jean Marie hay thừa dịp đưa nước trà hay cà phê để ngồi lại gợi chuyện vẩn vơ. Họ cũng ngạc nhiên tự hỏi sao không thấy ai gọi điện thoại hỏi thăm ông già này hết. Làm như ông không có mặt trong cuộc đời này. Cho nên họ tận tình chăm sóc ông từng chút. Đến nỗi, về đêm, bà Jean Marie thường đợi ông lên giường nằm đàng hoàng mới tắt đèn đóng cửa đi về nhà! Ông Lê Tư rất cảm kích nên lâu lâu ông phá lệ làm thinh để nói hai tiếng “cám ơn”, nhẹ như hơi thở.

Một hôm, ông Lê Tư bỗng thèm nhìn mặt biển, cái biển mà từ hôm ra đây -đã gần hai tháng- ông chỉ nghe tiếng của nó rì rào ngoài kia thôi. Ông bèn chống ba-toon bước từng bước run run đi lần ra hướng đó. Cứ đi vài bước là ông phải dừng lại một lúc để thở, nhưng ông vẫn cố bước đi.

Bây giờ thì ông đã đứng trên mép bờ đá dựng. Dưới chân ông, rất sâu phía dưới, là biển. Biển xanh dờn, kéo dài ra chân trời. Trời nước mênh mông. Gió muối và mùi thơm thơm của rong rêu nhắc ông nhớ cái biệt thự ở mỏm núi lớn Vũng Tàu. Ông đã xây cất biệt thự đó để làm nơi tiếp tân nên có một sân gạch thật rộng hướng về phía biển. Ông hay đứng ở đó nhìn chân trời như ông đang đứng nhìn chân trời bây giờ. Cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang.

Hồi đó, lúc nào ông cũng thấy chân trời đang mở rộng cho ông, cái hồi mà ông làm chuyện gì cũng thành đạt. Bây giờ, cũng trời, cũng nước, cũng một đường gạch ngang nhưng sao ông không thấy nó mở rộng cho ông một chút nào hết! Ông chỉ thấy toàn là bế tắc. Chân trời là đường chấm dứt một cái gì: trời cao nghiêng xuống đến đó là hết, biển rộng vươn dài đến đó cũng là hết! Giống như cuộc đời của ông bây giờ. Của cải: hết! Vợ con: hết! Sức khỏe của ông rồi cũng sẽ hết! Hết! Hết!

Bỗng, ông Lê Tư liệng mạnh cây ba-toon xuống biển, giống như ông dứt khoát không cần dùng đến nó nữa. Rồi ông hít một hơi dài, nhắm mắt bước thẳng vào khoảng không trước mặt, giống như bước qua một lằn ranh tưởng tượng.

Từ bây giờ, ông Lê Tư làm thinh vĩnh viễn.

Chiều hôm đó, ông Jean Marie gọi điện thoại về Paris. Không có người bắt máy, nhưng có máy nhắn tin nên ông nhắn:

— “A lô! Tôi là Jean Marie. Tôi xin báo tin buồn: ông cụ đã từ trần. Ông đi dạo gần tường đá dựng chẳng may rơi xuống biển. Nhà chức trách đã vớt được xác đem về nhà xác bịnh viện Etretat. Yêu cầu ông bà ra gấp. Vợ chồng tôi xin chia buồn. Thành thật chia buồn”.



 

******************************************* x0

 






Tôi hiểu Việt cộng lần đầu tiên là khi tôi khoảng bốn hoặc năm tuổi, vào khoảng năm 1978-79.
Việt cộng vô nhà tôi tịch thu đồ đạc, họ lấy chiếc xe đạp có bánh xe mập màu trắng mà khi đó tôi đang tập chạy.

Tôi còn nhớ khi đó tôi khóc rất thê thảm, trong lòng thật sự cảm thấy đau đớn oằn oại, cảm giác mà sau này đọc "The Thorn Birds", tôi có thể đồng cảm với cô bé Meggie trong đó, khi cô bé này bị mất con búp bê.

Đối với một đứa trẻ nhỏ thì chiếc xe đạp, hay con búp bê, là cả thế giới của họ.
Việt cộng đành lòng nào mà vô giựt như vậy, sau khi đã lấy nhiều nhà cửa, đất đai, của gia đình tôi!

Sau đó tôi trưởng thành rất mau, 6, 7 tuổi đã bắt đầu HIỂU chính trị là gì. Tuổi thơ tôi đã mất đi theo chiếc xe đạp bị đánh cắp.
Mẹ tôi không nói gì, sau đó chỉ nói:

— "Sao con lại khóc trước quân thù, kẻ thù?"

Trước đó, tôi có kẻ thù nào đâu, con nít năm tuổi làm gì biết kẻ thù là gì.

Nhưng sau đó thì tôi biết, hiểu, và nhận ra kẻ thù của gia đình tôi, và còn là kẻ thù của DÂN TỘC.



 

------------------

 




Mạng tôi là do Đức Cha Cassaigne cứu sống, nên bây giờ sống ngày nào là coi như một đặc ân Thượng Đế.

Hồi nhỏ tôi bị giật kinh phong kinh niên, rất nặng, ngày 2, 3 lần, ngồi còn không vững, phải lấy dây buộc lại.
Cậu tôi, BS Trần Hữu Hạnh, là một bác sĩ tài giỏi, dạy đại học y khoa Sài Gòn, đã cho rằng "Đứa nhỏ này không thể nuôi, có nuôi cũng không thể học".


Một lần, tuyệt vọng, mẹ tôi ôm lên tượng Đức cha Cassaigne trên Nhà thờ Fatima dâng lên cho Ngài. Mẹ tôi kể, như có luồng điện chạy vào người, Tượng Đức cha sáng lên, và mẹ tôi có cảm giác lâng lâng như say ngất đi.

Sau đó, đem về, tôi dứt bệnh, cậu tôi nói đó là một PHÉP LẠ, y khoa không thể giải thích. Từ đó, tôi học đâu nhớ đấy, tám tuổi đã rành bốn ngoại ngữ (Anh, Pháp, Đức, Latin), và học hành tuyệt đối xuất sắc, nếu không do lý lịch gia đình thì đã đi Liên xô học đàn violin, toán, hồi 12 tuổi.


Bị Việt cộng "chê" vì lý lịch "xấu" quá, rồi có phong trào ODP, tôi qua Mỹ được, học và làm việc 25 năm nay. Nay, sống một giây một phút cũng là Hồng Ân Thượng Đế, và nếu sau này tôi giúp đem lại cách mạng dân chủ xã hội cho Viêt Nam thì đó chính là một Ơn mầu nhiệm của Thượng Đế đem lại cho Việt Nam ta.

----------------------

Thân tôi có là gì đâu, đã có thể đem chôn 35 năm trước. Vinh nhục một cá nhân có là gì. Thượng Đế NHÌN thấy trước chúng ta hàng triệu năm, điều gì Ngài làm, hay không làm, đều có lý do sâu xa của Ngài.


Hãy tin tưởng ở sự khôn ngoan của Thượng Đế, và làm hết sức mình. Cuối cùng, sự khôn ngoan của Thượng Đế sẽ thắng, trái tim Mẹ Maria sẽ thắng.


Các Ngài đã thắng người Cộng Sản tại Nga Sô, Đông Âu, ngày gần đây sẽ thắng Cộng Sản Việt Nam. Chỉ là chúng ta còn tội lỗi nhiều, còn chưa xứng đáng với ơn lành Thượng Đế mà thôi.

Dr. Trần.



http://www.thegioinguoiviet.net/showthread.php?t=7672&page=384

 

------------------------

 

Việt cộng vừa được Mỹ cho mở cấm vận mở cửa ra, thì mấy thằng già VNCH về Việt Nam chơi gái, kiếm vợ nhí, tí hửng làm ăn lớn nhỏ với Việt cộng. Xin Thượng Đế hãy để Việt cộng "phạt" người Việt Nam thêm nữa đi, họ chưa xứng đáng được hồng ân thiên chúa.
Mấy thằng già, con già này chết bớt, dân Việt Nam hiểu loài quỷ đỏ thêm. Người ngu tham ác ở Việt Nam còn nhiều quá, người hiền, thì quá ít.